Bài Viết Mới
Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội
(Mạn đàm cùng các ông Lê Hồng Hà , Bùi Tín, Võ Văn Kiệt)
- Phần I: Mấy lời trước khi tham luận
- Phần II: Mấy nhược điểm chính trong tính cách của dân tộc ta, và
cách ứng xử cần thiết hiện nay
- Phần III: Mác-Lênin là cái nền móng không dùng được nữa
- Phần IV: Nhân vật lịch sử Phan Chu Trinh và những bài học cho
hôm nay
Phần IV: Nhân vật lịch sử Phan Chu Trinh và những bài học cho hôm nay.
A.
Con đường dẫn ta về với Phan Chu Trinh.
Trong những nhân vật
lịch sử của dân tộc ta hồi đầu thế kỷ 20, gắn liền với cuộc đấu tranh
chống Pháp, có ba nhân vật đặc biệt mà tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn cả là
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh.
Nói về tinh thần
đánh Pháp và đi đến thành công thì nổi bật nhất là Hồ Chí Minh, rồi đến
Phan Bội Châu, rồi mới đến Phan Chu Trinh, vì hai vị trên chủ trương
dùng bạo lực đánh Pháp ngay, còn PCT lại bắt đầu bằng sự tiếp xúc ôn
hoà với Pháp. Ấn tượng PCT để lại trong đầu chúng tôi chỉ là hình ảnh
một nhà nho nghĩa khí không sợ Côn Lôn (nhà tù của Pháp), một bức thư
“thất điều” kể tội vua Khải Định, một cái án tử hình sau giảm thành lưu
đày chung thân, vài hoạt động nhân quyền ở Pháp, một số văn thơ yêu
nước, và đặc biệt là đám tang lịch sử khơi dậy một cao trào đấu tranh
toàn quốc, thế thôi, chẳng mấy ai chú ý đến vấn đề tư tưởng. PCT mặc dù
vẫn được kính trọng song đối với chúng tôi quả thực chưa có gì thu hút
lắm .
Nhưng từ khi biết
vươn ra khỏi “tháp ngà” chuyên môn của mình để suy nghĩ và viết ra những
ưu tư về tình hình đất nước, chúng tôi mới thực sự để tâm tìm đọc Cụ
Phan (PCT).
- Điểm khởi thủy
dẫn chúng tôi đến với PCT là từ hai chữ “Dân trí”. Nhất định trước hết
phải khai thông dân trí,mà “tổ sư” đề cao dân trí là PCT. “Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, Cụ đưa dân trí lên hàng
đầu trong chiến lược hành động!
- Điểm thứ hai là
phương pháp đấu tranh ôn hòa bất bạo động,
hơn thế còn lợi dụng những yếu tố tiến bộ của chính nước Pháp là kẻ đang
cai trị mình để dần dần thoát khỏi thân phận bị cai trị. Điểm này cũng
đang lặp lại với hoàn cảnh Việt nam hiện nay. Đây chính là thủ pháp “hiệp
khí đạo” đây, nhìn bề ngoài nó giống như sự mềm yếu xin xỏ vậy, điểm
khác nhau là ở chỗ lợi dụng sự “cầu hòa” ấy để tranh thủ nâng cao dân
trí, tự lập tự cường, nâng trình độ văn minh của dân mình lên. Nâng cao
được dân trí là củng cố được hậu phương, gây lại được sức mạnh cho mình.
Có nội lực cao cường rồi thì lật ngược thế cờ lúc nào chẳng được? Dân
trí chưa cao thì dân chưa đủ năng lực làm chủ, có đem máu xương đổi lấy
chính quyền ngay thì dân cũng không làm chủ được chính quyền ấy, và rút
cuộc dân lại chuốc lấy một kẻ áp bức khác thôi.
Phan chu Trinh hơn hẳn
những người đương thời ở suy nghĩ ấy. Chúng tôi khâm phục và coi cụ Phan
như người Việt nam đầu tiên tiếp cận phương
pháp chuyển đổi xã hội bằng con đường văn minh nhất , mà ngày nay gọi là
phương pháp “Diễn biến hòa bình”.
- Nhưng như thế
chưa đủ. Điều quan trọng có tính xuyên suốt là phải
có một Tư tưởng,
vì sự nghiệp lớn nào chẳng cần một triết lý để quán xuyến và làm nền cho
dân trí.
Những chân lý phổ quát
đã phổ biến trên thế giới là một chuyện, có Việt hóa được chân lý ấy để
tạo ra sức mạnh lôi cuốn dân tộc, đủ sức chống lại những thiên hướng sai
lầm hay không, thì không phải dễ. Đem những hạt giống tư tưởng ưu việt ở
nơi khác gieo vào mảnh đất Việt nam chắc gì đã mọc, hay mọc rồi cũng còi
cọc lụi tàn? Đâu có thể sang “Tây trúc” hay “Mỹ trúc” gì đó để thỉnh
kinh?
- Thử điểm lại chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác tuy là ngoại lai
nhưng trước đây vào được Việt nam vì nó bắt rễ rất nhanh vào lòng khát
khao đổi đời của người bị trị cùng khổ, nay tình hình đã đảo ngược, nếu
những người bị trị cùng khổ lại tiếp tục áp dụng nó thì lịch sử sẽ lặp
lại một chu kỳ nữa chăng?.
“Tư tưởng Hồ Chí
Minh” xuất hiện mấy năm gần đây có ưu điểm là giống “local” nhưng khốn
nỗi lại là cái không có thật , mới chế biến ra thôi, thực chất vẫn là
hạt giống “quốc tế 3” là hạt giống hiện nay đã bị loài người gạt ra ngay
tại mảnh đất quê hương của nó.
Không phải cứ chấp
nhận có “Tư tưởng HCM” mới là yêu quý cụ Hồ, có khi còn ngược
lại. Làm người thì trong đầu ai cũng có tư tưởng (hiểu theo nghĩa đó thì
cụ Hồ cũng có tư tưởng như 80 triệu người dân thôi) , nhưng nói “Tư
tưởng Hồ Chí Minh” là dùng đến một thuật ngữ , xác nhận cụ Hồ là một nhà
tư tưởng. Chính cụ Hồ không nhận mình là nhà tư tưởng là rất đúng. Những
điều cụ Hồ suy nghĩ thực ra không có gì vượt khỏi tư tưởng Mác-Lênin,
mà chỉ nằm gọn trong tư tưởng ấy. Chưa có độc lập thì phải giành độc
lập, rồi đi theo tư tưởng Mác-Lênin thì vẫn là tư tưởng Mác-Lênin thôi,
không phải vì thế mà coi là sự “kết hợp” để thành một tư tưởng mới.Vận
dụng thêm một số suy nghĩ có tính nông dân hay tính Khổng giáo thì chỉ
là sự cộng hưởng để tô đậm thêm tính chất phong kiến cũng vốn có sẵn
trong tư tưởng Mác-Lênin, như đã phân tích ở phần trên.
Thành công của cụ Hồ
Chí Minh một phần lớn thuộc về phương pháp, đặc biệt là phương pháp vận
động quần chúng. Cũng giống như cụ Phan, cụ Hồ cũng phải phê phán những
nhược điểm của tính cách dân tộc và ngay từ đầu đã thấy tầm quan trọng
của dân trí, và là người đầu tiên coi sự “dốt” là “giặc”.
-
Chỉ có tư tưởng của “Quốc tế 2”, tức tư tưởng
Dân chủ Xã hội là kết hợp được mấy yêu cầu cơ bản, làm đòn
bẩy để xây dựng và phát triển:
* đó là một nhánh của chủ nghĩa Mác
nên không xa lạ với điều kiện Việt nam.
