"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con Người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ
Thử giải bài toán lôgic xã hội "Mọi nguồn rắc rối bắt nguồn từ đâu ?"
Mấy lời phi lộ: "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách". Nhớ lời dạy ấy của cha ông, tôi bỗng quên đi sự quá hạn hẹp về hiểu biết của
mình mà cả gan lạm bàn chuyện 'quốc gia đại sự'. Nhưng biết đâu nỗi bức xúc
này lại chẳng là chung của nhiều người. Xin được tiếp cận vấn đề từ góc nhìn qua những quy luật khoa học, trước
hết là khoa học tự nhiên. Bài viết chỉ có tính chất gợi mở, cung cấp một số
nhận thức cơ bản để suy nghĩ, chưa giải quyết vấn đề gì cụ thể, trọn vẹn. Nếu
từ bài viết có thể lọc ra một chút gì đó gọi được là cái 'hạt nhân hợp lý'
thì đối với người viết đã là điều may mắn lắm rồi, nên xin miễn phi lộ dài
dòng về những sai sót khó tránh khỏi.Tuy vậy người viết không thể giấu niềm
hy vọng được người đọc quan tâm hưởng ứng mà chỉ bảo thêm, và cá nhân người
viết xin nhận trách nhiệm trước mọi sự phán xét.
Những điều này nói ra hôm nay đã là quá muộn.
Tú Xuân HÀ SĨ PHU
Ngày 2 tháng 9 năm 1988
Hãy thử để cho Trí tuệ được vài phút hòan toàn tự do, xem nó có thể mách
bảo ta điều gì. Sau đó, nếu không thấy có gì ích lợi thì xin mọi người cứ coi
đây như những lời nhảm nhí mà loại nó ra khỏi 'bộ nhớ', tưởng cũng chẳng tốn
kém là bao. Ít ra điều đó cũng chứng tỏ rằng chúng ta đã có sự trao đổi dân
chủ thực sự.
Chúng ta hãy cùng nhau tham gia vào việc giải thử bài toán lôgic lớn của
xã hội mà bấy lâu nay cứ ở trong tình trạng vừa như rất đơn giản vừa như
quá thần
bí không có lời giải : Mọi điều rắc rối bắt nguồn từ đâu ?
Bây giờ ta làm theo cách công khai và dân chủ. Mọi người hãy tạm thời thoát
ly khỏi những nếp suy nghĩ mà ta đang có, kể cả những 'tư duy' đang được
gọi là 'đổi mới' , tạm thời thoát ly khỏi những điều đang gắn chặt với quyền
và
lợi của ta hàng ngày, để cùng ngồi lên chiếc xe của tư duy lôgic. Trong thế
giới của tư duy thì không có vùng nào là vùng cấm. Mọi hiện tượng, mọi phạm
trù, mọi nhân vật, mọi chủ nghĩa... đều là những dữ kiện của bài toán, không
hơn mà cũng không được kém.
Đi một vòng để quan sát toàn bộ bức tranh, ta có nhận xét tổng quát rằng
hệ thống mà ta đang khảo sát chứa đựng quá nhiều 'nghịch lý' , nếu chưa muốn
nói
là cấu thành bởi toàn những 'nghịch lý':
- Hệ thống "dân chủ gấp triệu lần" lại
vướng mắc chính vấn đề dân chủ.
- Hệ thống tiêu biểu cho Sự thật (có các nhà xuất bản Sự thật, và chúng ta
thường nói chỉ chúng ta mới có dũng cảm nói sự thật) thì đang phải cố chữa
cho được bệnh nói dối.
- Hệ thống tiêu biểu cho triết học duy vật thì lại là điển hình của bệnh
duy ý chí.
- Hệ thống ưu việt (tức là tốt vượt hẳn lên) , tiêu biểu cho sự giải phóng
Con người thì lại không ưu việt về Quyền Con người, luôn bị chỉ trích về
Quyền Con người.
- Hệ thống tiêu biểu cho sự đề cao những giá trị tinh thần thì lại 'xuống
cấp những giá trị đạo đức', đang cần làm lành mạnh trở lại những quan hệ
xã hội
và gia đình.
- Hệ thống tiêu biểu cho tính 'nhân loại', tính 'tập thể' thì lại xuất hiện
rất nhiều ví dụ về tệ sùng bái cá nhân, tập trung quyền lực vào tay một người,
lấy một người trùm lên tất cả.
- Hệ thống tiêu biểu cho sức sáng tạo của trí thức (xem định nghĩa của Lênin
về chủ nghĩa Cộng sản và người Cộng sản) thì vấn đề trí thức lại cứ cộm lên
như một hạt nhân của toàn bộ cái hiện thực cần phải cải tổ.
- Chúng ta vẫn nói sự thắng thua giữa các chế độ rốt cuộc là ở năng suất
lao động. Ta luôn nói về những "thắng
lợi to lớn" nhưng chính về năng suất lao động thì ta lại thua quá xa.
- Hệ thống Xã hội chủ nghĩa được mô tả là đầy sức sống, còn chủ nghĩa Tư
bản thì đang 'giãy chết'. Vậy mà , trong tất cả những trường hợp quốc gia
bị chia
cắt làm hai thì dù chia theo kiểu nào, nửa thuộc phía 'giãy chết' cũng có
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm tốt hơn nửa kia ! ...vv...
Trước thực tế ấy, nhiều luận điểm đã và đang được chúng ta đưa ra để giải
thích. Ví dụ :
- Ta có đường lối 'đúng đắn' nhưng khi thực hiện thì có sai lầm. 'Trên' thì
đúng đắn nhưng cán bộ trung gian quá yếu. Chủ nghĩa thì đúng đắn nhưng con
đường quá mới mẻ nên ta chưa có kinh nghiệm.
- Đây là khó khăn tạm thời do chiến tranh để lại. Bè lũ Đế quốc và bọn Thực
dân, Phong kiến phải chịu trách nhiệm về tình hình khó khăn này.
- Do có những cá nhân không chịu tu dưỡng rèn luyện nên thoái hóa biến chất.
Chung qui chỉ tại cái chủ nghĩa Cá nhân !
- Do chế độ quan liêu bao cấp. Do thiếu sót về những 'tư duy cụ thể' như
'tư duy kinh tế', 'tư duy đối ngoại' ...vv...
Trước một thực tế xã hội đầy những 'nghịch lý' lớn lao đã kể ở trên thì
những luận điểm giải thích này dẫu có phản ánh được phần nào hiện thực cũng
không đủ tầm để bao quát cả một thời kỳ của lịch sử nhân loại. Nó khác nào
như đem dầu xoa, thuốc cảm để chữa ung thư vậy.
Từ khi có cuộc Cải tổ, Đổi mới
trong toàn hệ thống Xã hội chủ nghĩa thế giới đến nay, chúng ta đã làm được
một việc là đem bày ra công khai trước mắt mọi
người một số tư liệu để chúng ta nhìn cho đúng chân dung của mình, một chân
dung mà tự mình cũng thấy không chấp nhận được. Những hiện tượng 'tiêu cực'
rất cần được phơi bày, nhưng phơi bày mãi cũng không bao giờ hết, và nếu
cứ sửa chữa theo kiểu 'thợ vườn' sai đâu sưả đấy thì sẽ chẳng khác nào chơi
trò
trốn tìm vòng quanh. Điều quan trọng là những hiện tượng tiêu cực đã nêu
cần phải được hệ thống hóa lại, tìm mối liên hệ nhân quả giữa chúng, rồi theo
mạch
lôgic mà tìm tới nguyên nhân gốc rễ. Cái mạch lôgic tự nhiên ấy chẳng chóng
thì chầy sẽ tự động diễn ra trong đầu mỗi người nên dẫu ta có sợ cũng không
cản lại được. Vận mệnh lâu dài của hàng nghìn triệu người cũng đòi hỏi phải
làm như vậy, nếu không mọi sự sửa chữa đều chỉ là sự đối phó nhất thời.
