"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Bài Viết Mới
Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội
(Mạn đàm cùng các ông Lê Hồng Hà , Bùi Tín, Võ Văn Kiệt)
- Phần I: Mấy lời trước khi tham luận
- Phần II: Mấy nhược điểm chính trong tính cách của dân tộc ta, và
cách ứng xử cần thiết hiện nay
- Phần III: Mác-Lênin là cái nền móng không dùng được nữa
- Phần IV: Nhân vật lịch sử Phan Chu Trinh và những bài học cho
hôm nay
Phần II: Mấy nhược điểm chính trong tính cách của dân
tộc ta, và cách ứng xử cần thiết hiện nay
Người Việt mình bản tính chỉ ưa những gì thiết thực. Nhưng ưu điểm ấy
thái quá thì thành thực dụng, tiện dụng. Trong bộ ba Chân Thiện Mỹ ta
thường say mê Thiện và Mỹ, trong đó Thiện là tốt, là tử tế, là có ích,
có lợi. Mỹ là cái đẹp. Thiện và Mỹ thì dùng được ngay, thưởng thức được
ngay. Còn Chân là để biết cái thực chất, cái bản chất của sự
vật đúng như nó vốn có, thì phải truy nguyên, truy cứu đến cùng;
việc này rất tốn công lại thường gây rắc rối nên số đông thường tránh
né, thường bỏ ngoài tai.
Việc truy nguyên, truy cứu ấy ta thường “nhường” cho người khác, cho
những người “dư lực”, cho những nước giàu có-văn minh, hoặc giả lại
khoán trắng cho người có quyền. Sự lảng tránh, không chịu mất công tìm
cái gốc sâu xa ấy một phần do tính khôn lỏi, một phần do mặc cảm tự ty,
ngại khó, không dám bỏ công thiết kế cái nền tảng cho mình, cứ nương
theo cái nền có sẵn mà phụ hoạ, mà khai thác thôi. Cái gì đã có sẵn, đã
du nhập vào, đã thành chính thống là chấp nhận hết, tận dụng hết, nếu
thấy có gì còn chênh, còn sượng, thì xào xáo lại, hoặc cố kê cho bằng,
cố chắp nối vào cho khớp. Vì thế mà không thể có một tư tưởng cho ra tư
tưởng, một cái nền nào cho ra cái nền.
Nhặt một chút Lão, một chút Khổng, một chút Thích Ca, một chút Giê-su,
một chút Tôn Trung Sơn…, lại gò hết cả vào cho lọt cái chảo Mác-xít thì
thành tư tưởng sao được? Một sự kết hợp chủ động và có sàng lọc thông
minh, sáng tạo như của Phan Chu Trinh là trường hợp hiếm thấy (xin đề
cập nhân vật lịch sử này trong một mục khác).
Người Việt mình tuy rất thông minh, nhạy cảm nhưng chỉ giỏi thứ văn thơ
“tầm tầm”, chơi vơi, mà không đóng góp được cho nhân loại một triết gia
hay một nhà bác học nào về khoa học chính xác là bởi cái tính lưng
chừng, không triệt để ấy. Khi cái Thiện cái Mỹ đã đứng trên cái nền vay
mượn, thì văn hoá khó thoát khỏi tính chất ký sinh, mà chính trị cũng dễ
bị trào lưu đưa đẩy. Người cầm cờ thì chạy theo trào lưu, nhân dân thì
đổ xô theo người cầm cờ. Thế là cả cộng đồng không biết nắm đằng chuôi,
cứ nắm đằng lưỡi (lưỡi là bộ phận hào nhoáng, tiện dùng), thì bị người
ta “dắt tựa trâu bò” (lời thơ Hồ Chí Minh) là lẽ đương nhiên, đã dính
vào rồi thì về sau có tỉnh ngộ ra cũng không cưỡng lại được nữa, cưỡng
lại thì đứt mũi, đứt tay.