* tuy xuất phát từ chủ nghĩa Mác nhưng
đã loại trừ được hai độc tố là Chuyên chính Vô sản và Kinh
tế chỉ huy, nên rất tiến bộ.
* đã được nhiều nước kiểm nghiệm là
rất thành công. Những nước theo tư tưởng ấy (các nước Bắc Âu, một số
nước Trung Âu) hiện nay đạt nhiều chỉ số văn minh, nhân đạo vào loại cao
nhất thế giới, đối lập hẳn với tấm gương tan vỡ của các nước theo
“quốc tế 3”.
* nhờ có chút quan hệ huyết thống với
chủ nghĩa Mác nên hy vọng ĐCS có thể chấp nhận, ít gây sốc nhất
(mặc dù trước đây ĐCSVN rất phê phán xu hướng gọi là “xét lại”
này). Kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền là hai thứ
trước đây bị ĐSC coi là của Tư sản nên ghét như kẻ thù, nhưng nay Đảng
đã bảo hai thứ ấy là của chung nhân loại rồi (nên ta cứ dùng thoải mái,
không có gì phải ngượng), thì nay có áp dụng tư tưởng Dân chủ Xã hội
cũng là một cách trở về với Mác thôi, cũng là của mình cả, trước mình bỏ
đi nay mình dùng lại chứ có phải của Tư bản đâu mà tự ái? Đảng không
phải tự ái, mà mỗi đảng viên cũng không phải lấy thế làm day dứt.Vẫn có
thể dựng tượng Mác kia mà! Đối với chính trị thì điều này rất quan
trọng (tuy có làm cho một số người nông nổi cực đoan thấy khó chịu).
* một ưu điểm nữa là mặc dù trước đây
các vị “quốc tế 3” rất ghét tư tưởng “đệ nhị” nhưng chính các nước
liên quan đến “đệ nhị” này lại luôn chân thành và hào phóng giúp đỡ Việt
nam, nay nếu ta cũng đi theo đường đó thì sự giúp đỡ của họ chắc còn lớn
hơn nhiều. Khi ấy Trung quốc và Hoa Kỳ khó lòng mà “bắt bí” được ta.
Về lý thuyết,
những luận điểm của tư tưởng Dân chủ Xã hội tuy không có sự đột phá gì
ghê gớm, nhưng rất thuận lẽ tự nhiên, điều chỉnh được một số nhược điểm
của xã hội Tư bản, điều chỉnh cả những sai lầm của lý thuyết Cộng sản,
tạo được những “nhà nước phúc lợi”
(Etat-providence, welfare state), kinh tế và dân quyền cùng phát triển
và không ngăn cản gì việc tiếp tục đổi mới về sau, nên có ý nghĩa thực
tế vô cùng to lớn.
Tư tưởng Dân chủ Xã
hội là một tư tưởng tiến bộ, nếu được tiếp nhận vào nước ta thì đó là
cách hóa giải tốt nhất, đỡ mất sức nhất, trong hoàn cảnh một xã hội đang
bị ngự trị bởi “người anh em sinh đôi” rất cực đoan là tư tưởng
Cộng sản.
- Nghĩ được đến đấy,
chúng tôi đã mừng. Nhưng rồi tiếp tục tìm hiểu về Phan Chu Trinh chúng
tôi đã gặp những kết quả bất ngờ.
Cụ Phan
không chỉ là một nhà ái quốc, một người làm dậy sóng phong trào, người
có một phương pháp cách mạng uyển chuyển, mà trước hết Cụ là một nhà
tư tưởng. Sàng lọc và kết hợp chính xác hai hai luồng tư tưởng
Đông Tây, Cụ đã trở thành một nhà Dân chủ-Nhân quyền, rồi từ
Dân chủ PCT lại trở thành một nhà Dân chủ Xã hội , tán thành một
xã hội Xã hội chủ nghĩa nhưng phi Mác xít.
Đó cũng là những
đúc kết sơ bộ về tư tưởng Phan chu Trinh trong ba tiểu luận nghiên cứu
của tác giả Mai Thái Lĩnh đăng trên trang Web talawas, ngày 24.2.2007
[10] , 26.2.2007
[11] và 24.3.2007
[12]
*
B/ Sàng lọc và kết hợp văn hóa Đông Tây,
Phan Chu Trinh trở thành nhà Dân chủ-Nhân quyền:
Là một nhà nho cụ
Phan hiểu biết sâu sắc về Nho giáo, Khổng giáo, nhưng đây cũng là lĩnh
vực mà cụ Phan thể hiện tinh thần sàng lọc và phê phán mạnh mẽ nhất. Cụ
phân loại, tách bạch đâu ra đấy. Cụ phân biệt đạo đức với luân lý.
Những phẩm chất thuộc về cá nhân riêng biệt thì thuộc ĐẠO ĐỨC, như “Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Cần, Kiệm”, như “Sĩ khả sát, bất khả nhục”,
như “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Đạo đức là những phẩm chất của mỗi con người riêng biệt, nó dạy “làm
người”, muốn làm một con người thì phải như vậy nên đạo đức này rất ổn
định, dù là Đông hay Tây, là kim hay cổ cũng tương tự nhau. Đạo đức
như vậy đương nhiên là tốt.
Những phép ứng xử
trong các mối quan hệ gia đình và xã hội thì thuộc về LUÂN LÝ, như trong
các quan hệ “Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”,
quan hệ giữa dân với nước…Luân lý lại chia thành luân lý gia đình gọi là
“tư đức” hay đức nhỏ, luân lý
quốc gia và luân lý xã hội thì gọi là “công
đức” hay đức lớn. Luân lý dạy con người trong những mối quan
hệ, cho biết bổn phận, trách nhiệm giữa người trên kẻ dưới, giữa riêng
và chung. Luân lý có thể khác nhau theo quốc gia và theo chế độ chính
trị. Các chế độ thường uốn nắn luân lý sao cho có lợi cho vai trò
chính trị của mình.
Sự tách bạch này rất
quan trọng để có thể tiến hành sàng lọc.
Nếu cụ Phan còn sống thì chắc chắn Cụ không thể chấp nhận khái niệm “Đạo
đức xã hội chủ nghĩa”, vì Cụ đã khẳng định:
“Đạo đức đã như thế thì không có mới có
cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng
phải giữ đạo đức ấy mới là người trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học
thuyết nào khác nữa, dầu các chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân
chủ, hoặc cộng sản nữa, cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo
đức, nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.” (NQT,
tr. 478-479) [13]
”
Người ta có thể thay đổi luân lý mà không
thay đổi được đạo đức …., thay đổi được thì là đạo đức giả”
(NQT, tr,479).
Cũng vì muốn uốn đạo đức để phục vụ nhu cầu chính trị nên Nho giáo
ở Trung quốc đã bị biến dạng, thoái hoá từ sau đời nhà Tần, và chính cái
Nho giáo thoái hóa ấy đã du nhập vào Việt nam nên Nho giáo ở Việt nam
mang nhiều tính chất tiêu cực về chính trị. Các triều đại phong kiến
hết sức đề cao giường mối “quân sư phụ”
chẳng qua là để được thảnh thơi cưỡi cổ thiên hạ. Cụ nói :“Khi
còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia đình,
khi đến trường học thì thở cái không khí chuyên chế trong trường học
(tính người mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao
khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người .
Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia
đình chuyên chế mà ra vậy.” (NQT, tr. 485-486).