Những
thông tin, nhất là thông tin từ công cuộc Cải tổ ở Liên xô, đã bộc lộ dần
một vài hướng suy nghĩ. Chẳng hạn :
- Cần xem lại một số luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, hay ít ra
là xem lại cách hiểu về những luận điểm cơ bản ấy (ý nghĩ này chẳng có
gì mới
lạ vì chính Mác và Lênin cũng khuyên như thế và cũng từng làm như thế).
- Chủ nghĩa Đế quốc có thật là 'giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa Tư bản'
hay chỉ là một trong những bước đi ban đầu của chủ nghĩa Tư bản ? Và một
khi chủ
nghĩa Tư bản chưa ở giai đoạn tất yếu phải cáo chung thì điều đó có nghĩa
là lịch sử chưa đòi hỏi và do đó chưa hề tạo tiền đề có một cuộc 'cách
mạng Xã
hội chủ nghĩa' đích thực ...
Chưa nói nguyên nhân nào là đúng, nguyên nhân nào
là sai, nhưng ít ra nguyên nhân cũng phải ở tầm cỡ như vậy mới có thể có
sức chi phối ghê gớm đối với
xã hội như chúng ta đã và đang thấy.
Song ta cũng không cần nói theo ai
cả. Hãy dùng hiểu biết của chính mình mà rà soát lại toàn bộ vấn đề xem có
tự phát hiện được điều gì không ?
Điều đầu tiên để hiểu một chủ nghĩa là xem xét MỤC ĐÍCH và PHƯƠNG TIỆN
mà chủ nghĩa ấy đề cập tới. Lý tưởng Cộng sản là một lý tưởng hết sức
tốt đẹp, vì
đã gọi là 'lý tưởng' thì lý tưởng nào chẳng hướng tới hạnh phúc của con
người, giải phóng con người khỏi những bất hạnh về vật chất, tinh thần
và những bất
công xã hội? Lý tưởng Cộng sản nhấn mạnh tính 'xã hội' của con người
cũng như của tư liệu sản xuất, điều đó là khoa học, là xu hướng tiến
hóa tất
yếu của
xã hội loài người, nhưng sự 'xã hội hóa' sẽ diễn ra cụ thể thế nào là
thuận quy luật thì sẽ bàn sau. "Một xã hội không còn người bóc lột người" ,
chính điều này còn gây tranh luận, vì nếu hiểu một cách chung chung là
không còn áp bức bất công thì chẳng có gì để tranh luận, nhưng nếu hiểu chữ
'bóc
lột ' ở đây như một thuật ngữ chính trị-kinh tế học , là 'bóc lột giá trị
thặng dư
' , thì vấn đề lại không đơn giản chút nào. Tuy vậy vấn đề này cũng xin
tạm xếp sang một bên, vì tự nó cũng chưa thể gây ra mọi chuyện.
Điều quan trọng
có ý nghĩa quyết định đối với một lý tưởng không phải là
lý tưởng ấy ước vọng điều gì mà lại là đi tới ước vọng đó bằng cách nào,
bằng phương tiện hay công cụ gì. Luận điểm về con đường đấu tranh giai cấp
và công cụ
chuyên
chính vô
sản chính là "hòn
đá tảng của chủ nghĩa Xã hội khoa học" !Do tầm quan trọng như vậy mà ta hãy dừng lại lâu hơn một chút trên 'hòn đá
tảng' này để xem xét cho kỹ, không thể vội vã cho qua được.
GIAI CẤP LÀ GÌ , VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG XÃ HỘI NHƯ THẾ NÀO ?
Để phân định điều phải trái và quyết định thái độ cũng như hành động
của mình, con người có ba thứ căn cứ : tri thức, lòng tin, và quyền lợi.
Luôn
lấy tri thức, lấy khoa học làm căn cứ, đó là chủ nghĩa DUY LÝ (1), cái gì
trái với những quy luật khách quan mà mình nhận thức được thì không chấp
nhận. Luôn lấy lòng tin làm căn cứ là chủ nghĩa DUY TÍN (2), cái gì trái
với những điều mình tin, mình cho là thiêng liêng thì không chấp nhận. Luôn
lấy
lợi ích làm căn cứ là chủ nghĩa DUY LỢI (3), cái gì trái với những lợi ích
của mình hay của những người chung lợi ích với mình thì không chấp nhận.
Theo
mức độ duy lý, con người chia thành trí thức và không trí thức. Theo mức
độ duy tín thì chia thành có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng. Người
thực
sự duy lý hay thực sự duy tín thì tự thân không có tính giai cấp rõ rệt,
vì sự phân chia thành giai cấp chỉ là sự phân chia theo quyền lợi, chỉ
thích hợp
với những người duy lợi. ( Giai cấp là những tập đoàn người được phân chia
theo sự chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất, theo vai trò trong tổ chức
sản xuất và theo sự phân phối của cải xã hội ; cả ba tiêu chuẩn này đều là
quyền
và lợi). Hiểu theo nghĩa đó thì người mang tính giai cấp rõ rệt là người
duy lợi (tức là lấy lợi ích làm chuẩn, kể cả lợi ích chân chính, lợi ích
của một
giai cấp).
Vì vậy, sự phân chia con người theo giai cấp tuy có những ý nghĩa
nhất định nhưng không thể là sự phân chia có ý nghĩa tổng quát, không bao
hàm được
hết mọi người trong xã hội. Tuyệt đối hóa lý thuyết giai cấp là rơi vào
thuyết giai cấp cực đoan. Đem cái nhìn giai cấp trùm lên mọi hiện tượng
của con người và xã hội sẽ không tránh khỏi làm méo mó xã hội, sẽ gặp lúng
túng khi giải quyết vấn đề tri thức, vấn đề tôn giáo cũng như nhiều
vấn
đề xã hội khác.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) (2) (3) : Khái niệm 'Duy lý' ở đây không hoàn toàn trùng với khái
niệm Duy lý của Descartes. Những chữ 'Duy lý', 'Duy tín', 'Duy lợi' là
những
thuật ngữ riêng của tác giả.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Vì
quan niệm rằng người nào cũng phải có một ' thành phần giai cấp ' nên
ta gặp lúng túng khi không biết xếp những người trí
thức vào giai
cấp nào,
và
gán luôn cho họ cái "bản
chất lừng khừng, không kiên quyết cách mạng" (!). Nói về tính 'kiên quyết' thì thực tế cho thấy người duy tín cũng có thể "tử vì đạo" , người duy lợi có thể chết cho quyền lợi nào đó, và nhà bác học cũng có thể
kiên quyết lên giàn lửa để bảo vệ chân lý khoa học, nhà khoa học
cũng có thể 'kiên quyết cách mạng' đến mức trở thành lãnh tụ cách
mạng khi
nhận thức rằng
sự vận động đó phù hợp với quy luật, phù hợp với căn cứ duy lý
của mình. Duy lý, duy tín và duy lợi tuy khác nhau ở xuất phát điểm nhưng muốn
cho hành động đạt kết quả tốt thì lại cần sự hỗ trợ của nhau ; vì thế nếu phát
triển đến độ hoàn hảo thì lại gặp nhau, thống nhất với nhau. Tuy vậy thực tế
khó có sự hoàn hảo ; ở một phạm vi xác định, ở một con người cụ thể thì ba
căn cứ ấy khó đạt được sự thống nhất hoàn thiện mà thường có tình trạng một
trong ba căn cứ ấy nổi lên chiếm vai trò chủ đạo để dẫn dắt hành vi của con
người. Ba yếu tố ấy đan vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau trong mối quan hệ tay
ba vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, nên tách bạch ba yếu tố ấy trong một con
người, trong một việc làm không phải là điều dễ dàng, và đó là nguồn gốc của
biết bao hiện tượng rối rắm, nan giải của xã hội và của mỗi con người. Nhiều
người đã tuyên bố chủ trương "kết hợp chân lý khoa học với lợi ích của giai cấp công nhân" , nói cách khác là chủ trương chung sống hài hòa giữa duy lý và duy lợi. Nhưng
rồi trong thực tế trào lưu Cộng sản thì sự cân bằng lý thuyết này cứ bị chuyển
dịch để cái duy lợi thôn tính dần cái duy lý.
