LÝ LUẬN     VĂN HỌC     BÌNH LUẬN     PHỎNG VẤN     VỤ ÁN LIÊN QUAN     NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ

"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988

"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993

"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995

Bài Viết Mới

NHÌN LẠI MỘT CÂU ĐỐI TẾT

Hà Sĩ Phu                                                      

     Cuộc xướng họa Câu đối Tết năm Canh thìn 2000 để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Tôi xuất đối rằng :

                                    Trời đã sang CANH, đừng vị KỶ !

Lượm lặt sơ sơ mới được trên 50 câu của bè bạn khắp nơi đối lại.

Bạn bè hưởng ứng sôi nổi, một phần vì đó là năm mở đầu cho Thế kỷ 21,  lòng mỗi người đều nao nao một niềm hy vọng, chờ mong một cái gì mới mẻ cho tiền đồ Dân tộc.

Cũng phải thôi, mỗi ngày mới đã là một hy vọng nhỏ, một năm mới là một hy vọng lớn hơn, thì một thế kỷ mới (tiếp theo cái thế kỷ 20 dài dằng dặc những chiến tranh, bất hạnh và thù hận trên khắp địa cầu) hẳn phải mang theo một kỳ vọng lớn lao lắm.

Nhưng nhiều người đối lại, và nhiều vế đối hay, có lẽ một phần vì vế mời đối năm ấy ngắn gọn, lời lẽ bình dị, tự nhiên, phúc hậu, không có gì quá hóc hiểm, nên nhiều người có thể tham gia, tác giả có nhã ý “mời đối” hơn là “thách đối”.

Tuy đơn giản nhưng cũng mang được cái thú đặc trưng của câu đối là Chơi chữ : Chơi chữ KỶ và chữ CANH, hai chữ trong “thập Can”. Theo nghĩa gốc, nghĩa đen là năm KỶ MÃO và năm CANH THÌN, thì ai cũng hiểu là : đã sang CANH thìn rồi, đừng bịn rịn với KỶ mão nữa. KỶ là năm cũ, CANH là năm mới, thôi hãy xếp quá khứ lại để cùng nhau hướng về tương lai.

Nhưng cũng thật dễ nhận ra nghĩa bóng của hai chữ KỶ, CANH. Ðêm đã sang canh rồi, sang canh là thời khắc chuyển dần về sáng. Ðêm dù có dài đến mấy thì trước mặt cũng là bình minh.

   Trong thiên niên kỷ tới, với kỹ thuật thông tin và sự toàn cầu hóa, cả loài người đã gắn bó với nhau làm một, việc của người này tự nhiên ảnh hưởng đến người khác, tự nhiên người khác cũng phải cùng lo. Vế Dân chủ, Nhân quyền cũng vậy, không thể coi vấn đề này là nội bộ riêng của Việt nam, không ai được can thiệp. Những ai còn vị kỷ, cứ bo bo chỉ biết mình thôi, cứ khăng khăng lẽ phải của riêng mình tức là vẫn chìm trong đêm tối của quá khứ, vế xuất đối đánh thức họ rằng : trời đã sắp sáng rồi kia !

Sang canh là quy luật của trời đất, là hiện tượng chung : Trời đã sang canh. Nhưng vị kỷ hay vị tha là việc của người, việc của xã hội. Động từ SANG CANH thì có chủ ngữ là TRỜI , nhưng động từ ĐỪNG VỊ KỶ thì “vô nhân xưng”, mọi người nói, và nói với mọi người. Nhưng cũng chính vì thế mà ai ai cũng  phải “động lòng”. 

Các nhà lãnh đạo Cộng sản tiêu biểu cho nền Chuyên chính Vô sản như cụ Hồ, như ông đại tướng Nguyễn Chí Thanh khi trước, hay ông Lê đức Anh, ông Lê khả Phiêu bây giờ cũng kêu gọi chống chủ nghĩa cá nhân. Chân lý ấy là phổ quát, là đạo lý thông thường, vậy mà cái câu đối “đừng vị kỷ” năm ấy cũng đã khiến lắm “cán bộ cách mạng” phải băn khoăn, chột dạ. Báo chí “cách mạng” đều ngại không đăng, duy có tạp chí Sông Hương thì dám đăng nhưng cũng phải dùng một thủ thuật để dấu tên tác giả Hà Sĩ Phu.