Nhưng trong sự đề cao nam giới thì người cha và người chồng cũng là kẻ
được kéo vào để ăn theo, cho có đồng đội thôi, chủ mưu là người đàn ông
trên cùng là vua : “Chẳng những vua
quan chuyên chế mà thôi, họ còn lại lập mưu kéo cả kẻ làm cha, kẻ làm
chồng vào cái cạm bẫy độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn
họ.” (NQT, tr. 484).
Vua quan cần lợi dụng cái “luân lý xã hội”
(tức cái công đức), để tăng uy quyền, nhưng khi “luân lý xã hội” đã
thoái hoá thì nó chi phối cả “luân
lý gia đình” (tức cái tư đức) nên cá nhân và gia đình
cũng hư hỏng theo. Phát hiện của cụ Phan xem ra cũng rất đúng cho xã
hội Việt nam ngày nay. Phải yêu dân đến mức nào, phải quý đạo đức đến
mức nào một nhà nho mới khám phá ra được những điều sâu xa chua chát ấy.
Sự sàng lọc của PCT đối với Nho giáo là tôn trọng những đạo đức cá
nhân nhưng phê phán kịch liệt sự trung thành mang tính nô lệ của chữ
“trung” nho giáo (gái trinh không thờ hai chồng, tôi trung không thờ
hai vua). Cụ không bảo những điều Khổng Mạnh nói ra là không tốt, nhưng
Cụ vạch ra tính chất một chiều của giáo lý ấy. Cụ lật ngược tình huống
để chất vấn: “Đức Khổng đã nói rằng : Vua
phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua không thương dân
thì dân phải làm sao ? Tiếc thay ! Ngài không dạy đến. Ông Mạnh cũng
nói rằng : Dân ‘quý’ mà vua ‘khinh’, nhưng ngày nay dân
hỏi vua, vua bảo rằng vua ‘quý’ mà dân’khinh’ thì dân
phải làm sao ? Ông cũng không hề nói đến”. Cụ đã phát
hiện đúng chỗ yếu nhất của thuyết Nhân trị.
Luân lý ấy cốt dạy điều “tôn quân” mà nhẹ điều “ái quốc”,
tôn trọng bề trên quá thì không có dân chủ, dân không làm chủ thì tự
mình không thể yêu nước theo ý chí của mình. Nhiều trường hợp anh dũng
đánh giặc nhưng chắc gì đã là yêu nước mà chỉ là buộc phải theo vua. Yêu
nước theo kiểu khác đi là bị cấm ngay.Cụ viết rằng “
Không phải là cái độc quyền chuyên chế từ xưa
đã thâm căn cố đế trong người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương (yêu)
nước đã có luật Gia Long cấm.Những kẻ học trò và dân gian không
được nói đến việc nước, lo đến việc nước”. (NQT,tr,489).
Thực ra thì bệnh “thâm căn cố đế” của mọi thể chế chuyên quyền là bắt
dân chỉ được yêu nước theo cách của họ (nhưng nói toẹt ra như luật Gia
Long thì thật quá kém về thuật mỵ dân). Rất đáng hoan nghênh lời phát
biểu mới đây của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt : “Có
hàng trăm cách yêu nước khác nhau!”.Kể từ ngày có Đảng lãnh
đạo đến nay, lần đầu tiên tôi được nghe thấy một đảng viên dám nói cái
chân lý sơ đẳng ấy.
Thuyết Nhân trị hay Đức trị cứ nói đạo đức một chiều, không dám lật
ngược tình huống để phản biện, nên khi gặp điều trái ngược thì không có
giải pháp, bế tắc thì khùng lên, từ chỗ đạo đức dẫn đến chỗ phải chém
giết nhau để giải quyết, và luân thường đảo lộn.
Vì thế Nhân trị sẽ dẫn đến bất nhân. Hiểu được nghịch lý này PCT
đã tìm đến nền Dân chủ pháp trị. Chỉ trong sân chơi Dân chủ mới có
thể giải quyết mâu thuẫn bằng phương pháp hoà bình mà bây giờ ta gọi là
“Diễn biến hoà bình”.
Những người Cộng sản Trung quốc và Việt nam, cũng sàng lọc đạo
Khổng, nhưng sàng lọc ngược với PCT, đề cao chữ
Trung là chữ mà cụ Phan
kịch liệt phê phán. Rất nhiều đảng viên CS nói rằng vì có tư duy nho
học nên tiếp cận chủ nghĩa Mác được dễ dàng, chẳng qua là do giống nhau
ở tinh thần đức trị, giáo huấn từ trên xuống, coi nhẹ sự phản biện,
“feed back” từ dưới lên. Chữ Trung
ấy bao giờ cũng kèm theo ý niệm về tôn ty trật tự, người trên kẻ
dưới rõ ràng, công dân loại một loại hai, và đây là đặc điểm giống
nhau giữa Cộng sản và phong kiến.
Khẩu hiệu “Trung với nước, hiếu với
dân” là dẫn xuất từ giường mối “quân
sư phụ”, nhưng trong điều kiện Đảng lãnh đạo “trực tiếp,
toàn diện và tuyệt đối” thì thực chất trung với nước cũng là trung
với Đảng thôi, nhưng những người kế thừa chủ tịch Hồ Chí Minh còn muốn
trực tiếp hơn cho chắc ăn nên đổi thẳng ra là “Trung
với Đảng, hiếu với Dân”.(Dù trung hay hiếu, dù Đảng hay dân
thì cuối cùng vẫn thu về một mối là trung với Đảng thôi, kiểm
nghiệm qua thực tế càng thấy đúng như vậy).
Cũng sàng lọc, nhưng Phan Chu Trinh và Nguyễn Tất Thành là hai
nhánh sàng lọc ngược nhau, một đằng đề cao quốc gia và bảo vệ quyền làm
chủ của dân, một đằng sa vào thuyết tranh đấu giai cấp nên đề cao quyền
lãnh đạo của Đảng. Ai gần với phong kiến hơn ai? Điều ngược đời là
tính dân chủ, tính cách mạng, tính hiện đại lại ở phía người nhiều tuổi
hơn. Hoá ra già không phải ở tuổi mà ở tư tưởng. Biết nghĩ cho chín để
bắt đúng cái mạch của tương lai thì thành trẻ trung.
Nhà duy tân Phan Chu Trinh nổi tiếng ở sự du nhập tư tưởng dân chủ
phương tây, nhưng sao Cụ lại giành nhiều công sức khảo cứu và bàn thảo
về đặc điểm phương đông cổ truyền của ta như vậy? Hãy nghe cụ giải thích
: “Vẫn biết phép chắp cây của người
Tây tài tình thật, nhưng nay đem một cây rất tươi tốt như cây luân lý ở
các nước bên Âu Tây kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở
nước Việt Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt
được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây
cũng nên bồi bổ cho hai bên sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm
nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi sẽ
đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy”. (NQT, tr.
505-506).
Cái mầm khoẻ mạnh tươi tốt của châu Âu mà cụ chọn để ghép vào cái
gốc Việt nam ta chính là tư tưởng Dân chủ và Pháp quyền, hai điều tinh
tuý mà ngót một thế kỷ sau, xã hội Việt nam mới nhìn ra (mà nhãn quan
của giới chính thống hôm nay xem ra vẫn chưa theo kịp Cụ đâu).