Các-Mác rất coi trọng vấn đề 'lợi
ích' và ở một nhà khoa học thì đây là một điều đáng quý. Nhưng là nhà khoa
học, Mác đứng ở gốc duy lý mà tiếp cận sang
duy lợi. Nhiều người khác đi theo chủ nghĩa Mác nhưng lại từ gốc duy lợi
mà tiếp cận sang duy lý. Người càng ít hiểu biết thì tính duy lý càng ít (
nhân
bất học, bất tri lý) , dễ thành duy lợi cực đoan, hoặc lại biến chủ nghĩa
Mác thành một thứ duy tín, một thứ tôn giáo.
Trong ba căn cứ ấy thì Duy lý tiêu biểu cho khoa học, cho quy luật khách
quan nên là căn cứ đúng đắn nhất, nó bao dung được cái Duy lợi và Duy tín hợp
lý. Ngược lại, khi chủ nghĩa Duy lợi hay Duy tín mà nắm vai trò dẫn dắt xã
hội thì nó rất dễ tiến đến cực đoan mà không chấp nhận nổi cái Duy lý. Giáo
hội La mã ngày trước đã thiêu sống nhiều nhà bác học chỉ vì họ phát hiện những
định luật khoa học. Những tên vua Trung quốc nào võ biền ít học thì "phần thư khanh nho" (đốt sách, giết nhà nho). Những hồng vệ binh nông dân mù chữ Trung quốc và những
tên lính mù chữ Cămpuchia đã hành hạ những trí thức ưu tú của dân tộc mình.
Phong trào Xô viết Nghệ tĩnh năm 1930 đã đặt trí thức lên hàng đầu trong khẩu
hiệu " Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ!" . Nhiều danh nhân văn hóa của Liên xô đã là nạn nhân điển hình của những sự
đối xử tương tự...
Nhìn rộng ra nữa thì lịch sử tiến hóa của nhân loại thực chất là gì ?
Do biết
sử dụng công cụ nên , khác với mọi sinh vật , con người không tiến hóa bằng
cách biến đổi những cấu tạo của cơ thể mà bằng cách hoàn thiện không
ngừng công cụ lao động . Cùng với sự cải tiến công cụ là cải tiến qui trình
sản xuất, hoàn thiện kỹ năng ... dẫn đến tăng năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm. Tất cả những biến đổi cơ bản ấy đều là biểu hiện của sự
gia tăng tri thức của con người về các quy luật tự nhiên và các quy luật quản
lý, tổ chức xã hội.
Vậy thì, cái lõi bên trong của dòng tiến hóa là dòng
phát triển của tri thức nhân loại, còn sự đấu tranh giữa tập đoàn người này
với tập đoàn người
khác,
tức sự đấu tranh giai cấp, chỉ là cái vỏ, là những hiện tượng xã hội kèm
theo mà thôi. Dòng gia tăng tri thức của xã hội là cái lõi, nó phản ánh
bản chất
của sự tiến hóa nên không thể thiếu và tồn tại xuyên suốt từ đầu đến cuối
lịch sử loài người. Còn sự đấu tranh giai cấp chỉ là cái vỏ bên ngoài,
là một trong
những hiện tượng xã hội kèm theo nên có tính chất tạm thời, luôn thay đổi
màu sắc, và con người có khả năng sử dụng nó, hoặc giảm nhẹ hay loại
trừ nó đi
trong nhiều giai đoạn của dòng tiến hóa bất tận.
Khi nói : Trong phương
thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố năng động nhất (so với quan hệ
sản xuất) thì sẽ là thiếu sót nếu không tiếp
tục nói
:Trong lực lượng sản xuất thì sự "năng
động" ấy nằm ở yếu tố con người, trong con người thì sự "năng động" ấy nằm ở bộ óc tức phần lao động trí tuệ.
Bản chất của sự tiến hóa là như vậy. Tinh thần khoa học quan trọng nhất
trong một học thuyết tiến hóa xã hội đáng lẽ phải là như vậy. Nhưng dưới 'lăng
kính giai cấp' nhiều cuốn sách lại có lối mô tả dòng tiến hóa của xã hội như
sau : " ...Giai cấp bị trị và giai cấp thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên
sinh ra đấu tranh giai cấp. Nô lệ chống chủ nô làm chế độ chiếm hữu nô lệ tan
rã. Nông dân chống địa chủ phong kiến làm chế độ phong kiến tan rã. Giai cấp
công nhân chống giai cấp tư sản làm chủ nghĩa tư bản sụp đổ ...". Lối mô tả ấy xuất phát từ nhận thức sai lầm coi dòng tiến hóa là dòng đấu tranh
của những giai cấp bị trị lật đổ các giai cấp thống trị, nên mỗi khi giai cấp
bị trị không nắm được quyền lãnh đạo trong xã hội mới thì chúng ta coi là công
lao của họ bị lợi dụng. Thế thì lịch sử là một chuỗi toàn những bất công vô
lý, trong đó những kẻ 'xấu bụng' đi lợi dụng công lao người khác lại cứ được
lịch sử cho kế tiếp nhau điều khiển xã hội. Đến khi có cách mạng vô sản thì
mới phát sinh một ngoại lệ, giai cấp công nhân là giai cấp bị trị lên lãnh
đạo xã hội, và ngoại lệ này mới chính là niềm mơ ước của nhân loại (?!).
Không,
lịch sử có quy luật chứ không tùy tiện. Mỗi cuộc biến đổi được gọi là 'cách
mạng xã hội' bao giờ cũng là sự cạnh tranh của hai thế lực lãnh đạo xã
hội, tiêu biểu cho hai bậc thang về trình độ tổ chức xã hội, ứng với hai
trình độ khác nhau của khoa học-kỹ thuật, của tri thức con người thời ấy. Thế
lực
lãnh đạo mới sẽ thắng vì có trình độ cao hơn (thế lực có trình độ cao hơn
này không bao giờ nằm ở giai cấp bị trị, dù giai cấp bị trị có tạm thời đoạt
được
quyền bính thì trước sau họ cũng rơi vào quỹ đạo của những thế lực kia).
