"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ CỦA MỘT CÔNG DÂN
Tôi tên thật là Nguyễn Xuân Tụ, sinh ngày 22.4.1940 tại Hà Bắc, là phó tiến sĩ sinh học, công tác tại Viện Khoa Học Việt Nam.
Đất nước ta đang độ chuyển mình, cần sự góp sức chung lòng của mọi công dân. Tôi không có khả năng gì cũng xin thành tâm đóng góp phần mình bằng đôi điều suy nghĩ. Trong mười điều nói ra, chỉ mong may mắn có một điều dùng được.
I- Những Cách Tiếp Cận Khác Nhau Để Trả Lời Câu Hỏi Của Thời Đại
Sự sụp đổ của các thể chế xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của 2/3 số nước trong phe, của nơi quê hương, của nơi thành trì vững chắc
nhất, của những điển hình xuất sắc mà ta đang phấn đấu để vươn tới, lại là sự sụp đổ sạch sành sanh không thể cứu vãn,là sự sụp đổ kéo theo tức khắc sự
biến dạng của các nước còn lại.Vậy đấy là sự sụp đổ có tính cội nguồn, triệt để và toàn cục.
Vì thế một loạt câu hỏi tự nhiên cứ bật ra: Chủ nghĩa xã hội khoa học là gì? Biến cố kia là tất yếu không tránh khỏi hay do những thiếu sót có thể rút kinh nghiệm? Là khúc quanh thử thách để rồi lại phát triển mạnh hơn theo định hướng cũ hay đây là sự biểu hiện quyết định của sự cáo chung? Mấy nước còn lại, trong đó có nước ta sẽ đi về đâu và số phận nhân dân sẽ thế nào? Gia đình mình, cá nhân mình sẽ sống kiểu gì đây? Tiếp tục phó mặc đại sự cho những người lãnh đạo, mình là dân thì cứ sống theo, để rồi...đất nước vẫn tên là xã hội chủ nghĩa mà những kẻ kiếm bạc tỉ bằng cách mánh mung ngày càng nhan nhản, còn mình thì xin làm thuê không xong mà chẳng biết trách ai? Hay là rút kinh nghiệm, từ nay cứ sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi là xong? Các nước tư bản vẫn cứ tiếp tục đi theo ta lên chủ nghĩa xã hôi như lý luận Mác-Lê đã khẳng định, hay ta đang học theo họ làm tư bản? Hay ta cũng sẽ sáng tạo ra một thứ xã hội chủ nghĩa kiểu Việt Nam? Các nước XHCN ấy đổ là do họ làm sai Mác- Lê hơn ta hay làm đúng Mác-Lê hơn ta? Hay đây chính là lịch sử lại một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của ta và sức sống vô địch của chủ nghĩa? v.v..
Những câu hỏi ấy người ta có thể tránh trả lời trước mặt người khác nhưng làm sao lại không tự đặt ra trong đầu? Và dù ta có tự dối mình mà tránh né sự trả
lời của ý thức thì cái vô thức cũng tự nó đã trả lời và chi phối hành vi của ta rồi. Chứng cứ là cả nước nhất loạt không ai tiếp tục sống như trước.
Vậy nên tôi nghĩ rằng,là một người Việt Nam có giáo dục, có văn hoá, không ai có thể cho phép mình tảng lờ, dấm dúi trong xó kiếm ăn một mình, mà phải đứng
ra giữa nơi sáng sủa, nghiêm túc nói rõ ý kiến của mình với sự huy động cao nhất của ý thức trách nhiệm và trí tuệ!
Nhưng sự suy nghĩ nên bắt đầu từ đâu? Tiếp cận vấn đề từ cửa mở nào? Đã có nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề này nhưng tựu trung vẫn chỉ có hai con đường: đi từ thực tiễn đến lý luận hoặc từ lý luận đến thực tiễn, cuối cùng vẫn gặp nhau ở những điểm cốt lõi,bản chất.Những cách tiếp cận đa dạng khác nhau cũng chỉ khác nhau ở qui mô của cái lý luận hoặc thực tiễn ấy.
1. Đi Từ Thực Tiễn, Từ Hiện Tượng
Ghi nhận những sự kiện,những tình hình diễn biến của một xã hội, một giai đoạn lịch sử, một hệ thống thế giới...hoặc của nhiều xã hội, nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều hệ thống thế giới rồi so sánh,đánh giá,tìm cách giải thích rồi rút ra kết luận.Cách nhìn lưỡng phân (phe XHCN và phe TBCN ai thắng ai,...) cũng thuộc loại này, vì tình trạng hai phe cũng chỉ là hiện tượng nhất thời của lịch sử. Cách xét từng mặt, thống kê từng hiện tượng tuy có vẻ khách quan nhưng là phương pháp có độ tin cậy thấp vì dễ bị tình hình thời sự và cảm tính chủ quan làm cho thiên vị khi thống kê và nguỵ
biện khi
giải
thích.Những mặt tốt
xấu trong xã hội thường đan cài với nhau,một thể chế tốt nhất
vẫn có những mặt xấu,một thể chế xấu nhất cũng vẫn có những
mặt tốt.Nếu
không
có một
nhận thức hệ thống thì nhiều khi không thể phân biệt đâu là
mặt chính.Các hiện
tượng ở mặt phụ có thể chính là mặt trái tất yếu buộc phải
tạm chấp nhận,
bởi không
có một giải pháp xã hội nào hoàn hảo,nhưng mặt khác bên cạnh
sự tốt xấu
của thể chế còn có vai trò
của truyền thống,vai trò của nhân dân và quốc tế.
Người có
óc quan sát sắc sảo hơn thường không xem xét tình hình một
cách tràn lan mà tập trung vào một số nhân tố có tính
chất
chỉ thị
(indicateur).Ví
dụ : Cứ xem tình hình tự do báo chí,tự do ngôn luận là biết
mực độ của một nền dân chủ.Hiện tượng nhiều người xấu trở nên
tốt
là dấu
hiệu của
một thể
chế tốt,nhiều người tốt trở nên xấu là dấu hiệu của một thể
chế không tốt.Cứ thấy một người ngã,chục người tiếp bước
thì đó
là một phong
trào đang
lên, tìm
mãi không thấy người kế tục thì đó là một phong trào đang xuống. Xem
thái độ cởi mở tự nhiên hay dấu dấu diếm diếm thì biết là người
tử tế hay
kẻ gian phi.
Nhất ngôn là người quân tử. Tiền hậu bất nhất là kẻ tiểu
nhân .Khoan dung là sức mạnh của người trong lòng thanh thản.
Thái độ
thù địch thường
trực là
thế yếu của kẻ mưu điều bất chính... Cách xem tướng bắt
mạch này đối với con người cũng như xã hội là cách định hướng
nhanh
và sơ
bộ,sau
đó phải
được phối kiểm bằng sự khảo sát kỹ lưỡng và tư duy hệ thống.
2. Đi Từ Nhận Thức Hệ Thống, Từ Bản Chất của Quá Trình
Đây là sự nhận thức vấn đề từ đầu mối của nó,từ những qui luật
tổng quát đã được khoa học thừa nhận và phát triển.ở tầm
khái quát nhỏ
có thể xuất
phát
từ những qui luật mà tính bao trùm của nó chỉ trong một phạm
vi hay một mặt hạn chế nào đó. Ví dụ như qui luật đấu tranh
giai cấp
trong
xã hội
có giai
cấp, qui luật về sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản
xuất, qui luật phát triển
về quyền lực... Một cách hệ thống hơn nữa thì nhìn sự thay
đổi toàn diện của xã hội trong sự phù hợp với các nền văn
minh kế
tiếp nhau
của lịch
sử (như
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh tin học...) Nhưng
khái quát hơn cả là xuất phát từ những qui luật tổng quát
về sự tiến hoá của
nhân loại
, từ bản chất con người và xã hội. Đây là cách tiếp cận khoa
học nhất nhưng cũng khó nhất, chạm đến những quan điểm chi
phối cả
hệ thống
tư duy.Chỉ
bằng cách ấy mới có khả năng đạt tới những nhận thức chính
xác, nhưng ở độ khái
quát ấy thì sai một ly đi một dặm!
Việc
tách bạch các phương pháp tiếp cận cũng giống như việc phân
tích các động tác võ thuật cơ bản, khi ứng dụng tất nhiên
phải
phối hợp linh
hoạt, không
thể
cứng nhắc nhưng quán xuyến cả quá trình nhận thức phải là
tư duy hệ thống.
Xuât phát từ những phân tích thực tiễn sâu
sắc, và với một năng lực khái quát rất cao, Marx đã dựng nên một lý thuyết
tương
đối hệ thống, rồi
đem
nó trở
về với thực tiễn và dùng thực tiễn để điều chỉnh lại nhiều
lần. Marx và Lenine vừa là những bộ óc lớn vừa là những
chiến sĩ và nhà
tổ chức đại
tài. Về mặt
cá nhân những con người cụ thể dễ gì đã có người nào vượt
qua!
Nhưng sức vóc một con người dù vĩ đại đến đâu cũng
không thấm gì so với sức vóc một thời đại. Bên cạnh những phát
hiện lớn
lao, sự hạn chế
của
trí thức
con người thời ấy đã để lại trong học thuyết của các
ông những khiếm khuyết không
phải không căn bản. Điều trớ trêu nhất của lịch sử là
chính nhà triết học duy vật biện chứng và chống chủ nghĩa không
tưởng
lại trở
thành nhà
xã hội học
duy tâm, siêu hình và không tưởng rất điển hình. Những
kẽ hở ấy của học thuyết không phải không có những người
nhận
ra ngay
từ
đầu,và
cũng nguy
hiểm hơn
là cũng ngay từ đầu,nó bị cái mặt bản chất thiện của
con người lợi dụng,khai thác triệt để cho những lợi ích
và sự
nghiệp
cá nhân. Thế là xuất phát
điểm là tập thể mà lại thu được sản phẩm cá nhân cực
đoan. Xuất phát từ đạo đức
mà lại thu được sản phẩm phi đạo đức, chứ không phải
như sự ngộ nhận
của nhiều
người,rằng tình trạng phi đạo đức là do ta tôn thờ một
chủ nghĩa xã hội khoa học, quá đề cao lý trí nên hại
đến cái
tâm đâu!
Vấn đề là
chủ nghĩa xã hội
khoa học còn thiếu
khoa học, nhận thức chưa đúng qui luật, do làm sai qui
luật nên kết quả mới lộn ngược so với khát vọng.
Ở những năm cuối cùng của thế kỷ này,một đầu óc bình
thường cũng có thể được thời đại chỉ cho để nhìn thấy
sự thiếu
cơ sở khoa
học của
học thuyết
đó.Những
điều như thế chỉ có thể vạch ra rõ ràng bằng tư duy
hệ thống triệt để,mà ở một chừng mực nhất định tôi hy vọng
có thể
gợi ra được
những phần viết
sau
đây.
II- Suy Nghĩ về Bản Chất Con Người và Xã Hội
1. Con người khác với con vật, con người có sự tự nhận thức về mình,
về sự tồn tại của mình.
Điển hình cho cái nhìn con người một cách tự nhiên,
đơn giản là quan niệm con người của học thuyết Khổng-Mạnh
coi con người là đơn
vị cơ bản
cấu tạo nên gia đình,nhiều gia đình cộng lại thành quốc
gia, nhiều quốc gia cộng lại thành thế giới. Trong chuỗi
tổ chức ấy con người là những
cá nhân, với
tư cách là những đơn vị tự thân hoàn chỉnh,chiếm vị trí
gốc rồi toả ra xã hội. Thân có tu thì gia mới tề, gia
có tề
thì
quốc mới
trị, quốc
có
trị thì
thiên hạ mới bình được ! (lô gích này ta cũng gặp lại
trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:muốn xây dựng
chủ nghĩa
xã
hội thì trước hết
phải
có những
con người xã hội chủ nghĩa!) ấy là những con người nông
nghiệp, con người của cái tâm. Cái trí còn rất sơ khai,còn
cái lợi của cá nhân
thì bị nén
lại. Ngay khi hình thành quan niệm này về con người đã
gặp bế tắc. Tu thân đến như
đức thánh Khổng, đạo đức đến như đức thánh Khổng mà không
được nước nào dùng, các quốc đều bất trị, thiên hạ
thì bất
bình, bởi
mô hình
con người
đạo đức (homo ethicus) chỉ
là con người của qui mô gia đình, làng xóm. Một người
hướng về hành động như Khổng Tử mà quan niệm này của
ông thì thật là không tưởng. Bệnh xã hội chủ
nghĩa không tưởng của nhân loại có thể đã âm ỉ từ trước
công nguyên. Chủ thuyết là đức trị, nói dân là quí ,rồi
mới đến xã tắc, còn vua thì xem nhẹ mà trong
thực tế thì thang giá trị luôn lộn ngược trở lại. Nền
đức trị chỉ thịnh vượng khi có một minh quân độc
tôn. Nhưng bất kể triều đại nào quân cũng chỉ
minh được lúc đầu, sau thế nào cũng thoái hoá biến chất.
Chỉ có đám lê dân là ngoan ngoãn tu thân, còn những kẻ
thống trị thì chẳng thấy ông vua nào
theo được Nghiêu Thuấn cả! Dân bao giờ cũng ham mê cái
lợi và tôn thờ cái tâm, nhưng thấp cơ thua trí kẻ thống
trị. Các vị vua chúa đều hiểu rõ ba yếu tố
ở con người,nên muốn khống chế phần con thì dùng cái
lợi, muốn khống chế phần người thì dùng cái tâm và rất
ngại nâng cao dân trí. Cứ như vậy con người
đạo đức bị chế độ phong kiến và nông nghiệp giam hãm
hàng chục thế kỷ.
Khi CNTB hình thành, quan hệ sản xuất
công nghiệp làm cho nhận thức về con người rung chuyển
tận gốc.Một
mặt, tính
cá nhân
của con
người phát
triển
mạnh, nhất là con người của cái lợi,nhưng mặt khác sự
ràng buộc của các cá nhân trong
guồng máysản xuất và tiêu thụ của xã hội cũng ngày càng
chặt chẽ.Thế là con người nông nghiệp, con người cá
nhân của
chế độ phong
kiến bị giằng
xé
mãnh liệt theo hai chiều ngược nhau,chiều cá nhân và
chiều xã hội. Kết quả là đến
thế kỷ 19 đã bùng ra hai xu hướng ngược hẳn nhau về nhận
thức bản chất con người: con người của phái Mác xít và con người
của
phái hiện
sinh.
Nhận thức về con người của phái Mác
Xít
Ưu điểm nổi bật của trường phái này là phát hiện ra tính
xã hội của con người. Quan hệ của xã hội với cá nhân
không
phải là quan
hệ của
số tổng
và các số bị cộng mà là quan hệ điều khiển,chi phối :xã
hội quyết định con người.Tiếc
rằng Marx đã cường điệu tính xã hội này đến mức cho
nó choán toàn bộ nội dung con người, coi con người
chỉ
là tập hợp
(ensemble) của
các quan
hệ xã hội
(1). Khi đã định nghĩa con người như
vậy thì nếu rút hết phần xã
hội ấy đi,con người chỉ còn là con số zero,là hư vô!
Vậy là duy tâm,siêu
hình và phi lý! Song quan điểm cực đoan này không
dừng ở đó.Con người đã không còn thuộc tính cá nhân ,chỉ
còn thuộc
tính
xã hội,
nhưng
xã hội theo
quan niệm
của Mác chỉ là những cuộc đấu tranh liên tiếp.Ông nói
:Lịch sử tất cả các xã
hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp!
(2).
Qui tất cả mọi hoạt
động xã hội của con người thành hoạt động đấu tranh
giai cấp thì nội dung con người cũng chỉ thu vào trong
nội dung
giai cấp,có
bản
chất là
con người
giai cấp. Nhận thức này về con người là cơ sở để thiết
lập nên chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở để hoạch
định chương trình
cách mạng
vô sản và
xây dựng CNXH.Trong các tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác Lênin,phần lớn nội
dung là dành cho vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề con
người chỉ được nói tới một cách sơ lược.Sau này ông
Trần Đức Thảo
có thuyết
minh vấn
đề này
bằng quan điểm rằng :con người có hai bản chất : con
người giai cấp là bản chất
hàng một,con người nói chung là bản chất hàng hai.
(3). Việc tập trung tinh lực của con người vào cuộc giành
giật giai cấp,bỏ quên cả một thế giới phong phú nằm trong
cá
nhân và
không chấp
nhận có những
mặt của xã hội nằm ngoài giai cấp đã làm cho con
người trở nên nghèo nàn một
cách đáng sợ!
Học thuyết Khổng Tử lấy cá nhân làm
gốc,học thuyết Mác lấy xã hội làm gốc,nhưng gặp nhau ở một
yếu tố
chung
là đạo đức
(những
nhà
lý luận
Mác -Xít không
thừa nhận điều này). Nếu Khổng Tử lấy việc tu thân làm
gốc để toả ra làm tốt xã
hội, thì Mác lấy việc tu xã hội (làm cách mạng để thay
đổi quan hệ sản xuất )để mở đường cho việc làm tốt cá
nhân.Chỗ giống nhau
ấy là
do đều
xuất phát
từ tinh thần nhân văn cổ điển, coi con người là tính
bản
thiện, chỉ cần diệt điều ác (tu thân) hoặc diệt cơ chế
cá nhân (đánh
đổ CNTB) là
con
người hoặc xã hội sẽ trở nên thiện. Điểm giống nhau ở
tất cả
các trường phái nhân văn cổ điển là cần một đấng tối
cao tiêu
biểu cho
cái thiện
và toàn xã hội
chỉ được hướng vào đấng tối cao và chí thiện ấy thôi.Xã
hội bình trị của Khổng Tử sẽ được thực hiện nếu như
có một
minh quân
biết đặt
dân cao hơn
xã tắc ,xã tắc cao hơn ngôi vua.Xã hội ưu việt của Mác
cũng sẽ được thực hiện nếu có một đảng tiên phong chỉ
biết lấy
lợi
ích xã hội
làm lẽ
sống,ngoài ra
không còn một lợi ích riêng nào khác!(và sau khi dành
được quyền lực nó lại chủ động tổ chức xã hội sao
cho quyền lực ấy có thể tiêu vong dần đi!).Một đấng tối
cao lý tưởng như thế lúc nào cũng có mà lúc nào cũng
không có.Có,vì nó đã được trời hoặc lịch
sử trao sứ mệnh rồi, dân chẳng phải đi tìm,mà cũng chẳng
có quyền bầu chọn! Không có, vì giữa cõi trần tục này
kiếm đâu ra một thực thể lý tưởng phi lý
như thế?
Mác cũng như Khổng Tử đều không hiểu rõ con
người, đều mất cảnh giác trước mặt trái của con người, nằm
sẵn trong
con
người từ
bản năng xa
xưa,từ cõi
vô thức của nó. Quan niệm nhân văn cổ điển ấy nhân
đạo nhưng siêu hình,phi biện
chứng và cũng không duy vật nên dầu có được bổ sung bằng
hàng trăm giải pháp thực tế và dân chủ nó vẫn không thoát
ra khỏi
cái vòng
ảo tưởng
và độc tôn,độc
đoán.Xã hội đi từ cái tâm thì không tới được cái tâm.Trải
qua hàng triệu năm đau khổ con người mới nhận ra và buộc
phải chấp
nhận
cái nghịch
lý khó hiểu
và khó chịu đó.
Khi bàn về con người của phái Mác -Xít tôi không thể
không liên hệ đến con người của phái Khổng Mạnh mặc
dù có thể
Mác không
hề đọc
Khổng Tử.Trí
tuệ
luôn là cái chung của nhân loại,nó phản ảnh những giai
đoạn tất yếu của lịch sử tư tưởng nhân loại.Hai học thuyết
về
con người
ấy vừa
có chỗ
giống nhau
như in,vừa có chỗ ngược nhau,tương tự như phép biện chứng
của Mác Ănghen so với phép biện chứng Hegel vậy. Có thể
nói Mác
đã công
nghiệp hoá
con người
cá nhân đạo đức, nông nghiệp của đạo Khổng để nó trở
thành con người xã hội và con người kinh tế (homo
economicus)
trên cái
nền chung
nhân văn
cổ điển .
Nhưng,như đã phân tích ở trên,theo quan niệm của Mác
thì tính xã hội của con người là yếu tố quán xuyến,quyết
định. Khi
con người
đã
là con
người xã
hội thì yếu tố kinh tế của con người cũng phải mang
tính xã hội,do đó tư liệu sản xuất của con người cũng
phải
xã
hội hoá
, điều này
mâu thuẫn
với
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa tư bản,cho
nên phải phá bỏ chính chủ nghĩa tư bản để thực hiện sự
công hữu
hoá về tư
liệu sản
xuất.
Đến đây ta thấy xuất hiện những vướng mắc về logic:
-Mâu thuẫn giữa tính xã hội của sức sản xuất (trong
đó có con người ) và tính tư nhân của sự chiếm hữu
là mâu
thuẫn
xuất
hiện ngay
từ đầu của
CNTB,
ngay từ đầu đã khôngcó sự phù hợp giữa sức sản xuất
và quan hệ sản xuất thì CNTB phát triển sao được đến như
ngày nay?
Theo
Mác thì
mỗi phương
thức sản
xuất trong lịch sử đều phải có một giai đoạn hoàng
kim trong đó có sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản
xuất.Vậy CNTB không
có
giai đoạn
này
sao? Vai trò của CNTB nằm ở quãng nào?
-Có thực mâu thuẫn giữa tính xã hội và tính tư hữulà
mâu thuẫn loại trừ nhau không? Việc xác nhận mâu thuẫn
này có
trái ngược
gì với luận
điểm
cũng của
Mác về sự chín muồi và tan rã đồng loạt của CNTB trên
toàn thế giới không?
Nhận thức về con người của phái
hiện sinh
Hiện sinh không phải là một phái thuần nhất, nhưng
thống nhất trong xu hướng khám phá con người cá nhân
,và với
hướng này nó
đối lập
với tất cả
các môn phái triết học và tôn giáo trước nó và cùng
thời với nó.
Triết học và tôn giáo xưa nay đều đặt
cá nhân con người bên cạnh những cá nhân khác,với mối quan
hệ qua lại
và trong
trường tác
động của
các nguồn
sức mạnh
khác nhau như thần quyền,đức tín,lý trí,qui luật,đạo
đức,lý tưởng...nghĩa là có những điểm tựa cho con
người và không
thể có tự do hoàn
toàn cá nhân.
Thoát khỏi bao nhiêu trói buộc hà khắc
con người mới đạt tới độ tự do như con người của xã hội công nghiệp,lúc
ấy
con người
cá
nhân
mới có
điều kiện
và mới
dám nhìn vào bản thân mình,thấy mình hiện hữu và
có quyền chỉ huy con người mình.Nhưng trong khoảnh khắc
lịch
sử cởi trói
thiêng
liêng
ấy,cơn phấn
khích đã làm cho một bộ phận xã hội đi quá đà,ngỡ
mình đã được thả hoàn toàn tự do.Chủ
nghĩa hiện sinh là tuyên ngôn của con người cá
nhân,là một cuộc khởi nghĩa thất bại ,nó còn ấu trĩ nhưng
thiết tưởng chẳng
nên ruồng
bỏ,mà
chỉ nên thương
cho số phận con người (cũng như CN Mác -Lênin là
tuyên ngôn của con người xã hội!). Sự đối địch
giữa hai
thái cực của
nhận thức
là điều
dễ hiểu. Theo quan niệm hiện sinh,con người chỉ tồn
tại đúng như nó đang hiện hữu,như một thực thể đơn
độc riêng
biệt
bị vứt
vào trong
vũ trụ,nó
tự chiêm nghiệm,
tự hành động theo cá tính riêng của nó,rồi chết.Trong
trạng thái tự do không có điểm tựa ấy nó thấy mình
hoàn toàn
có quyền
chủ động lựa
chọn
con đường
anh hùng hay hèn nhát ,là con thú hay siêu nhân,hoặc
thờ ơ vô cảm hoặc chán chường buồn nôn .