Người thực dụng, cảm tính, ăn xổi như vậy trước mắt tưởng là khôn nhưng
suốt đời mắc những cái dại lớn. “Hớt váng nổi” mãi cũng không được, hớt
mãi sẽ cạn và đụng đến cái bế tắc. Khi bế tắc đáng lẽ phải đi lại từ
đầu, nhưng vốn không có sự kiên trì dũng cảm ấy nên đương nhiên lại chọn
cách sửa chữa vá víu, tu sửa vặt, thế là mãi mãi không có một cái nền
nào vững chắc.
Nền không vững thì nhà không thể xây cao, Tư tưởng không được định hình
vững chắc và chính xác thì dân tộc không thể đi xa. Đến những việc trọng
đại của dân tộc mình, không ai làm hộ được mà ai cũng “khoán trắng” cho
người khác thì mong chi làm chủ được cơ đồ? Hàng nghìn năm phụ thuộc
Trung Quốc là do phụ thuộc về ý thức hệ. Mấy chục năm phụ thuộc phe xã
hội chủ nghĩa cũng vì phụ thuộc ý thức hệ. Đến bây giờ dân phụ thuộc vào
Đảng cũng vì bị ý thức hệ dắt đi. Cái giá phải trả cho sự ỷ lại, lười
nhác về tư duy là như vậy đấy.
Khi nhấn mạnh vai trò nền tảng của tư tưởng, phải hiểu rằng ai chiếm
lĩnh được nền tảng ấy là làm chủ được xu thế xã hội. Có tư tưởng đúng
mới xây dựng được một dân trí cao.
Một dân tộc không có tư tưởng hay coi nhẹ tư tưởng thì cũng tự đánh
mất luôn quyền làm chủ xã hội của mình.
Ngược lại, áp đặt một tư tưởng cho nhân dân, dẫu cho tư tưởng ấy ca
ngợi dân lên đến tận trời, thì cũng là huỷ diệt tận gốc khả năng làm chủ
của nhân dân. Chỉ cần trói buộc được một người về tư tưởng thôi là
cơ bản đã trói buộc xong con người đó, đảm bảo họ chỉ cựa quậy quanh quỹ
đạo ấy, mọi sự cải thiện về sau cũng chỉ là vớt vát.
Chỉ với một tư tưởng “trung quân” (bởi “quân” là đấng Thiên tử - con
Trời, thay Trời trị dân) mà vua chúa chiếm được hết cả sơn hà xã tắc.
Thần dân bị mất sạch sành sanh vào tay vua chúa, thế mà chỉ cần một câu
nói xạo “dân vi quý, quân vi khinh”, hay một chén rượu thưởng, một mảnh
giấy khen… là sướng run lên đến quên hết sự đời. Khốn nạn thay!
Dân phẫn nộ, có vùng lên thì xương máu góp lại cũng xây đắp nên một ngai
vàng mới, còn tệ hơn ngai vàng cũ. Bởi vấn đề gốc rễ không phải là
thay một ngai vàng, mà phải thay một tư tưởng!
Không cần tư tưởng tâng bốc nhân dân, vô ích! (Nghịch lý là muốn thương
dân thì đừng nhìn chăm chăm vào dân làm gì mà hãy để mắt nhìn vào kẻ trị
dân!) Chỉ cần kẻ trị dân không được độc quyền, buộc phải phân quyền, vì
độc quyền sẽ dẫn đến lạm quyền vô hạn. Thế thôi, lão vua nó bảo nó sẽ tu
thân, nó sẽ thương dân, nó sẽ hy sinh hết cho dân, nó chỉ muốn làm đày
tớ của dân, ngoài ra nó không có lợi ích nào khác? Mặc nó, không nghe
làm gì! Chỉ cần nó chịu phân quyền, nó không được độc quyền cai trị, khi
nó sai trái dân có thể phế truất. Muốn phế truất được thì dân phải nắm
đằng chuôi. Muốn nắm đằng chuôi thì cái triết lý trị dân, tức cái tư
tưởng chính trị phải do dân lựa chọn.