Sự đấu tranh của giai cấp bị trị cũng như của quần chúng nói chung chỉ có tác
dụng tạo ra áp lực to lớn của xã hội giúp cho chính quyền mau chuyển từ tay
thế lực lãnh đạo cũ sang tay thế lực lãnh đạo mới, điều này đáp ứng yêu cầu
phát triển chung của toàn xã hội.( điều này phù hợp với quy luật cạnh tranh
sinh tồn chứ không phù hợp với thuyết đấu tranh giai cấp Mácxít ). Lôgic
của
lịch sử vốn là như vậy, bất chấp chúng ta vừa lòng hay không vừa lòng. Việc đưa giai cấp công nhân
vào vị trí giai cấp lãnh đạo trong xã hội mới là một việc làm chỉ mang tính
đạo đức, làm nức lòng số đông đang công phẫn nên có sức mạnh tập hợp to lớn
trong thời kỳ đầu, nhưng không theo quy luật nên sẽ tự phát sinh mâu thuẫn
trong những giai đoạn sau.
Nhiều người nhận xét rằng càng về sau việc thực thi chủ nghĩa Mác càng
có xu hướng không đúng với những tinh thần nguyên lý ban đầu của Mác và chiều
hướng của những sai lệch dường như có tính lôgic, tính quy luật.
Thực tế cũng
bộc lộ một nhận thức sai lệch của nhiều người hiểu tinh thần chính của chữ
' cách mạng' là ở ý nghĩa lật đổ , lật đổ người giàu lấy của chia cho
người nghèo như các anh hùng hảo hán ngày xưa vẫn làm. Đây là biểu hiện chủ
nghĩa bình quân của nông dân. Chủ nghĩa bình quân gắn chặt với tư tưởng lật
đổ. Khi mình chưa có thì muốn lật đổ để cào bằng, cào bằng được rồi lại muốn
mình giàu hơn người khác, lật đổ vua nhưng rồi mình lại thành vua. Chủ nghĩa
Cộng sản giương ngọn cờ Công Nông không thể nào tránh được vết xe đó.
Muốn
làm giảm tận gốc bất công xã hội và tăng hạnh phúc của nhân dân thì sự công
bằng phải đặt trên cơ sở nâng cao cả nền sản xuất của xã hội. Động
tác
chính của 'Cách mạng' là động tác nâng cao chứ không phải động tác cào
bằng. Cào bằng là động tác của bạo lực, nâng cao là động tác của tri thức khoa
học, của năng lực tổ chức sản xuất và tổ chức xã hội. Chúng ta đấu tranh
cho công
bằng chứ không chấp nhận sự cào bằng vì cào bằng làm cho xã hội thấp đi
và
tạo ra sự bất công mới khốc liệt hơn. Kiểm điểm lại, nếu ta mới chỉ đạt
'những thắng lợi to lớn' trong những việc mang tính lật đổ và cào bằng mà chưa
có
những thắng lợi to lớn trong việc nâng cao một cách vững chắc thì thực
chất là chưa có 'cách mạng' ! Cách mạng xã hội không đồng nghĩa với cướp chính
quyền, cũng không đồng nghĩa với giải phóng dân tộc ... mặc dù tất cả những
hình thức
đấu tranh chống áp bức, đòi công bằng xã hội (trong đó có những cuộc đấu
tranh giai cấp) đều rất cần thiết, và còn luôn luôn cần thiết trong xã
hội loài người,
đều là những
biểu hiện của đấu tranh sinh tồn, đều có giá trị riêng của nó và có liên
quan mật thiết với nhau.
Giai cấp bị trị trong xã hội cũ không thể trở thành giai cấp thống trị
trong xã hội mới vì bản thân giai cấp bị trị không thể tiêu biểu cho trình
độ tiên tiến nhất của tri thức con người thời ấy. Chính vì thế mà khi muốn
đưa giai cấp công nhân thành giai cấp lãnh đạo Mác đã phải đặt ra một điều
kiện rằng đó phải là giai cấp công nhân đại công nghiệp để có thể tiêu biểu
cho nền sản xuất hiện đại để công nhân đồng thời là trí thức. Nhưng thử nhìn
vào các nước tư bản đã có nền đại công nghiệp hiện nay thì ta thấy tầng lớp
tiêu biểu cho khoa học, cho tri thức tiên tiến của các nước ấy không thể nào
lại là công nhân của các nước ấy được, mặc dù trình độ công nhân của họ cao
hơn của các nước khác rất nhiều. Xã hội càng phát triển thì sự chuyên hóa giữa
công nhân và trí thức lại càng cần thiết, và hình như khi trình độ của những
công nhân ấy được nâng cao lên (như ở Hoa kỳ, Nhật bản ...) thì họ lại giảm
đấu tranh đi, tức là giảm sự "giác ngộ giai cấp" , tức là giảm khả năng trở thành lãnh đạo cách mạng , tức là càng đi ngược lại
điều kiện ước mong của Mác! Như vậy chính yêu cầu của Mác đề ra cũng còn bất
cập , huống chi những người Cộng sản Nga và Đông Âu thì lại bất chấp cả yêu
cầu tối thiểu ấy , chủ trương làm 'cách mạng' ngay trong khi giai cấp công
nhân nước mình còn cách rất xa yêu cầu của Mác. Chưa kể trường hợp mà sự lãnh
đạo thực chất còn nằm trong quỹ đạo nông dân thì đương nhiên còn tai hại hơn.
Phải chăng do ý thức được cái lỗ hổng này mà Lênin đã yêu cầu người cộng sản
phải cấp tốc trau giồi tri thức, và tự Lênin đã nêu một tấm gương về sử dụng
trí thức , kể cả trí thức của chế độ cũ. Lênin nói : "Chỉ
có đem toàn bộ kho tri thức của nhân loại để làm giàu cho bộ óc của mình, chúng
ta mới có thể trở thành người cộng sản". Cái định nghĩa tuyệt vời về người cộng sản ấy có thể coi chính là định nghĩa
về người trí thức, tức là chất Cộng sản và chất Trí thức phải trùng làm một
! Nếu mọi đảng viên cộng sản đều được kết nạp trên tinh thần ấy của Lênin thì
đảng Cộng sản chính là đảng của trí thức -trí thức cách mạng !
Nhưng trong thực tế thì lời giáo huấn ấy có thể thực hiện được không ?
Xin kể
ra đây một tình trạng có thật và khá phổ biến : "Chúng
tôi là những con em công nhân và nông dân. Nếu chúng tôi chỉ học khoảng hết
cấp 1 và ở lại địa phương sản xuất thì với lòng hăng say mà chúng tôi vốn
có, dám chắc rằng chúng tôi đã thành đảng viên từ lâu rồi. Nhưng chúng tôi
lại
ham học. Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu
tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, vềchính trị ... thì bây
giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng
nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ
sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học ! ..." .Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức !
Đó là điều
'nghịch lý'.
Nhưng ' nghịch lý' này lại là nguyên nhân của một loạt các
'nghịch lý' tiếp theo.