Trước khi kết hợp văn hoá Đông và Tây PCT còn nhận xét : “Vua
Âu châu ở xứ thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng mà ngay
thực, cho đến sự độc ác cũng vậy”. “Vua
Á Đông thì họ không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông
Khổng, ông Mạnh, hoặc ở trong các sách cổ những câu nói có nhiều nghĩa
để họ dựa vào đó; họ lập ra pháp luật để bó buộc cai trị dân
; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ
cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra ngoài cái hàng bà
con của dân mà họ lại đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như
là ta nói “quân, sư, phụ”, lại thường nói “vua, cha, chồng”. Dù ở chốn
hương thôn dốt nát không biết ông vua thế nào, nhưng mà họ thấy đứng vào
hàng cha, thầy, chồng, thì họ cũng cho đứng vào đám thân thiết. Dân
ngu thì họ cứ kính, cứ yêu, chớ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua
thì ông giết cả ba họ người ta .” (NQT, tr. 458).
Vậy sự độc đoán chuyên quyền ở châu Á vẫn có truyền thống thâm độc
hơn, giỏi nguỵ trang nên khó trị hơn. Trong 4 nước Cộng sản điển
hình còn sót lại thì 3 nước là của châu Á đâu có phải ngẫu nhiên?
*
C/ Từ Dân chủ, Phan Chu Trinh trở thành
nhà Dân chủ Xã hội, hướng về một chủ nghĩa Xã hội phi Mác xít.
Điểm nổi bật trước
tiên trong quan điểm chính trị của PCT là tinh thần dân chủ, “đa
số các nhà làm sử đã công nhận: Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ
đầu tiên ở Việt nam”
[14].
Dân chủ là quyền
làm chủ của dân trong một nước, một quốc gia. Nhưng thế nào là một quốc
gia, khi nào thì hình thành quốc gia. Theo PCT thoạt đầu trong chế độ
quân chủ chưa có quan hệ giữa dân và nước, mà chỉ có vua và các thần
dân của vua, vua thu hết mọi thứ vào trong tay của mình, xử sự mọi việc
như trong nhà của mình, mình chết thì con mình lên thay.
Quan hệ ấy là “gia
đình luân lý” và khi ấy chưa có quốc gia. Từ khi có tư tưởng
khai sáng, bác bỏ tính chất “đại gia đình”, bác bỏ quyền lực của
vua là do trời định sẵn, vạch rõ quan hệ của vua với mọi người trong xã
hội là bình đẳng, quyền lực của vua là do mọi người trong xã hội giao
cho…, khi ấy khái niệm nước (quốc gia) mới hình thành,
gia đình luân lý mới chuyển thành
quốc gia luân lý. Và sau này
từ quốc gia luân lý sẽ hình thành
xã hội luân lý, từ
chủ nghĩa quốc gia sẽ
phát triển thành chủ nghĩa Xã hội.
Theo PCT khái niệm Chủ nghĩa Xã hội (socialism) có căn nguyên như
thế. Sự tiến triển ấy theo PCT là “lẽ tiến hoá tự nhiên”.
Đối chiếu tiến
trình “tiến hoá tự nhiên” ấy vào nước ta cụ Phan thấy trình độ
Việt nam thời ấy còn quá lạc hậu: “Bàn đến
quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có”
(NQT, tr.487). “… quốc gia luân lý của
ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không
nói đến “dân và nước” vì dân không được bàn đến việc nước!”
(NQT, tr. 487). Chưa có một nhà nước dân chủ thì chưa thể nói đến quốc
gia theo đúng nghĩa được (quan niệm dân chủ của PCT thật là triệt để,
quyết liệt).
Theo PCT
chủ nghĩa quốc gia (nationalism)
phải tiến sang chủ nghĩa Xã hội
(socialism) để giải quyết hai mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa
người với người trong mỗi quốc gia và mâu thuẫn giữa các quốc gia trên
thế giới. Bên trong thì “giàu nghèo
cách biệt thái quá, người ngồi không kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao
động, người tư sản xung đột nhau mà trong nước không yên”
(NQT,tr.506). Trên thế giới thì “ Mê tín
quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ thái quá, yêu nước mình, ghét nước
người, cho nên phải mang hoạ chiến tranh mãi mãi”
(NQT,tr.506).
Chủ nghĩa Xã hội giải
quyết quan hệ “người này với người kia,
người có giúp người không, người mạnh giúp cho người yếu”
(tức là làm giảm bớt sự cách biệt về tiền bạc và về quyền lực),
ngoài ra còn giúp giải quyết quan hệ “loài
người với loài người” tức quan hệ bình đẳng giữa các quốc
gia.
Nghiên cứu quan điểm
Phan Chu Trinh về Xã hội chủ nghĩa so sánh với quan điểm Mác xít, ông
Mai Thái Lĩnh đã rất đúng khi kết luận: “Với
quan niệm như trên, rõ ràng là cái nhìn của Phan Châu Trinh hoàn toàn
khác với quan điểm mác-xít. Theo nhà chí sĩ họ Phan, xã hội loài người
tiến lên theo con đường “gia đình - quốc gia - xã hội”, trong khi đối
với Marx thì “lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử
đấu tranh giai cấp”.(MTL,sđd)
[11]. Thực tế cho thấy không bao giờ có chuyện Vô sản toàn
thế giới (vượt qua ranh giới các quốc gia) mà liên hiệp lại
được.
Điều đáng khâm
phục ở PCT là khi phê phán nền quân chủ, phê phán nạn bất công, phê phán
thói độc tài, phê phán những sai lầm, yếu kém của bạn bè, Cụ là người
thẳng thắn đến mức rất nặng lời, rất quyết liệt (như phê phán Phan Bội
Châu, Nguyễn Tất Thành…), nhưng khi tìm đường giải thoát cho dân tộc Cụ
lại luôn nghĩ đến con đường trung dung, ôn hòa, hợp pháp.
Phải chọn con
đường ôn hoà là bởi thương dân. Khi phê phán con đường bạo lực cách
mạng của Phan Bội Châu, của Nguyễn Tất Thành Cụ giải thích: Lực mình yếu
mà muốn dùng bạo lực tất phải nhờ vả người khác, thế thì “thảng
như cái phương pháp của ông Phan (Phan Bội Châu) mà thành công, thì quốc
dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi”.
(thư PCT gửi Nguyễn Ái Quấc).
Vì thế mà phải tự lực,
lúc đầu phải chọn con đường hoạt động hợp pháp, hợp pháp tối đa, thậm
chí phải “khẩu thuyết vô bằng”
để chính quyền không kiếm được cớ mà trị tội. (Chứ không phải chưa
chi đã ngang nhiên tuyên bố thế này thế khác để giương oai!). “Chỉ
vì tính cách và trình độ của ông (tức PBC) cùng với tánh cách và trình
độ của quốc dân trong nước tương ứng với nhau, nên người trong nước mê
theo mà không biết,vui theo mà quên chết. Do đó cuộc dân biến không
khác nào ông Phan Bội Châu trực tiếp giết dân”. Cụ lên án
thái độ cứ ở bên ngoài xúi giục người trong nước hy sinh để mình “đãi
thời đột nội”. Cụ lên án sự bạo động của “chủ
nghĩa báo thù” hay chỉ biết “
đâm đầu vào lửa chết vô ích”.
Thời kỳ Phan Chu Trinh
ở Pháp (1911-1925) là thời kỳ thế giới đầy biến động về các quan điểm
cách mạng, trong đó có cách mạng vô sản Nga Tháng Mười 1917, sự phân ly
giữa đảng Xã hội và đảng Cộng sản Pháp ở đại hội Tours tháng 12-1920.
Trong khi Nguyễn
Tất Thành chọn con đường Cộng sản của Quốc tế 3 thì PCT rất gần gũi với
Léon Blum, Marius Moutet, Jules Roux, …là những đảng viên đảng Xã hội
không chịu gia nhập Đảng cộng sản mà vẫn tiếp tục con đường Jean
Jaurès đã vạch ra.