Cụ Hồ đã chọn một con đường cách đây ngót một thế kỷ, trong một ý thức
không mấy đầy đủ
[5] , nay tuyệt đại bộ phận các nước, nhất là các nước
văn minh, đều xác nhận con đường ấy là sai, thì phải đặt vấn đề ấy công
khai lên bàn cho toàn dân tộc thẩm định một cách dân chủ. Nếu trước chọn
chưa đúng thì nay dân chọn lại, dân là chủ thì việc tối hệ trong này
phải do ông chủ quyết định, chứ không thể nhường cái quyền lựa chọn ấy
cho “Bác Hồ” hay cho bất cứ ai. Nhưng các giới cầm quyền trong các nước
xã hội chủ nghĩa đã “vớ” được một chủ nghĩa cực kỳ béo bở nên không muốn
rời ra nữa (sao Mác thương người lao động mà lại nghĩ ra cái chủ nghĩa
làm khổ người lao động đến thế? Hãy so sánh đời sống người lao động ở
các nước theo chủ thuyết Mác với các nước tư bản xem ở đâu tốt hơn, hãy
mở cửa xem người dân chạy từ đâu sang đâu?). Mà dân mình thì đã nhiễm
cái bệnh thâm căn cố đế là thiếu tinh thần tự chủ nên cứ tiếp tục để bị
dắt đi, như thể chẳng có gì quan trọng xảy ra hết!
Đến đây, tôi xin phép dừng lại một chút, bàn về ý thức làm chủ của người
Việt mình. Sự vùng lên đánh giặc với ý thức làm chủ là hai thứ khác nhau
một trời một vực, một thứ là bản năng sinh tồn của kẻ bị mất nước, một
thứ là ý thức xã hội của công dân một nước độc lập. Truyền thống ỷ lại,
phụ thuộc, chiều lòng cấp trên của người Việt đã hun đúc nên cái đức “tự
kiểm duyệt” rất tuyệt vời. Chưa cần cấp trên ra lệnh hoặc cấm đoán mà
mình đã thông minh, nhanh trí, tưởng tượng xem tâm lý cấp trên muốn gì
để mình tự thực hiện trước. (Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, sự
ngoan ngoãn đi trước là sự khôn ngoan của “thánh nhân” đấy!)
Điều kỳ lạ là kẻ bị trị lại nhanh nhảu thử đặt mình ở địa vị kẻ thống
trị, xem là cấp trên thì muốn điều gì, không muốn điều gì, để mình tự
giác thực hiện. Nhiều “trí thức cách mạng” đã là kẻ đi đầu trên con
đường nô dịch này: nhà nước chưa hề đặt quy chế kiểm duyệt mà nhà văn
nhà báo đã tự xếp hàng đi đều tăm tắp trong hàng quân văn nô không chút
sơ suất! Văn hào Nga Mikhail Alexandrovich Solokhov đã tự hào về sự tự
kiểm duyệt như sau: “Tôi viết theo mệnh lệnh trái tim, nhưng trái tim
tôi thuộc về Đảng” (chứ Đảng đâu cần ra lệnh cho tôi?). Trái tim vẫn
nằm trong lồng ngực nhưng đã được nhà văn “chuyển giao” cho Đảng, một
quy luật của tình yêu (si tình “xin chết” cho người mình yêu) đã vào
chính trị một cách ngọt ngào. Không phải chỉ những bài viết, những tác
phẩm, mà cả những cuộc đời cũng được tự kiểm duyệt cho “phải đạo”! Tôi
chợt hiểu ra một thuật chính trị: Muốn đánh lừa người khác thì tốt nhất
là làm thế nào cho họ tự đánh lừa họ, bằng cách đó họ sẽ tiếp tục giúp
mình đánh lừa những người khác nữa, tạo nên một phản ứng dây chuyền! Nhà
thơ Bùi Minh Quốc gọi mẹo ấy là “biến cuộc trấn lột thành một cuộc hiến
dâng tự nguyện”.