Kết quả trực tiếp nhất và cũng cơ bản nhất là sản xuất không phát triển,
sản phẩm hàng hóa ít, đời sống khó khăn. Đời sống tinh thần cũng bị hạ
thấp do
phải lùi bước trước những nhu cầu sinh tồn tối thiểu. Tính kém hiệu quả
của tổ chức xã hội đã gây nên cái điều rất 'vô lý' (thực ra chẳng có
gì là vô
lý cả) là muốn xây dựng một hệ thống phát triển nhất trong lịch sử loài
người thì lại thu được một hệ thống không phát triển, thậm chí chống
lại sự phát
triển.
Con người một khi không đủ tri thức để có điều kiện huy động sự
thông minh và tính kiên quyết để tính cái lợi xa thì nó huy động sự
thông minh
và
tính kiên quyết để tính cái lợi gần. Không tăng được sản xuất để gia
tăng của
cải chung của xã hội thì 'cải tiến' cách phân phối để chiếm được phần
hơn trong
cái tổng số còn ít ỏi. Sự ưu tiên đặc biệt này gắn chặt với chức quyền.
Vì lợi mà phải chiếm quyền (vẫn từ cái gốc duy lợi mà ra) ! Có chức
có quyền
thì có lợi ! Người ta xô nhau chiếm chức quyền làm cho bộ máy chính
quyền vốn đã
ít hiệu quả lại cứ phình to ra mãi. Sự bao cấp đến mức thành đặc quyền
đặc lợi cứ chất mãi gánh nặng lên vai nhà nước, lên vai nhân dân. Đến
mức không
chịu nổi nữa thì nhà nước buộc phải 'chống bao cấp' nhưng lại buông
khỏi tay mình những bộ phận vốn cần được bao cấp chu đáo để phục vụ những
nhu cấu công
ích và chiến lược lâu dài. Điều ấu trĩ này làm cho nhà nước yếu đi,
nhà nước yếu đi thì không còn chủ động điều khiển được sự chống bao cấp.
Nạn bao cấp
không
thực sự mất đi mà tồn tại một cách không chính thức thì lại càng nguy
hiểm hơn, nó mang tính bao
cấp trá hình, bao cấp nhưng lại pha màu tự do cạnh tranh và chộp giựt.
"
Giảm biên chế" là một nhu cầu sống còn nhưng nếu tiến hành giảm biên chế trong điều kiện cán
bộ khung chưa được trong sạch từ trên xuống (mà điều này thì không thể thực
hiện được) và ở bên dưới thì quần chúng không được thực sự làm chủ thì mỗi
đợt giảm biên chế càng tạo điều kiện để những con ký sinh trùng bám chặt thêm
vào ruột nhà nước mà sinh đẻ thêm và đẩy những người trung thực ra rìa, thậm
chí có thể dẫn đến tình trạng 'tư hữu hóa' cả cơ quan nhà nước.
Khi người chỉ huy không đủ tri thức để điều hành công việc và thuyết
phục quần chúng thì họ bị giằng co giữa hai động cơ : một mặt rất muốn dùng
những người trí thức, một mặt lại sợ trí thức. Để có thể che giấu sự kém cỏi
của mình, để được yên thân tọa hưởng giữa nơi mập mờ bùng nhùng họ không dám
thực sự nâng cao dân trí, không dám cho dân phát triển dân chủ, tự do. Ánh
sáng trí tuệ đối với họ lúc này lại là điều bất lợi (và cái châm ngôn "kết hợp chân lý khoa học với lợi ích của giai cấp" lúc này chỉ còn là khẩu hiệu trên giấy thôi, chân lý khoa học không được tôn
trọng đã đành, mà lợi ích cũng không còn là lợi ích của giai cấp).
Có ham muốn, có quyết tâm mà thiếu tri thức thì ắt sa vào vòng duy ý
chí. Người chỉ huy sẽ trở thành kẻ độc tài dù tự giác hay không tự giác. Càng
bất lực trước quy luật càng phải ngụy biện và áp đặt. Vì thế mà xuất hiện cái
điều tưởng như rất vô lý là muốn xây dựng một hệ thống giàu Nhân tính nhất
thì lại thu được một hệ thống mâu thuẫn với quyền Con người. Chúng ta không
quên rằng Mác và Lênin đã từng phê phán kịch liệt thứ 'xã hội chủ nghĩa kiểu
trại lính' , kiểu này là sản phẩm chung của mọi thứ 'xã hội chủ nghĩa không
tưởng' (!).
Việc xây dựng Chuyên chính vô sản như các nước xã hội chủ nghĩa
chúng ta đã làm ắt phải dẫn đến sự SÙNG BÁI CÁ NHÂN. Tại sao vậy ?
Từ trước
tới nay con người bao giờ cũng coi giá trị Nhân đạo là giá trị cao nhất,
là thước đo cao nhất, thước đo cuối cùng. Nhưng đùng một cái xuất hiện
và lưu hành luận điểm rằng : "Không
có sự nhân đạo chung chung ! Trong xã hội có giai cấp thì sự nhân đạo cũng
mang tính giai cấp (!). Vì thế, trước hết phải trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp tiêu biểu cho thời
đại
nên lợi ích của giai cấp này cũng phù hợp với lợi ích chân chính của các
giai cấp
khác." Thế là tính Nhân đạo được thay thế bằng tính Giai cấp. Cái giá trị tinh thần
cao quý nhất mà con người bao đời đã dùng để dạy bảo nhau sống cho nên
người bỗng bị đảo chính rất gọn để thay bằng một giá trị được gọi là mới,
là cao
hơn, nhưng chưa qua thử thách của lịch sử (và ngay về phương pháp luận
nó đã tỏ ra không ổn, lấy cái riêng thôn tính cái chung). Nhưng ngay cả
sự đề
cao
giai cấp công nhân ở đây cũng chỉ là sự nhân danh một cách hình thức, vì
vấn đề không dừng ở chỗ này. Giai cấp phải được đại diện bởi ' đội tiên
phong '
của mình là Đảng , tính Giai cấp được nâng thành tính Đảng. Đảng theo nguyên
tắc 'tập trung dân chủ ' ( mà điều quái lạ là trong thực tiễn thì tính
dân chủ cứ thường xuyên bị vi phạm , còn tính tập trung thì bất khả vi
phạm ).
Đảng 'tập trung ' vào Trung ương Đảng, Trung ương Đảng ' tập trung ' vào
Bộ Chính trị ... và cuối cùng ' tập trung ' vào một người nắm quyền cao
nhất .
Ai chống lại người này thực tế sẽ dễ dàng bị qui là chống Trung ương, chống
Trung ương sẽ bị qui là chống Đảng, chống Đảng qui thành chống giai cấp , mà chống đúng
vào cái giai cấp ' tiêu biểu ' của thời đại và của dân tộc thì hiển nhiên
là chống dân tộc , hoặc chống
cả nhân loại rồi còn gì ! Rốt cuộc, tình cảm thiêng liêng đối với dân tộc
hay đối với toàn nhân loại lại được đo một cách đơn giản bằng sự trung
thành đối
với một con người cụ thể. Chuyện Stalin, Mao trạch Đông ... dễ dàng qui
nhiều đồng chí của mình trong Bộ Chính trị thành ' phản động ' đã chẳng
là những
ví dụ điển hình đó sao ?
Vì thế mà tồn tại cái điều rất ' vô lý ' (?) là
muốn xây dựng một hệ thống đặc trưng bởi tính tập thể, tính thế giới
đại đồng, tính toàn nhân loại,
lại thu được một hệ thống rất dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân cực đoan
, ngược với
tính Nhân loại.