Một người Việt ở nước ngoài có thể băn khoăn : Có lẽ vế đối ám chỉ mình chăng? Mình đã được ở nơi có cuộc sống sung túc, mình có nhớ đến quê hương còn nghèo khó không ? Mình được ở xã hội có tự do dân chủ thật, có quyền nghĩ và nói ý riêng của mình, thì mình đã làm gì giúp cho đồng bào của mình còn đang phải lom khom dưới cái gông "an ninh tư tưởng", một khái niệm chỉ có trong tự điển của những xã hội tự nhận là dân chủ gấp  triệu lần, đồng nghĩa với dân chủ  giả (Nếu Dân chủ thật thì cố cho bằng người ta đã khó, còn dân chủ giả, dân chủ nước bọt thì tăng gấp mấy triệu lần mà chẳng được, tốn kém gì đâu?).

Trong nước, tình trạng phân ly giầu nghèo ngày càng khốc liệt, vế xuất đối có thể khiến người ta băn khoăn rằng tiền thuế của dân trả cho một bữa chiêu đãi nhau thừa mứa của bọn Tư bản đỏ hãnh tiến có thể nuôi sống một gia đình nghèo trong suốt một năm, tiêu xài như thế liệu có phải là VỊ KỶ không ? Trong một xã hội quyền lực tập trung tuyệt đối, những người có quyền nói và làm như cha mẹ của dân, làm bừa cũng chẳng ai trị tội, liệu có giật mình nghĩ  tới đám dân lành đang chịu trăm ngàn ràng buộc, đang chịu một nạn kiêu binh, chẳng có gì bảo vệ ?

Người trong khối G7 (giả thử nếu có người thích câu đối) liệu có băn khoăn rằng cùng là con người sinh ra, sống cùng một thời điểm , mà có người được hưởng văn minh tột đỉnh trong khi nhiều nơi chưa được sống kiếp đúng nghĩa con người ?

Bọn giáo chủ tà đạo , những kẻ chuyên nói VỊ THA , mua được lòng mê tín của dân, chiếm hết tài sản và cả trinh tiết của dân, phỉnh phờ “giáo lý thiên đường” giết hại bao nhiêu con người đã tự nguyện làm mồi cho chúng. Trong trường hợp này, tội lỗi VỊ KỶ thật quá kinh khủng!

Những ông tướng phưỡn ngực mề đay ngày lễ liệu có nhớ câu : Nhất tướng công thành vạn cốt khô ? Đã nói con người là “quý nhất”  sao lại đem hàng loạt “cái quý nhất” đổi lấy những cái không quý bằng, thậm chí còn là bánh vẽ đối với dân, và thu về những lợi lộc rất cụ thể cho mình, liệu như thế có VỊ KỶ chăng?

Và biết đâu chẳng có một nơi sâu thẳm trong lương tâm những con người đang duy lợi say mê cũng có lúc biết khắc khoải rằng : dùng một lý tưởng mơ hồ phiêu lưu làm lá chắn, che cho cái ghế của mình, và nhân danh sự vị tha giả dối để đàn áp bất cứ ai dám đụng đến uy quyền lãnh đạo của mình, bóp chết tất cả những tài năng nào không có lợi cho cái ghế của mình, và hằng ngày cứ ra rả rằng nhất định tôi chỉ một lòng vị tha, ngoài ra không có chút tham vọng gì khác , như thế là mình đang nói thật hay nói dối đây ?

Cái tấm gương “vị cha già” Su-hác-tô của Indonesia, cũng là tên tội đồ của dân sinh và dân chủ, kẻ đã hút máu và mồ hôi nhân dân để có hàng chục tỷ đô la cho gia đình, đến năm ấy đã phải gục đầu trước lịch sử, đang làm giật mình tất cả những kẻ đã, vô tình hay cố ý, nhân danh lý tưởng để thiết kế ngai vàng trên khắp thế gian này! Còn bao nhiêu vị Bố già như thế nữa? " ĐỪNG VỊ KỶ" có phải là lời đối thoại với các thế lực này chăng ?