Cũng nhà thơ Bùi Minh Quốc, trong bài viết “Một
mình một phiếu”
[6] mới đây đã phát hiện thói “tự kiểm duyệt” của phần
đông người Việt trong việc bầu cử: Chỉ có một mình trong phòng kín với
lá phiếu trong tay mà không làm chủ được mình, vẫn luôn bỏ phiếu cho
những kẻ mà lúc thường ngày mình vẫn không coi ra gì vì tội tham nhũng!
Nếu lúc ấy mình gạch tên ấy đi thì có ai làm gì mình đâu? Cái thói tự
kiểm duyệt đã thành tự kỷ ám thị đưa con người vào tình trạng bị thôi
miên. Mà tôi xin nói: Đảng đâu có bảo anh làm như thế, làm thế Đảng còn
“mắng” cho là đằng khác! Đảng vẫn nói: “Đảng đem lại quyền làm chủ cho
dân, làm chủ gồm có làm chủ bản thân trước rồi mới làm chủ xã hội!” Thế
mà lúc “một mình một phiếu” trong phòng kín mình lại không “làm chủ bản
thân” thì tức là mình làm ngược ý Đảng chứ? Nhưng, một người dân khẽ bảo
với tôi: Thôi ông ơi, cứ “làm ngược” thế mới là xuôi đấy ông ạ! (Người
dân nào cũng làm y như mình rất am hiểu về khoa “Tâm lý Đảng” mới lạ!
Tài thế!). Không chỉ người dân thường, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ có
tên tuổi cũng thường có những ứng xử rất “xoàng”, rất không xứng, mặc dù
chẳng có sức ép gì đến mức phải chọn cách ứng xử như vậy. Cũng là một
kiểu tự kiểm duyệt an toàn quá mức cần thiết đấy thôi.
Không ít người còn có suy nghĩ đơn giản: Trước mắt hãy cứ phát triển
kinh tế, chính trị-tư tưởng là chuyện đường xa, chưa cần. Thậm chí còn
coi chính trị-tư tưởng là cổ lỗ. Những bạn trẻ đề cao kinh tế-kỹ thuật
ấy tưởng như thế là trí tuệ, là hiện đại, nhưng thực ra đó là trí tuệ
nông cạn, cũng không khác gì tính thực dụng của người ít học. Bất cứ một
sự nghiệp lớn, một công trình lớn nào cũng đòi hỏi trước hết một cái nền
“triết lý” của nó, đó là sợi dây vô hình để sâu chuỗi tất cả mọi người,
mọi điều, mọi việc.
Tiến sĩ Vũ Minh Khương (Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học
Quốc gia Singapore), sau khi khảo sát hàng loạt những chỉ số kinh tế-kỹ
thuật của Việt Nam, so sánh với Trung Quốc và nhiều nước khác, cuối cùng
đi đến kết luận: “Thế nhưng, đột phá không bắt đầu từ cố gắng sửa đổi
một vài thủ tục hành chính, hay biện pháp đốc thúc quyết liệt một số dự
án trọng điểm, mà phải khởi đầu từ một
TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN”
[7] . Triết lý ở đây là một hệ thống những quan niệm khoa
học và linh hoạt, giúp con người có một nhãn quan xa, rộng và hài hoà,
làm cơ sở để tiếp tục chọn lọc không ngừng, không hề có tính chất khuôn
mẫu như một chủ nghĩa. Chủ nghĩa mới là thứ lạc hậu, cổ lỗ, bởi không
một chủ nghĩa nào, do một đầu óc siêu việt nào nghĩ ra, mà trụ nổi trong
thế giới ngày nay, thế giới mà tất cả những bộ óc của nghìn triệu con
người đã được nối thông sang nhau bằng Internet! (Muốn cứu sống một chủ
nghĩa nào đó đương nhiên người ta nhận ra kẻ thù là Internet và muốn
khống chế nó, nhưng làm sao “lấy chỉ mà buộc chân voi”?).