Tiến hóa cũng là quá trình trong đó tính NHÂN từng bước lấn dần tính
THÚ. Khi yếu tố NHÂN không được phát huy thì yếu tố THÚ sẽ vùng dậy.
Biết bao
vụ án
đau lòng là biểu hiện lộng phát của thú tính. Con người dùng bạo lực
để thống trị nhau, lấy việc hành hạ người khác làm điều thích thú, sinh
sống
bằng
cách chiếm đoạt những giá trị có sẵn chứ không sáng tạo ...
Con người
là một 'sinh vật xã hội' nên sự phát triển tính NHÂN cũng đồng thời
là sự phát triển tính XÃ HỘI, tính có tổ chức của nó. Tính XÃ HỘI
là một biểu
hiện cao của NHÂN TÍNH, còn chủ nghĩa QUÂN PHIỆT , CHUYÊN CHÍNH vô
sản hay mọi thứ chuyên chính và mọi biểu hiện mất dân chủ về bản chất là
di chứng
của thú tính , nên hai thứ đó phải được xem là đối lập nhau như nước
với lửa ,
chứ tại sao lại dùng CHUYÊN CHÍNH để thực hiện một chủ nghĩa mang tính
' XÃ HỘI ' ?
Chúng ta có trong tay mình một xã hội không theo ý muốn, thậm chí lộn
ngược ; lộn ngược so với ý đồ thiết kế, lộn ngược so với cái tự nhiên,
trong
đó không có cái gì được ở đúng vị trí của nó cả ( tức là một hệ thống
có khuyết tật cấu trúc) nên cứ người nọ thì phải làm việc của người
kia.
Vì thế mà không một quy luật chính thống nào của tự nhiên cũng
như của xã hội có thể phát huy được tác dụng. Ví như trong một vùng
'phản
vật
chất '
thì những
quy luật của thế giới vật chất thông thường không còn tác dụng vậy.
Trong một ' không gian phản quy luật ' thì những nghịch lý sẽ hoạt
động : cái
tinh thua
cái thô, cái trật tự thua cái lộn xộn, cái tích cực thua cái tiêu
cực, cái đạo đức thua cái vô liêm sỉ ... và con người đi giật lùi !
Có phải
rằng bấy lâu nay chúng ta lúng túng muốn cắt nghĩa cho mình mà không sao
cắt nghĩa được ? Vì, hiện thực xã hội tuy có thế thật
nhưng
lý tưởng
của chúng ta thì không thể nóo là không cao đẹp. Vì, thực tế khách
quan tuy có
thế thật nhưng chủ quan thì ai muốn như thế ? Vì, hiện nay tuy
có thế thật, nhưng trước đây đâu có như thế ? Vì, tuy có những kẻ đồi
bại
thật nhưng
còn bao tấm gương tuyệt vời trong sáng thì sao ? Vì, tạm thời tuy
có thế thật
nhưng rồi xã hội vẫn phải tiến lên chứ ? ... Vâng , đúng như vậy,
không có gì là
bế tắc cả. Khi chúng ta đã gỡ được cái điểm nút cuối cùng trong
mớ bòng bong ấy thì mọi điều rắc rối trái ngược đều được giải đáp thích
đáng,
trọn lý
vẹn tình. Có tách bạch được tận gốc cái sai mới bảo vệ được các
giá trị chân chính.
Còn các lời giải nửa chừng thì tạm thời có thể dễ dung hòa nhưng
rồi sẽ lại tiếp tục bế tắc.
Chỉ cần chúng ta thực sự phục thiện. Nhưng chúng ta sẽ thực sự
là những người bế tắc nếu chúng ta cố thủ. Một bên là lý thuyết
tốt
đẹp, một
bên là thực
tế không chấp nhận được. Chúng ta bị nhốt ở giữa, lúng túng đối
phó, mà bức tường
hai bên cứ khép dần lại dưới sức ép của nhu cầu đổi mới.
Xuất
phát từ lương tâm trong sáng, nhiều người bảo thủ trước đây nay đã dũng cảm
tự phản bác mình để thành một ' chiến sĩ
' trong
mặt trận
' Đổi
mới '
. Nhưng nhiều người cố thủ thì đối phó với thực tiễn bằng cách
CHIẾM HỮU CHỨC
QUYỀN cho chắc, miệng thì NÓI DỐI, tìm mọi cách để NGỤY BIỆN,
NGỤY TRANG.
Chiếm hữu quyền lực là biến tướng của chế độ chiếm hữu, nó
khôn ngoan và triệt để hơn nhiều so với chiếm hữu trực tiếp
tư liệu
sản xuất.
Còn muốn dung hòa giữa hai thứ không thể dung hòa
là là lý tưởng cứ tốt đẹp và thực tế cứ xấu thì có cách gì
khác mà không
phải
nói dối,
ngụy
trang ?
Ngụy trang và chống ngụy trang là cục diện đặc biệt của những
cuộc đấu tranh chính
trị, xã hội, kinh tế, văn hóa ... ngày nay. Những tính cách
vốn là ưu điểm như nhân hậu, chín chắn, có quan điểm lịch sử,
biết
chờ đợi
nhau,
có thái
độ thực tế, biết thích nghi ... nhiều khi lại được sử dụng
một cách rất bệnh hoạn
để che đậy những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cơ hội như
: thái độ bạc nhược, quay mặt đi một cách vô trách nhiệm, ngậm
miệng
ăn
tiền, trì
hoãn,
thậm chí độc ác, lì lợm, cố thủ ... Một bộ phận của giới trí
thức bị phân hóa đã
rời khỏi sự duy lý chân thực mà đứng hẳn sang phía duy lợi
cực đoan (như vậy thì về thực chất họ không còn là trí thức)
đã góp
phần rất
đắc lực
vào sự nói
dối, ngụy biện này. Trong bức tranh chung về sự tha hóa, cái
bệnh nói dối cứ như con bạch tuộc ôm ghì lấy toàn xã hội, chẳng
để cho
ai thoáy
ra.
Nhưng không, nhất định chúng ta phải thoát ra !
Tất cả những điều đã trình bày ở trên có thể ' sơ đồ hóa '
bằng một sơ đồ dưới đây. Xin theo rõi sơ đồ theo thứ tự đánh
số, theo
chiều
những
mũi tên;
gốc
mũi tên chỉ nguyên nhân, đầu mũi tên chỉ kết quả. (xem sơ
đồ).
Sau cùng, nhìn bao quát toàn sơ đồ để thấy một điều mấu chốt
là dùng phương tiện (ô sồ 2) không thích đáng thì không tới
được mục
đích
(ô số 1).
Ta tưởng tượng như có anh lái xe nọ phải đến một miền rất
xa để kiếm lương thực về cho mọi người trong đó có anh ta.