Những tay chân đắc lực cho những giáo chủ tà đạo, cho những “cha già” kiểu Su-hác-tô, cho những thần linh dương thế , liệu quý vị có vững lòng tin rằng mình đang một lòng hy sinh vì dân , hay đang cúc cung tận tụy giữ ghế cho những kẻ ngồi trên để mưu sinh cho mình? Đang VỊ THA hay đang VỊ KỶ, thưa quý vị? Sau một lần lập công với bề trên quý vị đã được thưởng cái gì ? Có phải rằng khi quý vị được lệnh vu cáo những người cương trực lên tiếng nói vì dân vì nước là làm tay sai cho Mỹ thì quý vị vừa hoàn tất hồ sơ cho con đi Mỹ và khi cần thì vào quốc tịch Mỹ phải không ? Quý vị cứ trả lời thầm cho lương tâm mình thôi, chúng tôi chẳng nghe trộm đâu.

Suy nghĩ những điều này trong ngày 8 tháng 3, liệu có vị nam giới nào chạnh lòng tự hỏi : cùng một kiếp người cha mẹ sinh thành, mang nặng đẻ đau như nhau, mà sao mẹ mình, vợ mình, em gái mình, cháu gái mình vất vả hơn mình nhiều thế, thiệt thòi hơn mình nhiều thế , cứ giả vờ quên để tiếp tục hưởng sự sung sướng phi lý trời cho, liệu như thế có là VỊ KỶ không đây ?

TRỜI ĐÃ SANG CANH ĐỪNG VỊ KỶ ! Vế mời đối giản dị, hiền lành, phúc hậu. Nhưng cuộc sống thế gian đã cho nó cả một sức nặng. Điều rất lạ là tất cả những vua chúa và lãnh tụ chuyên xây dựng sự nghiệp của mình trên xương máu của dân thì bao giờ cũng ra rả khuyên mọi người phải biết VỊ THA, phải chống chủ nghĩa Cá nhân, không được VỊ KỶ. Vậy mà chỉ cần một người cương trực nhắc lại điều đó : ĐỪNG VỊ KỶ ! là họ toát mồ hôi, đôi khi còn lồng lộn lên, không chịu được ?

Những suy nghĩ như thế đã bàng bạc hiện lên qua tất cả những vế đối từ những bạn bè ở Âu Á, Mỹ và châu Úc xa xôi.

                                                         *

      Năm ấy, vửa ra xong vế xuất đối này thì tôi bị khởi tố tội “phản bội Tổ quốc” ( vì đã viết thư tâm sự về đặc điểm của tính cách dân tộc với các ông Đỗ Mạnh Tri và Nguyễn Gia Kiểng), bị giam tại nhà 7 tháng liền để hỏi cung, không có điện thoại và Internet, 50 vế đối mà bè bạn gần xa đã đối lại mà tôi biết được là do bạn bè yêu mến sưu tầm hộ và tìm cách gửi cho.   

Hầu hết các vế đối đều cảm được cái hồn của vế xuất đối là hai chữ KỶ, CANH. Trọng tâm chơi chữ cũng ở đấy, trọng tâm nghĩa đen nghĩa bóng cũng ở đấy.

Mấy chục vế đối cụ thể chắc nhiều quý vị đã có và đã đọc, mỗi kiểu có cái thú riêng, không thể thống kê hết ra đây, mà có thống kê chắc cũng không thể hết được, nhất là những vế đối từ trong nước .

Chỉ xin lấy cảm xúc riêng, kể ra mấy câu mà tôi thấy thích hơn cả . Thích vì nghệ thuật câu đối là chính. Quan điểm dù có khác nhau mà đối hay thì vẫn hay, thậm chí quan điểm ngược nhau thì đối nhau mới càng "chọi". Thích một câu đối không nhất thiết phải cùng chính kiến.

1) Đa số quý vị đối lại bằng các chữ trong thập Can : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Và thập nhị Chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Ví dụ:

* Ông Từ Mai :     Đảng chưa bỏ GIÁP, khó duy TÂN !

                 hoặc :  Đảng mau bỏ GIÁP, gắng duy TÂN !

(Ý thức hệ Mác Lê hay tư tưởng HCM là áo GIÁP của Đảng; Quân đội, Công an cũng là giáp, còn nhiều áo giáp khác nữa...Đảng cứ lăm lăm những thứ ấy thì Chính trị chẳng đổi mới, mà kinh tế cũng khó đổi mới được, mọi lời hiến kế tâm huyết cũng đều bị bật ra thôi ! Chui vào trong áo giáp là cố thủ trong vỏ ốc, cũng là vị kỷ ! Vế đối có ý gắn bó tiếp nối với vế xuất. Chữ và nghĩa đều chỉnh.)