Một bên
tự do đến mức chẳng thấy xã hội đâu cả,một bên lại
ràng buộc đến mức chẳng thấy cá nhân đâu
cả.Nói con
người
là sự tập
hợp tất
cả những
mối quan
hệ xã hội thì có nghĩa là mọi ý nghĩ và hành động
của cá nhân đều bị qui định bởi xã hội (xã hội
có giai
cấp thì
sự qui
định là do
giai
cấp!)không
còn có chỗ cho tự do cá nhân,tự do chỉ còn nghĩa
là tự giác làm theo qui luật,và trong bối cảnh
các quan
hệ
xã hội như nhau,không có cá
tính,như những đinh ốc trong một cỗ máy của công
nghiệp.
Một bên là sự lên tiếng của lý trí,ý thức,còn
một bên là sự lên tiếng của bản năng, tiềm thức,vô
thức,
siêu
thức.
Một bên muốn liên kết mọi người thành một tổ
chức để làm một cuộc cách mạng cho ngày mai,một bên
lại rũ
tung
những con
người
ra thành một
thế phân
tán vô tổ chức, vô mục đích, chỉ biết có hiện tại.
Đó là mâu thuẫn giữa người đang nhóm lửavà kẻ phá hoại vẩy nước lạnh vào.
Nhưng đối với chủ nghĩa tư bản thì cả hai con người
ấy đều là kẻ phá hoại.
Chủ nghĩa tư bản bắt
đầu phát triển đòi hỏi có một khái niệm con người tương ứng với thời đại
của
nó.
Chủ nghĩa Mác trả lời :Trong xã hội công
nghiệp con người phải la ø con người xã hội ,nó mâu
thuẫn với chủ nghĩa
tư bản nên
phải phá
bỏ
chính chủ
nghĩa tư bản đi !(Đây mới thật là gáo nước
lạnh đổ vào chủ nghĩa tư bản!)
Chủ nghĩa
hiện sinh trả lời :con người bao giờ cũng là con người cá nhân !Mặc xác cái
xã hội
vô nghĩa
của các
anh!tôi
làm việc
của tôi!
Cả hai câu trả lời đều negatif,chẳng câu
nào ủng hộ chủ nghĩa tư bản cả!Vậy mà chủ
nghĩa
tư bản
không bế
tắc,không
chết mà
phát triển
đến
ngày nay,và
phát triển như ngày nay! (Thực tế này không
hề chứng minh cho quan điểm rằng chủ
nghĩa tư bản là hoàn hảo,bất biến và vĩnh
hằng!).Bởi vì sao?Bởi lịch sử không chờ
các nhà lý luận
cho phép hay
không cho
phép nó.Ghép hai câu trả
lời negatif
nói trên đã thành một câu trả lời positif
cho lịch sử.Con người vừa là con người
xã hội vừa
là con
người cá nhân,hai
tính cách
đó
không
những không loại
trừ nhau mà còn là điều kiện của nhau.Muốn
xây dựng một xã hội đầy tính xã hội như
Mác mong muốn (và
như các
nước tư
bản tiền
tiến đang
đi tới
)hoàn
toàn không cần phá bỏ tính cá nhân và tính
tư nhân.Con đường xã hội
hoá không
phải là con đường xoá tư nhân mà là liên
hệ các tư nhân một cách xã hội!Sự liên
hệ đó gồm hàng
trăm
mối liên
hệ đa dạng
phức tạp,trực
tiếp
và gián tiếp,hữu
hình và vô hình,và hình thành dần dần,tương
ứng với trình độ khoa học của nền
sản xuất.Chủ
trương gom vào hợp tác.lấy qui mô hợp tác
xã làm thước để đo tính xã hội là hiện thân của một
ý niệm xã hội hoá còn sơ khai,cơ giới,thô thiển,phản
qui luật chứ không phải chỉ là sự nóng
vội.Một khi đã là điều kiện của nhau
thì sự thủ tiêu sở hữu tư nhân chính là
thủ tiêu khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Con
người và sở hữu.
Không thể hiểu hết con người nếu không
hiểu vấn đề sở hữu. Khác hẳn với con vật,nội
dung
con
người chỉ
xuất
hiện khi
xuất hiện
sự khẳng
định
cá nhân.Đó
là một trong những khác nhau căn bản giữa
xã hội và bầy đàn.Cơ sở vật chất của sự
tồn tại
con người
cá
nhân
là sở hữu
cá nhân và
sở hữu
tư nhân.Đây
là điều kiện tối thiểu để nó có thể tự
nuôi sống mình và độc lập tương đối trong
cộng
đồng.Cũng trên cơ sở
đó mà
nảy nở thành
nhân quyền,
dân quyền.
Nếu rút cái nền vật chất ấy đi mà còn đề
cập đến cá nhân,đến con người,đến nhân
quyền,dân quyền...thì
đích
thực là
người duy tâm
thứ thiệt rồi
chứ còn gì nữa?
Phạm trù sở hữu bao gồm
hai bộ phận :cái có và cái quyền.Có là
thực trạng sở hữu
đối với
các
tư liệu
sản xuất và
tư liệu tiêu
dùng cụ
thể,tiền và vàng cũng
thuộc bộ phận này .Quyền biểu thị khả năng
của cái có tất yếu sẽ chuyển thành hiện
thực trong
những
điều kiện
xác
định. Quyền
lực
chính trị,quyền
lực quân
sự...thuộc bộ phận này của sở hữu.Đối với
dân chúng thì quyền có thể được bảo đảm
bằng pháp
luật,nhưng
mức độ
bảo đảm này
tuỳ thuộc
vào nền
pháp
trị của
nước đó.
Hai bộ phận này của sở hữu có
thể chuyển đổi tương hỗ và tác động vào
nhau theo
quan hệ
tương sinh.Sự
chiếm
hữu
tư liệu
sản xuất
có thể tạo
ra quyền
lực rồi quyền lực lại làm gia tăng sự chiếm
hữu tư liệu sản xuất,bởi thế mối liên
kết giữa tiền và quyền luôn là mối nguy
hiểm nhất đối với công bằng xã hội.Muốn
chống
lại chỉ có
cách trung
lập
hoá và luân
phiên đối
với
quyền lực,nếu
không thì luật pháp cũng chỉ là hình thức.
Mác thật có lý khi truy sự bất công tới
tận hang ổ của nó là sự chiếm hữu,nhưng
hang
ổ đó có hai
buồng thông
với nhau
thì
ông lại
chỉ xử
lý có một.Mác
chỉ thực hiện sự chia đối với tiền (tức
tư liệu sản xuất )mà không chia quyền.Đấy
là một điều mất cảnh giác.điều thứ hai,tiền
sau khi chia lại đem tập trung lại thành
một cục,tức
là thủ
tiêu thành
quả vừa
đạt được,thủ
tiêu mất chính
cái hồn của sự công bằng.Thử hỏi cái gì
ngăn
không cho cái quyền lực
tập trung kia chiếm lĩnh lại cái tiền?
Quyền đem
tập
trung lại,tiền cũng đem
tập trung
lại,trao hết tiền cho quyền,với niềm tin
sắt đá rằng tiền sẽ được sử dụng công bằng!Chắc chỉ
có mẹ với
các con trong
gia
đình thì
may ra
điều ấy
mới thực
hiện được.
Mác đã sử lý rất không công
bằng đối với hai bộ phận của sự chiếm hữu.ở mặt chiếm
hữu tư
liệu sản
xuất
thì Mác đã
quá nghiêm
khắc,đáng
lẽ chỉ
nên chống
sự tập trung tư liệu sản xuất quá lớn thì
ông chủ trương xoá bỏ mọi sở hữu tư nhân,làm
mất
đi cái
động lực tự
nhiên của
đời sống.Với
quyền lực
xã hội
thì ông lại quá nuông chiều,cho nó quyền
chuyên chính với hy vọng rằng trong một
tương lai
xa xôi nó sẽ
tự tiêu vong.Chiếm
hữu quyền
lực mới
là sự chiếm hữu
triệt để nhất!Điều đó nhân loại đã có thừa
bài học,còn một thứ
quyền lực tự tiêu vong thì suốt lịch sử
hàng triệu năm chưa ló ra một tín
hiệu nào dể
dự đoán nó cả!
Tóm lại! khái niệm con người
không thể tách rời khỏi sự sở hữu.Sự sở
hữu tư nhân
về tư
liệu sản
xuất vừa
là cơ sở
vật
chất để duy
trì sự công
bằng
vừa là nguy cơ gây sự mất công bằng,đó
là hai mặt biện chứng của sở hữu.Sợ nguy
cơ phân hoá ,sợ qui luật thực tế ấy để
rồi
chọn một qui luật chỉ hình thành trong
ý tưởng,trong đó sự
sở hữu (lúc
này đã
là sở hữu
tập thể
)chỉ có mặt
tích cực,không còn mặt tiêu cực thì rõ
ràng vừa
duy tâm vừa không biện chứng.
2-. Xã hội
a. Xã hội là một hệ thống phân cực,không
phân tầng
Người là một sinh vật xã hội,tính có
tổ chức là một thuộc tính tự nhiên của
xã
hội nên
đương nhiên
có bộ
phận lãnh
đạo và bị
lãnh đạo,có
thống
trị và bị
trị.Chức năng thống trị đòi hỏi cực thống
trị những thuộc tính khác hẳn cực bị
trị.Trước hết nó là
kẻ thắng trong
một cuộc
đấu tranh
giành quyền
lực,có
năng lực tổ chức và có khả năng đưa cả
cộng đồng phát triển trong sự cạnh tranh
với các
cộng đồng
khác.Khi
xã hội cân
bằng,cái trí của xã
hội
tập trung ở cực
này. Ngoài sức mạnh của cái trí nó còn
sức mạnh của quyền lực và bạo lực để
duy trì sự ổn định của cộng
đồng mà
nó thống
lĩnh,đáp
ứng nhu
cầu chung
của
cộng đồng.Mặt khác,những người ở cực
thống trị cũng là những con
người cụ thể như nghìn vạn người khác,nên
họ không thể không có ham muốn
xử dụng tất
cả
sức mạnh nói trên để mưu lợi ích riêng
cho bản thân.Họ không thể không có những
ham muốn xử dụng mối quan
hệ tương sinh
giữa sự
chiếm hữu quyền lực
và chiếm
hữu tư liệu sản xuất và cuối cùng trở
thành những kẻ chiếm hữu lớn nhất và
hưởng thụ lớn nhất,trở
thành giai cấp thống trị đối lập với
giai cấp bị trị.Tính hai mặt ấy là chung
cho mọi nhà nước,xã hội càng dân chủ
thì càng nâng cao được mặt chung và hạn
chế được mặt riêng của nhà nước (chủ
nghĩa Mác coi nhà nước chỉ là sản
phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà ,chỉ là công cụ bóc lột của
giai cấp thống trị (4)là chỉ nhìn thấy
một mặt).
Cực bị trị gồm những người sản xuất ra
của cải nhưng bị thiệt thòi trong sự
ăn chia,lại
là số
đông,khát
vọng của
họ trở
thành khát
vọng của con
người nói chung trong xã hội.Vì thế cái
tâm tập trung ở cực này (5).
Sự chênh
lệch về mọi mặt đó tạo nên một thế hiệu giữa hai cực,mọi cá nhân trong
xã hội
giống như
những điện
tử chuyển
động qua
lại giữa hai
cực đó.Các
cá nhân có thể chỉ chuyển động trong
khoảng trung gian cũng có thể chuyển
hẳn từ cực
này sang cực
kia,nhưng nhìn cả hệ
thống
thì lúc
nào cũng tồn
tại hai
cực đối lập.Chỉ ở hai cực thì sự liên
kết giữa các cá nhân mới chặt chẽ đến
mức thành
một
giai cấp hẳn
hoi
để có sức
mạnh đối
chọi với
cực bên
kia. Còn
trong khoảng trung gian sự liên kết
rất lỏng lẻo, rất
phân ly và phân tán nên không kết thành
những tầng chặt chẽ
được.Một hệ thống
như thế
là một
hệ thống
cân bằng động,có tính chất phân cực
chứ không phân tầng.Sự phân
chia giai cấp chỉ áp dụng được cho
những người thuộc hẳn về hai cực,áp
dụng cho những
phần
tử trung gian là không thích hợp. Quan
hệ giữa hai cực là mối quan hệ biện
chứng,vừa tương sinh vừa tương
khắc,như
cực nam cực bắc
của một thanh
nam châm.Nếu
ghét
cái cực
bắc mà chặt nó
đi thì chính tại chỗ chặt sẽ là cực
bắc mới.Nếu ghét cực thống trị mà thủ
tiêu
nó đi cho hết bóc lột,để một cộng đồng
gồm toàn những người bị trị cũ tự quản
lấy nhau,thì
tại
chỗ tự quản
đó sẽ sinh
ra cực
thống trị
mới,giai
cấp bóc lột
mới.
b. Hệ thống tổ chức của xã hội
loài người
Xã hội loài người gồm đơn vị nhỏ nhất
là cá nhân,rồi đến gia đình,dân tộc,quốc
gia,nhân
loại. Xét
trên bình diện
tiến hoá
toàn nhân loại
thì cá nhân,dân
tộc và nhân loại là những đơn vị căn
bản,chặt chẽ và ổn định nhất.Gia đình
và quốc
gia là những đơn vị kém ổn định hơn
và ngày nay đã có xu hướng giảm bớt
ý nghĩa.Trong
hệ
thống
tổ chức
từ thấp
lên
cao ấy
không thể xếp
giai
cấp như
một đơn vị chính
thức (tôn giáo cũng vậy)nhưng quan
điểm cực
đoan về giai cấp đã khiến giai cấp
trở nên một siêu
đơn vị
,dường
như những
người
vô sản
trên thế giới
có thể tập hợp lại thành một quốc tế
,chia thế giới thành hai phe theo giai
cấp! Sự quan trọng hoá tinh thần giai
cấp khiến nó
trở nên như một lưỡi dao phân tuyến
trong mỗi cá nhân,mỗi
dân tộc,mỗi
quốc
gia
cho tới nhân
loại;một tinh thần giai cấp trùm từ
nhân loại xuống mỗi cá nhân!Mà thực
ra thì
giai
cấp chỉ là những tập đoàn người nằm
trong vòng tay của quốc gia,dân tộc.Đề
cao
kinh tế và lợi quyền
thì giai cấp sẽ quan
trọng ,đề
cao văn hoá thì dân
tộc sẽ quan trọng,đề
cao trí tuệ thì cá nhân và nhân loại
sẽ quan trọng,đề cao đạo đức thì gia
đình (thậm chí cả làng xóm,quê hương)
sẽ quan trọng.
Quốc gia cũng là một
đơn vị tổ chức rất cần quan tâm.Trong
nhiều thế kỷ
quốc
gia đã là
đơn vị
cơ bản nhất,nó gắn
liền với sự hoàn
chỉnh
về lãnh
thổ,quyền
lực xã hội ,văn hoá tư tưởng là khoảng
không gian mà một thiên tử trị vì.Sự
cách biệt
thông tin và
khó khăn
giao
thông đã
khiến quốc gia
có vẻ lớn
như một thế giới,và lòng yêu nước cũng
lớn lao như tình yêu nhân loại bây
giờ (và tất nhiên phải yêu thiên tử
thì thiên
tử mới công nhận cho là yêu nước!).Ngày
nay cùng
với sự phát
triển quá mạnh
của phương
tiện
thông
tin và giao lưu
quốc
tế,với kinh tế thị trường toàn cầu,với
quyền cư trú ở nước khác và quyền thay
đổi quốc tịch,và nhất là
với
sự phát
triển của
trí tuệ
là yếu tố
phi quốc gia,hình
ảnh quốc gia đã mất linh thiêng dần.Lòng
yêu nước vẫn còn được coi là đạo đức
nhưng không còn là chuẩn
mực
đạo đức
tuyệt đối
để có thể
phủ
định những
khát
vọng chân chính khác.ở những nước càng
văn minh thì ý niệm quốc gia càng giảm
phần quan trọng.Sự hợp
nhất về
một số
mặt của 12
nước trong
cộng đồng châu
âu hiện nay là báo
hiệu của xu hướng đó.Mọi vách ngăn
sẽ được xoá bỏ dần,và cuối cùng sẽ
chỉ còn
là những cá nhân sống trong nhân loại.Tính
đại đồng ấy là kết quả của sự hoà nhập
của các quốc gia chứ không phải do
sự liên hiệp của giai cấp vô sản
trên toàn thế giới.
Xu hướng lịch sử sẽ là như thế,nhưng
sẽ là sai lầm rất lớn nếu áp dụng vội
vàng
tinh
thần phi
quốc
gia ấy,nhất
là
ở những
nước mà
-cả về
nhận thức,đạo
đức và tâm lý -lòng yêu nước vẫn còn
là một chủ nghĩa có giá trị,tích cực,thậm
chí vẫn
còn là
nguồn sức
mạnh quyết định của
xã hội.
III-.Suy nghĩ về qui luật tiến
hoá nhân loại
Mọi người đều nhất trí
rằng :người là một loài thống nhất và chặt chẽ,đúng
theo tiêu
chuẩn
của một loài
sinh vật nói
chung.Về
mặt
di truyền học,các
cá thể trong loài có khả năng giao
phối
một cách tự nhiên và con cái sinh
ra vẫn giữ
được khả
năng sinh
sản bình
thường.Về sinh
thái học,quan hệ
trong nội
bộ loài là quan hệ hết sức đặc biệt,gồm
hai mặt mâu thuẫn nhau
một cách biện chứng :một mặt,sự đấu
tranh sinh tồn trong nội bộ loài
là khốc liệt nhất,bởi
nhu cầu về điều kiện sống của các
cá thể đều giống hệt nhau .Mặt khác
quan
hệ trong loài là quan hệ
hỗ trợ,giúp
nhau
đấu tranh
chống các
yếu tố bên
ngoài.Mặt hỗ trợ là mặt chủ yếu nên
mặc
dù có cạnh tranh nhau,thậm chí có
sự hy sinh
của một số cá thể,mà tất cả vẫn
kết thành một khối tiến hoá thống
nhất,kết
quả cuối cùng là cả loài
vẫn phát triển.Những
nội dung
ấy của học thuyết
Darwin về đấu tranh sinh tồn,về chọn
lọc tự nhiên và tiến hoá
khi đem soi rọi vào
loài người vẫn giữ nguyên những giá
trị quí báu của
nó.Nhưng trong hệ lý luận
của cách mạng vô sản
thì học thuyết Darwin cũng như nhiều
giá trị khác của trí tuệ nhân loại
đã không thoát khỏi số phận bị công
kích
kịch liệt (6)trước khi chuyển sang
trạng thái mặc nhiên thừa nhận.Chống
học thuyết
đấu tranh sinh tồn (và cả học thuyết
di truyền Mendel-Morgan )không ai
mạnh hơn Stalin,nhưng trong hành động
thực
tế thì không ai tiến hành đấu tranh
sinh tồn quyết liệt hơn Stalin,và
chính điều đó đã khẳng định giá trị
của học
thuyết Darwin rồi.
Song loài người là một loài sinh
vật đặc biệt ở chỗ có lao động sản
xuất
và có tư
duy,nên
hai điều
đặc
biệt
ấy không
thể không
làm cho
sự đấu
tranh sinh
tồn và tiến hoá của loài người có
những bản sắc riêng.
1. Những quan
hệ qua lại trong xã hội loài người
Loài người gồm rất nhiều cộng đồng
trên khắp địa cầu,và gồm không
biết bao nhiêu
thế hệ,
bao nhiêu
thời đại
kế tiếp nhau.
Những
quan hệ giữa
những người
đang sống cùng thời là những quan
hệ ngang,cũng tức là quan hệ trên
trục
không gian.Quan
hệ giữa các thế
hệ,các
thời đại
kế tiếp
nhau là quan
hệ dọc ,cũng là quan hệ trên trục
thời
gian,là quan hệ tiến hoá hay thoái
hoá.
a. Những mối quan hệ ngang
trong xã hội loài người
a1. quan hệ bóc lột và bị bóc lột Sản phẩm người này làm ra,người
kia chiếm đoạt,đó là biểu hiện
trực tiếp
nhất và
phổ biến nhất
của cuộc
đấu tranh
sinh tồn
trong xã hội.Sự
bất
công này hiển
nhiên là có liên quan đến sự chiếm
hữu tư liệu sản xuất.
Nhưng, ngay
cả khi địa chủ tư sản đã bị quét sạch,không còn chiếm
hữu tư
nhân đối
với
tư liệu sản xuất,chính
phủ chỉ
ngồi tính
các chế độ
tiền lương
để trả
cho cán bộ thôi cũng thấy đây
là bài toán không tìm thấy đáp số
trực tiếp
và chính
xác được.Bản
chất
của khó khăn
là ở chỗ
: khi đã sống
chung trong
xã
hội thì con người liên quan với
nhau và liên quan với xã hội
bằng vô số
những quan
hệ
chằng chịt,trực
tiếp
và gián
tiếp,trước
mắt và lâu
dài,hiện tại và
quá khứ...Tất cả những mối duyên
nợ rắc rối ấy không dễ gì mà
qui thành giá trị lao động (Như
Mác
đã tính
trong
cuốn
Tư Bản)để
thanh
toán sòng
phẳng
trong một cuộc phân chia sản
phẩm cụ thể được .Nhưng cứ giả sử là
đã
tìm
được một
phương án qui ước nào đó mà mọi
người thoả thuận là công bằng,thì
sự công bằng ấy mới là công bằng
chết
,vấn
đề là sự công
bằng ấy có
làm cho sản
xuất phát
triển hay không? Như ta đã thấy
sản xuất không phát
triển mà đình trệ thì rồi lấy gì để tiếp
tục chia nhau,và sự
công bằng
ấy trở
nên vô
nghĩa!Nhưng thực
tế lại còn xấu hơn thế
bởi sự tham gia của quyền lực
vào quá trình phân phối.Từ xưa đến
nay
quyền
lực tự nó không bao giờ chịu
đứng ngoài bài toán phân phối của kinh
tế,trước
sau gì nó cũng tìm được mẹo để
phân phối
lại !Thế là sự công hữu hoá về
tư liệu sản xuất đâu có chống lại
được bóc lột?Lúc
ban đầu,sự công hữu quả thực
có tạo được thuận lợi cho sự
phân phối công bằng nhưng lại
bất lợi
cho phát
triển sản xuất,và nếu không thiết
lập được cơ chế dân chủ cho xã
hội thì sự
công bằng tạo được lúc đầu sẽ
bị thủ tiêu ngay,mà sự tập trung
tư
liệu sản xuất luôn có nguy cơ
gây ra sự tập trung
tuyệt đối của quyền lực và cản
trở sự hình thành cũng như sự
hoạt động của
cơ chế dân chủ.
Tóm lại bài toán phân phối phải
là bài toán gắn liền với phát
triển sản xuất
và bài toán
dân
chủ (tức
sự phân
phối quyền
lực) thì mới
giải
được.Không thể lý giải cơ chế
của sự bóc lột chỉ bằng tính
toán giá
trị
thặng dư
trong một bài toán tĩnh và thuần
kinh tế như Mác
đã làm (chưa kể những yếu tố
thuần kinh tế trong bài toán
ấy cũng
chưa đầy
đủ).