Nhưng
chúng
ta lại
trao cho anh
ta một phương tiện quá đặc biệt, một chiếc xe mà trên đó
có đủ lương thực đến
mức anh ta ăn cả đời không hết, thì chỉ cần đi một quãng
là anh ta bắt đầu thay đổi ý định (sự thay đổi tất yếu mà
chúng
ta gọi
là thoái
hóa
biến chất)
: cứ ngồi lì trên xe mà tọa hưởng, chứ dại gì xông pha mưa
gió đến nơi xa xôi nọ ! Dẫu có đến nơi thì cái phần mà anh
sẽ được
chia chắc
gì đã
bằng
cái phần
mà anh đang có sờ sờ trên chiếc xe này ? Thế là anh lái xe
biến luôn cái PHƯƠNG TIỆN chung kia thành MỤC ĐÍCH. Anh ta
'đến đích'
một mình,
đến 'thiên
đường'
rất sớm, còn mọi người thì chẳng ai được 'xơ múi' gì cả.
Khi chiếc xe chỉ nổ máy, chữa máy giữa đường mà không đi
nữa thì
người lái
xe đâu
cần phải
biết
lái xe ! Cái anh ta cần biết bây giờ là kỹ thuật gây ảo giác
và làm tê liệt khả năng phản ứng của mọi người.
Ngày
bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì cứu nước mưu hạnh phúc
cho dân là mục đích. Chủ nghĩa Mác-Lênin được bác coi
là "con
đường", tức là phương tiện giúp dân ta đi đến đích đó. Nhưng rồi dần dần lại phát sinh
cái tín ngưỡng "dâng tất cả để tôn thờ Chủ nghĩa" (!). Lạ như vậy đấy, 'chủ nghĩa ' với tư cách là con đường, là phương tiện thì
nó là cái để ta dùng chứ sao lại là cái để ta "thờ" ? Động cơ ấy lúc đầu hẳn là do ta thành tâm và ấu trĩ quá đó thôi ... Nhưng
dù do gì đi nữa thì hậu quả nguy hiểm vẫn là ở chỗ : Khi
cái phương tiện đã thành cái mục đích thì tự nhiên cái mục
đích (ở đây là dân tộc) phải đổi chỗ
để thành cái phương tiện (!). Như trong câu chuyện khôi hài
ngày trước : khi đôi giày đã được đánh bóng và kẹp bên nách
thì đôi bàn chân phải thay đôi giày
mà đương đầu với gai góc. Lúc vấp ngã, chân tóe máu ra, ai
cũng tưởng phen này anh ta phải tỉnh ngộ, bỏ giày xuống mà
đi vào chân. Nào ngờ đây chính là
dịp để anh ta 'tự hào' về sự thông minh của mình, rằng nếu
anh không 'kiên định' thì cú vấp vừa rồi hẳn đã làm sứt mất
đôi giày quý. Nghe chuyện khôi
hài mà ứa nước mắt ! Nhưng anh ta có cái ' lý ' của anh ta
đấy vì đối với anh ta thì cái để anh hy vọng trở nên sang
trọng chính là đôi giày bóng, chứ đâu
phải đôi chân ! Cố giữ lấy đôi giày cũng phải !
Đã có một thời, và thời đó còn tiếp đến ngày nay, chúng ta muốn giương
ngọn cờ giai cấp làm tấm hộ chiếu quá cảnh , vượt qua mọi biên giới dân tộc
để thống nhất toàn thế giới. Nhưng thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng ý muốn
ấy chỉ là chủ quan (nên chăng giương ngọn cờ dân tộc để khắc phục dần mâu thuẫn
giai cấp !) . Có một quy luật đã được chiêm nghiệm là nếu thống nhất với nhau
chủ yếu bằng tiếng gọi của ' lợi quyền ' thì trước sau gì cũng lại chia ly
chính do lợi quyền. Chỉ có một thứ thực sự là của chung của nhân loại, không
thể chiếm hữu, không thể độc quyền, một thứ mà ngày nay cứ xuất hiện ở đâu
là được quốc tế hóa ngay, đó là trí tuệ, là khoa học, là sự phát hiện những
quy luật khách quan. Cái tài sản chung quý báu này luôn được đổi mới, bổ sung.
Còn nói về ' chủ nghĩa ' thì đủ sức ôm cả cái loài người bất diệt có lẽ chỉ
có và chỉ cần một chủ nghĩa, cái chủ nghĩa chẳng có gì mới nhưng bất diệt mà
ta rất nên ' tôn thờ ' , là CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO ! Mọi ' chủ nghĩa ' khác chẳng
qua chỉ là những hệ phương pháp ứng xử để ta sử dụng linh hoạt trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể
mà thôi !
Có hành động đúng theo quy luật thì mọi việc mới ' xuôi ' được. Hiện tượng
' xã hội lộn ngược ' với những nghịch lý đã nói trên chỉ có thể giải thích
rằng ngay từ những điểm xuất phát chúng ta đã nghĩ và làm không đúng với những
quy luật khách quan nên càng về sau càng chịu sự chóng trả quyết liệt của quy
luật. Muốn " làm
chủ" như chúng ta thường nói , trước hết phải ' làm chủ ' được các quy luật. Muốn
vậy, con người trước hết phải có sự học hành đầy đủ để tiếp thu những tri thức
đã có của nhân loại, phải được suy nghĩ hoàn toàn tự do, và đặc biệt phải biết
lấy thực tiễn để kiểm chứng mọi điều đã nghĩ, kể cả những điều mà một thời
những tưởng đã ' đóng đanh ' vào lịch sử. Chính Mác đã khuyên mọi người " Hãy hoài nghi tất cả !". Thật là nhân cách một nhà khoa học lớn ! Chính Mác đã nêu tấm gương về sự tự
hoài nghi, tự ' xét lại ' mình thì đương nhiên Mác không thể chấp nhận danh
hiệu Mácxít cho những ai muốn biến Mác thành một thần tượng bất khả xâm phạm,
để quy tội "xét lại" cho tất cả những ai không chịu răm rắp nghe theo mình ! Một khi chính Mác đã
không chấp nhận để mọi người coi mình là thần tượng thì còn "học trò" nào của Mác được phép chấp nhận điều đó ? Từ khi Mác mất đến nay hơn một thế
kỷ, con người lớn lên như vũ bão, khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi hẳn bộ
mặt loài người, kỹ thuật tin học ngày càng gắn cả loài người thành một chỉnh
thể. Nếu chúng ta không nhìn nhận xã hội và lịch sử tinh tường hơn thời kỳ
của Mác thì sao xứng đáng là những lớp con cháu của Mác ? Việc nhìn nhận lại
một số điểm trong học thuyết của Mác không làm giảm đi sự tôn kính của ta đối
với Mác, trái lại ta có thể tự hào đã có Mác là một người khổng lồ nhân từ
cho ta được đứng lên vai.
Nhưng "hoài nghi" mới là điều kiện "cần",
chưa phải điều kiện "đủ" ! Hoài nghi có thể dẫn đúng hơn , cũng có thể dẫn đến sai hơn. Nếu lấy cớ '
hoài nghi ' Mác để "bổ sung", để "nâng cao", thậm chí để ... "cứu học thuyết Mác khỏi rơi vào sự tầm thường" (Lênin) , mà đưa thêm vào những quan điểm thiếu khoa học, thiếu thực tế, đầy
ý chí chủ quan của mình thì lại càng tai hại hơn.