* Bà Mỹ Lan :     Nước còn chẳng QUÝ , ích chi TÂN ?

(Chưa quý trọng đất nước, đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lãnh đạo của Đảng thì đổi mới cũng chẳng ích gì ?)

* Ông Nguyễn M.Tùng :  Nước thay mấy GIÁP , vẫn cùng ÐINH !

(Một giáp là 12 năm , từ 1975 tới nay đã hai “giáp” có dư mà nước vẫn nghèo khổ ! “Giáp” còn là vỏ bọc che chắn và  nghĩa khác nữa.)

* Vẫn ông Từ Mai :        Đảng ngưng chụp MÃO, chớ quen MÙI !

(Đảng đừng quen mui thấy mùi ăn mãi , hãy ngưng ngay trò chụp mũ gán tội cho người khác đi !)

* Ông Lê Nguyên Phương:    Nước còn ngăn DẬU, phải quên THÂN !

(Nước còn rào giậu ngăn sân thì muốn làm được điều tốt phải biết quên thân mình! Vượt giậu thì có khi bị gai chọc vào người !)

* Một vị ở CH Séc :               Đất tầm tri KỶ, mở canh TÂN !

(Ý nói qua cuộc Canh tân này, những người tri kỷ sẽ tìm thấy nhau.)

  * Bà Ðỗ thị Thuấn :              Đất còn quốc MẬU, sẽ cùng ÐINH !

(Còn ôm lấy Mậu dịch quốc doanh, thì dân còn khốn cùng.)

2) Một vài vị có sáng kiến dùng lại hai chữ KỶ, CANH nhưng đổi chỗ để cho KỶ đối với CANH và ngược lại.

Ông Hồ Hiếu ( trong nước) :       Đảng còn ích KỶ , khổ tàn CANH !

Ông Nguyễn Gia Kiểng:              Đời thay  thế KỶ , phải tân CANH !

3) Có vị lại dùng chữ nôm hoàn toàn, không nệ vào "điển tích" chữ Hán nữa. Đối lại cặp CANH -KỶ, thì dùng một cặp chữ nôm như ÐÓ-ÐÂY , RUỘT-GAN... hoặc hai chữ số.

* Ông Trần văn Lương :             Sĩ dù thắt RUỘT, vẫn bền GAN !

(Ông Hà Sĩ Phu và kẻ sĩ nói chung dẫu gặp gian khổ, gặp chuyện đau lòng vẫn bền gan vững chí)

* Bà Phạm thị Phong Nhã :   Thời tuy chưa CHÍN , chớ ngồi KHÔNG !

Đây là vế đối khá đặc biệt.Mới đọc có người tưởng bà Phong Nhã không chú ý đối lại hai chữ CANH-KỶ. Nhưng không : Lấy hai con số , số 9 và số 0 , trong 10 số đếm đầu tiên để đối với hai chữ của Thập Can, được lắm chứ ! Ý tưởng này có phần mới mẻ. Nếu chú ý ta sẽ thấy các chữ mà những người khác thường dùng lấy trong Mười Can , Mười hai Chi, Bát quái ...thì tuy là Chữ nhưng đều nằm trong một dãy Số , liên hệ tới những con số cả, thì sẽ thấy việc dùng Số để đối với Chữ cũng chẳng có gì là xa lạ ! Mà hai con số này gợi nhớ đến năm 1999 có ba số 9, và năm 2000 có ba số 0 , tức là đúng cái thực tế Tết Canh thìn này. Kể cũng hơi cầu kỳ. Còn ý tứ thì khá hay : Tuy thời cơ chưa CHÍN , nhưng nếu bi quan ngồi KHÔNG thì  thời cơ bao giờ đến được ? Thời cơ nào mà chẳng cần tích cực chuẩn bị để đón : thời cơ của hạnh phúc lứa đôi, thời cơ của công việc, chứ có phải chỉ là chuyện thời cơ chính trị đâu nhỉ ?.