Bài toán động và tổng hợp
ấy,nhân loại vẫn đang loay hoay
tìm cách
giải,nhưng
mô hình
thực tế
có nhiều
khả năng dung
hoà
được các
mặt đối lập hiện
nay là : Song song với thị trường
mua bán sản phẩm tự do là một
thị trường
mua bán
sức lao động tự do.Thuận mua!
vừa bán! Chính trong cuộc vật
lộn hoà
bình ấy
mà sự hợp
lý sẽ được xác
lập trong
từng thời
khắc,những
sản
phẩm và
lao động
kém chất lượng sẽ bị đaò thải.Xã
hội phải có luật cho kẻ bị thiệt
thòi có
quyền đấu
tranh,có
chỗ
đấu tranh. Cơ
quan quyền
lực cần
được tách
ra
thành
một sức
mạnh trung lập,được xã hội thuê
làm nhiệm
vụ trọng tài.Trọng tài chỉ cần thổi còi
cho đúng luật, ngăn
cản những tình
huống quá đáng,thực
hiện
một
số việc công ích (như giáo dục,y
tế,nghiên cứu cơ bản,bảo vệ môi trường...)tuyệt
nhiên không được tham
chiến
trực tiếp
để kiếm
ăn thêm,và cũng không
cần vận
động hay dạy dỗ bên nào cả.Một
thị trường
có tính nhân bản phải giải quyết
ngày càng tốt vấn đề sở
hữu của
người lao
động,bao gồm cả hai
mặt của sở
hữu
là mặt tư liệu sản xuất,tiền
vốn và mặt nhân quyền!
Một mô
hình sinh động như vậy chính là sự
thể hiện qui luật
đấu tranh
sinh tồn
vào
xã hội
loài người,trong
đó
sự chọn
lọc tự
nhiên và chọn
lọc nhân
tạo đã nhập làm một,và không
có nó thì sự tiến hóa sẽ ngừng.Thiên
đường
của
nhân loại sẽ là một trường đấu
lý tưởng,trong đó mọi đối thủ
đều
có
điều kiện phát
huy hết tiềm
năng,và
người
có trí
tuệ hơn,có
năng
lực hơn,
có ý thức
hơn...được đảm bảo sẽ thắng cuộc,sẽ
được hưởng thụ nhiều hơn(và được
duy trì nòi
giống
nhiều hơn?)...và
xã hội như thế mới là xã hội
không còn bóc lột !
Mô hình ấy
cho thấy trong sản xuất cũng
như trong phân phối
luôn cần
một không
khí đấu
tranh hoà
bình liên
tục,đấy chính
là linh
hồn của
cuộc sống.Cuộc
đấu
tranh không ngừng ấy chỉ là để
giải quyết mối quan hệ ngang,tức
là giải
quyết sự
công bằng
giữa những
người
đang cùng sống chứ không
phải đấu
tranh,như vậy là làm cách mạng
để tiến thẳng tới một xã hội
mới về chất .Bởi
không
nhìn
cuộc sống bằng con mắt biện chứng
sinh động nên ta coi phong trào
đấu tranh
của công
nhân
trong xã hội tư bản
là hiện
tượng bất thường,bệnh
hoạn,khủng
hoảng không lối thoát,nên quyết
làm một cuộc đấu tranh sinh tử
cuối cùng, một
mất một còn,để loại
trừ đi một
vế,để từ đó về
sau không
còn phải
đấu tranh
như thế nữa!Kết quả là đã tạo
được những xã hội ngưng trệ,tĩnh lặng
và bị mất
hồn.Xét từ quan điểm sống
là đấu tranh
(lời
Mác )mà nói
thì
đấu tranh
như
thế là quá tả ở đoạn đầu và quá
hữu ở đoạn sau.ở đoạn đầu thì gây ra
những khủng khiếp không đáng phải có
ở đoạn sau
thì xã hội lại quá im lìm bởi
ta đã tước mất vũ khí đấu
tranh hợp pháp của chính nhân
dân lao động.
a2. Quan hệ xâm lược
và bị xâm lược
xâm lược cũng là sự áp bức bóc
lột,nhưng khác với sự bóc lột
trong nước,sự
bóc lột ở đây
có ranh
giới quốc
gia phân
định
nên nhìn
thấy rõ ràng,không
cần lý luận hay tính toán gì
cả,vấn đề là ở tình thế và vũ
lực thôi.Sự
phán
quyết của nhân loại đối với quan
hệ dã man này
đã
rõ ràng,không có gì phải bàn.
Nhưng đứng ra xa để nhìn,ta thấy
trong những nguyên nhân có nguyên
nhân về
sự phát triển
không đều
của nền văn
minh giữa
các nước.Và
ngược với
ý đồ
của nước đi xâm lược,quan hệ
này tự nhiên biến thành một phương
thức phát
tán nền
văn minh nhân loại. Kết quả là
ở một mức độ nào đó,độ chênh
lệch
về
văn
minh giảm
đi,và
điều
này lại trở thành một
trong những
nguyên nhân
để
loại trừ
dần nạn xâm lược trong thế giới
loài người.
Từ lịch sử đau thương
của một quốc gia bị nhiều kẻ
thù xâm
lược nhiều
lần,kéo
dài trên
nghìn
năm chúng
ta rút
được bài
học gì?
Niềm tự hào về truyền thống anh
hùng bất khuất đánh ngoại xâm
là niềm
tự hào chính
đáng, nhưng,lần
này,anh
hùng
bất khuất
mà
lần sau,lần
sau
nữa...vẫn phải anh hùng bất khuất
,nghĩa là vẫn không thoát khỏi
nạn bị xâm
lược!Vậy thì riêng truyền thống
chống ngoại xâm của
một dân tộc không đủ để cứu dân
tộc đó ra
khỏi
nạn ngoại
xâm.
Trong khi nước Pháp đã có
nền văn minh Công nghiệp mà vua
Tự
Đức
còn coi lời
Nguyễn Trường
Tộ tả
cái bóng đèn
điện
là lời
sàm tấu
thì nước
ta thua
là phải,và
dân tộc đã phải trả giá 80 năm
nô lệ!Điều căn bản là dân tộc
ấy phải
nâng nền văn minh của
mình cho
ngang
tầm các
nước bên
ngoài.Điều thứ hai là
phải theo
đuổi một chính sách ngoại giao
rộng mở và nhân hoà,lèo lái tránh
xa các
vực
thẳm chiến
tranh.
Chiến tranh
đã nổ ra thì
dẫu bên nào
thắng,
hân
dân cũng
là kẻ chiến bại .
Ngày nay,cả
đến chủ nghĩa thực dân mới cũng
phải thoái lui nhưng
nguy
cơ xâm
lược không
vì thế
mà đã hết.Cách
xâm lược
hiện
đại của thời
kinh
tế thị trường
toàn cầu có những cách đi vòng
vèo và độc ác của nó.Khái niệm
độc lập
cũng
không thể hiểu
đơn giản
như trước, nhưng
cách chống xâm
lược từ
xa vẫn không
có gì khác hơn là xây dựng một
cộng đồng dân tộc văn minh,giàu
mạnh.Dân
không
có tự do,hạnh
phúc
thì cũng
không giữ nổi
độc lập cho nước.Nước không
độc lập được với bên ngoài thì
dân càng
không thể có
hạnh phúc, tự do.
Đánh giặc cứu
nước cũng là để giải quyết mối
quan hệ ngang,không
nên
gọi đó là
cách mạng.
Cách mạng
là
quan hệ dọc, quan
hệ tiến hoá,là
sự chuyển
xã
hội sang một phương thức sản
xuất mới cao hơn,chứ không phải
sự chuyển
một
nước bị
đô hộ thành
nước độc lập
(như một số
người hiểu
lầm ):Dân
ta vốn có truyền thống yêu nước
rất cao (còn
truyền thống cách mạng thì phải
nhận là
dân ta chưa có truyền thống ).Nên
đã làm nên thắng lợi của hai
cuộc kháng
chiến
vừa qua.Chiến
thắng
ấy không thuộc
phạm trù
của CNXHhay
CNCS.Nhưng
học
thuyết Mác -Lenin về chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản
đã tham dự vào
công cuộc giải phóng dân
tộc ở nước
ta và
một số
nước khác
theo một
cơ chế
riêng.
Một học thuyết có chủ
định là đưa giai cấp công nhân
đào mồ
chôn
chủ nghĩa
tư bản để
xây dựng
chủ nghĩa
xã hội
lại chỉ
có tác dụng
trong
việc đưa giai
cấp Nông dân đào mồ chôn chủ
nghĩa thực dân,phong kiến để
bước vào
ngưỡng cửa
của chủ nghĩa
tư bản.Ví dụ một
đoạn cầu
thang
được xây
ra nhằm để đi tầng 2 lên tầng
3 nhưng cuối cùng
chỉ giúp ích cho một số người
đi tầng 1lên tầng
2 thôi!Hiệu quả phi lý ấy lại
không phi
lý chút nào,bởi cái tầng 3 và
cả đoạn cầu thang
mới xây
kia đều
kết cấu bằng vật
liệu ảo.Hầu
hết
những
người
đã ở tầng 2 thì nhìn rất rõ điều
này,cá biệt có ai định đi thử
thì té ngã ngay.Nhưng
ảo ảnh ấy lại làm
nức lòng
những
người
đang đứng
dưới
tầng 1,khiến
họ bỗng
có sức mạnh thần kỳ để vượt cái
đoạn cầu thang gỗ cũ kỹ từ tầng
1 mà lên tầng
2,đoạn này trước đây
họ đã
cố leo
thử
nhiều lần
mà không
leo
được vì nó quá
mục nát và còn bị đám người trên tầng
2 dí đầu xuống nữa.Họ định xốc
thẳng một lèo lên tới tầng 3
(cho
bọn người đáng
ghét ở tầng
2 nhìn
thấy mà sáng
mắt ra ), nhưng vừa lên tới
tầng 2 thì họ đã thấy rõ sự thực.Dẫu
sao đứng được ở hành lang tầng
2 cũng tốt hơn rồi. Lịch sử đã
đi lên một bước
(tuy sẽ phải trả giá về sau!)
Ngoài tác dụng động viên,thu
hút của cái mục đích giả tưởng,học
thuyết Mác
-Lenin
đã cung
cấp cho
chúng ta
một phương pháp
thâm nhập,vận
động và tổ
chức quần chúng tuyệt vời và
nhiều
chiến thuật hữu hiệu mà trước
đây các cụ Phan
Chu Trinh,Phan Bội Châu, Nguyễn
Thái Học...chưa ai có.
Có thể
nói chủ nghĩa xã hội khoa học đã không thâm nhập được vào
nhân loại
bằng
con đường
khoa học,nhưng
bằng con
đường
của lòng yêu
nước thương
nòi
,chống phát xít,chống thực
dân, giải phóng dân tộc.
a3. Quan hệ hỗ trợ,hợp đồng
Nhìn nhân loại theo cả tiến
trình lịch sử lâu dài thì
không có
gì đáng bi
quan.Theo thời
gian, những
quan
hệ bóc lột
và xâm
lược ngày
càng
giảm đi
độ khốc liệt,trong
khi mối quan hệ hỗ trợ hợp
đồng là mặt chủ
yếu của quan hệ trong nội
bộ loài ngày càng phát triển
rất rõ.
Sự hỗ trợ, hợp đồng vừa xảy ra theo cơ chế vô ý thức,
vừa theo
cơ chế
có ý thức.Sự
khuếch
tán
văn
minh
là sự lan
toả tự nhiên
và liên
tục
không có bàn
tay nào xếp đặt.Thậm chí
như trên đã nói,hoạt động
xâm lược là hoạt
động
chống văn minh mà còn có
tác dụng khách
quan
là phát tán văn
minh.Ngày nay,sự phát
triển nhảy vọt của kỹ thuật
tin học đã cho con người
từ khắp các nẻo địa
cầu khả năng thông tin với
nhau một cách
tức thời.Thông tin quyết
định nhận thức,nhận thức
quyết định văn minh.ngoài
ra sự
giao lưu và hợp tác toàn
diện giữa
các quốc gia đã giúp nhiều dân
tộc rút ngắn những khoảng
cách thế
kỷ.Một nước từ chỗ còn chưa sản
xuất nổi một chiếc
đinh ốc nghiêm
chỉnh có thể bừng mắt ra
đã được xem truyền hình màu.
Sự giúp đỡ của những tổ chức
quốc tế,các chương
trình nhân đạo,các hoạt
động
tư nhân
bất vụ lợi...về
đủ mọi
mặt là biểu hiện
cao nhất,rực rỡ nhất của
quan hệ hỗ trợ,hợp
tác trong loài mà chỉ ở loài
người mới có được.Chính sự
giao lưu quốc
tế ngày
càng
mật thiết
đã giúp
nhiều dân tộc nhược tiểu thoát
ra được cái ách ngoại xâm,thậm
chí giúp cả một số cá nhân tiêu
biểu cho lương
tri thoát khỏi ngục tù của
đám độc tài trong nước.
Nếu diễn
thế văn minh trên địa cầu
có thể ví như một
vùng trập
trùng
có núi
cao và
vực thẳm
thì
sự bùng
nổ thông
tin và giao
lưu quốc
tế đã như
chiếc
xe ủi khổng lồ san đi phần
lớn những độ chênh lệch từ bao thế
kỷ.Nhưng
trớ trêu
thay,chiếc xe ủi hàng tỷ
mã lực này nhiều khi lại
mắc kẹt giữa
đám tơ
mành lửng
lơ,bùng nhùng,giăng
ra từ
chính lòng
người.Và
trong
một con
người
lại có thể có cả mấy cấp
văn minh cùng
chung
sống!Con
người không chỉ đơn giản
là nơi hội tụ của những quan
hệ xã hội.Bởi
thế sự hỗ trợ hợp tác dù
tốt đến đâu cũng không thể
làm
mất đi
cái qui
luật phát
triển
không
đều
.Mỗi quốc
gia có một số phận,nhân dân
nào thì số phận ấy.Bên cạnh
xu hướng khách quan
về sự hoà nhập văn minh
luôn tồn
tại những
rào cản
chủ quan mà
biểu hiện
cực đoan là khước từ văn
minh
b. Khát vọng, qui luật
và kẻ thù
Với những ai không tin ở
niết bàn,thiên đàng thì có
thể lấy
xã hội cộng
sản mà nội dung
là không
còn giai
cấp,không
còn bóc
lột,không cón nhà
nước,nhưng
của cải thì tuôn ra như nước
và hưởng thụ theo nhu cầu
để cân bằng
tâm linh.Tất cả đều rất tốt.
Nhưng khi trở lại cuộc đời thực thì những mục tiêu gần
gũi sẽ
bổ ích
hơn :Hoặc
là Độc lập
-Tự do -Hạnh
phúc
hoặc là
Tự do
-Bình
đẳng
-Bác ái
vv...Độc lập -Tự do- Hạnh
phúc là khẩu hiệu chính trị
có những ưu
điểm thực
tế nhưng
ít có giá trị trong nhận
thức,vì độc lập đã là yếu
tố nằm trong
tự do,tự
do đã là yếu tố nằm trong
hạnh phúc,
còn
hạnh
phúc thì quá chung chung.
Tự do -Bình đẳng -Bác ái
là khát vọng mang tính khái
quát
và khoa
học hơn.Từ
khát
vọng ấy đã
toả ra 3 con
đường xuất
phát
đi tìm hạnh
phúc:
-Chủ nghĩa Bác ái lấy bác
ái làm đầu,đó là con đường
của
các tôn
giáo.
-Chủ nghĩa Bình đẳng lấy
bình đẳng làm đầu,đó là con
đường
của chủ
nghĩa xã
hội
-Chủ nghĩa Tự do lấy tự do
làm đầu,đó là con đường của
chủ nghĩa
tư bản.
Trong cuộc đời thực
thì cuộc chạy đua đến hôm nay đã rõ
kết quả :chủ
nghĩa
Tự do
là đấu thủ
bị coi
là kém
đạo
đức nhất
đã dẫn
đầu!Xin
các nhà đạo
đức đừng thở dài! Tự do thắng
cuộc chỉ bởi vì chính nó
là qui luật đó
thôi.Chủ nghĩa xã hội
cũng như
mọi tôn giáo đều
có
tác giả,
đều do một
đầu óc nào
đó nghĩ ra.Còn cái gọi là
chủ nghĩa tư bản lại mang
một nội dung khác hẳn,nó
là toàn bộ cuộc đời thực
của thời đại,gồm tất
cả những người bình thường
của nhân loại
đang sống
theo
sự chi phối
tự nhiên của
qui luật.Nó
chẳng của
riêng
ai.Cho
nên ngoài những phút sống
riêng với tôn giáo của mình,tất
cả các tín đồ Kito,
hồi,phật... đều có thể
trở về với
nó một cách
tự nhiên
và
đương nhiên
.Chỉ
có những người của thế giới
XHCN là ly khai khỏi nó,
tuyên bố thù địch với nó,và
tự cấm mình không
được
trở về với
nó,tức là
không
được về
với nhân
loại nói chung ,mà thực tình
lại thường xuyên trốn
về với nó một cách lén lút!Nó
không hề là thiên đường,nó
có đủ mọi cái hay cái dở
của trần tục (nhất là
những
cảnh cá lớn nuốt cá bé )
nhưng thoát ly khỏi nó thì
mọi điều thánh thiện
đều vô nghĩa.
Tự do là bản
tính của tự nhiên.Có tự do
mới có phát
triển,trên
tiến trình
phát
triển
mới có
thêm tự do,mới
có bình đẳng
và có bác ái.Đạo
đức không
từ trên
trời rơi xuống mà là sản
phẩm hình thành dần dần trên
tiến
trình phát triển của
nhân loại.Đạo
đức phải được
nuôi trong
sự phát
triển,tiền đề của phát triển
là tự do.Nếu kéo dài tình
trạng
không phát triển thì qui
luật sinh tồn sẽ xé
nát lá cờ Bác ái và lá cờ
Bình đẳng ra từng mảnh.
Khẳng
định vai trò quyết định của
tự do và phát triển
không
có nghĩa
là
khi có
hai điều
kiện
ấy thì tự
khắc sẽ có Bình
đẳng
và Bác ái,mà
không cần đến
hoạt động khuyến thiện và
nỗ lực tranh đấu của con
người.Không thể
lấy khát
vọng thay
cho qui luật,nhưng
khát vọng đúng
sẽ xúc tiến
nhanh qui
luật.
Trên đường vô tận đi tìm
hạnh phúc,loài người có hai
kẻ thù
cố hữu là Ac
tâm và sự Ngu
dốt. Sự ngu
dốt bịt
mắt
ta,không
cho
ta nhìn
ra qui
luật,nhận
ra
con đường sáng.ác tâm ngăn
không cho ta đi vào con đường sáng
mà lôi ta
vào ngõ
ám muội.Hai kẻ thù ấy
là hai sợi
dây ràng buộc ta
vào cội
nguồn
dã thú
xa xưa.Mỗi nỗ lực vươn về
phía con người làm cho mối
ràng buộc ấy yếu
đi một chút.Cuộc
giằng
co
này là của
mỗi con người,với
sự chung
sức
của xã
hội.Trong cuộc chiến đấu
để tiến hoá ấy mỗi con người
đều là đồng đội của
nhau.
Nhưng khi hai kẻ thù
vô hình đó trong con người
thắng
thế thì chúng
làm
cho những
con người,
vốn là những
đồng đội,quay
súng
bắn nhau
và trở
thành những
kẻ thù hữu hình của nhau.Trong
tình thế đó,con người một
mặt phải không ngoan
tìm cách đưa
nhau ra khỏi
tình huống
ấy để
lại trở
về thành bạn,thành đồng
đội.Như vậy về nhận thức
phải hiểu kẻ thù chỉ là một
khái niệm có tính
chất
tình
huống,không có
ai trên
đời mà về
bản chất
là kẻ thù
của ai
cả.
Điều thật đáng tiếc là
học thuyết đấu tranh giai
cấp
đã coi sự
đối lập giữa
giai cấp
bị trị và
thống trị
là mối
quan
hệ thù
địch về
bản chất,một
mất
một còn,không thể điều hoà
,khoan nhượng (Engels còn
nhấn mạnh rằng điều này
thì bọn dân chủ tiểu tư sản
không
bao giờ có thể hiểu được
!)Như đã trình
bày ở phần
cấu trúc xã hội
:thống trị
và bị trị
chỉ là hai
cực đối
lập tất yếu
và thường xuyên của mọi cấu
trúc xã hội,vừa tương khắc
vừa tương sinh một
cách biện
chứng,không
bên nào có
quyền dùng
vũ lực đẩy
bên kia
ra khỏi
cộng đồng
thống nhất ấy. Không được
thủ tiêu đấu tranh,thậm chí
phải đấu tranh ác liệt,nhưng
rốt cuộc vẫn phải
đi đến
một phương
án dung
hoà,trong
đó có
quyền lợi mỗi
bên và lợi ích xã hội.Không
thể vì thực trạng ác liệt
hay vì sự thắng lợi của
một
phong trào tranh đấu hoặc
nhân danh nhân dân mà cho
phép một học thuyết được
tuyệt
đối hoá,bản chất hoá
khái niệm
kẻ thù,là
một khái niệm vốn
chỉ có tính
chất tình huống.Cơ sở lý
luận để người ta yên tâm
trong thái độ chuyên chính
cực đoan đối với kẻ thù
là cho rằng có một ranh giới
thật rạch ròi giữa ta và
địch,nhưng kẻ thù vốn
là một khái niệm có tính
chất tình huống nên thực
tiễn lịch sử đã cho thấy
một
quan niệm cực đoan về kẻ thù
bao giờ cũng bị lợi dụng
để trừng trị nội
bộ.
Quan niệm kẻ thù giai
cấp đã gây nỗi kinh hoàng,đã
tạo ra
một số
lượng kẻ
thù quá
đông, quá sâu,quá
lâu,đã
làm cho
chúng
ta bị
thất tán đi
không biết
bao nhiêu anh em,bầu bạn.Thật
nguy hiểm khi lòng căm thù
giai cấp được nâng lên
thành
một biểu tượng đầy
tự hào
của cái tâm
lẫn cái trí.Trong
cuốn Sicile,miền
đất dữ Mario Puzzo viết :Một
người tin vào đức hạnh của
mình thì có thể
nguy
hiểm tàn
bạo hơn
một người
tin vào
sự xảo quyệt của
mình.Bởi vì cơn
cám dỗ
của điều thiện đã cho người ta
sức mạnh và an tâm lao vào
sự tàn bạo mà vẫn tưởng
mình là hiệp sĩ của
cái
thiện!