“Phan
Châu Trinh không gần gũi với “cánh tả” của Đảng Xã hội, tức là phái xã
hội chủ nghĩa từ cuối năm 1920 đã rời bỏ Đảng Xã hội (SFIO) để thành lập
Đảng Cộng sản, gia nhập Quốc tế III. Trước và sau Đại hội Tours
(12/1920), đã có nhiều Việt kiều khuynh tả lôi kéo ông tham dự các
cuộc họp của cánh tả Đảng Xã hội và sau này là Đảng cộng sản. Nhưng có
thể vì bản tính ôn hoà, hoặc vì quan niệm về “dân chủ, cộng hoà” của ông
đã bắt rễ khá sâu trong nhận thức, ông xa rời Đảng cộng sản Pháp một
cách tự nhiên; và những người cộng sản cũng “dị ứng” với ông một cách tự
nhiên...”
(MTL,sđd)
[11]
Trong một lá thư đề ngày 26.3.1922 PCT viết : “Say
mê chủ nghĩa xã hội, tôi đã luôn
đấu tranh chống lại chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở
Đông Dương, do các nhà chức trách Pháp cũng như do các quan lại bản xứ
thực hiện” (MTL,sđd) [11].
Cũng đau lòng vì cảnh đất nước trong vòng nô lệ, cũng
một môi trường trưởng thành là Paris nước Pháp, lại cũng yêu lý tưởng Xã
hội đến say mê, vậy mà khác với Nguyễn Tất Thành, PCT không sa vào chủ
nghĩa chuyên chính. Trước sau trong tâm hồn nhà nho cách mạng vẫn thắp
sáng một ngọn đèn dân chủ.
Chính ngọn đèn ấy đã dẫn Cụ đến tư tưởng đa đảng đa
nguyên từ những ngày đầu thế kỷ. Hồi ấy ở Paris cũng có một du học sinh
tên là Đông gửi thư cho PCT bày tỏ lo ngại “đa đảng đa nguyên thì loạn”
(như quan điểm ĐCSVN hôm nay), Cụ đã trả lời :
“Còn
anh lo trong nước sinh ra nhiều đảng phái mà hại, ấy là anh hiểu lầm;
trong nước nhiều đảng thì cãi cọ nhau nhiều, cãi cọ nhiều thì thì sự lợi
hại mới biết, dân mới có thể lựa đảng nào phải mà theo; anh xem các nước
văn minh, nước nào mà không có bè đảng, chỉ có nước dã man, thì chỉ có
một lệnh vua mà thôi.”
(MTL,sđd)[10]. Cụ chủ trương
xã hội pháp trị (dân trị) và vạch rõ những tệ hại, tuỳ tiện, may rủi của
chủ nghĩa nhân trị (đức trị, quân trị) mà hôm nay không ít người vẫn còn
say mê. PCT chủ trương tam quyền phân lập. ”Đảng tiền phong”
ngày nay đã đi chậm sau ông già nhà nho ấy ngót một thế kỷ, mà bây giờ
cũng đã chịu nghe đâu?.
Phan
Chu Trinh là một người Dân chủ Xã hội. Nhưng “mặc dù gần gũi với
những người thuộc Đảng Xã hội, tư tưởng của Phan Châu Trinh vẫn không
hoàn toàn giống họ. Trong khi những người xã hội chủ nghĩa ở Pháp vẫn
còn bị ràng buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ nghĩa
xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với chủ nghĩa
Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên án đối với chế độ tư
hữu, và do đó cũng không có chủ trương quốc hữu hoá.” (MTL, sđđ)
[11]
“Vấn
đề là tại sao Phan Châu Trinh không đả kích chế độ tư hữu, không lên án
kịch liệt giai cấp tư sản như những người mác-xít hay những người cộng
sản? Ngoài bản tính ôn hoà mà ông đã có ngay từ thời bắt đầu hoạt động
chính trị, chúng ta cần chú ý đến chủ trương của ông về kinh tế. Ngay từ
khi phát động Phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã đề ra khẩu hiệu “khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, kêu gọi mọi người lập “hội nông“,
“hội buôn”, “hội nuôi tằm”,v.v. nói chung là khuyến khích dân làm giàu.
Như vậy, nếu ông không lên án chế độ tư hữu, không đặt quốc hữu hoá
thành mục tiêu hàng đầu thì cũng là điều dễ hiểu.
Có thể do Phan Châu Trinh không coi
chế độ tư hữu là nguồn gốc của mọi bất công xã hội. Hoặc ông cho rằng
nước Việt Nam còn quá nghèo, đất nước muốn phát triển còn cần nhiều đến
những nhà tư sản yêu nước.
Do đó, ông không đả kích người
giàu, mà chỉ đề ra yêu cầu “người giàu giúp đỡ người nghèo”.
Nói một cách chính xác, quan niệm của ông nghiêng về “công bằng”
(justice) hơn là “bình đẳng” (égalité)”.(MTL,sđd)
[11]
Phan Chu Trinh thuộc những nhà Dân chủ Xã hội tiên phong, một chủ nghĩa
DCXH mang dấu ấn Việt nam, sinh ra từ điều kiện Việt nam. Cái chủ nghĩa
Xã hội nhân đạo mà ta đang định hướng về Bắc Âu để kiếm tìm thì nay
chẳng những không phải tìm đâu xa, mà còn sẵn có một phương sách thích
hợp hơn với dân với nước ta nữa.
D/ Từ Phan Chu Trinh, nghĩ về một vài bài
học cho hôm nay
* Vai trò tiên
phong của Tư tưởng Phan Chu Trinh :
Trong cuốn sách nghiên
cứu về Phan Chu Trinh, TS Thu Trang Công thị Nghĩa viết : “đa
số các nhà làm sử đã công nhận: Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ đầu
tiên ở Việt nam” (Thu Trang,sđd)
[14]
- Tinh thần dân chủ
PCT được bộc lộ một cách toàn diện : Điều hành xã hội bằng luật pháp chứ
không bằng ý thức hệ, phải “tam quyền phân lập” và đa đảng đa nguyên
(bên cạnh một đảng cánh tả rất cần có một đảng cánh hữu), chú trọng tự
do tư tưởng , tự do ứng cử bầu cử, tự do lập hội. PCT luôn coi sự
phản biện trong mọi lĩnh vực là tối cần thiết, ngay khi diễn thuyết
cũng phải theo nguyên tắc “nghịch luận”
(tạo những ý kiến trái ngược để cùng bàn luận).PCT luôn coi trọng sự
khác biệt, đồng thời coi trọng sự hợp tác tương hỗ. Về hoạt động thực
tiễn PCT là chiến sĩ dân chủ-nhân quyền đầu tiên , chiến sĩ
“diễn biến hoà bình” đầu tiên của Việt nam.
Tiến bộ đặc biệt của PCT là sớm biết phê phán bản chất lạc hậu của Nhân
trị (hay Đức trị), nó cản trở pháp luật, cản trở nền Dân chủ pháp trị: “Nhân
trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tuỳ theo
lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có
cũng như không.” Đừng quên rằng sau bao năm cầm quyền mà thủ
tướng Phạm Văn Đồng vẫn chưa có ý thức rõ ràng về xây dựng nền luật pháp
(e pháp luật sẽ “trói tay” Đảng làm Đảng khó lãnh đạo), và ngay đến thế
kỷ 21 này ĐCSVN vẫn chưa dám thực hiện “tam quyền phân lập”, và không ít
cán bộ cũng như trí thức vẫn còn lưu luyến Nhân trị thì mới biết cụ Phan
đã đi trước dân tộc một đoạn dài lắm.