4) Riêng trong thập nhị Chi thì một số vị gọi tên thật của con giáp thay cho tên tượng trưng : Rồng hay Long thay cho Thìn, Mèo hay Mẹo hay Mẽo thay cho Mão, Khỉ thay cho Thân, Chó thay cho Tuất ...

* Cháu Phạm Huy:               Đất chừ rất " CHÓ" , khó an THÂN  !

(Chữ CHÓ dùng thay cho chữ TUẤT , kể ra thì dùng chữ kiểu này cũng lộn xộn quá, hơi ép. Nhưng cũng tạm chấp nhận được. Và tuổi thanh niên mà đã thấu hiểu mặt trái của tình đời, có lòng ưu tư như vậy cũng hiếm có đấy).

5) Cũng nhiều vị lấy chữ trong bát quái : Càn, Khảm, Cấn ,Chấn, Tốn ,Ly, Khôn, Ðoài. Và ngũ âm : Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.

  * Điển hình là mấy vế đối của Thiền sư Phi Dã :

           Vận tuy xuống GIỐC , chớ bi THƯƠNG ! (chữ trong Ngũ cung)

                       Vẹm ăn quá TỐN , lại làm CÀN !  (chữ trong Bát quái)                

Vế này thì quá hay . Lấy Bát quái đối với Thập Can thì được quá đi rồi. Kẻ nào ăn TỐN của dân ? Phương ngôn ta vẫn có câu : Ăn như vẹm!. Nhưng từ khi có phong trào Việt minh thì hai chữ viết tắt VM cũng đọc là Vẹm. Ăn TỐN của dân thì đích là bọn tham nhũng mà thủ tướng Kiệt đã gọi là quốc nạn. Nhưng nếu cái ĂN của kẻ tham nhũng đã tai hại thì cái sự LÀM của nó còn tai hại hơn : làm CÀN ! Càn liên tưởng đến càn dỡ, cắn càn ! Trong ngôn ngữ Việt con Vẹm cũng gây hại song chưa phải là cái gì xấu lắm , nhưng con vật “cắn Càn” thì vẫn là điển hình cho những gì "phi nhân tính" nhất trên đời ! Hãy gác cái nghĩa bóng mà chắc chắn có người rất thích, có người xửng cồ , nhưng phải nhận rằng vế đối này chữ nghĩa gắn bó, câu văn tự nhiên thanh thoát , tương xứng nhất với vế xuất đối.

Tác giả Thiền sư Phi Dã còn có một vế đối nữa mà nhà sư nói là để chia sẻ riêng với Hà Sĩ Phu :

                                      Miệng vừa mở TÝ , họa vào THÂN !

     (Mới lên tiếng một tý, chỉ là tiếng nói của người nghiên cứu lý luận, mà họa đã giáng xuống tấm thân của người trí thức không có gì để tự vệ !). Vế này cũng hay lắm, tuy về chữ nghĩa chưa được chỉnh bằng vế đối bên trên.

  *  Ông Sean Tang :        Đất bằng nổi CHẤN, phải sinh LY

(Động đất, bão lụt miền Trung gây cảnh tử biệt sinh ly. Chấn,Ly là hai quẻ trong bát quái)

  *  Ông Lê Nguyên Phương  còn có câu :

                       Nước còn gặp KHỐN, phải gian TRUÂN !

(Ðây là tên hai quẻ Trạch Thủy Khốn và Thủy Lôi Truân trong kinh Dịch)

6) Rất tiếc tôi không có một sưu tập tương xứng về các vế đối trong nước. Vì không có điều kiện(!). Trong ngót 10 vế đối từ trong nước, thì ngoài vế đối của ông Hồ Hiếu (Đảng còn ích KỶ, khổ tàn CANH !), còn có sự tham gia của hai Ông Đồ.

Ông Đồ Ngang , dùng trọn cả năm chữ trong Ngũ Hành để tạo ra 4 vế đối như  một bộ tranh tứ bình về Đất về Nước, về Dân, về Đảng như sau :

  * Đất còn lưu THỦY, khó nên KIM ! (Lưu thủy là điệu nhạc cứ vòng đi vòng lại nhùng nhằng không bao giờ hết. "Nên kim" lấy ý từ câu Có công mài sắt có ngày nên kim. Khó nên kim là khó nên cơm cháo gì.)