2-.Mấy đặc điểm của sự tiến
hoá trong xã hội loài người
Sự tiến hoá loài người một mặt vẫn tuân theo những qui
luật
tiến hoá
trong giới
sinh vật
nói chung,một
mặt mang
những
đặc điểm
riêng do
chỗ loài người
biết chế tạo và sử dụng công
cụ và là sinh vật có trí
tuệ.
a.Trí tuệ là cốt lõi
của sự tiến hoá
Sinh vật thích nghi với môi
trường trực tiếp bằng cơ
thể nên sự
tiến hoá của
chúnh là
sự thay đổi
cấu tạo
cơ thể
để thích
nghi
cao hơn.Con
người
thích nghi
với môi trường bằng công
cụ và những sản phẩm do
mình chế tạo
ra (chẳng
hạn cần
bay thì chế
ra máy
bay chứ không
biến hai
tay thành
đôi cánh
)nên sự
tiến hoá ở loài người thể
hiện ở sự cải tiến công cụ,công cụ cải tiến được
là
do tiến bộ về trí tuệ.Điều
đó nay đã rõ như
ban ngày,chẳng cần phải
lý giải dài giòng. Nhưng
Mác lại tiếp cận với qui
luật
tiến hoá
từ cửa
ngõ
quyền lợi,nên
đi lòng vòng mãi vẫn không
thoát ra khỏi cái mê lộ (labyrithe)
của chiếm hữu,bóc
lột ,đối kháng giai
cấp ...Mặc
dù biết cách mạng
là sự chuyển
xã hội sang
một phương thức sản xuất có năng suất
lao động và chất lượng
sản phẩm cao hơn,nhưng
lại rút ra qui
luật :đấu
tranh giai
cấp mới
là đông lực
của phát
triển,và đi
đến kết luận :vấn đề quan
trọng nhất của mọi cuộc
cách mạnglà Chính quyền!Mặc
dù biết chỉ có đem toàn
bộ
hiểu biết của
nhân loại để
làm giàu bộ óc của mình
thì mới
trở thành người cộng sản
(Lenin),nhưng lại xếp trí
tuệ (khoa học tư tưởng...)
ở kiến trúc thượng tầng
là cái bị quyết
định bởi kết cấu kinh tế
của cơ sở hạ tầng và ngay
trong cái kiến trúc thượng
tầng kia trí tuệ cũng chỉ
có vai
trò hỗ trợ,còn yếu tố quan
trọng nhất của kiến trúc
thượng tầng vẫn là chính
quyền nhà nước!
Bức tranh cổ
động của xã hội
ắt phải vẽ anh công nhân đi đầu,tay
cầm búa,(đôi khi
cầm
chiếc gậy
chọc lò ),tay
kia
giơ cao chỉ
lối,tiếp đến
là chị nông
dân tay cầm liềm tay ôm
bó
lúa,tiếp đến là anh bộ đội súng
sáng
lưỡi
lê,và lấp
ló sau cùng mới là một
anh
nhỏ thó,lặc lè chiếc kính cận
trước mặt cuốn sách dầy cộp
ngang
hông,và chỗ đó hẳn là
nơi cất dấu
toàn bộ
hiểu biét
của nhân
loại để làm giàu cho bộ
óc của mình !.Tinh thần của bức
tranh và tinh thần
toát
lên từ nội dung
lý luận của
học thuyết là
hoàn toàn
nhất
quán.
Sự đi chệch hướng tiến
hoá ấy bắt nguồn từ những
khiếm
khuyết
thuộc
hai luận
điểm trung
tâm của
chủ nghĩa
xã hội khoa học
:Bản chất
bóc lột của
chủ nghĩa
tư bản là bóc lột giá trị
thặng dư,và đấu tranh giai
cấp là
động lực phát triển của
xã hội.Nội
dung cả hai luận
điểm ấy
cùng toát
lên một
điều là
chưa thấy
vai trò cốt lỗi của trí
tuệ trong quá trình tiến
hoá.
Vấn đề bóc lột giá
trị thặng dư
Chủ tư bản bóc lột công
nhân,điều này ai cũng công
nhận,nếu
nhận thức dừng
ở đó
thì không
có gì phải
bàn.Nhưng lý
giải cặn kẽ
sự bóc lột
ấy để tìm
ra điểm nút mới là điều
phái bàn vì nó quyết định
sự đúng
sai của
giải
pháp.
Những
công thức tính toán kinh
tế của Mác nói lên
điều mấu
chốt rằng
:Trong
quá trình
lao
động,người công
nhân đã tạo
ra cho
nhà tư bản
một số sản
phẩm có giá trị cao hơn
giá trị mà nhà tư bản trả
lại cho anh ta bằng tiền
lương.Một bên làm nhiều mà
hưởng ít,một
bên không làm mà hưởng
nhiều.Toàn bộ
sự hưởng
thụ của nhà
tư bản
có nguồn
gốc từ phần lao
động thặng dưcủa công nhân.Chỉ
có phá bỏ kiểu sản xuất
ấy đi thì người công nhân
mới hết bị bóc lột.
Khi
ta là người lao động làm
thuê cần đấu tranh
với chủ
đòi tăng
lương giảm
giờ làm
thì ta
thấy ngay
sự hợp
lý đanh
thép của
cách tính
toán và lập
luận ấy.Nhưng khi là người
có trách nhiệm phải tổ
chức sản xuất và
điều hành xã
hội thì ta thấy ngay rằng
vấn đề không phải vậy.
Sản xuất công nghiệp là
quá trình sản xuất mang
tính
toàn xã hội,trong
đó
cần sự tham
gia của
rất nhiều
thành tố
:tiền vốn
nói chung,nguyên
liệu,máy móc,người
quản lý ,qui trình kỹ thuật,
công nhân đứng máy,lao
động phụ giản
đơn...Sau khi sản xuất phải được
tiêu thụ và
lãi (hoặc lỗ )phải
được phân phối
cho tất cả các thành viên
tham gia.Đây là sự hợp
tác đa phương chứ không
phải
song
phương.Cách đơn giản hoá
để qui về song phương là
gượng ép.Và trong mối
quan
hệ đều phải có tính hai
chiều chứ không thể một
chiều
.Thật là phi lý khi trong
các thành viên ấy có một
thành
viên chỉ
biết tính
chi phí
calo
cho lao
động của mình và đòi cho
đủ còn sự thể toàn bộ ra
sao thì không cần biết tới.(quả
thực công nhân là
thành
viên thường
bị thiệt
thòi nhất,nhưng
không thể bênh
vực công nhân bằng kiểu
logic ấy ).Đó
là điều phức tạp nhất.
Trong sản xuất công nghiệp
thì sản xuất và tiêu thụ
gắn với
nhau một
cách hữu
cơ,nếu tách rời
ra thì
tính sao
được lỗ
lãi,nói chi đến sản
xuất mở
rộng hay
không mở rộng,mà mỗi thành
viên trong sản xuất đồng
thời cũng
là thành
viên trong
tiêu dùng.
Chưa thấy
mối tương
hỗ này nên
Mác đã dựa trên
thực tế lúc
đó mà tách tiêu dùng ra
khỏi sản xuất,thậm chí còn
đối lập nó.
Mác nghĩ rằng người công
nhân ngày càng trở nên xa
lạ với sản phẩm do
mình làm
ra,sản xuất càng
có lãi thì mình càng trở
nên bần cùng,sản phẩm sẽ
phải đổ đi và sản xuất
tư bản
chủ nghĩa không
thể tiếp
tục phát
triển.Nhưng
cuộc
sống đã
không chạy
vào cái ngõ cụt siêu hình
mà Mác tưởng tượng .Nhà
tư bản phải tính xem sản
xuất
cái gì và phải trả
lương
cho công
nhân ra
sao để chính
công
nhân ngày
càng mua được nhiều sản
phẩm,để nhà tư bản có thể
tiếp tục thu nhiều
lợi nhuận và tiếp tục mở
rộng sản xuất,và thực tiễn
đang là như thế.Sau một vòng
sản
xuất phải có lãi,đó là
điều kiện tất yếu để có tái
sản xuất,mở rộng,xã hội
nào cũng phải làm như vậy,và
tất cả mọi người trong
xã hội đều cần điều đó.lợi
nhuận sau sản xuất chỉ tạo
ra tiền đề để có khả năng
xảy ra bóc
lộtchứ không phải nguyên
nhân sinh ra bóc lột. Phân
phối có công bằng hay
không lại là chuyện khác,sẽ
nói dưới đây.Đó là điều phức
tạp thứ hai.
Điều phức tạp
thứ ba là cơ sở để tính giá
trị lao
động.Không riêng
gì lao
động của
công nhân
mà tất
cả các yếu tố tham
gia trong quá trình
sản
xuất,suy
cho cùng đều là sản phẩm
từ lao
động chân tay và trí óc
của con người.Những lao động
ấy có thuộc
tính hết
sức khác
nhau,
từ những
nguồn hết sức khác nhau,qua
những quá trình sản xuất
bằng những cách hết sức
khác nhau và tạo ra những
kết quả cũng hết sức khác
nhau.Không một phương pháp
nào,không một máy tính
nào
có thể giúp
con người tính
đúng được giá trị của tất
cả những
đóng góp
ấy trong sản phẩm.Nghĩa
là về bản chất thì khái niệm
công bằng hay hợp lý không
phải là những tiêu
chuẩn khách
quan có thực,khái
niệm
bóc lột
cũng
vậy.Mọi sự tính toán chỉ
là tương đối,và
chấp nhận sự tính toán
ấy hay không là do thoả thuận,do
qui
ước do
tương
quan cụ thể
tại thời
điểm
ấy quyết định.
Tương quan phân phối là
kết quả của cạnh tranh và
đấu tranh liên tục.Kết quả
ấy
thể hiện một phần trong
những
bộ luật,
khế ước,
thông lệ...
trong một cơ
chế xã hội càng dân chủ
thì sự phân phối càng có tính công bằng
hơn thôi,chứ không thể
biết đến đâu là có sự công
bằng đích thực.Vì thế khái
nệm một xã hội không còn người
bóc
lột ngườilà một khái niệm
không thể hiểu được.Chống
bóc lột bằng cách thực
hiện
quyền lực chuyên chính
và xóa tư hữu là giải pháp
hoàn toàn lộn ngược.Muốn
có sự công bằng tương đối
trong phân
phối (chứ không phải trong sản
xuất )thì một mặt phải
làm cho mọi người đều có
sở hữu tư nhân,một mặt
xây dựng cho xã
hội một cơ chế dân chủ pháp trị,chống
độc quyền đảng trị.
Điều
phức tạp thứ tư mới là quan
trọng hơn cả đối
với tiến
hoá.Theo
Mác thì
chỉ có sức
lao
động mới
có khả
năng tạo
ra giá trị cao
hơn giá trị
đã mua nó,và
lao động sống của người
công nhân là nguồn duy
nhất tạo
ra giá trị thặng
dư,vì thế chỉ có phần
vốn để mua
sức lao
động
mới là
tư bản khả biến ,vốn
để mua máy móc thì thuộc
về tư bản bất biến .Ta
tin ngay vào lập luận
ấy vì
quả thật
máy móc
dù tốt đến
đâu cũng
phải qua
bàn tay lao
động sống của
người công nhân mới ra
được sản phẩm.Nhưng một tư
duy như thế là cùng loại
với tư
duy rằng trong
một máy
truyền
hình màu
thì các
công tắc
tắt mở
là quan trọng hơn cả, không
có nó thì trăm nghìn linh
kiện hiện đại cũng chỉ
im lìm như chết!Khả năng
sản xuất tự
động đã giúp
những người không quen
tư duy nhận ra điều này.Một
thiết bị hiện đại
cũng có thể tạo ra cho chủ
nó một tổng giá trị cao hơn
nhiều
so với tiền
mua
nó chứ,có
thể chỉ sau
một thời
gian sản
xuất là thu đủ vốn,và từ
đó trở đi toàn bộ hoạt động
của nó là phần cống hiến
thặng dư cho chủ.
Trong sản xuất công nghiệp
thì trí tuệ mới là yếu
tố quyết định
và càng
ngày
càng trở
nên quyết
định
hơn,và
yếu tố
ấy chủ yếu
(cần nhấn
mạnh
chữ chủ
yếu ) không nằm trong lao
động sống của công nhân,dù đó là
công nhân
kỹ thuật.Tầm
trí tuệ của một quá trình
sản xuất công nghiệp
trước hết là ở qui trình
công nghệ.ở mức độ ưu việt
của
máy móc và
vật liệu
kỹ thuật,ở
trình
độ các chuyên
gia và kỹ thuật viên,ở
năng lực tổ chức và quản
lý... ở bề sâu
hơn thì trí tuệ đã kết
tinh
ở sự tập trung vốn,ở những
nghiên cứu cơ
bản,ở thông
tin,ở
năng lực tiếp thị,ở năng
lực dự đoán và chấp nhận
may rủi...nghĩa là ở toàn
những khâu trung gian,gián
tiếp,
ở lao động quá
khứ.Sản xuất
càng hiện đại
thì lợi nhuận càng được
sinh ra từ phần
tư bản mà Mác gọi là bất
biến.Và khi tính tiền công
mà nhà
tư bản
phải
trả cho
công nhân
Mác đã không
tính
đến cái giá mà người công
nhân phải trả cho nhà tư
bản vì điều này:năng lực
lao
động sẽ không là cái gì
hết,nếu không bán được nó
(7).
Trong một bài viết trên
báo nhân dân,tác giả đã công
nhận
:giá trị hàng hoá
được tạo ra
không phải
do
sức lao động
mà do cách
lao động!.Mà
cách
lao động
thì thuộc về qui trình
công nghệ,thuộc về những yếu
tố của
trí tuệ và
của chủ đầu tư
đã qui định,chứ đâu
phải tuỳ ý
người công
nhân?Khi phải
ở địa
vị người tổ chức xã hội
ta mới thấm thía cái cảnh:sức
lao động của xã hội
thì
cứ thừa ứ ra mà tất cả
cứ khoanh tay nhìn nhau
chịu đói,chịu thiếu.Tư
liệu
sản xuất
thì vẫn
là của
chung đấy ,cảnh
trấn lột nhau bằng
dủ kiểu thì
chỗ nào cũng có,nhưng tìm
một nơi bóc lột cho đàng
hoàng để bán sức lao động
thì tìm không ra,vì kiếm được
một người
có vốn lớn,một
qui trình công nghệ hữu
hiệu,một equipe đủ năng lực
điều hành,một
năng
lực dự đoán
và dám đương
đầu với rủi ro thì đâu
có dễ?
Vấn đề Đấu tranh giai
cấp là động lựccủa sự phát
triển
Hoạt động đấu tranh làm
cho một hệ thống tĩnh trở
nên
động,điều này
rất hợp với
thuyết tiến
hóa của
Darwin
nên mệnh đề
đấu tranh là
động lực
rất dễ
được mọi người thừa nhận.Mà
đấu
tranh trong một xã hội
có giai cấp thì
là đấu tranh
giai cấp chứ còn gì nữa?Cho
nên
chẳng ai nghi ngờ gì khi
kết luận rằng
:đấu tranh
giai cấp
là động lực phát
triển
trong
xã hội có
giai cấp!
Nhưng vấn đề
lại không phải vậy!Một
khi đã xác
định rằng
sự thắng
thua trong
tiến hoá
là sự
thắng thua
về năng
suất lao
động và
chất lượng
sản phẩm thì
những nhân tố của sự đấu
tranh ấy cũng phải là nhân
tố trực
tiếp quyết định
năng suất và chất
lượng chứ?Nhân
tố ấy không
thể là
gì khác ngoài trình độ
khoa học kỹ thuật,trình
độ tổ chức
quản lý...tức là trình
độ của trí tuệ.Vậy thì
sự thi đua trí tuệ hay
đấu tranh trí
tuệ mới
là động
lực của sự phát
triển,chứ không phải sự
đấu tranh giai
cấp!
Sự thắng thua về trí
tuệ quyết định trình độ
cả
một nền sản
xuất mới
là mối quan
hệ dọc
,quan hệ
tiến
hoá.Còn
hiện tượng
đấu
tranh giai
cấp chỉ
có tác
dụng giải quyết sự công
bằng trước mắt,tức thuộc
quan hệ ngang ,có
thể có ảnh hưởng
thúc đẩy đối với sự
phát triển,nhưng
không phải là động lực
trực
tiếp quyết định sự phát
triển,thậm
chí có khi nó làm hại cho
sự phát triển nữa.
Khi
cần nói đến Trí tuệ,đến
Tri thức tiên tiến thì
Mác lại nhập
nhân tố
đó vào giai
cấp công
nhân luôn
cho nhất
quán
:về lợi
ích thì giai
cấp công
nhân
đã đại diện cho lợi ích
chân chính của các giai
cấp khác,về
trí tuệ thì giai
cấp công
nhân lại
là tiêu
biểu cho phương
thức sản xuất
tiên tiến
nhất.Nếu
có một giai cấp đại diện
được cho cả quyền lợi lẫn
trí tuệ của cả nhân loại
như thế
thật thì
đúng đấy
là một
giai cấp
thần thánh.và đảng
lại là đội tinh
hoa nhất của giai cấp thần
thánh đó,thì nhân loại cứ
việc yên tâm mà phó thác
hết vận mệnh của mình,trao
hết tay
hòm chìa
khoá ,chẳng
cần gì đến
cơ chế
hãm cũng là điều đương
nhiên thôi!
Nhưng ý tưởng
lãng mạn ấy của Mác không
thể không
vấp
phải
một thực
tế là phong
trào
công nhân
tự nó thì
cùng lắm
cũng chỉ
dẫn đến chủ
nghĩa
Công
đoàn!,muốn
cải tạo thế giới cần phải
có lý luận, tức là cần
có ý thức
hệ viết
thành
chủ nghĩa,lý thuyết
này
lại phải
do những
người trí thức
hữu sản viết
ra .Sở
dĩ những người trí thức
hữu sản lại đi viết ra
tư tưởng vô sản (!)vì họ
đã biết
từ bỏ
giai cấp
của
mình để
đầu hàng
giai cấp
vô sản (!)
(trong khi
ở những người khác thì
lập trường giai cấp là yếu
tố mang tính bản chất,khó
thay đổi được (!). Chỉ
vì quá
thương
giai cấp cần
lao trong
buổi đầu
thối
nát của chủ nghĩa tư bản mà một đầu óc
như Mác bị sa vào cái màn
đại bi kịch của tư duy
như thế!
Chỉ có sự tích
luỹ và gia tăng không ngừng
của trí
tuệ,chỉ
có sự cạnh
tranh,cọ sát
của trí tuệ
mới làm
cho xã hội
trở nên văn
minh
hơn!
Đã có những lúc Mác tiến
sát tới chân lý đó.ấy là
khi Mác
nói :Lịch
sử của
tư duy
bắt đầu
từ đâu thì
lịch
sử của
xã hội loài
người
cũng bắt
đầu từ đó!ấy
là khi Mác phát hiện ra
tính năng động của xã hội
nằm ở
lực lượng sản xuất chứ
không
nằm ở
quan
hệ sản xuất.Đáng
lẽ
Mác phải nói tiếp :Trong
lực lượng
sản xuất thì tính năng
động phải nằm
trong bộ óc chứ không
ở chân tay được,và như
thế thì con người tiêu
biểu cho lực lượng sản
xuất
tiên tiến lại
không thể là giai cấp công nhân được!
Chỉ cần nhận thức chính
xác một điều ấy thôi thì
mọi
chuyện đều
thay đổi
hết :Đã
là Trí
tuệ thì
phải kế
thừa,tích luỹ
tiệm tiến
chứ không
thể dùng
đột biến
cách mạng để xoá bỏ,thay
thế.Phải là hoạt động của
những đầu óc cá nhân
trong sự hài hoà rộng
mở với
nhân loại
chứ không
phải vấn đề
giai cấp,không
phải
là sự đối kháng giữa hai
phe.Phải ở mặt trận kinh
tế, sản xuất,văn hoá
chứ không
ở nơi
chímh trị,tư
tưởng
và chớp
thời cơ giành chính
quyền (chuyện đánh giặc
cứu nước lại là chuyện khác
).
Phải là sự đấu tranh lâu
dài để ngày càng
công bằng hơn chứ không
phải phá bỏ cái phương thức
sản xuất công nghiệp đang
làm cho sản xuất phát triển.Phải
thực hiện
dân chủ
tự do để làm
xuất hiện và
chọn lọc các sản phẩm sáng
tạo của trí
tuệ chứ không phải dùng chuyên chính
công nông để xếp đặt mọi
việc của xã
hội trong
lòng bàn tay.Kẻ
thù chính
là sự kém trí tuệ nằm ngay
trong đầu mình chứ không
phải
bàn tay phá hoại của nước
này hay nước khác...Tóm
lại chỉ cần một điểm ấy
thôi đủ làm
sụp đổ cả học
thuyết xã hội của Mác -Lenin.
Theo Engels đánh giá,thì
học thuyết xã hội của Mác
ra khỏi
được tình
trạng không
tưởng
nhờ hai
phát
kiến
khoa học:khám
phá
ra sự bóc
lột giá trị
thặng dư và qui luật đấu
tranh giai cấp trong sự
phát triển duy
vật của lịch
sử (tất yếu dẫn đến chuyên
chính vô sản ).Song,
như đã phân tích ở trên,đây
lại chính là hai điểm thiếu
khoa học nhất trong
lý luận của Mác.Thế là
cái vòng không tưởng
như một
tất yếu
trong thời
đại của Mác
đã không
để cho
ông thoát
ra!
Ngày nay chúng ta biết
quá rõ rằng con người chỉ
có
thể tự
giải phóng
mình bằng
trí tuệ
của mình.Mỗi
phát
minh
về khoa
học (nhất
là khoa
học kỹ thuật
thông tin ) làm cho con
người trên toàn thế giới
có tự
do thêm một chút,sự ngu
dốt và
cái ác tâm phải
lùi thêm
một chút.
Chúng ta
biết rằng
Trí tuệ đang trở thành
yếu tố sản xuất trực tiếp,rằng
sinh quyển đang trở
thành trí
quyển ,rằng quyền lực xã
hội đang chuyển sang tay
Trí tuệ...nhưng đem những
điều ấy bổ sung vào cho
học thuyết
Mác thì có nghĩa
là phải thay
đổi tận
hòn đá tảng dưới cùng.
b. Nguyên
tắc quán quân
Nói về trình độ nhẩy cao
của một nước,một năm người
ta chỉ nêu kỷ
lục của người
đoạt giải
quán quân
nhảy cao
của nước
đó hoặc
năm đó,không
ai lấy
trình độ
của mấy chục triệu người
rồi chia ra lấy trung bình
cộng.Tri
thức cũng
vậy,một người tìm ra một
định luật
nào đó có nghĩa là loài
người đã có
tri thức
đó.Mức
độ văn minh của xã hội
được đo ở những đỉnh,trình
độ trí tuệ của một dân
tộc
được đo ở tầng
lớp
trí thức
của dân
tộc đó.Vì
thế xã
hội phải
chăm lo
sao cho xuất hiện được
những đỉnh ngày càng cao
và toàn xã
hội sẽ được hút lên theo
những đỉnh đó.Song tư tưởng
bình
quân của
chủ
nghĩa xã hội
trong
nhiều năm
đã chỉ đạo chẳng những
quan hệ kinh tế mà cả các
mặt xã hội khác,trừ lĩnh
vực
quyền lực.Không gian
xã hội
quyền
lực như
có một trường
hấp dẫn ngược
với sức
hút trái đất,con người
như bị hút lên cao, mà đã
lên thì khó đẩy xuống được.Mọi
thứ đều là của toàn
dân
,riêng quyền lực thì đảng
ta kiên
quyết không
chia sẻ với ai cả .Trong thế
giới của
quyền lực tập trung
thì những đỉnh caođiển hình hẳn phải là
Stalin, Mao-Trach-Đông,
Kim Nhật Thành,
Pôn Pốt...Thế là cái
gì mà qui luật yêu
cầu chia
ra thì ta đem
tập trung
lại,cái gì qui
luật yêu cầu tập trung
thì ta lại dàn đều ra.Bệnh
bình
quân
đã được
nhận
ra từ lâu,nhưng đỉnh cao không thể mọc lên
từ cái nền còn quá thấp
và căn bệnh bình quân vẫn
còn nằm trong gốc của
chủ nghĩa,tình trạng
lấy
cái thấp làm chuẩn để
gọtcái cao vẫn còn phổ
biến.Xã hội không thể lấy
điểm tựa ở sự bần cùng!
c. Nguyên tắc tích luỹ,
kế thừa và giao thoa
Đời sống động vật hầu như
cắt rời khỏi các thế hệ
trước nó
và các
thế hệ sau
nó (nhiều
lắm cũng
chỉ
là có mối
liên hệ
giữa
cha mẹ
với con
cái,con cái bắt
chước các tập tính và kinh
nghiệm của bố mẹ).Các thế hệ
nối tiếp nhau như
một đường
răng cưa
nằm ngang,mỗi thế hệ
lại bắt
đầu lại
từ đầu.Sự tiến
hóa
thường xuyên hầu như không
có,tiến hoá chủ yếu do
các đột biến trong nhiễm
sắc
thể,những
biến
đổi sâu
sắc
hàng
ngàn vạn
năm mới chọn lọc
được dẫn
tới việc hình thành loài
mới,loài phụ mới...