Tiếp tục đi xa hơn,
Phan Chu Trinh đã trở thành nhà Xã hội Dân chủ đầu tiên, người
đầu tiên chủ trương “định hướng” Xã hội chủ nghĩa, nhưng là XHCN
phi mác xít, mà thực chất rất gần gũi với nền chính trị của nhiều quốc
gia tiên tiến nhất của thế kỷ 21 này.
Vậy nếu tôn vinh Phan
Chu Trinh là nhà Tư tưởng lớn của dân tộc này thì có xứng đáng không?
Học giả Hoàng Xuân Hãn
nói : “Những tư tưởng của Phan Chu
Trinh về cơ bản vẫn còn giá trị lớn đối với xã hội ta ngày nay”.
Bởi vì, như ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc : “Những vấn đề cơ bản
nhất làm nền tảng cho độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Chu
Trinh đã thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX, trong đó trung tâm là vấn
đề dân trí…thì đến nay vẫn còn nguyên đấy”, “Đó là một nhiệm vụ,
một món nợ mà lịch sử còn để lại cho chúng ta
hôm nay : nhiệm vụ xây dựng một xã
hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được nâng cao”.
(Nguyên Ngọc) [15]
Nhà sử học Daniel
Héméry, một người nghiên cứu khá sâu về Việtnam, (và khá sâu về chủ tịch
Hồ Chí Minh) đã viết : “Khuôn mặt vĩ
đại của Phan Châu Trinh theo tôi là khuôn mặt đáng chú ý nhất trong lịch
sử văn hoá và chính trị Việt nam ở thế kỷ XX,
bởi chính ông đã xác định một cách rành mạch, sáng rõ nhất những nan đề
(les problématiques) đặt ra lâu dài mà các thế hệ người Việt nam sẽ
phải- và mãi mãi còn phải- đảm nhận”.[16]
*
Phan Chu Trinh biết chắt lọc và kết hợp một cách sáng tạo những tri
thức của thế giới.
Với cái vốn Hán học, PCT ngoài việc tiếp thu những tư tưởng của Lương
Khải Siêu, Khanh Hữu Vi, Tôn Dật Tiên… còn đọc các bản dịch chữ Hán các
cuốn “De l’esprit des lois” của Montesquieu, “Contrat social”
của J.J.Rousseau. Đọc như thế chưa phải là nhiều, nhưng Cụ rút ngay ra
được nhiều điều tinh tuý là bởi cách đọc thông minh. Huỳnh thúc Kháng
viết về PCT: “Tiên sinh (…) đọc sách có
con mắt riêng, làm văn tạo xuất cách mới, không làm những lối
tìm câu lặt chữ, vẽ bóng pha mầu (…).
Bất kỳ đề mục gì vào đến tay tiên sinh thì
sao cũng mở ra một lối mới để tỏ ý bi ca khảng
khái của mình” (14).(Giáo sư Huỳnh Lý, Lời giới thiệu, Phan Châu
Trinh toàn tập, tập I, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 13-14)
Với lối đọc sách như
thế, kết hợp với thực tiễn tổ chức và tham gia tranh đấu và tù đày trong
nước, kết hợp với sự quan sát học hỏi trong môi trường chính trị ở Pháp,
dưới sức thôi thúc của tinh thần ái quốc tự thân, (không bị bất cứ trào
lưu nào làm cho mất tính chủ động) và ở vào độ chín sung mãn nhất của
đời người (từ 35 đến 55 tuổi) PCT đã kịp kết tinh và thăng hoa.
Từ tấm gương ấy, mỗi
chúng ta đều có thể rút lấy một phần kinh nghiệm. Thời nay bao nhiêu
người được đọc nhiều sách, nhưng ngập trong rừng sách mà làm nô lệ cho
sách, bao nhiêu người từng dấn thân sâu vào cuộc tranh đấu nhưng vì thế
mà mất hết tính chủ động, có thể nhìn vào tấm gương Phan Chu Trinh mà tự
gỡ cho mình.
* Phan Chu Trinh là
người biết kết hợp nhận thức-tư tưởng với hoạt động thực tiễn. Trước
hết Cụ là người của hành động, chủ trương “thực học”. Mục đích
của Cụ là “ Chống lại chế độ độc tài
chuyên chế hiện nay đang có mặt ở Đông dương, do các nhà chức trách Pháp
cũng như do quan lại bản xứ thực hiện”. Cụ không bao giờ là
người lý thuyết suông (có thể nói: Lý thuyết Cụ vốn không ham!). Nhưng
Cụ biết vai trò rất căn bản của tư tưởng nên phải “xục” vào kho tàng tư
tưởng để xác định nền móng và tìm phương hướng, cuối cùng (như “vô
tình”) thành nhà tư tưởng với một nội dung rất sắc sảo và phong phú. Vì
cần giải phóng dân tộc mà một nhà nho tự biến mình thành một nhà “Tây
học” (mà không hề lai căng), vỡ lòng học lấy những điều mới lạ, không
chút tự ái bảo thủ.
Ngày nay, một số người
Tây học hoạt động dân chủ lại chỉ đề cao hành động (thực ra mới chỉ là
hành động bề nổi, chưa đáng gọi là hoạt động chính trị) mà coi khinh nền
tảng tư tưởng.
Một bạn trẻ tâm sự với
tôi đầy tự tin:
“Đã
biết chân lý là dân chủ đa nguyên thì ta cứ xốc thẳng tới đó mà tiến,
chẳng phải rắc rối quanh co gì hết! Còn cả thế giới bên ngoài, sợ gì!”.
Ta đã từng chê cười
chủ trương trước đây “dựa vào sức mạnh vô địch của phe ta, để tiến
nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa Xã hội” , nhưng hiện
nay xốc nổi như thế thì khác nào “dựa hẳn vào sức mạnh Hoa Kỳ để tiến
nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên Dân chủ đa đảng đa nguyên”? (Có
người còn dự đoán năm 2007, năm 2008… dân chủ sẽ toàn thắng!). Vẫn giống
nhau cái tâm lý thực dụng, ăn xổi, võ biền thì rất khó rút kinh nghiệm.
Ai phê bình là tự ái ngay.
Có người lại hỏi : “Thế
bên Tiệp, cũng Xã hội chủ nghĩa, sao người ta làm Cách mạng nhung, xoạch
một cái là xong? Chờ xây dựng dân trí thì đến mùng thất!”. Xin thưa,
cái nền dân trí của Tiệp đã cao hơn mình hẳn một tầm, nhưng dân trí là
cái vô hình, nó ngấm sâu vào tâm lý, vào nhiều mặt sinh hoạt khác nên ta
không để ý. Dân trí lại phụ thuộc nhiều vào giới trí thức tinh hoa. Dân
trí chỉ xuất lộ trước những biến cố, nên ngồi nói chuyện với một người
dân Tiệp có thể thấy họ cũng chẳng hơn gì mình, nhưng đừng vì thế mà
nghĩ rằng dân trí hai nước như nhau. Châu Âu đã từng trả bao nhiêu xương
máu (từ thế kỷ 18-19) để có ý thức dân chủ ngày nay, để bây giờ có cái
Nghị quyết 1481. Nước mình đổ xương máu cũng nhiều, nhưng chỉ để trả cái
nợ độc lập cho dân tộc còn chưa xong, cuộc tranh đấu cho dân chủ mới chỉ
bắt đầu.
* Vững tin vào
Con đường Dân chủ-Xã hội (Social Democracy).
Mấy năm gần đây,
tuy chưa khai thác được “kho báu” tư tưởng Phan Chu Trinh, nhiều trí
thức Việt nam trong và ngoài nước tự mình cũng đã lưu tâm đến con đường
Dân chủ Xã hội (cũng gọi là Xã hội Dân chủ) và tìm thấy ở đó sinh lộ cho
tình hình Việt nam.