*
Trong khi rất dễ dãi, lơ mơ, đại khái cho qua trước những vấn đề lớn thì
người Việt lại thường sắc sảo, tỉ mỉ, xét nét, chặt chẽ, chấp nhặt, khó
châm chước cho nhau trong những vấn đề nhỏ, thậm chí chỉ là tiểu tiết
trong những vấn đề quan hệ, đời sống cá nhân. Vì thế người Việt vừa đặc
trưng ở tính cách ôn hoà, nhu thuận lại vừa đặc trưng ở tính phân tán,
nhỏ nhặt, ganh tị, võ biền, ham đánh nhau. Dân ta bộc lộ được hết ưu
điểm nếu trước mặt có một kẻ thù xâm lược, nhưng lại bộc lộ hết nhược
điểm khi cần hiệp lực trong tự chủ và phát triển. Dễ chia sẻ với nhau
trong đau thương hoạn nạn nhưng khó chia sẻ hạnh phúc vinh quang. Cứ
phải có kẻ thù mới mạnh lên được, hết kẻ thù là nhược điểm lại hiện ra!
Ở điểm này thì tính cách dân tộc và tính cách của chủ nghĩa Mác-Lênin tỏ
ra tương hợp, cộng hưởng với nhau. Hình như chủ nghĩa Mác được viết ra
chủ yếu là để cho người Việt chúng ta vậy!
Bản năng sinh tồn cao, nhưng nặng về thích nghi, và thích nghi quá
“nhạy” nên dễ pha tạp, hầu như không có gì thuần chủng. Không bao giờ
rành mạch, không thể rành mạch, hoặc không thích rành mạch. “Làm tài
trai cứ nước hai mà nói”, “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ
dại nửa mừng nửa lo”, “Nói dzậy mà không phải zdậy”, cứ nhũng
nhẵng thế mà “vô địch” đấy, mặc dù vô địch kiểu này thì cũng khó đứng
lên thành “người lớn” được. Luật pháp gì cũng pha chất “cao su” cả, tính
luật thì ít, chất “mẹo” thì nhiều. Sự chọn lựa không phải giữa đúng và
sai (bản chất nó là cái gì không quan trọng), mà chỉ tính toán cái nào
có lợi nhất, hoặc trước mắt thấy “ngon xơi” nhất, hoặc khó diệt nhất, mà
những giá trị này thì thay đổi hàng ngày hàng giờ theo tình hình. Vì thế
khó lòng có một “gien trội” thuần chủng nào có điều kiện ổn định lâu dài
để định hình và phát triển được trong tính cách Việt Nam. Đó là một thể
nhão vô định hình, không phải thể lỏng, không phải thể rắn, cũng
không phải thể khí.