Loài
người thì khác hẳn,nền
văn minh từ các thế hệ
xa xưa cũng
được ghi
lại trong
các
sách vở,
công
trình,công cụ,đồ
dùng...
nên các
thế hệ sau
không
phải đi lại từ đầu mà được
đứng lên vai thế hệ trước
rồi tiếp tục đi
lên.Do sự
tích luỹ và kế thừa mà
thế hệ sau văn minh hơn
thế hệ
trước,trong khi cấu tạo
cơ thể vẫn không thay đổi
.Các thế hệ nối tiếp
nhau thành một
đường
thẳng đi
lên liên tục,xen kẽ với
những thời kỳ
nổ bùng cách nhau vài thế
kỷ, đó là những thời kỳ
chuyển
cấp
văn minh.Nhiều người
đồng
ý với nhận
định
rằng loài
người
có ba cấp văn minh là văn
minh Nông nghiệp,văn minh
Công nghiêp và đang tới là
văn minh
Tin học. Qui
luật phát
triển không
đều làm cho
cả ba
cấp văn
minh đều cùng tồn tại song
song và giao
thoa với nhau.ý thức của con người tác
động
vào qui luật theo cả hai
chiều kìm hãm và thúc đẩy,bảo
thủ và cấp tiến,nên tại
những điểm gối đầu và giao
thoa xã
hội phân
hóa
phức tạp và trăn trở dữ
dội.Có tình trạng trong một
nước,cái văn minh Công nghiệp
cùng một lúc bị
sự công kích theo hai chiều
ngược nhau của cả hai cái
văn minh Nông nghiệp lẫn
cái văn minh Tin học!Những
biểu hiện đặc trưng của
các phương thức sản xuất
hoặc của các nền văn minh
chỉ
rõ nét ở các nước tiên
phong,còn ở các nước hậu
tiến,do tác dụng giao thoa
nên các nền văn minh lai
nhau,mâu thuẫn
xã hội không được giải
quyết dứt khoát ,mà dai dẳng,pha
trộn phức tạp.Đặc điẻm
hậu tiến ấy cộng với tâm
lý châu á (sẽ phân tích rõ
ở phần về tính cách Việt
nam )đã tạo ra diện mạo riêng
của phương thức sản xuất
châu á,cũng như
phương thức đổi mới kiểu châu ácủa các
nước xã hội chủ nghĩa châu
á hiện nay.
Từ con thú hoang
dã lên được tới cấp văn minh
ngày
nay
là do con
người liên
tục
tích luỹ,liên
tục
kế thừa.Nhưng cách
đặt
vấn đề
của chủ nghĩa
Mác Lenin
đã chặn đứng sự kế thừa
đó.Từ học thuyết ấy toát
lên một
tinh thần
rằng :Lịch
sử chỉ đi
tuần tự
liên tục
cho
tới
khi có Cách
mạng Vô sản,từ Cách
mạng Vô
sản trở đi lịch sử sang
một kỷ nguyên khác hẳn.Cách
mạng Vô sản chuyên làm
những việc
chưa hề có
trong lịch sử.
Vấn đề chính
quyền là một ví dụ :Theo
chủ nghĩa Mác
thì
mọi nhà
nước từ
xưa đến nay
đều là
công cụ thống
trị
của thiểu
số đối
với đa số.Vô
luận
nhà nước
nào cũng đều không dân
chủ,đều không có tính nhân
dân (kể cả dân chủ đaị
nghị )
đều không tự nguyện
rời khỏi
vị trí,
và chỉ có dùng
bạo
lực cách
mạng mới
thủ tiêu nó được.Còn nhà
nước chuyeen chính vô sản
thì là công cụ thống trị
của đa
số đối với
thiểu
số,nên dẫu
chuyên chính
nó vẫn
dân chủ
gấp triệu
lần,không ai thủ tiêu nó
được nhưng nó sẽ tự nguyện
tiêu vong,rồi đây nó sẽ
tự xếp mình
vào viện bảo tàng đồ cổ,bên cạnh
chiếc xe quay sợi và chiếc
búa bằng đồng(8).Nhưng
điều quan trọng là
ở chỗ
này :trước
khi tự
tiêu vong
nó phải được tăng
cường sức mạnh để là một
chính quyền sắt có một bàn
tay sắt để diệt trừ chủ
nghĩa tư bản,...thẳng tay chấn
áp sự phản kháng của
bọn bóc lột,là bọn mà người
ta không thể nào tước hết
ngay
được tất
cả của cải của chúng,những
ưu thế của
chúng về mặt tổ chức và
về mặt hiểu biết (!),và do
đó trong một thời gian khá
dài chúng
không khỏi có những âm mưu nhằm lật đổ
chính quyền của những người
nghèo khổ...Và tất cả những
phần tử hủ bại của xã hội
cũ,nhất định là đang còn rất
nhiều và
chủ yếu đều có liên hệ
với giai cấp tiểu tư sản...(9)
Theo chủ nghĩa Mác thì qui
luật phát triển của
mọi hình
thái
kinh tế -xã
hội từ trước
tới nay
là :sức
sản xuất
phát triển
đến cực
độ sẽ
phá vỡ quan
hệ sản
xuất tương ứng, kết thúc
bằng việc giành chính quyền.Nhưng
riêng với xã hội xã
hội chủ nghĩa
thì :Quan hệ sản
xuất hình thành
trước,rồi mới mở
đường
cho sức sản xuất tiến lên
và giành chính quyền là
việc mở đầu!
Theo Engels
thì những điều trái ngược
ấy không có
gì là lạ.Engels
giải
thích :Cách
mạng cộng
sản là
sự
đoạn tuyệt
triệt để
nhất với chế độ
sở hữu cổ
truyền. Không có gì là
lạ nếu trong tiến trình
phát
triển
của nó,nó đoạn tuyệt
một cách triệt để nhất
với những tư tưởng cổ
truyền
(10).
Tư tưởng cộng sản
không muốn đứng chung với
ai
khác mình,kể
cả thầy
mình.Chúng
ta đã
hết sức
công phẫn
khi bị
xếp chung với
chủ nghĩa
tư bản trong
phạm trù xã hội công nghiệp
(mà thực ra ta đâu đã đạt
đến mức
đó!),lại hết sức nguyền rủa những ai bảo chúng
ta sẽ cùng với thế giới
tư bản
hội
tụ,hoà
nhập trong
một thế
giới
chung tốt đẹp!Và nực cười
nhất là
các nhà lý
luận Mác
xít lại cảm thấy bị xúc
phạm khi thấy
chủ nghĩa Mác bị người
ta hạ thấp thành một thứ
triết học về con người
là thứ
tầm
thường.
Bệnh biệt phái
và kiêu ngạo cộng sảnấy
đến hôm
nay vẫn
đang là
chuyện thời
sự.Ai dám
bảo là
ta đã hết
biệt phái
và kiêu
ngạo khi
ta đang
tuyên bố là
sẽ kiên trì đến cùng chính
cái chủ nghĩa đã là cội
nguồn của
bệnh biệt phái và
kiêu ngạo ấy? Và bây giờ
việc
xưng tên là nước xã hội
chủ nghĩa để
đi làm ăn
với thế
giới thì khác
nào bảo
người
ta rằng :các
anh hãy
chơi
với tôi
và giúp
đỡ tôi để tôi xây dựng
cái xã hội văn
minh gấp vạn lần các anh!
Do
nhạy cảm bắt được cái thần
ấy của chủ nghĩa mà
Tố Hữu
đã viết
nên câu
thơ ca
ngợi cách
mạng tháng
mười
:
Thuở anh chưa ra đời
Trái đất còn nức nở
Nhân loại chưa thành người
Đêm ngàn năm man rợ!
Khi nhà thơ viết những
lời trên thì anh (cách
mạng tháng
10)mới
ngoài
30(và tất
nhiên còn
cường tráng
chứ không
sa sút như bây
giờ),còn kẻ
bị nhà thơ
coi là chưa thành người
chính là cụ homo sapiens
đã trải
qua triệu
rưỡi
năm tiến
hoá với ngót ba tỷ cháu
con,trong đó có không biết
bao nhiêu là vĩ nhân!
Cái
yếu tố giúp ta có sức mạnh
để dám liều mạng ly
khai với
quá khứ
truyền
thống của
nhân loại
chính
là cái ảo
giác ngỡ
mình
đã được
hào quang của
tương lai dắt tay ,nghĩ
rằng cái đích sáng lạn
sẽ hoá
giải hết mọi sai
lầm,cứu cánh sẽ biện minh
cho phương
tiện.Nhưng luật tiến hoá
cho thấy rằng nếu
đứt mạch với quá khứ nhân
loại thì tương
lai chờ đón
chỉ có thể là sự hụt hẫng
xuống những thang
bậc thấp
hơn!
d.Những nguyên tắc tự do
cho con người
Nhìn bề ngoài
thì tính có tổ chức của xã hội dường
như được
quyết
định bởi
quyền
uy thống
trị và thái
độ phục
tùng của
dân chúng.Nhưng
chỉ cần
ngược dòng
lịch sử là thấy ngay tình
hình ngược hẳn lại.Quyền
uy thống trị
và sự phục tùng
của dân chúng
thì chẳng đâu
bằng xã
hội nô lệ
và xã
hội phong kiến,nhưng
đấy chính là thời kỳ hỗn
loạn nhất trong lịch sử
nhân loại.Những đám cướp
lớn,những
cuộc
chiến đẫm
máu tàn
sát hàng loạt người như diệt
kiến.
Quyền lực tối thượng
khi ấy chẳng qua là luật rừng,tức
luật trong tay kẻ mạnh
đặt ra để trị lại một
bản năng thú tính tự
do hoang
dã.ý
thức xã
hội của
kẻ thống
trị
lẫn kẻ
bị trị đều rất kém.
Để
thoát khỏi tình trạng đó
người ta tìm đến tôn
giáo,tác dụng
của tôn giáo
đối
với tâm
linh, đối
với giáo dục
không ai là
không thấy,nhưng
điều bất
ngờ là cứ ở đâu mà tôn
giáo nắm quyền toàn trị
là con
người
ở
đó trở nên cực
đoan.Không dung nạp được
kẻ đối lập
và con người càng tàn
sát nhau dữ dội.(Chẳng
riêng gì cuộc thập Tự Chinh
mà thế giới
hôm nay
cũng vẫn cho
thấy rõ điều đó
).Rồi các ý thức hệ khác
nhau xuất hiện.Nhưng ý
thức hệ nào cuối cùng
cũng bộc
lộ bản chất là những giáo
lý khoác áo khoa học ,nên
ý thức hệ trị hay đảng trịcũng không khác gì tôn giáo trị
,đều nằm trong quĩ đạo
đức trị,luôn có nguy cơ
chuyển thành cực trị(autoritarisme).Tại
sao vậy?
Bởi nền cai trị dựa
trên ý thức hệ hay dựa
trên giáo
lý tôn giáo
đều
có ba đặc
điểm
:
-Là tiếng nói nhân ái nên
chinh phục được lòng người.
-Chỉ chấp nhận một tiếng
nói chính thống đã linh
thiêng hoá và độc
tôn hoá ,không
chấp
nhận sự
bất đồng
chính kiến.
-Những chuẩn mực căn bản
đều nằm trong cõi tâm thức,không
ai nhìn
thấy,không
kiểm chứng
được.
Một nền cai trị như
thế sẽ đưa xã hội thành thiên
đường
lý tưởng
ngay
tức
khắc nếu
mọi người cùng
có tâm,đều
có ý thức,đều
hỷ
xả,đều sống
vì mọi
người,đều biết nghe lời
.nhưng chỉ cần lọt vào
đấy một tên
vị kỷ ma
giáo là cả
hệ thống vị tha ấy khó
bề chống đỡ,và
tất cả trở thành những
vật tế thần.Kẻ
gian
chỉ cần
thu mình
cho lọt cái
khuôn và
khi đã
lọt được rồi
thì xã hội
chỉ còn
là
con rối ngoan ngoãn trong
tay hắn,ba đặc điểm nói trên của hệ thống đã chuẩn
bị
đầy đủ điều
kiện
để hắn
hành sự rồi.
Không thấy
mặt tính bản bất thiện
luôn có sẵn trong
con
người cùng
với mặt
tính bản
thiện
,đó là gốc
rễ của lý
thuyết cai
trị duy
tâm siêu hình
này.Điều
quái ác của tạo hoá là
cả đàn cừu lẫn con sói
đội lốt
cừu
đều bỏ phiếu
cho phương
án duy
tâm này một
cách
đắc ý,đắc
thắng.Cái ruột
phi nhân sẽ phình ra,nằm
vừa khít trong cái
vỏ nhân trịnhư trong cái
áo vốn may đo
cho nó vậy.Sự đánh tráo
ấy có thể là do sự tính
toán từ đầu,nhưng cũng
có
thể đấy
chỉ là kết quả phát sinh
tất yếu từ những kẽ hở trong
nguyên lý,nhưng
kết cục cũng không khác
gì nhau.Kẻ thành công trong
sự nghiệp đánh tráo này
không
ai hơn được Stalin.
Trả
giá bao xương máu cho ảo
tưởng đức trị,con người
mới
nhận ra rằng
:Bất cứ
ai có quyền
cũng có xu hướng
lạm quyền,họ
xử
dụng quyền
tới
khi gặp phải
giới hạn (Montesquieu).Nền
pháp trị đã ra đời và trưởng
thành
trong ánh sáng
của nhận thức
ấy.Cái khó
là vừa
phải chống độc
tài vừa phải chống tự
do vô chính phủ (mà công
cụ chống tự do vô chính
phủ tiện lợi nhất lại chính
là
độc tài!).
Muốn vậy trước
hết những chuẩn mực phải
được luật
hoá hết,rõ
ràng,cụ thể,không có chuẩn
nào nằm trong
tim
trong óc cả.Luật
chỉ nói cái
cấm không được làm,ngoài
ra ai muốn làm gì thì làm,không
ai
được
nhân danh bất cứ cái gì
để can thiệp vào việc
của người khác mà luật
không
cấm.Việc ấy
chính
là dọn
sạch cái mặt
bằng cho con người được
tung tăng chạy nhảy và
không còn bụi rậm cho sự
độc
tài ẩn nấp.Điều
thứ hai là
cơ quan quyền
lực
phải do
dân bầu
ra một
cách
tự do và trực tiếp,và định
kỳ phải đem ra bầu lại.Song thế vẫn chưa đủ,quyền
lực
không thể nguyên đơn,tức
là không thể từ một nguồn.Tuỳ từng nước mà phối hợp
linh hoạt giữa chế độ lưỡng
đảng ,đa đảng
với chế
độ tam
quyền phân
lập để
sao cho có sự bảo đảm rằng
quyền lực vẫn được tập trung hữu hiệu mà sự sai trái của cá nhân hay một
bộ phận
không có
khả năng
kéo sụp cả
nền
dân chủ
công bằng tương đối mà
xã hội đã thiết lập được...
Sự tập trung,thống nhất
của nền pháp trị là sự
thống
nhất lành
mạnh bởi
nó là kết
quả đấu
tranh
của các
mặt đối lập,thế
là hợp
qui luật
biện chứng.Cái
gì tốt đẹp trong lòng ,trong
ý thức phải được vật chất
hoá thành
các cơ chế,thế
là duy vật.Trong quan hệ
xã hội pháp trị ,lòng tốt
phải trở thành
thừa.Dân
cử ra
chính quyền,nuôi
chính quyền,nhưng
yêu
cầu chính
quyền phải đứng
tách ra,đối lập với dân,người
dân sai là trừng trị thẳng
tay.Thế mới
là của
dân,do dân vì dân.Trong
hệ thống pháp
trị ấy các
đảng phái,các tôn giáo
cũng như các đoàn thể khác
đều là những tập hợp của
công dân,nằm ở phía dân,chỉ
lãnh đạo
trong nội bộ đoàn thể mình
,không
thể
nằm ở phía lãnh
đạo của
xã hội được.Lãnh
đạo của xã hội chỉ có thể
là các cơ quan quyền lực
do toàn dân bầu ra.Nhân
dân
không thể trao vận mệnh của
mình cho
một tổ chức
mà nhân
dân không
khống chế được.Nếu một
đảng nào đó được hiến định
là lãnh đạo xã hội thì
xã hội
ấy không tài nào trở thành
một xã hội pháp trị được,quanh
quẩn rồi lại trở
về với văn minh đức
trịtức văn minh nông nghiệp
,về lâu dài
không thích nghi được với
công nghiệp hoá và kinh
tế thị trường.
Tóm lại tự do chẳng những
là khát vọng của con người
mà
cũng là qui
luật của
tiến hoá,bởi
tự
do của các
cá nhân
và sự
giảm tự do
của
các quyền
lực thống
trị chính là điều kiện
cho tính có tổ chức của
xã hội,làm cho
xã hội
ổn định,ổn
định nhưng không
tĩnh
mà phát triển.
e.Nguyên
tắc không thể tự do trước
qui luật.
Càng được tự do trong xã
hội,càng phát triển nhận
thức,con người
càng hối
hận rằng mình
đã đối xử
với qui luật
quá tự do.Qui luật
là sự ràng
buộc
vô hình
nhưng không cho ai chốn
thoát (nên mới thành qui
luật),không
cho ai
ăn gian .Một
khi ta đã đi trật qui luật,rẽ
vào lối sai thì
sớm muộn
gì
cũng phải
quay trở lại,giải đúng
cái bài toán
mà ta đã bỏ qua,dẫu sự
bỏ qua ấy là cố ý
hay chỉ là sự vô tình.
Một học thuyết nếu đã có
sự sai lầm ở nơi gốc rễ,ở
tư duy
chiến
lược
mà không
chịu
sửa đổi
chính sai
lầm ấy,lại
tìm
cách bù
trừ bằng
sự khôn
khéo ở trên
ngọn,bằng sự tài tình chiến thuật
thì chẳng những mất công
vô ích
mà còn
bị qui luật
bắt phải trả
giá,bởi tất cả những
bù
trừ ấy đều là
bù trừ
không
thích đáng.
Một chân lý
khi được phát hiện sẽ châm
ngòi cho nhiều
phát
hiện khác
kế tiếp
nhau nảy
nở theo
phản ứng
dây truyền,nên
chân lý
bao giờ
cũng đơn
giản nhưng
lại phong phú và nhất quán.Trái
lại một lý thuyết ngay
từ đầu đã chệch thì
càng suy
luận,càng va
chạm với
thực tế sẽ
càng
bế tắc,mỗi lần bế
tắc lại
cần một kiến giải riêng
cho thích hợp.Cuối cùng,khi
tập hợp lại sẽ thành Thên
kinh vạn quyển với đầy
đủ mọi tình
huống,không sót một kẽ
hở nào,nhưng khi xem kỹ
lại
thì phần này phủ định phần kia,lúc
nói
xuôi,lúc
nói ngược.Người nào áp dụng
lý thuyết ấy sẽ mất tính
tự chủ,lúc nào cũng
phải mở cẩm
nang tra cứu mà khi thất
bại vẫn nghĩ là mình không
theo đúng cẩm nang chứ
cẩm
nang
thì câu nào cũng nói rồi.
Đã thuộc qui luật thì nhất
định vấn đề gì chưa giải
quyết nhất
định nó
vẫn quanh
quẩn
đâu
đó thôi.Sở hữu tư nhân
về tư liệu
sản xuất
vốn là
một tồn
tại tự nhiên,nhưng chúng
ta dùng quyền lực để thủ
tiêu
nó.Thế là
nó chui vào ẩn ngay trong
quyền lực,từ
đó toả ra,ngấm ngầm
chiếm lấy mọi thứ tư hữu
khác.Sau mấy chục
năm xây
dựng chủ nghĩa xã
hội,cái tư hữu
tưởng đã
chết mục xương
ai ngờ bây giờ bầu đoàn
thê tử của nó từ đâu chui
ra đông thế,mà đều khoẻ
mạnh
cứ như thể vẫn được nuôi
dưỡng trong lầu
son
vậy?
Lại đến chuyện thời
sự về nhà đất.Nghĩ rằng,giấy
rách
phải
giữ lấy lề
nên ta phải giữ nếp
của CNXH:đất phải
là chung
của quốc
gia,ai
bán sẽ
nghiêm
trị.Nhưng rồi chẳng ai
thèm ngạc nhiên khi thấy
hai ngôi
nhà hệt
như nhau
mà giá
bán hơn nhau tới chục lần,vì
lẽ một mét đất ở mặt tiền
thì đắt gấp
mười mét
đất ở
trong hẻm.Thế
là dân
vẫn chấp
hành nghị
quyết
mà vẫn
bán được
đất.Nếu có ai hoạnh hoẹ
gì thì người bán đất kia
sẽ nhẹ nhàng đáp lại:Đất
đai của vua Hùng
để lại mà người ta mượn
tiếng quốc doanh,người
ta bán cả quả đồi cho nước
ngoài lấy
puộc boa đút túi
còn chưa
phải chuyện
to,chứ tôi
có bán
mấy chục
mét đất của bố tôi để lại cũng
chỉ là bán cho bà con trong
phố...
Cha ông chúng ta
ngày xưa chắc ít khi nói
đến chữ
qui luật
nhưng xem
ra các
cụ hiểu
qui luật
lắm.
Một anh chồng nọ nói
khoác với vợ về một con rắn khổng
lồ mà
anh ta
đã đo
được bề
dài chừng
ấy,bề
rộng chừng
ấy hẳn
hoi.
Chị vợ
biết chồng
nói
khoác
bèn cứ
lấy cái lẽ của đời
thường mà tấn công vào
cái chiều
dài
vô
lý của con rắn.Anh
chồng
buộc
phải lùi một
bước,... một bước,rồi...lại
một
bước
nữa,lùi mãi
để con rắn ngắn bớt dần
đi cho đỡ chướng.Mỗi
lần bị tấn
công anh
lại lùi một
chút,và lại cố tình nói
cứng như đinh đóng cột,với hy vọng vợ sẽ
chấp nhận cho.Nhưng đâu
có được, cái lô gích
của quiluật cứ phải
chạy
tiếp cho
tới khi con rắn nói khoác
phải vuông chành chạnh
mới hết chuyện được.
Nghe chuyện con rắn vuông
ấy mẹ tôi, lúc còn sinh
thời,chỉbình một câu:Thật
khổ
cái anh
chàng cố
đấm ăn xôi,biết
vợ không tin rồi
thì cứ nhận luôn
một câu rằng :ừ,thì tôi
cũng
nói
khoác với u nó một tý
có phải
là yên chuyện
không?