Bài “5
nhà trí thức phát biểu về “Con đường xã hội – dân chủ” ở nước ta”
của Lê Bảo Sơn-Phan Trọng Hùng (talawas
2.9.2005) [17] đã giới thiệu tóm tắt ý kiến của Phan Đình
Diệu, Lữ Phương, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Xuân Nghĩa, Hà Sĩ Phu về con
đường XHDC ở nước ta.
Sau đó là tác phẩm “Huyền
thoại về một nhà nước tự tiêu vong” và bài “Dân chủ - xã hội là
gì?”của Mai Thái Lĩnh,bài “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại”
của HSP…và rất nhiều bài viết khác của các tác giả trong và ngoài
nước (tôi xin lỗi, vì không có văn bản chính thức trong tay nên
không kể được ra đây) từ những cách tiếp cận khác nhau đều gặp nhau ở
niềm hy vọng vào con đường Dân chủ Xã hội (cũng gọi là Xã hội Dân chủ),
bạn bè khắp nơi giới thiệu những thành tựu đỉnh cao của Thuỵ Điển,
Na-Uy.
Đến khi phát hiện con
đường XHDC trong kho tàng tư tưởng Phan Chu Trinh thì chúng tôi mừng
lắm, khâm phục viễn kiến của PCT vô cùng, như đã giới thiệu trong các
phần trên.
Một thắng lợi bất ngờ
lại đến. Tác giả Trung Quốc Tạ Thao giới thiệu công trình nghiên cứu của
một đảng viên CS Trung Quốc Tân Tử Lăng.
Tác giả khẳng định sự
thắng lợi của chủ nghĩa Xã hội Dân chủ tức “Quốc tế Hai” là tất
yếu, thất bại của “chủ nghĩa Xã hội bạo lực” của Lênin là tất
yếu. Vì chính cuối đời Marx và Engels đã thấy sai lầm và sửa đổi theo
tinh thần Xã hội Dân chủ, chỉ có Lênin lúc ấy còn chống lại.
Xin trích vài dòng
trong bài viết của Tạ Thao:
-“Quyển 3 Tư bản
luận đã lật đổ kết luận của quyển 1 Tư bản luận”,”chủ nghĩa Cộng sản
Marx đề xướng lúc trẻ nhưng vứt bỏ lúc cuối đời”,
- “Breznev nói với
em trai: Chủ nghĩa Cộng sản cái gì, đều chỉ là những lời nói trống rỗng
nhằm dỗ dành dân chúng”,
-“Cái viết trên
ngọn cờ chủ nghĩa Mác đương đại là Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ, kiên trì
chủ nghĩa Mác là kiên trì chủ nghĩa Xã hội Dân chủ”, “Khi chủ nghĩa xã
hội bạo lực đi đến sơn cùng thuỷ tận, thì chủ nghĩa xã hội ở Tây Âu và
Bắc Âu lại giành được thành công cực lớn”,
- “Thuỵ Điển là tấm
gương của chủ nghĩa Xã hội Dân chủ, kinh nghiệm của Thuỵ Điển có giá trị
phổ cập thế giới, là cống hiến vĩ đại cho văn minh nhân loại” ,
-“Chỉ có chủ nghĩa
xã hội dân chủ mới có thể cứu Trung Quốc”,
-”Năm 2004, Hồ Cẩm
Đào nói chuyện tại Quốc hội Pháp, đã trịnh trọng nói rõ với thế giới:
“Phát triển chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu
trước sau không thay đổi của chúng tôi” , “hàng loạt chính sách mới đó
thuộc về chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhưng để tránh nỗi nghi ngờ “chủ
nghĩa xét lại” chúng ta đã gọi nó là con đường xã hội chủ nghĩa có sắc
thái Trung Quốc”…[18]
Đây là lời những đảng
viên cao cấp của đảng Cộng sản Trung Quốc, những người “một lòng
canh cánh cứu Đảng”, dũng cảm gấp trăm lần những đảng viên CSVN, và
đi trước ĐCSVN nhiều lần, nhưng thưa rằng so với Phan Chu Trinh thì họ
chỉ là những người nói sau ngót một thế kỷ!
* Phan Chu Trinh,
lý tình trọn vẹn :
Phan Chu Trinh sống
giữa một giai đoạn đầy biến động của một dân tộc đang tìm đường cứu
nước, nên tính mâu thuẫn giữa các xu hướng là điều nổi bật.
Nhưng phê phán nhau
kịch liệt (về phương pháp) mà vẫn không quên ca ngợi sở trường
của bạn, bảo vệ quan điểm của mình mà vẫn dũng cảm nhận ra sở đoản
của mình, mà vẫn khuyên nhủ thuyết phục nhau,vẫn ủng hộ nhau, mà vẫn vui
sướng khi xu hướng khác mình giành được thắng lợi như các vị ấy thì thật
hiếm có.
Trong những cuộc bàn
thảo vừa xung đột vừa cảm động ấy (đặc biệt là giữa PCT với Phan Bội
Châu và Nguyễn Tất Thành) Phan Chu Trinh luôn là người chủ động nhất và
cũng là người có nhiều trăn trở dằn vặt nhất. Sở dĩ như vậy là vì PCT
luôn là người trung dung, dân chủ, ôn hoà, mà người như thế thường là
chiếc cầu ở giữa nối các phía cực đoan gần lại với nhau.
Nhưng từ khi PCT mất
đi, phe ôn hoà không còn, chỉ còn toàn những phe chủ trương bạo lực thì
tình hữu ái tương đối ấy không còn nữa, tuy cùng muốn cứu nước mà lại
tìm cách vu cáo nhau, thôn tính nhau, tranh công của nhau đến một mất
một còn. Bài học ấy đáng để những người đương thời suy ngẫm.
* Tại sao tư tưởng
Phan Chu Trinh bị chìm lắng?
Đã 81 năm kỷ niệm ngày
mất của chí sĩ họ Phan (24.3.1926), hôm nay đã có đủ độ lùi để nhìn lại
một giai đoạn lịch sử dân tộc. Tất nhiên lịch sử là cái đã qua, nhưng
với niềm luyến tiếc ta cứ thử nghĩ về một chữ “nếu”.
Nếu đoàn tàu Việt nam
thuở ấy rẽ vào đường ray Phan Chu Trinh, nhằm hướng Xã hội Dân chủ
như Na-uy, Thụy Điển bây giờ thì sao nhỉ?
Nếu nương vào Pháp
để đi lên thành công, không thành Cộng sản, thì giản ước được bao nhiêu
thứ :
- không có cuộc đánh Pháp 9 năm
- không có cuộc “Nam Bắc phân tranh lần thứ 2”
dẫn đến
cuộc đánh Mỹ
- không phải tham chiến ở Căm-pu-chia
- không tranh giành gì để phải đánh Tàu năm
1979
- không có lý do gì phải tiến hành cuộc “đổi mới hay là chết”
- không có lý do gì để xuất hiện làn sóng đòi
dân chủ-
nhân quyền, dẫn đến
hài kịch bịt miệng bị cáo trước toà cho thiên hạ xem.
…vân vân…
Nghĩa là tiết kiệm
được bao nhiêu thời gian, bao nhiêu gương anh hùng, bao nhiêu nạn nhân,
bao nhiêu máu xương, bao nhiêu hận thù…, và tăng thêm được bao nhiêu là
hạnh phúc. Lịch sử không thể quay lại để kiểm chứng, nhưng ai cũng có
quyền giả thiết để suy ngẫm, để rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương
lai.