Một biểu hiện khác của tính nhập nhằng là sự “hiểu ngầm”: không chính
thức đề cập đến mâu thuẫn cũ, tội lỗi cũ, mà dùng một cử chỉ thân thiện,
một món quà… để hiểu ngầm rằng đã đổi mới, đã phục thiện, có thể rũ bỏ
chuyện cũ, xuý xoá chuyện cũ. Cách ứng xử ấy là rất tốt trong những quan
hệ tình cảm gia đình, họ hàng, bè bạn, trong đó lòng nhân ái và tin nhau
là chính. Nhưng lạm dụng cách ứng xử “chín bỏ làm mười” ấy trong việc
điều hành xã hội, trong những việc đòi hỏi pháp lý rành mạch thì sự nhập
nhằng ấy khiến cho muốn hiểu thế nào cũng được, tiến lui thế nào cũng
được, chẳng có gì ràng buộc. Trong việc điều hành đất nước, muốn sửa tận
gốc một lỗi lầm có tính căn bản, nhất là lỗi lầm do ý thức, thì phải
phân tích và nhận diện lỗi lầm ấy ở nguyên dạng, chưa bị sự thích nghi
khôn khéo làm nhòe đi (trong bệnh tật, việc dùng thuốc an thần, giảm đau
nhiều khi che giấu mất nguyên nhân, cản trở việc chẩn đoán). Phải đi đến
những kết luận chính thức, công khai, không thể hiểu ngầm! Đấy không
phải là sự cố chấp, bới lông tìm vết mà là phẩm chất minh bạch, khoa
học, quân tử và thực lòng cầu tiến, rất cần cho một xã hội văn minh quy
củ. Không dám minh bạch đối với quá khứ chính vì chưa thực lòng đối với
hiện tại.
Muốn đổi mới đất nước không thể không chiến đấu chống lại những “ưu
điểm” nhũng nhẵng rất “quái chiêu” kể trên. Nhưng ngặt nỗi đó là những
tính cách đã khắc sâu vào dân tộc, như những ưu điểm mấy nghìn năm để
tồn tại (Mặt tích cực, mặt ưu điểm của những tính cách này đã được ông
Lê Hồng Hà nói rõ trong bài “Thử
đi tìm phong cách tư duy Việt Nam”
[8] ), nay muốn cải tạo mặt tiêu cực của nó thì những
người đổi mới thoạt tiên phải thích nghi với nó, vừa hoà đồng vừa cải
tạo nó, chứ “húc” thẳng vào nó là thua đấy! Nghĩ rằng một khi hoà nhập
vào thế giới minh bạch thì đặc điểm này ắt phải chấm dứt ngay là suy
nghĩ đơn giản kiểu học trò.
Môn “Hiệp khí đạo” thật là tài: Nương theo động tác của đối phương mà
đánh đối phương, nghệ thuật là phải chọn tư thế làm sao cho chính lực từ
đối phương phát ra được chuyển thành lực chống lại đối phương. Đối
phương càng ra đòn mạnh bao nhiêu càng tự hại mình bấy nhiêu. Phong trào
cộng sản từ chỗ tay không mà giành chiến thắng là nhờ biết “lấy vũ khí
của địch mà đánh địch, lấy gậy ông để đập lưng ông”, bài học ấy đáng suy
ngẫm lắm, sâu sắc lắm.
[1]Võ Văn Kiệt: "Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý
luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới" (http://ykien.net/tl_viettrung90.html)
tháng 9-2006
[2]Bùi Tín: “Những vấn đề cần làm rõ về cách mạng dân tộc
dân chủ ở Việt Nam”, 24.3.2007 (www.talawas.org/talaDB/talaDBFront.php?rb=0401)
[3]Nội dung bóc băng cuộc điện thoại giữa ông Lê Hồng Hà
và Hà Sĩ Phu ngày 10-3-2007 (www.hasiphu.combaivietmoi_08.html
)
[4]Nghị quyết 1481 / Resolution 1481 (2006) - Need for
international condemnation of crimes of totalitarian communist regimes:
http://assembly.coe.int/Mainf.asp?link=/Documents/AdoptedText/ta06/Eres1481.htm
[5]Hà Sĩ Phu: “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại” (www.hasiphu.comll04.html)
[6]Bùi Minh Quốc: “Một mình một phiếu”
(talawas 10.4.2007:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9711&rb=0401)
[7]“Triết lý phát triển: Vai trò tiên phong của hệ thống”
(http://www.canhen.de/index.php?id=123&tx_mininews_pi1[showUid]=12452&cHash=342aa86814
)
[8]Lê Hồng Hà: “Thư gửi… của ông Lê Hồng Hà”
(http://doi-thoai.com /baimoi0407_244.html)
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|