Ôi, có phải cái tâm lý
vừa lùi vừa cầm cự đến
cùng trước
qui
luật kia
lại cũng
chính
là một
qui luật?
Ghi chú:
(1) K.Marx viết trong
luận cương VIvề Feurbach
.
(2) K.Marx,viết trong
Những người Tư sản và
những người
Vô sản
.
(3) Trần Đức Thảo,Vấn
đề con người và chủ nghĩa
lý luận
không có con
người, nxb Tp
Hồ Chí Minh
1988.
(4) V.I.Lenin,tuyển tập,nxb
Tiến bộ Mãtcơva.tr.306-315.
(5) Đây là sự mô hình
hoá cho một xã hội đang
ở trạng
thái
cân bằng.Sự
phân
bố này
luôn thay
đổi,nhất
là
ở những thời
kỳ có biến
động xã hội.ở
đây chưa
thể trình bày kỹ hơn.
(6) Engels viết :Toàn
bộ học thuyết Đấu tranh
sinh
tồn của
Darwin chẳng
qua chỉ
là việc
chuyển cái
học thuyết
cuộc
đấu tranh của
tất cả chống
lại tất
cảcủa Hobbes và học thuyết
kinh tế tư sản Malthus
từ xã hội loài
người sang
thế giới
sinh vật.Một
khi đã làm
cái
trò ảo
thuật đó rồi thì có
thể rất dễ
chuyển một lần nữa những
học thuyết về lịch sử của
giới tự nhiên ấy thành
lịch
sử của
xã hội
loài người...(Biện
chứng của tự
nhiên,nxb Sự thật, Hà
Nội, 1971,tr500)
Stalin viết :Chủ nghĩa
Darwin còn phủ nhận cả
quan điểm
phát triển,biện
chứng,và
cách
mạng
nữa!(Stalin
toàn tập,quyển
1,tr,309)
Trích từ cuốn Nguyên
lý chủ nghĩa Darwin(khu
học
xá Trung
ương,1955):
-Dưới ảnh hưởng của những
tư tưởng của giai cấp
tư sản,Darwin
thậm
chí không
muốn biểu
lộ ra
một ý nghĩ,hành
động cách
mạng nào(tr,125).
-Cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng mười đã đẻ
ra LX...LX
đã sáng
tạo ra một
môn khoa
học
mới :chủ
nghĩa Dac
Uyn Xô viết,để
cải
tạo thiên
tính của
sinh
vật một cách có kế hoạch,
đẩy mạnh công cuộc kiến
thiết chủ nghĩa
cộng sản...thực
hiện
kế hoạch cải tạo thiên
nhiên
Stalin vĩ
đại!(tr,17-18).
-Viện sĩ Lít -Xen -Cô
cũng như Mít -Su Rin...đã
hoàn
thành được
nhiệm
vụ mà
đồng chí Stalin
đề ra...(tr,225).
(7) Sismondi,Nouveaux
pricipes d'Economie politque.
(8)V,I,Lenin,tuyển tập
tr,306-390
(9)V,I,Lenin,toàn tập
tập 27 nxb sự thật HN
1971
tr,331-347.
(10)K,Marx F,Engels,tuyển
tập,tập 1 nxb Sự thật
HN 1970,tr,49-50.
IV.
Suy nghĩ về tính cách Việt nam
Muốn hiểu được những
gì trên đất nước ta,
muốn
có một
dự đoán và
một cách
ứng xử
thích hợp
thì bên
cạnh sự
hiểu
biết về những
quy
luật chung
không
thể không
hiểu rõ những đặc điểm
riêng của con người Việt
- Nam. Để
khỏi rơi vào những ý
kiến chung chung
vô
bổ như
dân ta vốn
anh
dũng cần cù,
yêu chuộng
hòa
bình, chính nghĩa...,
cần xem xét hành động
và tính
cách con người từ nguyên
thủycủa nó, từ quá trình
nhậ thức,
từ xa về gần,
từ người đến ta một
cách đại lược.
1. Đông,
Tây: hai con đường tới
nhận thức,
hai cách
ứng xử
Sự vật vốn tồn tại 'như
nó vốn có', cái 'vốn
có' bên
trong ấy
con người
không
thể trực
tiếp nhận
biết được.
Muốn nhận
thức
phải dùng
khoa học
thực nghiệm
để 'chẻ' sự vật ra, cắt
đứt một số mối quan hệ
bên trong
và bên ngoài
của nó,
thậm chí
phải
làm cho
nó ngừng vận
động... để quan sát,
thử
nghiệm. Đấy là
sự phân tích, là 'bóp
méo' sự vật, đưa nó về
phạm trù nhận thức tĩnh
và
siêu hình, để bắt buộc
nó bộc lộ các thuộc tính
bên trong, cung cấp cho
ta
những
tri thức cụ thể, nhờ đó mà ta biết
cách tác
động vào nó, làm
nó biến đổi theo hướng
có lợi cho con người. Quá
trình này, về tưduy
là 'tĩnh',
là
'siêu hình',
nhưng về hành vi thì
lại rất động, có tác dụng
chinh phục tự nhiên để tạo
ra
của cải vật chất là nhân
tố căn bản
tạo dựng
các nền
văn minh.
Con người
của
thế giới Âu Tây mạnh
về mặt này. Nhưng muốn
có được quan niệm đúng
về sự vật
như nó vốn có thì bên
cạnh quá trình
dùng thực
nghiệm
để giải
phẫu nó ra lại
cần đến một quá trình
khác, trong đó ta dùng
tư duy để 'khâu' các
phần rời
rạc lại, khử 'độ méo'
đi, cho nó vận động giữa
các mối liên hệ
tự nhiên của nó. Về tư
duy như vậy thì rất 'động'
và biện chứng, nhưng
về thái
độ đói với tự nhiên thì
lại tương đối 'tĩnh'
vì nó tôn trọng tự nhiên,
con
nhười tìm cách thích
nghi
với thiên nhiên để tồn
tại hơn là cưỡng bức,
chiếm đoạt.
Hệ ứng xử này có lợi
cho văn hiến, nhưng không
có
khoa học thực nghiệm
làm cơ sở thì khả năng
sáng
tạo ra của cải
vật chất theo nhu cầu
ngày càng phát triển
của con
người lại bị hạn chế. Con người của thế giới A' Đông mạnh về
mặt này.
Hai lối tư duy,
hai cách ứng xử khác
nhau ấy có
nguồn gốc
xa xưa
từ cuộc
sống nông
nghiệp
(mà chủ
yếu là
trồng trọt)
và
cuộc sống
du mục.
Từ nhận thức
ấ ta có thể cắt nghĩa được những
cách
biệt
trong tính
cách Âu Tây
và tính
cách A' Đông:
- Âu Tây ăn nhiều chất
thịt, sôi nổi, hướng
ngoại, ưa
nguyên tắc,
khúc chiết,
biểu
lộ, thích dùng
sức mạnh,
trọng võ,
trọng nam tính,
cứng
rắn, duy lý,
giỏi tổ chức, giỏi
kỹ thuật và khoa học
thực
nghiệm,lập
nên
các triết
thuyết
giầu tính phân tích, siêu
hình, cực đoan.
Phương
châm ứng xử là ở thế công,
cốt ở phát triển: chọn
lọc, loại
trừ, cực
đoan.
A' Đông ăn nhiều rau
quả, ngũ cốc, trầm
lắng, hướng
nội,
ưa linh hoạt,
tùy tiện,
thích
dùng tình cảm,
trọng văn,
trọng nữ tính,
mềm mỏng,
duy cảm, giỏi
thuyết phục, giõi về
thơ, giỏi toán và các
khoa học
trừu tượng,
lập nên các triết thuyết giầu
tính tổng hợp, biện chứng,
trung dung. Phương châm
ứng
xử là ở thế thủ, cốt ở
bảo tồn:
dung nạp, nhu thuận,
trung dung.
Tóm lại có thể thấy
một điều kỳ diệu là
tính
âm dương
bao trùm
hết mọi
phạm vi,
mọi sự
vật:
- Về hai nền sản xuất
khởi nguyên thì nông
ngiệp là
âm, du mục
là dương.
- Về thế giới thì phương
Đông là âm, phương
Tây là dương.
Âm dương
cân bằng trong mỗi con người, âm thì
tĩnh, dương
thì
động.
Người Tây Au
có tư duy tĩnh thì hành vi
lại
động, người
A' Đông
có tư
duy động
thì hành
vi lại
tĩnh. Rõ ràng
rằng sớm
muộn gì
Đông Tây
cũng
phải
kết hợp thì
Âm Dương mới hài
hòa, quá trình nhận thức
mới hoàn chỉnh,
tư duy và hành
động mới
cân đối,
văn minh
với văn hiến
nương nhau mà đi
lên.
Tôi nghĩ rằng
đối
với xã hội thì luật
âm
dương có
tính nhân
bản
và biện chứng
hơn
luật mâu
thuẫn. Theo
luật
âm dương
thì không
có gì
hoàn toàn
âm hoặc
hoàn toàn dương,
trong âm có dương,
trong
dương có âm, âm
dương tuy
đối lập mà
gắn bó mật thiết
và chuyển hóa lẫn
nhau, nghĩa
là giữa âm và dương
không có đối kháng.
Trong xã
hội có
cực thống
trị là
dương,
cực bị trị
là âm, quan
hệ giai
cấp ấy đúng là quan
hệ âm dương chứ
gì nữa? Người A' Đông nói Âm dương
hòa,
vũ trạch giáng
(Âm dương hòa
quyện
thì mưa
rơi thuấn
nhuần muôn
vật), mâu
thuẫn nhau như thiên
với địa mà nhiều lúc còn hòa được, huống chi nhân
với
nhân sao lại có
mối quan
hệ nhất thiết
phải một mất một
còn? Quan
điểm giai cấp đối
kháng có phầ xa lạ
với triết
lý phương Đông chúng
ta.
Nhưng âm dương có
thể hòa chứ không
thể đồng,
dương
vẫn là
dương, âm
vẫn là âm.
Đảng một
mặt tự xác định
mình là
người lãnh
đạo xã
hội, mặt
khác lại
nói Đảng với dân
là một thì về mặt
triết
lý không
được
ổn lắm.
Cách
trình bày đối lập
hai hệ thống
tính cách
Đông và
Tây như
trên
chỉ là sự điển
hình hóa,
quy về
dạng nguyên
mẫu
để dễ
nhận thức,
nếu hiểu
nó một
cách
máy móc thì lại là
bóp méo sự vật. Trên
thế
giới luôn có
sự giao lưu
tính cách,
và trong mỗi hệ
tính cách đã
mang sẵn những
mầm
mống để tự
bù trừ rồi.
Ngày nay nữ có thể
đấu bóng, đấu quyền
Anh, có
thể được môn thể
dục thể hình
làm cho
bắp thịt
nổi lên
cuồn cuộn,
có thể làm
đại tướng...
nhưng
không phải
vì thế mà quan niệm
nữ là âm, nam là
dương không
còn đúng nữa.
Trung
Quốc là nước có nhiều
ảnh hưởng
đến Việt
Nam
về tính cách
nhưng miền
Nam Trung
Quốc
có gốc nông
nghiệp
như Việt
Nam, còn
miền Bắc
Trung Quốc
(phía Bắc Hoàng Hà)
lại có gố du mục
như phương
Tây,
giữa hai
miền đã
có giao lưu
lâu đời nhưng sự
khác biệt từ nguyên
thủy ấy vẫn còn
rõ nét
và tính
cách miền Bắc
có phần
ưu thế.
2. Tìm
hiểu thêm về đạo
Trung dung
Trung dung là luận
thuyết của Khổng
tử về phép
xử thế, được
đời sau
chép lại,
nhưng
tính phổ
biến của
nó đến
mức 'người
dân tâm
thường
cũng áp
dụng nó rồi'
và tính uyên thâm
thì 'bậc thánh nhân
cũng
chưa chác hiểu
hết', trong đó
Khổng Tử
đã phác ra
cái quy luật
ứng xử
thích hợp với con
người
A' Đông.
Người Việt
ta bây giờ ít ai
đem sách Trung dung
ra học, nhưng có
biết đâu
chiónh mình ít nhiều
đã
làm theo sách
rồi.
Trung bất thiên,
dung bất dịch!: Trung
là
không thiên
lệch,
dung là không
đổi dời.
Tránh thái
quá và tránh
bất cập. Nhưng
lấy gì
làm chuẩn
để phân
định. Khổng Tử đưa
ra hai tiêu chỉ:
Đạo và
Đức. Theo
Khổng
Tử thì Đạo
là lẽ Trời
vốn có, không thể
làm sai, bởi làm
sai được thì đã không
gọi là Đạo. Như
vậy Đạo chính là
cái mà bây giờ chúng
ta gọi là
'quy
luật tự
nhiên' hay
là 'tồn
tại khách quan'.
Đức là cái cốt cách
bên trong con người
mà con người phải
dùng
nó để 'hành
đạo', tức là
để sống cho đúng
quy
luật của
tự nhiên và
xã hội. Ông cho rằng
tron g cốt cách có ba phẩm
chất quan trọng là Nhân,
Trí,
Dũng. Òy cũng là cái cốt
cách quân tử kiên định giầu
sang không dâm dật,
nghèo hèn chẳng đổi
lòng, trước uy vũ
không khuất phục.
Và nếu
ứng xử
không thành
công thì hãy coi
lại mình, như kẻ
bắn cung, bắn không
trúng thì phải xem
lại
mình, chứ không oán
trời,
không trách
người. Khổng
Tử khẳng
định
khả năng
cá nhân và trách nhiệm
cá nhân. Nhưng khẳng
định tính khách
quan của quy luật
lại đồng thời với
khẳng địnhÁý chí
chủ quan thì
sẽ là duy ý chí,
là phi biện chứng và sẽ thất bại nếu không
thêm vào đó một yếu
tố thứ ba là quan
điểm thực
tế và chiến lược
mềm dẻo: lúc
giầu sang thì xử
sự theo cảnh giầu
sang, lúc nghèo
hèn xử sự theo cảnh
nhgèo hèn,khi hoạn
nạn xử sự
thích hợp với
cơn hoạn nạn, khi
bị đẩy vào nơi man
di thì hành
động thích hợp với
xã hội man di. Khổng
Tử chấp nhận
một chiến
thuật
mềm dẻo đến cao độ.
Tóm lại:
- Trung dung không
phải là phương
châm của kẻ
yếu không
dám cực
đoan, mà của
người có
bản lĩnh
và
có sức mạnh,
có khả
năng chống
lại sự
xô đẩy của
các yếu
tố 'vô đạo' bên
ngoài, chống lại sự lôi
kéo của 'hỷ, nổ,
ái, lạc...'bên
trong,
để không
bị nghiêng
ngả.
- Trung dung không
phải là thái độ
cầu an, trôi
theo
dòng đời
mà là
thái độ
của người
biết 'thuận
thiên
hành đạo',
nương
theo quy
luật
để thực
hiên lý
tưởng mà mình ôm
ấp.
- Trung dung không
phải là thái độ
hủ nho bảo
thủ hay
tiết tháo
dởm,
mà là
thái độ
rất động,
mềm
dẻo thích
ứngvới
thực tế.
- Trung dung không
phải là đứng giữa
theo kiểu
dàn hòa,
hay thái
độ trung
bình 'ba
phải',
mà là đứng
giữa 'điểm
chuẩn',
được xác
định bằng
cách
đối chiếu
với quy luật khách
quan và năng lực
chủ quan.
'Điểm chuẩn' ấy, theo
Khổng Tử
thì những
người có lý
trí thường
đi vượt quá,
còn những kẻ
ngu dốt
thì lại
chưa đạt tới. Khổng
Tử có 'đứng giữa'
là đứng
giữa một bên thái
quá là kẻ
trí thức
hoang
tưởng vĩ
cuồng, mới
biết nửa chừng đã
tưởng được Trời
trao
một sứ mệnh độc
quyền xoay vần
thiên hạ, với một
bên
bất cập là đám
thứ dân vô
tri vô trách, như
đàn cừu chỉ biết
cúi đầu mong gặm
được nhiều cỏ non,
chẳng
biết gì đến đạo
lý thăng trầm,
quốc
gia hưng
phế. Chí
lý vậy
thay!
Tiếc rằng phương
pháp ứng xử khoa
học, nhân
bản và
tích
cực ấy của
khu hệ
văn hóa Nam
Trung Quốc
khi
di nhập
lên miền
Bắc, mà
gốc là
văn hóa
du mục,
đã bị
tầng lớp thống
trị ở đây cải
biến thành công
cụ tư tưởng để
dẹp yên
sự phản
kháng của
dân chúng.
Mặt
tích cực
vì thế đã mất
đi
nhiều.
Đến khi
tư tưởng
Trung dung di nhập
xuống Việt Nam
thì màu sắc tiêu
cực của nó lại
được tô
đậm thêm
một tầng nữa.
3. Mấy suy nghĩ
về tính cách Việt
Nam
Việt Nam là nơi
thể hiện khá đầy
đủ 'tinh
cách
A' Đông'
mà các phần
trên
đã mô
tả. Nhưng để
thích nghi
với
lịch sử đặc
biệt
của một nước
nông
nghiệp lạc
hậu, nằm cạnh một
nước quá lớn, bị
hơn nghàn
năm đô hộ,
một số 'tính
cách A'
Đông nói chung'
kia
đã bị
'Việt
Nam hóa' theo
hướng
thích
nghi bằng
mọi giá
để tồn tại, để
khỏi bị tiêu diệt,
nổi bật là ba
tính cách sau đây:
a. Mạnh về 'nghĩa
hợp quần', yếu
về ý thức
xã hội
Hợp quần để chống
lại kẻ thù xâm
phạm bờ
cõi, đó
là bản
năng tự
vệ sẵn có
từ khi
còn là bầy
đàn.
Từ bẳn
năng
sống đàn
và phản xạ
tự
vệ nâng
thành tình
cảm,
đạo đức. Từ tình cảm
gia đình, tinh
yêu quê hương,
làng xóm,
mở rộng thành
lòng
yêu nước
tthương nòi.
Tuy đã có ý thức
nhưng ý
thức chỉ
đóng vai trò
thứ yếu. Quan hệ
nòi giống, quan
hệ
xã hội có xu hướng
gia đình hóa: cả
nước
đều là ruột thịt
vì sinh từ trăm
trứng của
một
mẹ Âu Cơ, các công
dân gọi nhau là
'đồng bào', tướng và quân
gắn bó một
lòng 'phụ
tử',
coi nội
chiến là
huynh đệ tương
tàn, nước thì gọi là 'nước nhà', chính phủ thì gọi là 'Nhà
nước',
trong giao tiếp
xã hội ưa gọi nhau là anh em, chú
cháu, cô cháu,
mẹ con, cả dân tộc gọi Chủ tịch nước là 'Bác'.
Trong
những giai
đoạn lịch
sử
nhất định,
đặc điểm này tăng
thêm sức mạnh cho dân tộc Việt Nam.
Ý thức xã hội lại là một
vấn đề khác hẳn.
Trước hết đó là
vấ đề
của nhận
thức, của
lý trí,
là sự 'giác
ngộ'
về quan
hệ của
con
người
và xã hộ,
về quan hệ
giữa các cá nhân
như những thành viên độc lập, bình
đẳng. Ý thức
xã hội là
nhân tố tối quan
trọng của
một xã hội
văn minh, công
nghiệp và pháptrị.
Những
con người 'lá lành
đùm lá rách', 'nhiễu điều phủ lấy giá gương' có thể lại
không biết
cách hợp tác
với nhau
một
cách hữu hiệu trong
xã hội mới,
thậm
chí người này chỉ làm
yếu người kia đi. Một người
Việt Nam có thể
giỏi hơn một
người châu Âu,
hai người Việt Nam thì kém
hai người châu Âu, ba người
Việt
Nam thì kém...
một người châu Âu!.
Lối so sánh
có vẻ
khôi hài
đó đã lột
tả một 'tính cách Việt Nam' đang và sẽ
gây trở ngại không
nhỏ cho công cuộc phát
triển đất nước,
mà khônh dễ gì khắc phục trong một sớm một chiều.
Trong
lĩnh vực
kinh tế - xã hội
thì tinh thần
'cứu
quốc' lại bị lãng
quên, chỉ lo 'tự
cứu', không biết
rằng khi xã hội chuyển mình thì mỗi con người
đều được
ban tặng
những lợi ch vô
giá mà mỗi cá nhân không bao giờ tự tạo ra được.
'Nghĩa hợp quần' gắn với
quan hệ gia đình,
làng xóm, lấy
sức mạnh
ở tình
cảm, quen
duy cảm, tẳn
mạn, tùy
tiện, 'chín
bỏ
làm mười',
coi
'một bồ
cái lý' không
bằng 'một tí cái
tình', thích nghi với sản
xuất nông nghiệp, với
nền 'đức tri'.
'Ý thức xã hội' lấy xã hội làm
trọng,
lấy sức
mạnh ở
lý trí,
quen duy lý,
ưa nguyên
tắc,
chính xác,
sòng phẳng,
thích
nghi với sản
xuất công
nghiệp,
với
nền pháp trị và
kinh tế thì trường.
Sự chuyển tính
cách từ trạng thái
nông
nghiệp
sang trạng
thái công
nghiệp
là sự phát triển
tất yếu
của mọi xã
hội, nhưng
ở nước ta
sự chuyển biến
âý rất
dai dẳng vì có
sự cộng hưởng của
ba
nhân tố:
- cội nguồn văn
hóa của ta đã là
văn
hóa nông
nghiệp (chứ không
phải văn
hóa du
mục);
- tình trạng bị
lệ thuộc vào chinh
chiến
liên
miên;
- có sự du nhập
của 'chủ nghĩa
xã hội
khoa học';
Cả ba
yếu tố ấy đều đồng hóa vào
trong
'chủ nghĩa
yêu nước'.
Đáng
chú ý là
'chủ nghĩa
xã hội khoa
học' xâm
nhập vào
nước ta lại củng
cố cho
'yếu
tố
nông nghiệp', 'yếu
tố nông dân' của
tính cách
Việt
Nam như: tính chất
cảm tính,
tùy tiện, gia đình,
gia trưởng...
Khẩu hiệu 'Yêu
chủ nghĩa xã hội
là yêu
nước, yêu
nước phải
yêu
chủ nghĩa
xã
hội' và khái
niệm 'Tổ
quốc xã
hội chủ
nghĩa' đã
minh chứng
cho nhận
định trên.
Vượt lên trên mọi
sự tranh giành
giai cấp,
vượt qua mọi
thể chế, Tổ quốc
chúng ta bao giờ
cũng
là Tỏ
quốc Việt
Nam thôi!
Ta gọi những đồng
bào
ta ở nước ngoài
muốn đem sức người
sức của về xây
dựng
đất nước là 'Việt
kiều yêu nước'
nhưng họ có
yêu chủ nghĩa
xã
hội đâu?
Nếu ta chuyển
cả Tổ quốc
thành 'Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa' thì những đồng
bào yêu nước ấy còn đâu nước để mà yêu? Tôi tin
rằng sẽ có ngàychúng
ta làm
lễ trả lại
'tên khai
sinh'
cho
Tổ quốc
là Tổ quố
Việt Nam, thì sức
mạnh của người sễ tăng lên gấp bội, những con dân nước Việt
sẽ rưng rưng nước
mắt, nắm
chặt lấy tay
nhau mà
reo hò.
b. 'Đạo Trung
dung' bị hạ xuống thành phương
châm Yên
thân,
Nhẫn nhục
Các giai cấp thống
trị ở Trung Quốc
và Việt
Nam nhận
thấy
ngay giá trị
của 'đạo'
Trung
dung,
bèn rút bỏ
đi cái lõi
của nhân
sinh quan
tích cực,
chỉ
giữ lại cái vỏ
'trung bình chủ
nghĩa',
tô đậm thêm
nước son 'nhân,
trí' để nó thành
phương châm sống
'khôn ngoan và
đức độ' (mà kỳ
thực chỉ là
sự nhẫn
nhục,
yên
thân) rồi nhồi
vào đầu,
vào miệng
đám dân
bị trị.