  * Đảng còn giữ MỘC, khó nên KIM ! (Mộc là vũ khí để che chắn, chống đỡ ).

  * Dân chưa khai HỎA, khó thành KIM ! (Thái Bình xuýt nữa khai HỎA, nhưng bị cái Lưu THỦY, cái MỘC, cái THỔ xúm vào làm tắt ngấm ngay!)

  * Nước đang giữ THỔ, bán thành KIM ! (Chú thích của tác giả : Thổ là đất. Cán bộ bây giờ không bán nước, chỉ bán đất thôi. Lấy đất làm vốn để hợp doanh với nước ngoài. Hoặc cấp đất cho nhau, bán đi một nửa là thừa tiền xây một vi-la. "Bán THỔ thành KIM" là bán đất lấy đôla ấy mà, lại nghĩa là một nửa đất biến thành tiền!). Chữ "bán" vừa là nôm vừa là Hán, vừa là một nửa vừa là mua bán, nhập nhằng thế cũng hay. Điều thú vị là theo luật tương sinh thì THỔ sinh KIM thật, thế thì nạn biến đất của dân thành Mỹ kim làm sao mà chống được !

Còn ông Đồ Cổ , theo quan điểm bảo thủ " Phi CỔ bất thành KIM ", nhưng ông làm nghề khai quật đồ CỔ nên ông đem nghề của mình ra đối lại với Hà Sĩ Phu như sau :

                                           Đời không quật CỔ , khó thành KIM !

(Ý nói không coi trọng việc khai quật đồ cổ thì làm gì có ngày nay được, nhưng người không quen “nói tắt” như Đồ Cổ mà nghe chữ "quật cổ" chắc cũng giật mình : Không quật cổ xuống thì khó lòng mà thành tử tế, văn minh được.)

    Sau đó tôi lại được tin trong nuớc tạp chí Sông Hương số Tết có đăng một câu đối như sau :

                                        Trời đã sang CANH , đừng vị KỶ !

                                        Đất còn động CHẤN, hãy tinh KHÔN !

Ghi tên tác giả là Sĩ Phu Nhật Hồng, như thể đây là một câu đối hoàn chỉnh của một người, chứ không phải chuyện xuất đối và ứng đối. Nhưng bạn bè văn chương đều biết chuyện này không thể không liên quan đến chuyện mời đối của Hà Sĩ Phu. Vế thứ hai này chữ nghĩa cũng hay, cũng có hàm ý, là của ông Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc sở Giáo dục Lâm đồng. “Đất còn động chấn” lấy từ thực tế năm ấy có nhiều trận động đất, và cũng là những chấn động chính trị-xã hội.

Nghệ thuật câu đối cho phép cả những khẩu khí từ hai chiến tuyến đối lập, như Ngô thời Nhiệm và Ðặng trần Thường! Ai có ý ngược lại xin cứ phát ngôn, miễn sao thành câu đối hay là được! Hai vế thuận chiều thì cộng hưởng nhau, ngược chiều thì đối chọi nhau, nhưng phải cùng ở một tầm chữ nghĩa, một tầm văn hóa tương xứng thì mới treo sóng đôi với nhau được. Chỉ hai câu thôi mà trọn vẹn một cuộc bút chiến, dân chủ, công bằng và ngắn gọn.

  Kiệm chữ mà phải đa ý, đa nghĩa. Là trò chơi chữ thì trước hết phải có “chữ”, có tri thức đã, sành luật chơi rồi mới “chơi” được (Tôi biết mình cũng chỉ là một anh học trò đang học cái trò “chơi chữ” của tiền nhân thôi). Chữ Hán đã thâm, chữ Hán-Việt lại càng thâm hơn, không thể “nôm na là cha mách qué”. Đến như câu đối của trai gái “bỡn” nhau, “lỡm” nhau mà có “chữ” thì vẫn không tục.

Câu đối vốn là một thú chơi tao nhã và sang trọng.

Cuộc giao lưu Câu đối Tết Canh Thìn năm 2000 ấy thật là cuộc “hiện đại hóa” một thú chơi cổ truyền của Dân tộc.

                                                               Chuẩn bị đón Tết Đinh hợi 2007

                                                                                        HSP

 


LÝ LUẬN    VĂN HỌC    BÌNH LUẬN    PHỎNG VẤN    VỤ ÁN LIÊN QUAN    NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