Vấn đề đặt ra quá lớn, tầm suy nghĩ của một người lại quá nhỏ, khuôn khổ
một bài viết lại càng nhỏ hơn, thiếu sót là điều không tránh khỏi. Nhưng
chúng
tôi thiết nghĩ sẽ không phải là vô ích nếu chúng ta chân thành, nếu chúng
ta nói thật. Nhiều người nói thật sẽ dần đến sự thật. Điều quan trọng là
tìm được
cái gốc của những sai lầm. Tuy từ đó đến chỗ xác định được cách đi đúng đắn
cũng không dễ dàng ( và việc này không phải là nội dung đề cập của bài viết
này), nhưng khi cái gốc của sai lầm đã được phơi bày thì cái hướng đúng cũng
tự nhiên đã ló ra rồi.
Alexandr Bovin, nhà phân tích chính trị của tờ Izvestia
(Liên xô), sau khi nói rõ quan điểm "kiên
quyết chối bỏ loại xã hội chủ nghĩa quan liêu, thiếu thốn triền miên, xuống
cấp những giá trị đạo đức, thay tự do bằng sự trấn áp dốt nát ..." đã nêu ý kiến về cách sửa chữa là : " Tất cả các đoạn trên con dấu toán học cần phải đổi ngược lại !". (Tuần tin THANH NIÊN 8-8-1988).
Và nếu như trên trang giấy đã đổi ngược các
dấu toán học thì trtên đường đi lẽ nào không phải quay ngược các tấm
biển chỉ đường ?
Nhân loại, như lịch sử đã từng chứng minh, rốt cuộc vẫn dắt
tay nhau, đi chung trên một con đường, con đường tiến hóa, thênh thang,dưới
những
tấm
biển chỉ
đường của Trí tuệ !
Ngày 2 tháng 9 năm1988
Tú Xuân HÀ SĨ PHU
Địa chỉ : PTS Nguyễn Xuân Tụ
4E Bùi thị Xuân, Đà lạt.
Nơi gửi :
- Bạn bè, những người hiểu biết, quan tâm và có trách nhiệm để xin ý kiến trao
đổi
- Báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Tuổi trẻ
Lời chú thích:
" DẮT TAY NHAU " TRONG MỘT CUỘC TRANH
LUẬN KỲ LẠ
Sau khi báo Nhân dân (ngày 25&26/7/1990),
báo Quân đội nhân dân (ngày 9 & 10/7/1990) và báo Tuổi trẻ (ngày 30/6 & 5/7/1990) đăng bài của các tác giả Thuận Thành và Lưu văn Kiền phê phán bài " Dắt tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường của Trí tuệ " (một bài chưa được đăng ở đâu cả), nhiều dồng chí cán bộ và sĩ quan quân đội
biết, đã yêu cầu tôi cho mượn bài viết ấy để tham khảo, đối chiếu. Vì chưa
có báo nào đăng nên tôi đành sao bài này ra một số bản để đáp ứng yêu cầu
nghiên cứu và đối thoại (như tác giả Thuận Thành đã đề xuất) của một số bạn
bè đồng
thời là độc giả của các báo nói trên. Nếu tính đến giữa năm 1991 thì tổng
số các bài và các tài liệu phê phán bài " Dắt tay nhau..." đã vượt quá con số ba mươi !.
Có lẽ chưa có cuộc tranh luận nào kỳ lạ như cuộc
' tranh luận ' quanh bài " Dắt
tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường của Trí tuệ " của tôi (mặc dù trong đó nghĩ mười mới viết được một ). Suốt nột năm rưỡi trời
các giáo sư triết học, các nhà chính trị, tuyên huấn ... của Viện Triết,
trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, ban Văn hóa tư tưởng trung ương, báo Nhân dân,
báo Quân
đội nhân dân ... đã viết liền mấy chục bài và sách, tập trung phê phán
một bài tiểu luận mà bài này chỉ được chuyền tay chứ không được phép in
ở đâu
cả. Mấy chục võ sĩ ra sân khấu, đấu rất sôi nổi với một ' địch thủ ' chỉ
được phép
ở bên trong hậu trường. Trong cuốn "Nêu cao tính chiến đấu, chống mọi hoạt động phá hoại về tư tưởng " , ban Văn hóa tư tưởng trung ương đã dành hầu hết các trang để chỉ trích những
nội dung được trích một cách rời rạc từ bài "Dắt tay nhau ...". Thậm chí trong cuốn "Giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh của Đại hội VII ", ủy viên Bộ Chính trị Đào Duy Tùng cũng đề cập tới bài đó như một ví dụ cụ thể
duy nhất làm đối trọng ! Có tác giả đã gọi tôi là " kẻ phát ngôn trong bóng tối" , " cao ngạo hơn cả Duhring", có tác giả dọa sẽ có biện pháp đối xử với tôi một cách "đúng mực" , "theo như yêu cầu đòi hỏi của quy luật đấu tranh giai cấp" (!). Và thực tế thì bài "Dắt tay nhau ..." đã không phải không gây phiền phức cho tôi và nhà văn Dương Thu Hương trong
những ngày được ' tiếp kiến ' Bộ Nội vụ !
Đấy là mặt không vui.Nhưng câu
chuyện lại có mặt vui của nó. Bài ấy tôi viết hai năm trước khi có những
sự cố ở Đông Âu và Liên xô, thực tiễn thế
giới
sau đó đã chứng thực cho dự đoán của tôi, các "tấm
biển chỉ đường" lớn nhỏ đã được quay ngược lại hết. Việc Đại hội VII lấy "Trí tuệ" làm khẩu hiệu hàng đầu (mặc dù ngay trước đó nhiều nhà lý luận vẫn còn khẳng
định rằng chủ nghĩa Mác Lêchính là Trí tuệ tối cao của nhân loại rồi,
nói Trí tuệ nữa là thừa !) và không nói đến "Chuyên
chính Vô sản" nữa thì điều ấy thực sự đã phù hợp với nội dung chính trong bài viết của tôi.
Tôi lấy làm vui lắm, và tin rằng những nội dung khác của bài viết cũng
sẽ chuyển rất nhanh từ trạng thái gây dị ứng, phải chống đến cùng, sang
trạng thái mặc
nhiên tự tại - "biết rồi, khổ lắm, nói mãi" !
Là người làm công tác khoa học, dốt về chính trị, tôi chỉ nói những điều
về nhận thức khoa học, những vấn đề có tính nguyên lý. Trong khoa học
tự nhiên,
Mác ' duy vật ' và ' biện chứng ' bao nhiêu thì khi vận dụng vào xã
hội Mác lại ' duy tâm ' và ' siêu hình ' bấy nhiêu. Ai có thể phủ định chủ
nghĩa
Mác nếu không phải là phần này của tư tưởng Mác đã tự xung đột với
phần kia của
tư tưởng Mác ! Nhà duy vật biện chứng trứ danh trong khoa học ấy lại
đồng thời là đại biểu cuối cùng và đặc sắc nhất của trào lưu " xã
hội chủ nghĩa không tưởng" mà ông đã kịch liệt phê phán và kế thừa.
Nhân loại đã phải trả giá cho sự ' không
tưởng ' của mình và hôm nay đã vượt được qua nó , đó là một điều
vĩ đại. Nhưng, vượt lên trên những
máu
và nước
mắt, cuối cùng thì -nói theo cách hóm hỉnh của Mác- nhân loại vẫn
muốn "từ
giã quá khứ của mình một cách vui vẻ". Chỉ có điều là trong màn hài kịch lớn này, lịch sử sẽ chọn ai làm tên lính
hề cuối cùng rút lui khỏi sân khấu ? ..
Tháng 2 năm 1993
Hà Sĩ Phu
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |
|