'Món
ăn chẳng những
vô bổ
mà còn có hại này được chế biến rất
hợp khẩu vị nên
dược cơ thể bị
trị đồng hóa
ngay.
Lúc đầu 'Đạo'
Trung dung chưa
đến nỗi
bị sụp xuống
ngay thành
'Đạo
của thằng
hèn
' là nhờ
còn có yếu
tố Chính
danh và Quân
tử. Nhưng
rồi Chính
danh và
Quân tử cũng chỉ
sống thoi thóp
được trong
đám sĩ
phu, có học, c2n giữ
tiết tháo.
Khong giữ được
thành, không hoàn
thành trách nhiệm
thì uống thuốc
độc tự tử!
Về mặt nào
đó thì hành
động như thế không
phải là
hoàn toàn
tích cực,
nhưng
thà như thế còn
đáng là 'con người'
hơn bọn đầu hàng
chứ, còn hơn bọn
chạy
cho
thoát
thân rồi
khôn khéo chạy
tội hoăc bày
trò nhậ
lỗi qua
quít để
lại được ngồi ghế
cao hơn! Nhưng những con
người còn biết tự vẫn vì
xấu hổ ấy
cũng chỉ là những
kẻ tử thủ cuối cùng cố giữ
cho
thành trì đạo đức
khỏi sụp đổ. Quy luật đào
thải không thương gì. Cuối
cùng người dân thường đã chận sự thật
cay đắng: Trong
một xã hội hai
ba tầng nô
nệ thì ai
cho mình
lương
thiện mà
đòi lương thiện?
Không có nhân cách thì sống, có
nhân
cách thì chết! Và cuộc
sống không thể
chọn mãi cái chết! Khi
cơm chưa
đủ ăn và tính
mệnh còn bị
đe dọa thì dân
chủ và nhân cách
còn là những
thứ quá ư xa xỉ.
Hãy phải tìm mọi
cách để sống cái
đã!
'Trung dung'
có nghĩa mới là:
cứ
'chui
vào giữa'
cho yên
thân: 'Khôn
độc không
bằng
ngốc đàn!'
Cứ đứng giữa
đàn
ngốc mà sống
còn hơn!
(lại được
tiếng là co
tinh thần tập thể
nữa chứ?). Những
lúc 'ăn
cỗ' thì phải
'đi trước', lúc
'lội nước' thì
phải
'đi sau'!
Và 'đạo
đức mới' là phải
biết đầu
hàng:
Ai nhất thì
tôi thứ nhì,
Ai mà nhất nữa
tôi thì thứ ba
(nghĩa là nếu
các anh đều muốn
nhất
cả thì
sẵn sàng
đứng thứ
bét!) Từ 'Trung
dung' vô nguyên tắc đến
'phản
Trung dung'
cũng
chỉ là một,
đều là
từ bỏ cái 'Trung
dung quân
tử' mà
sang chủ nghĩa
cực
đoan
'duy an',
'duy lợi'.
Đến
khi chữ 'Quân tử' trong thực
tế chỉ còn
tác dụng
làm trò cười:
'Quân tử' nhất ngôn!
Chứ đâu 'Quân
tử' sờ l...
hai tay?
thì có nghĩa
là con người
đã giơ
cả hai
tay để
đầu hàng,
và cái
lưu manh
đã lên
ngôi
chính thống.
Giữa cơn ngột ngạt bế tắc
của cuộc
đời mấy
tầng nô
nệ ấy,
tinh thần
cứu quốc
bất tử
của dân tộc
đã 'liên
minh'
với
chủ nghĩa
Mác- Lê,
trở thành
quân đội
cứu viện chẳng
những cho độc
lập dân tộc
mà còn
cứu cho
đạo đức
xã hội.
Người ta
hướng về một...
Nước Nga có
chuyện lạ
đời,
Đưa người
nô lệ thành
người
tự
do!
Và 'con
người tâm linh'
Việt Nam đã
chuyển sang
sống một
cuộc đời
thanh
thoát, ít
nhất cũng tới
khi bắt
đầu có cuộc
Cải cách
ruộng
đất. Nười
dân Việt đã
rời bỏ 'chủ
nghĩa
Trung dung
lưu manh'
đầy
bế tắc để
tiến lên hàng
đầu trong
cuộc đấu tranh
giành tự do
cho giống nòi
trong
nhịp Tiến quân
ca.
Nhưng rồi
người ta thấy
có
triệu chứng
là con
đường tới tự
do không thênh
thang như
tưởng
tượng, phía
trước còn
mù mờ
lắm.
Không biết
các nhgà
văn nước ta
coi những tác
phẩm
nào là
'dự báo' cho
triệu chứng
đó,
còn tôi
thì nhập tâm
ngay mấy câu
thơ 'Bút
Tre' này:
Thi
đua ta quyết
tiến
lên,
Tiến lên, ta
quyết tiến
lên hàng đầu!
Hàng đầu...rồi...tiến
về đâu?
Tiến
về đâu? Cái dấu hỏi
lớn quá!
Cái dấu
hỏi mà
bọn trẻ
con vẽ nguệch
ngoạc
lên
tường ngày
đó,
đến hôm
nay vẫn
chưa ai
xóa được!
...Và thế rồi,
thế rồi cái
thứ chủ nghĩa
Trung
dung
lưu manh
ngày trước
nay lại
ló đầu về
tìm đất kiếm
ăn, nghe
chừng
'phất' lắm.
Nhưng chúng ta có lý do
để nén
đi một
tiếng
thở
dài,
bởi tính
hướng
thiện
của con người
Việt
Nam có khả
năng tự
cứu mình
ra khỏi lưu
manh, khả
năng ấy chẳng
phải đã hơn
một lần được
lịch
sử chứng
thực đó
sao?
c. Chống 'Chính
Thống' bằng
con đường không
chính thống
Trong một xã
hội mấy tầng
nô nệ
thì cái
'chính thống'
nào
cũng
là gông
cùm đối
với kẻ bị
trị. Tầng lớp
bị trị không
chống
lại nổi gông
cùm
đó vì hai
lẽ: trước hết
cái 'chính
thống' ấy
có bạo lực
hộ tống, lẽ
thứ hai nguy
hiểm
hơn
là giai cấp
thống trị nào
cũng biết cách
gán ý đồ của
họ cho
kẻ bị trị,
biến tư
tưởng của
kẻ thống
trị thành
tư
tưởng chung
của
xã hội.
Và cuối
cùng thì
sự thể lại
rất trớ trêu:
Tôi trói tay
anh là theo
nguyện vọng
của anh đấy!
Tôi trói anh
thế này
cũng là mong
anh
sớm được
sung sướng,
chỉ ngày
mai là
anh sẽ thấy dễ chịu
ngay thôi!.
Và cách nhân
danh rất 'nhân
đạo' ấy đã
khiến cho không
ít tên lính
xâm lược
viễn chinh
cũng cứ tưởng mình
đang
lãnh sứ
mệnh đi khai
hóa cho dân
bản địa!
Muốn
chống lại 'kẻ
thù'
ấy người
bị
trị có thể
dùng
'vũ khí phê
phán' và
'phê
phán bằng
vũ khí',
nhưng
cả hai
thứ vũ
khí chính
thống ấy
kẻ thống
trị thông
minh đã cướp
mất rồi.
Trong trường
hợp bị tước
hết vũ
khí ấy
người Việt
mình có
món võ
rất
hiểm mà
lại đỡ tốn
sức: Võ Trạng
Quỳnh!
Trạng
Quỳnh chẳng bao giờ
dám công
khai chống
lệnh
Chúa,
ngay cả khi
Chúa ngang
ngược sai
lính đến
'đại tiện'
ra nhà Trạng.
Nhưng
Trạng
láu cá đến
mức cuối
cùng làm
cho Chúa phải xơi
cả sản
phẩm của
cái buổi
'đại tiện' kia,
tức muốn
trào máu
mà không
bắt tội
Trạng được.
Dân không
chống nổi
Chúa, vẫn
ngoan ngoãn
'Muôn
tâu Chúa
thượng' nhưng
trả thù
Chúa bằng
những
mẩu 'chuyện
Trạng
Quỳnh' thì
đó đã là
'ngón võ'
rất 'Trạng
Quỳnh' rồi.
Đất nước
mình
nhiều
Trạng
lắm, cả Dân
lẫn Chúa
đều ở trong 'lò
võ' của Trạng
mà ra. Thuở
bé đdọc Trạng
Quỳnh tôi
rất thích
thú, nhưng
lớn lên đọc
lại, tôi
vừa thương
dân tộc mình
vừa ngượng,
nghĩ rằng
cả
một 'dân
tộc Trạng
Quỳnh'
sẽ đi tới
đâu?
Chấp nhận
ngay cái
chính thống
và ra
vẻ tuân lệnh,
nhưng tìm
cách vô
hiệu
hóa nó
một cách
không tuyên
bố, một
cách không
chính thống,
chỉ
cốt sao
đạt được
ý đồ riêng.
Cả nước bề
ngoài
vẫn nói
một lời
thống nhất nhưng
mỗi người
có thâm ý
của
mình.
Chúa 'thua'
trong
cái vỏ vẫn
oai nghiêm,
Trạng
'thắng' trong
cái vỏ vẫn
là bầy tôi
ngoan ngoãn,
bởi thắng
thua đều
ở chuyện
khôn vặt.
Mẹo
'cù nhầy'
có thể làm
cho sinh vật
sống dai
như đỉa,
nhưng không
thể tiến
hóa
được.
Thế
giới sinh
vật
đã cho
ta những
ví dụ
rất rõ về
vấn đề
này. Con
đường tiến
hóa là:
Sinh vật
đơn bào
phải
đa bào
hóa, trên
cơ sở
đa bào hóa
mới phân
tách thành
các cơ quan
khác
nhau, giữa các
cơ quan ngày
càng có sự
'phân công'
rành
rọt nhưng
ngày càng
có sự
phân công
chặt chẽ
bởi
sự chỉ huy
ngày càng
tập
trung của
hệ thần
kinh.
Cứ thế
mà tiến
hóa
từ thấp lên
cao, và
cuối cùng
xuất hiện
loài người chúng ta.
Nhưng có
những sinh
vật đơn
bào không
đi vào
con đường
đa bào
hóa mà thích
nghi
bằng cách
'tu sửa
vặt', 'bổ
sung vặt'
khiến
cho bên
trong
cái tế bào
duy nhất
của nó cũng
có
sđủ thứ
như một
cơ thể
đa bào:
có một chút
tượng trưng
cho 'tim',
một chút
tượng trưng
cho 'dạ
dày', một
chút 'thận',
một chút
'giác
quan', một
chút 'thần
kinh',
một chút
'chân tay'...Chúng
kéo dài cái
cấu
trúc 'cổ
lỗ'
ấy suốt mấy
triệu năm,
và vĩnh viễn
không thể
gia nhập
vào con
đường tiến hóa chung
được nữa.
Nếu chỉ lấy
sự
'sống chết'
để đo mức
độ tiến hóa
thì
những sinh
vật đơn bào
ấy hẳn
là 'cao'
hơn
con người
nhiều,
vứt ra
bất cứ cống
rãnh nào
chúng cũng
sinh sôi.
Điều kiện
để có sự
tiến
hóa là
phải
có nguy cơ
bị tiêu
diệt:
Nếu không
tiến
hóa nó sẽ
bị diệt
vong
trong cuộc
đấu tranh
sinh tồn!
Sự 'tu sửa
vặt' chính
là 'giải
pháp' giúp
cho sinh
vật 'lách'
qua được
cuộc
đấu tranh sinh
tồn khắc
nghiệt, vượt
qua nguy
cơ bị
tiêu diệt
mà không
cần đến con
đường chính
thống,
nhưng chính
sự 'thành
công' này
đã tách
nó
ra xa con
đường chung
và không
tiêén hóa
cao hơn
được
nữa.
Ba tính cách
trên đã giúp
cho dân
tộc Việt
Nam cũng
như mỗi
người
dân Việt
vượt qua
lịch sử
kinh hoàng
và sống
sót đến
hôm nay,
'ơn cứu mạng'
ấy đâu
phải là nhỏ?
Nhưng chúng
ta đã phải
trả giá cho
chúng bằng sự
tha hóa
con người,
tha hóa dân
tộc! Trả
giá bằng
sự lưu
manh hóa,
không phải
lưu
manh
theo
nghĩa thông
thường,
mà là lưu
manh 'lịch
sử'!
Ba tính cách
ấy đã rút
mất đi khỏi
con
người
chúng ta
cái bản
chất
giản đơn
cương trực,
cái Quân
tử,
Chính danh,
cái nhân
tính dám
đương đầu
với cái
'chính thống'
phi lý, và
nhất là
tính triệt
để,
cực đoan,
vố là nhân
tố không thể
thiếu đêẻ
có nhận thức
lý luận,
để có tư
tưởng mà
chỉ để lại
cho chúng
ta một
con
tim đa cảm,
thổn
tzức nhưng
nhiều
khi
mù lòa,
và bên cạnh
chiếc bao
tử
bị đói kinh
niên! Tôi
không nghi
ngờ
gì về kết
luận rằng
dân tộc
mình thông
minh và nhiều
người có
chí, nhưng
chưa thể
có
nhà tư
tưởng, chưa
thể có
triết gia
chừng nào
ba tính cách
trên còn
bám chặt
được vào
con người
Việt
Nam!
Ta vượt qua
nguy cơ diệt
vong không
phải bằng
sự khẳng
định một
bản sắc riêng
bất tử, mà
bằng cách
không khẳng
định bẳn
sắc riêng
nào
cả, cứ
nhặt nhạnh,
vá víu mỗi
thứ một tý, cái gì tiện dùng được thì dùng, có người đã gọi nó là
chủ nghĩa
'đại tiện dụng'! 'Chủ nghĩa' ấy là con đẻ tất yếu của ba 'tính cách
Việt Nam
' nói trên. Không
dám
dũng cảm
nhìn nhận
và phê
phán điều ấy,mà cứ tự xoa vuốt mình thì dẫu trở
nên người
giầu có nhất
vùng
cũng không
vượt khỏi
tầm một anh
trọc phú
hãnh tiến,
tự đắc.
Nhưng
từ bỏ ba
tính
cách
ấy
đi thì có
thể chết,
và ' nguy
cơ
có thể
chết' chính
là
cái giá
phải trả
để có
tiến hóa!
Muốn
có mẩu
bánh
mì cho vào
bao tử còn
phải trả
tiền, huống
hồ cả một
nhân cách
trí tuệ
củ
một dân
tộc, là thứ
hàng xa
xỉ nhất
của tạo
hóa mà tạo
hóa
lại phát
không
cho ta được
sao?
Bàn về 'tính
cách A' Đông'
hay 'tính
cách
Việt Nam'
cần nhận
rõ đâu là
sự khác nhau
thực sự
về tính cách,
và
đâu chỉ là
đặc điểm
do tình
trạng
hậu
tiến, đâu
là truyền
thống tốt
cần phải
giữ, đâu
là mặt
yếu của truyền thống
nên bỏ,
và đâu
là mặt
tốt của
tính cách
Âu Tây mà
ta nên học
để nâng cao
thêm tính
cách
của mình.
V. Tản mạn quanh lối ra
Tôi viết bài này chính từ mặc cảm tội lỗi, tội lỗi của cá nhân, của thế hệ,
của giống nòi, mặc cảm 'bị lưu manh hóa'. Những thế hệ con cháu sau này sẽ
hiểu chúng ta là những người thế nào, khi chúng thấy chúng ta đã chung sống
với cái phi lý, cái lưu manh một cách hòa thuận đến thế? Nhưng lưu manh đâu
chỉ là cái nằm bên ngoài mình? Nó đang nằm trong cả những người cầm bút 'dấn
thân' nhất.
Tôi cố gắng thoát ra khỏi tội lỗi bằng cách nói thẳng, nói thật hết lòng,
nhưng thỉnh thoảng cái thói xấu nói vòng vo Tam quốc, cái thói che chắn từ
trong
tiềm thức vẫn hiện ra bất chợt. Nếu viết theo lối 'chửi đổng' hay 'nói bóng
nói gió' thì khối cuốn chuyện nói chạm tới cả 'Thiên đình' cũng chẳng ai
bảo sao, nhưng mở miệng nói với nhau một lời nghiêm túc cho tới nơi thì sao
mà
khó thế? Cái 'phi chính thống' thì cửa 'chính thống' nào nó đi cũng lọt,
mà cái 'chính thống' lương thiện thì bị chặn ngay từ cửa ngoài! Nhưng tôi
vẫn
tin ở mặt lương thiện của xã hội, vì dù có đi quanh co mãi trong mê lộ thì
cửa ra cuối cùng của xã hội ngày nay không thể là gì khác hơn là phơi bày
hết sự thật, tin cậy lẫn nhau, mở lòng ra đón nhận sự thành tâm từ mọi phía.
Tôi hình dung ra một cảnh tượng như sau: Cả đoàn người đang đi trên một
con đường lớn gập ghềnh thì một tốp người tách ra, đi quay trở lại, vào rừng
tìm
hướng đi mới, vì nghe nói phía ấy có 'rừng mơ' bạt ngàn. Tốp này tuyên
bố
ly khai thành một 'phe' riêng, thách thức 'Ai thắng ai' vì tin rằng mình
có sứ
mệnh phá con đường cũ để mọi người phải giác ngộ mà đi cả về phía 'rừng
mơ'. Nhưng đường mới càng đi càng mờ mịt, càng đi về miền hoang vu. Biết mình
lầm đường, những người da trắng trong 'tốp ly khai' này bảo nhau làm động
tác 'Đằng
sau, quay!' để trở lại đường cũ, và đương nhiên phải chấp nhận sự 'xáo
trộn'
là người đi đầu trở thành người đi cuối. Nhóm da vàng của 'tốp ly khai'
không chấp nhận sự 'xáo trộn' ấy, ban lãnh đạo nhóm nghĩ ra một kế: Cứ coi
như
đường vẫn đúng, phải giữ hàng ngũ và tiếp tục đi 'thẳng', nhưng mỗi ngày
lượn cong thêm một chút, cuối cùng quỹ đạo vẫn thành vòng tròn, vẫn trở về
đường cũ mà không cần 'Đằng sau, quay!'
Tóm lại, 'Phương thức đổi mới kiểu châu AẴ' là ý muốn trở về với quy luật
mà nội bộ vẫn giữ nguyên trật tự cũ, người dẫn đường trên đoạn đường
đúng vẫn
là người dẫn đường trên đoạn đường sai. Không đổi mà đổi, đổi mà không
đổi. 'Vô hiệu hóa' cái chính thống bằng cái phi chính thống, dùng 'phi
quy luật
' để 'vô hiệu hóa' quy luật, 'chính thống hóa' cái phi chính thống, và
chính thống hóa ra phi chính thống...Cái quỹ đạo vòng tròn ấy là vòng
tròn kỳ ảo,
và một khi đã hình thành thì nó sẽ biến ảo khôn lường.
Tôi không quan tâm lắm đến 'trật tự nội bộ' bởi khi con đường đã thông
suốt thì cả đoàn người đều đi, người này năm bảy bước thì người kia có
chậm cũng
đi được một bước.
Nhưng có hai vấn đề chung rất đáng quan ngại:
a. Một hình thái Kinh tế - Xã hội mà hạ tầng là Kinh tế thị trường và
thượng tầng là Xã hội chủ nghĩa thì cùng một lúc xã hội chịu sự chi
phối của hai
cơ chế ngược nhau, lúc nào cũng chỉ 'rình' để phủ định nhau, và nếu
kết hợp với
nhau thì còn nguy hiểm hơn. Người dân nghèo thấp cổ bé họng sẽ bị cả
hai cơ chế ràng buộc, kẻ có quyền có tiền sẽ lợi dụng được cả hai cơ
chế để
chơi trò
'bật tường' hoặc trò 'ú tim', lúc núp dưới cơ chế này, lúc núp dưới
cơ chế kia, không luật pháp nào trị nổi. 'Quốc doanh' và 'sở hữu' là những
lĩnh
vực điển hình. Sự phân hóa giầu nghèo, sự hình thành giai cấp vô sản,
nạn thất
nghiệp và bóc lột lao động làm thuê... nghĩa là tất cả những cái mà
'chủ
nghĩa xã hội khoa học' muốn tránh thì chúng lại đang lù lù tiến đến
mặc dù ta không
muốn công nhận. Đáng chú ý nhất là sự sử dụng Quyền lực chuyên chính
vô sản và Cơ chế xã hội chủ nghĩa để tích lũy Tư bản, đây là điều cực
kỳ bất
lợi
cho người lao động nghèo, trước hết ở các lĩnh vực phi nông nghiệp,
sau sẽ lan đến
lĩnh vực nông nghiệp. Người lao động nghèo sẽ có cảm giác mình là đấu
thủ đã yếu lại bị 'trọng tài' giữ
tay (!), là đứa con bị chính bố mình trói lại để cho thằng hàng xóm
đánh túi bụi (!). Đang đi đến tình trạng: người đứng ra đại diện cho công
nhân
lại là
người của phía chủ (đây là chủ thực, còn công nhân chỉ là chủ danh
nghĩa). Cuộc cách mạng bị đánh tráo và giai cấp vô sản tay trắng là giai
cấp bị phản
bội trước tiên.
Điều rất đúng với quy luật biện chứng là khi chúng
ta định dùng chuyên chính vô sản để đánh tư bản mà không đánh được thì
con người sẽ dùng
ngay chuyên
chính vô sản làm phương tiện để lách qua cửa ải tự do cạnh tranh
để trở thành tư bản! Và nếu dự cảm ấy sẽ thành hiện thực thì công lao
của học
thuyết về
chủ nghĩa xã hội là đã cung cấp cho nhân loại thêm một con đường
để tư bản hóa, một thứ tư bản lưu manh và bệnh hoạn!
b. Hậu quả về Văn hóa
Xã hội còn đáng ngại hơn nữa. Vì khi 'vỏ một đằng, ruột một nẻo' thì dẫu
mục đích có thiện chí đến đâu, về biện
pháp đó
vẫn là sự nói
dối, ngụy trang. Và khi nói dối lại nằm ở tầng quốc sách thì tác
hại của nó với xã hội không thể lướng hết được. Trong quốc nội
cũnh như
trên diễn
đàn
nhân loại, những tiếng nói nhân bản tiên tiến và trí tuệ đích thực
sẵn sàng bị hy sinh bởi nó thường vi phạm tới sự an toàn của 'quốc
sách'
ngụy biện,
ngụy trang ấy. Kiếm thêm bạn bè, vây cánh để làm ăn, để làm giầu
là điều rất cần nhưng cũng không khó lắm đối với một nước như nước
ta.
Cái khó
nhất là
trở nên một dân tộc văn minh, được những người có nhân cách kính
trọng và điều này không phải ta cứ lớn tiếng tự nhận là được.
Khi
xã hội đã 'vỏ một khác, ruột một khác' thì mỗi con người, trong những quan
hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, 'đồng chí', bè bạn...
cũng sẽ 'vỏ
một khác, ruột
một khác'! Cái giá quá đắt để mua sự yên ổn và sự sinh tồn ấy
con cháu chúng ta đang phải trả và sẽ còn phải trả! Và nếu trong muôn
một, đó
sẽ là sự 'ngã
giá' lịch sử không thể khác thì thế hệ đấy lầm lỗi của chúng
ta chỉ còn một câu để nói với mai sau: Các bạn đều đã có máy khâu,
tủ lạnh,
tivi,
nhiều người
có xe hơi, nhà lầu... nhưng trước lịch sử con người, dân tộc
mình là kẻ thua, điều bất hạnh này các bạn là những người phải lãnh
đủ! Các
bạn hãy
đến tận
mộ chúng tôi mà nguyền rủa, rồi về bảo nhau tu tỉnh mà rửa nỗi
nhục của cha ông để lại!...
Người Nhật bản do biết xử lý cái
'mặc cảm thất trận' của mình mà trở nên một dân tộc đáng kính. Biết nhục
không phải là điều
đáng
sợ, trái
lại,
khi nói
về dân tộc mình, không hiểu sao tôi cứ rùng mình ghê sợ trước
một thái độ hơn hơn tự đắc.
Hôm nay, giữa 'kỷ nguyên của thông
tin' không thể có 'Nguyễn Trường Tộ' đơn độc, và càng không có 'Tự Đức' cổ
lỗ. Số người
nhận thức
được rằng
tình hình
đã chín muồi cho sự từ bỏ lý thuyết Marx - Lénine và 'chủ
nghĩa xã hội' đầy ảo tưởng và phi khoa học hiện nay đã không còn
là con số
ít ỏi nữa.
Bộ phận
lãnh đạo lại càng có nhiều thông tin hơn. Vấn đề chỉ còn
là cân nhắc để chọn một 'lối ra', vấn đề nằm ở nơi tâm lý, động
cơ,
quyền lực
hơn là ở
nhận thức.
Nhưng nói như vậy không phải rằng trên mặt trận
tư tưởng và tâm lý xã hội không còn những hiện tượng phức tạp: Có
những
'chiến
sĩ' vẫn
thản
nhiên
nằm dưới
hầm cá nhân chờ lệnh phản công, trong khi đại quân trên
mặt đất đã rút đi gần hết, chỉ để lại một số tay súng bắn yểm
trợ cho
cuộc rút
được
an toàn, và cũng
có những anh lính cố tình nán lại chỉ cốt để nhặt chiến
lợi phẩm!
Số đông nhân dân thì đã ngoài tai mọi chuyện 'chính trị
tư tưởng', xã hội có trở thành 'cái gì' chăng nữa thì mình
vẫn
phải lo kiếm
cơm ngày
hai
bữa!
Những người tận dụng được tình hình lộn xộn để làm
ăn thì không những không chờ mong gì một xã hội ổ định và phát
triển quy
củ mà còn ngược
lại là
đằng khác. Họ bảo cứ đẩy cho cái bê bối phát triển đến
cực độ là thiết thực góp
phần tạo ra cái mới!
Một số trí thức, cán bộ thì bỗng nhiên
sinh ra 'cao đạo', trở nên 'thoát tục', hướng về những 'giá trị vĩnh hằng
của nhân
loại', những 'siêu
trí tuệ' của
quá khứ và tương laui, và rất 'lơ đãng' với hiện tại,
khinh bỉ tất cả. Nhưng họ chẳng có ai dại như Bá-Di - Thúc-Tề,
họ đều
tìm
được
'nghĩa đời' ở những
thú vui tiêu khiển, hoặc ở tình yêu, hoặc ở những lợi
ích thiết thực khác. Những anh em này tâm sự: Cái gì là quy
luật đến
kỳ đến hạn
nó sẽ
tới, hơi
đâu mà 'cầm đèn chạy trước ôtô'? Mình có quyền thì mình
cũng phải nghĩ mẹo để giữ
quyền chứ khác gì 'người ta'? Nói trái ý 'người ta',
'người ta' quy cho là phản động có phải khổ vợ khổ con mình không?
Mọi sự
trên đời
ngẫm
ra vô nghĩa
cả, chỉ có chút tình người và những giây phút thanh nhàn
là có nghĩa...
Phải nói rằng chủ nghĩa 'Hiện sinh' Việt Nam trong thời
kỳ Đổi mới này cũng thấu tình đạt lý đấy chứ! Tôi cũng
toan
xé bài viết
này
đi, vì thấy:
nghĩ gì,
nói gì cũng đều vô nghĩa cả! Nhưng chợt nhìn vào những
thứ mình đang ăn đang mặc hàng ngày, nhìn vào cuốn sách
đang
xem, tôi
tự biết mình
là kẻ
đã được
'ăn chịu' ở 'Quán Đời' này quá nhiều, nếu thản nhiên
rũ áo ra đi thì hóa ra thằng ăn quịt giữa buởi 'kinh
tế thị
trường'!
Nên
đành
phải
nói tiếp
câu chuyện
trần tục.
Trong cuốn Chìa khóa của tiến bộ kinh tế (Tài liệu tham
khảo nội bộ, do Ủy ban khoa học và kinh tế nhà nước ấn
hành năm
1989) tác
giả PG
Kousoulas, tiến
sĩ Hy-lạp về quan hệ quốc tế, sau khi quan sát thế giới
với con mắt khách quan khoa học đã có lời giải liên quan
đến
chính trường
hợp
của chúng
ta:
Muốn nhân
dân có hạnh phúc, xã hội phát triển thì chỉ có một con
đường là công nghiệp hóa và kinh tế thị trường, mặc dù
những phức
tạp đi
theo nó
là không thể
tránh khỏi, nhưng muốn làm được như thế thì buộc phải
từ bỏ ý thức hệ độc tôn. Ông
viết:
Ý thức hệ độc tôn của thời đại chúng ta cam đoan rằng
có thể giải quyết những tai họa về xã hội và kinh tế
của thế
giới
bằng cách
giao phó
toàn bộ quyền
hành vào tay một bộ phận tinh hoa nhất. Kinh nghiệm cho
thấy một ý đồ như vậy đòi hỏi một sự hy sinh quyền tự
do cá nhân
và sự hy
sinh
nhiều
sinh
mạng con
người. Bản thân những thành viên trong nhóm tinh hoa
đó cũng không chắc đã thoát khỏi số phận đó. Mặt khác
những
hy sinh
nặng nề do
chế độ độc
tôn áp
đặt không phải tất yếu sẽ được đền bù bằng những lợi
ích thiết thực đối với nhân dân. Trong khi đó kinh nghiệm
của
Mỹ đã chứng
minh rằng
những
bất công
xã hội có thể được đền bù, và những tiến bộ thực sự có
thể được thực hiện trong khuôn khổ một xã hội tự do.
(Sđd, tr.
139).
Người ta có thể nói thẳng ra rằng nhân dân Mỹ là người
sở hữu thực sự của tài sản quốc gia (Sđd, tr. 102).
Một
chế độ độc quyền không giới hạn có thể tác yêu tác quái thực sự đối với nền
kinh tế của đất nước và biến
thành kẻ
bóc lột
nhân dân
(Sđd,
tr. 81).
Điều quan trọng trước hết là phải làm sao
tránh được cho cả dân tộc những đau khổ và mất nhân phẩm vì có
một nhà
nước độc
tài.
(Sđd,
tr. 138).
Ý kiến đề xuất nên đổi tên Đảng 'Cộng sản',
đổi tên nước 'Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa' không còn là riêng
của Bùi-Tín
mà cũng
được đưa
ra ngay
trong
'Nhóm
nghiên cứu tư tưởng Hồ-Chí-Minh' của Đảng. YẴ kiến
này còn nói: 'Tôi mạnh dạn nêu với các anh một
ý nữa: nên
khẳng định
Đảng
ta kiên trì
tư tưởng
Hồ-Chí-Minh,
không nói Mác-Lênin!' (vấn đề 'tư tưởng Hồ-Chí-Minh'
xin không bàn ở đây).
Nguyễn-Kiến-Giang sau khi
trăn trở và tự khẳng định 'lương tri Cộng sản' của mình, đã hình dung
tiến
trình từ bỏ
Chủ nghĩa Xã
hội sẽ
xảy ra theo
bốn bước
tuần tự:
- Bước 1: Coi những tật xấu của Chủ nghĩa xã
hội là những tàn dư của các chế độ cũ.
- Bước 2: Coi những tật xấu của Chủ nghĩa xã
hội là hậu quả hư hỏng cá nhân của một số nhân
vật
lãnh đạo.
- Bước 3: Coi đó là sự phá sản của một mô hình
sai lầm của Chủ nghĩa xã hội.
- Bước 4: Cuối cùng sẽ là sự từ bỏ Chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng và từ bỏ Chủ nghĩa
xã hội
nói
chung.
Tiến trình bốn bước ấy đã và đang tiếp
diễn rất nhanh, thực tế đã gần xong giai đoạn ba rồi.
Đó cũng là
tiến trình cầm
cự như
trong
chuyện
'Con rắn
vuông' thôi, còn trong nhận thức lý luận khoa
học thật sự thì những kết luận đã có
thể được rút ra trực tiếp ngay từ đầu, chứ đâu
phải đợi để thực tiễn 'cưỡng chế' từng bước như
thế?
Nếu như nói về 'học thuyết' tôi đã bộc lộ
những suy tư phủ định, thì trái lại khi nói về Đảng
tôi lại
có những
suy tư
khẳng định.
Người
ta có thể
còn bàn
vcãi nhiều điều, nhưng không ai có thể phủ
định ba điều sau đây:
- Ngay ở thời kỳ thành lập, Đảng đã thu hút
được đông đảo những tinh hoa của dân tộc, những
tinh
hoa của
chủ nghĩa
yêu nước
Việt Nam.
- Người sáng lập và đứng đầu của Đảng, chủ
tịch Hồ-Chí-Minh, là một nhà yêu nước lớn,
một con
người tiêu biểu
cho tinh thần giải
phóng
dân tộc.
- Đảng đã có công tập hợp được sức mạnh truyền
thống của dân tộc để tiến hành thắng lợi cuộc
đấu tranh
giải phóng
dân tộc
khỏi ách
xâm
lược của
ngoại bang,
giành quyền Dân tộc tự quyết.
Vậy Đảng Cộng
sản Việt Nam là một thực thể xã hội có giá trị lịch sử tự thân.
Vấn đề đặt ra là: Tại sao một thực thể có giá trị tự thân, xuất thân từ
trong lòng dân tộc,
lại nhất
thiết
phải gắn
chặt số mệnh
của mình
với một
giả thuyết
ngoại lai mơ hồ, lủng củng trong lý luận,
thất bại trong thực tiễn xây dựng xã hội, đã bị
từ bỏ ngay
tại quê hương
của nó,
và chẳng
có mấy uy
tín trong
thế giới hiện nay?
Lịch sử hoạt động của
Đảng chứng minh rằng điều gì Đảng tự suy nghĩ, xuất phát từ dân
tộc, gắn
với dân
tộc thì
thắng
lợi, điều
gì xuất
phát từ lý
thuyết ngoại
lai về đấu tranh giai cấp và Chủ nghĩa
xã hội thì không thắng lợi. Nhân dân ta biết
rằng
Đảng đã
nhiều lần
đem cái Tâm
trong con người
Việt Nam
của mình
để 'điều chỉnh' bớt xu hướng cực đoan của
ý thức hệ! Đã nhiều năm nay mối liên kết
của
Đảng với
Chủ nghĩa
không
những không
làm tăng
mà còn
làm giảm
uy tín
của Đảng. Lý luận Marx-Lénine rất có lợi
trong việc động viên, tổ chức lực lượng
đánh giặc,
chống ngoại
xâm, nhưng
rất bất
lợi trong
việc
hòa giải dân
tộc, bất lợi trong việc xây dựng một xã
hội dân chủ pháp trị và kinh tế thị trường.
Tình trạng liên tục bị đô hộ về chính trị
và bị nô dịch về tư tưởng từ trước tới
nay đã
làm cho
con
người Việt
Nam chẳng
những
mất
quyền làm
chủ mà còn
mất dần tính tự chủ, mất phong thái đàng
hoàng của người chủ đất nước, mà biểu hiện
quyết
định nhất
là khả năng
ngồi lại
với nhau,
dẹp mối
bất hòa để chung
lo việc nước. Nếu không thực lòng thấm
thía điều này thì hôm nay dẫu có tổ chức
được
mười 'Hội
nghị Diên-Hồng'
cũng
sẽ chỉ
là 'Diên-Hồng'
giả!
Chỉ cần
ngồi lại được với nhau trong bầu không
khí khoan dung cho nhau, lắng nghe nhau
và tin
cậy lẫn
nhau, dân mình
sẽ có
thừa trí
tuệ để tìm
một
giải pháp
tối ưu
cho đất nước. Và trong cuộc hòa giải này
Đảng Cộng sản Việt Nam hiển nhiên là người
có vai
trò quyết
định.
Từ bỏ một ý thức hệ độc tôn ngoại lai,
không còn thích hợp với đất nước và thời
đại là
điều kiện
thiết yếu
để có thể
xóa bỏ
hận thù,
góp sức
chung lòng
đưa đất nước phát triển, là điều kiện thuận
lợi để hòa nhập vào thế giới chung, và
chỉ có thế
dân tộc
mới có
khả năng
thoát khỏi
sự o
ép của tư
bản nước ngoài.
Từ những nhận thức khoa học đã trình bày
ở các phần trên ta thấy rõ rằng chủ nghĩa
ấy
tất đẻ
ra những
quyền lực
biêt phái,
chuyên
chính,
kỳ thị
ý thức hệ,
không có khả năng thực hiện 'đại đoàn kết
dân tộc' trong giai đoạn xây dựng đất nước,
không
có khả
năng xây dựng
một xã hội
dân chủ
pháp trị
lành mạnh.
Cho nên trong giai đoạn lịch sử mới mẻ
này, nếu có người nào cố chấp, cố tình
đứng ra
'bảo vệ'
Chủ nghĩa
ấy (sau
khi đã
có đủ thông
tin),
thì ai
cũng hiểu
rằng đó chỉ là sự mượn học thuyết ấy làm
công cụ để giữ quyền lực độc tôn và lợi
ích riêng,
và như
vậy
thì không
thể là
người yêu
nước chân
chính
được. Chỉ có từ bỏ học thuyết ảo tưởng
và cực đoan đó Đảng ta mói tìm lại được
sức mạnh thực sự của mình trong
lòng dân tộc, làm cho nước nhà yên ổn và
phát triển. Đề nghị chân thành, nghiêm
túc và có cơ sở khoa học ấy không có chút
gì chung với thái độ thù
hận của
những kẻ phản quốc không hối cải, không
có gì chung với thái độ sùng bái Tư bản
nước ngoài, quỳ mọp trước túi tiền nước
ngoài, hoặc muốn có một xã
hội
lộn xộn để 'đục nước béo cò'.
Tóm lại,
Đảng có thể hoàn toàn trở về trong lòng
dân tộc mà không cần dựa vào một 'chủ
nghĩa'
tiên định
nào cả.
Tình hình
thế giới
ngày nay
đã cho
phép điều
đó, nếu Đảng vẫn giữ được sức sống như
Đảng mà Chủ tịch Hồ-Chí-Minh đã sáng lập.
Song
chất lượng
Đảng
hiện nay,
theo nhận định
của đồng chí
Lê-Phước-Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng
ban Tổ chức Trung ương thì: Bộ phận nòng
cốt (trung kiên) của Đảng hình thành trong
hai
cuộc
kháng chiến dần bị rời rã...
Số khá đông cán bộ Đảng, nhất là cán bộ
quan trọng ngày càng tỏ ra cơ hội, bè phái,
tham
nhũng, vét
gấp..., bệnh
dân chủ
hình thức
đi
đôi với
thói
xấu trấn áp dư luận quần chúng và trả thù
những người nói thẳng bằng những thủ
đoạn ám muội. Cán bộ dảng viên thoái hóa
biến chất tăng lên đến mức độ hầu như khó
lòng mà
ngăn chặn
được. Những
đồng
chí đã
được thử
thách, có trình
độ chính trị vững vàng, có kiến thức và
kinh nghiệm phong phú, có đạo đức trong
sáng,
chỉ vì không
đồng tình với
những sai
lầm mà đã
bị (bọn
bè phái)
nhanh
chóng
tháo gỡ và đã bị vô hiệu hóa bằng nhiều
thủ đoạn ma giáo... Tóm lại, Đảng ta đang
suy yếu nghiêm trọng
và chưa bao giờ suy yếu như hiện nay. (Trích
từ lời phát biểu của đồng chí Lê-Phước-Thọ,
tháng 6, 1992).
Nhận định ấy khá sát với
thực tế và sát với nhận định của dân chúng.
Người dân
không
thể không
tự hỏi: Vậy
những
dảng viên
trung kiên,
chân chính
có coi Đảng hiện nay là đại hiện chân chính
của mình hay không?
Ngưòi có tư duy bình
thường nào cũng phải liên hệ tình hình ấy với tình hình của
thế giới
Cộng sản
và nhận
ra rằng sự
sa sút
của các
Đảng đều
bắt nguồn
từ sai lầm của học thuyết mà Đảng trung
thành, nên một đội ngũ xưa là tinh hoa
của dân tộc
mà nay trở
nên 'suy
yếu nghiêm
trọng'
như
thế. Từ
bỏ học
thuyết ấy hiển nhiên là điều kiện tiên
quyết để Đảng có thể tự chỉnh đốn và
hồi phục
sức sống. Nhưng ở tình trạng đã sa sút
như hiện nay thì một điều kiện ấy chưa
đủ. Phải
tiếp sức
sống
cho Đảng
bằng sức
sống vô
tận từ trong
cộng
đồng dân
tộc. Muốn vậy chỉ có cách là Đảng phải
giã từ với kiểu 'dân chủ hình thức' cố
hữu của
mình
mà đồng
chí Lê-Phước-Thọ
đã
phê phán,
để tiêp
tận được
với nguồn sống bên ngoài Đảng, trước
hêt sửa đổ cách tiến hành bầu cử hình thức
và 'vi hiền' hiện nay (dân không được
bầu trực tiếp như hiến pháp quy định, mà bầu
sau hai
ba vòng thanh
lọc
bơỉ các ban
địa phươnh
không
do dân bầu)
và thực hiện quyền tự do báo chí, tự
do tư tưởng (mà biểu hiện đầu tiên dễ thấy là
sự chấp nhận có ý kiến đối lập). Đấy
là bước đầu tiên, nhưng cũng là rào cản khó
vượt qua nhất mà lịch sử và
Tạo hóa đã dựng ra để thử thách tầm của
dân tộc, là chìa khóa mở tấm cửa ngăn
khu chợ trời với tòa nhà văn minh. Chìa khóa
thì không ăn được, và phải
vất
vả nữa mới có, còn những thứ ăn ngay
được mà ta đang khao khát và chiếc ghế mềm hạng
bét mà ta có thể khoan khoái ngả lưng
thì đã bày sẵn trước mặt,
sa vào đó rồi thì không bao giờ kiếm
lại được chiếc chìa khóa kia đâu! Có hạnh
phúc nào lại 'nhanh, nhiều, tốt, rẻ'
bao giờ?
Có người lo sợ: Bỏ chủ nghĩa thì loạn
ngay! Điều ấy chỉ đúng với những dân
tộc không
thể tự chủ,
không biết mình
đã bị
lưu manh
hóa, không
có nhu cầu
tự thắng mình để thoát khỏi lưu manh!
Một dân tộc như
thế thì rõ ràng chỉ đáng làm nô lệ!
Nhưng một dân tộc đã biết nêu cao chân lý: Không có gì quý hơn Độc lập,
Tự do thì dân
tộc ấy nhất
định
phải
tìm được
cách để
đến với
Độc lập
và Tự do
đích thực. Trong thế giới hôm nay
chúng ta hiểu rõ rằng: Đánh đuổi hết ngoại
xâm rồi
chưa chắc
đã có
Độc lập thực
sự, nước
đã có Độc
lập (...)
rồi chưa
chắc dân đã có Tự do. Một dân tộc
biết chết cho Độc lập chưa chắc đã biết
sống cho Tự
do. Chủ
tịch Hồ-Chí-Minh
chẳng những
lo nạn
ngoại xâm mà còn
lo nạn
'nội xâm' cho dân nữa ('nội xâm'
là chữ dùng của Hồ Chủ
tịch) nên đã
nói: Nếu nước Độc lập mà dân không
hưởng Hạnh phúc Tự do thì Độc lập
cũng không
có nghĩa
lý gì! Bọn Khmer đỏ tàn sát hàng
triệu đồng bào của chúng cũng vẫn trong khuôn
khổ một
nước Độc
lập,
có quyền 'Dân
tộc tự
quyết' đấy
chứ! Mặt
khác chúng ta
cũng biết rằng Tự do tản mạn và Tự
do vô chính phủ chính là mảnh đất
tốt cho
sự
Độc tài nên
thường được
Độc tài
nuôi dưỡng
để
vô hiệu hóa
Tự do
chân chính.
Năm 1946, từ dân một nước nô lệ (một
tờ đơn xin giấy thông hành của
người dân mù
chữ
cũng phải
nhờ viết
bằng tiếng
nước ngoài)
chúng
ta đã xúc
động biết
bao khi được viết lên đầu trang
giấy:
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc
(Dân tộc) (Dân quyền) (Dân sinh)
Đó là mục tiêu của một dân tộc
đã đứng lên đòi quyền sống,
cái mục
tiêu khiêm
tốn, bình
dị,
dễ thương
nhưng cũng đủ
để cả một
dân tộc
phấn đấu
trong vài
thế kỷ. Còn chủ nghĩa Marx-Lénine
ngay từ đầu đã được Nguyễn-Ái-Quốc
coi là
'con đường',
là phương
tiện,
là 'cái cần thiết cho
chúng ta' thì nó
không thể
quý hơn chính 'chúng ta' được!
Đảng đã đưa Dân tộc sang bờ
Độc lập và đang cùng Dân
tộc dấn
bước trên
con đường
đến
Tự do, Hạnh
phúc. Đường
đi
có cả loài
người,
đâu phải
một mình ta.
Những quy luật tiến hóa là
chung cho cả Thế giới, những
thành
tựu của nền
văn minh
chung,
đặc biệt
là về tổ
chức xã hội,
đã bày ra
ai cũng
thấy rõ,
bài học
cay đắng của 'chủ nghĩa biệt
phái' chẳng phải đang còn
nóng hổi đó
sao? Tổ quốc
Việt Nam
là chung
của mọi ngưòi
Việt
Nam, không
một
lực lượng
chính trị
nào có thể độc quyền yêu
Tổ quốc.
Ta biết ơn chiếc thuyền nan
đã đưa ta qua sông, nhưng
sang bờ
rồi mà
cứ cắm
cúi mang
'chiếc
thuyền mác-xít
chỉ huy'
trên lưng
như
cái mai
rùa thì
tránh
sao khỏi bị người ngoài
đàm tiếu và người thân nghi ngờ
rằng có
sự che
đậy hoặc
cất giấu cái
gì trong
đó? Cái
'hành trang
khác
người'
ấy quả
thực không
còn ích lợi gì cho Dân
tộc, có chút bỏ được mới mong
tự giải
thoát, để
được
lâng lâng
nhẹ nhàng,
rảo bước
cho kịp
bạn
bè trên đường
thiên lý...
Những ngày tháng 5 năm
1993
Hà Sỹ Phu
Nơi gửi:
- Tạp chí Cộng sản
- Viện Marx-Lénine
- Trường Nguyễn-A'i-Quốc
- Những bạn bè quan tâm
đế vấn đề lý luận
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |
|