Nhưng tổ tiên mình
thuở trước chắc vụng đường tu nên Trời đã sai lão Thiên lôi ra “bẻ ghi”
để con tàu Việt nam không thể đi vào đường ray Phan Chu Trinh, mà ngoặt
sang đường ray quốc tế số 3, có chữ “tiên tiến nhất trong xã
hội loài người”, và thế là hôm nay ta đang ngồi đây giữa sân ga hiện
thực này, tụt hậu so với xung quanh gần nữa thế kỷ, với bao vết thương
trên thịt da và trong phủ tạng.
Sau khi đã công
nhận những điều ưu điểm tuyệt vời trong tư tưởng PCT, ta thường an ủi
cho sự đi trệch đường ray đó bằng cách giải thích
“Lịch sử, do những
éo le của nó, đã không đi được theo con đường Phan Chu Trinh sáng suốt
lựa chọn gần 100 năm trước” (Nguyên Ngọc, sđd)
[15]. Có lẽ hầu hết chúng ta đều
làm dịu vết thương của mình như thế.
Nhưng cái gì là “sự
éo le” của lịch sử? Ta bảo đó là “kẻ thù đã buộc chúng ta…”.
Cũng có thể kể ra một
loạt sử liệu làm “bằng chứng cấu thành tội phạm” để kết án kẻ thù đã làm
chúng ta “lỡ tàu”, để tự an ủi bằng chữ “bất khả kháng”. Nhưng mọi kẻ
thù xưa nay, dù ở mức độ này hay mức độ khác, bản chất chúng bao giờ
cũng thế thôi, bao giờ kẻ thù chẳng buộc chúng ta chọn con đường bất
lợi. Quy tội cho chúng một nghìn lần cũng vô ích.
Vấn đề là ở mình. Nhìn
số phận của mình mà lại thấy nguyên nhân nằm ở ngoài mình thì có nghĩa
là mình bó tay. Cứ chịu bó tay, cứ chịu thua kém thiên hạ thì kẻ thù lại
đến, và mình lại phải gồng lên để lại tiếp tục “anh hùng” (Năm 1975, sau
“đại thắng”, ta tuyên bố từ nay trở đi không kẻ thù nào dám xâm phạm bờ
cõi ta nữa, thì chỉ 4 năm sau, một kẻ thù khác lại xâm phạm bờ cõi ngay
chứ họ sợ gì đâu? Rồi đây, cái “biên giới mềm” lại càng khó bảo vệ hơn
nữa). PCT là người Việt nam đầu tiên nhận ra nguyên nhân gốc rễ của cái
chuỗi khổ ải lặp đi lặp lại bất tận ấy, và có giải pháp cơ bản để thoát
ra và chấm dứt nó.
Nhưng bất hạnh thay,
lịch sử đã không chọn Phan Chu Trinh.
Không, đừng nói lịch
sử, phải nói : dân tộc này đã không chọn Phan Chu Trinh. Đổ cho lịch sử
là vô trách nhiệm với chính mình.
Mặc dù đã cố gắng hết
mình, lo cho số phận dân tộc, Phan Chu Trinh vẫn không thoát khỏi số
phận cô đơn. Nếu PCT cũng hô “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận
rễ”, cũng “thề phanh thây uống máu quân thù” (lời cũ bài Quốc
ca) thì chắc “lịch sử” đã chọn Cụ rồi. Chọn cái gì, không chọn cái gì là
do tâm lý dân tộc, sở thích của dân tộc, nhận thức của dân tộc , và
chúng ta lại trở về với hai phần đầu của bài viết này.
Thay vì “phanh thây”
quân thù ta cần “nội soi” và mổ xẻ chính cơ thể mình với bàn tay tinh tế
của y thuật.
Phan Chu Trinh lo cho
dân trí của dân tộc này, nhưng chưa kịp làm cho dân trí trưởng thành thì
dân trí đã gạt Cụ ra bên lề lịch sử (mặc dù vẫn kính trọng Cụ nhưng
kính nhi viễn chi thôi, chỉ “cung kính” chứ không “tòng
mệnh”, không đi theo đường).
Nhưng điều oái oăm là
trong khi những người muốn đổi mới số phận dân tộc còn đang lúng túng
trước dân trí thì phía cai trị bao giờ cũng hiểu dân trí rất rõ và tận
dụng rất tài những nhược điểm của dân trí .
*
Mở đầu bài viết tôi
chỉ muốn kính gửi đến các ông Võ Văn Kiệt, Bùi Tín, Lê Hồng Hà (và đến
tất cả mọi người) mấy ý kiến nhỏ mà các ông đề cập về tình hình thời
sự-chính trị, mà rồi lan man phải nhắc đến cụ Phan Chu Trinh 100 năm về
trước, có lẽ một phần vì những điều các ông phát biểu (nhất là bài của
ông LHH) đều phảng phất có hình bóng PCT trong đó, gợi ra cái nhu cầu
phải ôn lại nhân vật lịch sử kiệt xuất này, làm chút ánh sáng giúp ta
tránh một số điều mù quáng hiện nay. Nhưng đây là lĩnh vực tôi ít hiểu
biết nhất. May mà có những người đi trước đã khảo cứu khá sâu về PCT như
các vị Nguyễn Q.Thắng, Nguyễn Văn Dương, Nguyên Ngọc, TS Thu Trang, Mai
Thái Lĩnh…, lại thêm ở quê nhà Quảng Nam của cụ Phan cũng đã có nhiều
hoạt động để nối tiếp con đường của Cụ. Tôi xin cảm ơn các vị ấy.
Để kết luận, tôi thấy
không gì bằng dùng lời kết của TS Thu Trang khi viết về PCT : “
CHỚ ĐEM THÀNH BẠI LUẬN ANH HÙNG !”.
Bà nhắc lại lời của
triết gia Nietzche : “Có vô vàn sự việc mà
nhân loại đã thu đạt được trong bao thời kỳ trước, nhưng với một vẻ rất
nhỏ, rất yếu tựa như còn trong trứng, nên người ta không trông thấy được
sự thành hình. Nhưng với thời gian, có khi cần đến hàng thế kỷ,
những sự việc ấy mới nổi bật lên trong ánh sáng…”
(Thu Trang, sđd) [14]
Sinh thời, bao giờ
Phan Chu Trinh cũng rất yêu mến bạn bè và dân chúng, thế mà rất nhiều
lần Cụ phải nhắc đến chữ “ngu”, như nhắc đến một kẻ thù nguy hiểm, không
thể coi thường. Chính Cụ cũng lấy chữ ngu ra để tự răn mình.
Vâng, cái ngu thật
đáng sợ, nhưng đáng sợ nhất là ngu mà được hoan hô và nhất thời thắng
lợi, vì như thế nó phá huỷ mất khả năng nhận thức ra chân lý.
Đà lạt, viết xong
ngày 24.5.2007
HSP
---------------------------------------------------------------------
[10]
Mai Thái Lĩnh,
Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan
Châu Trinh - Về những nguyên tắc căn bản của chế độ dân chủ
(Phần 1), talawas 24.2.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9307&rb=0306
[11]
Mai Thái Lĩnh,
Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan
Châu Trinh - Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (Phần 2),
talawas 26.2.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9321&rb=0306
[12]
Mai Thái Lĩnh, Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu
Trinh - Về nền tảng đạo đức Nho giáo (Phần 3), talawas số
412 ( 24.3.2007)
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9553&rb=0306
[13]
NQT: Nguyễn Q.Thắng, Phan Châu Trinh-cuộc đời và tác phẩm,Nxb Văn
học,2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung)
[14]
TS Thu Trang, Những hoạt động
của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Nxb Văn Nghệ TP.HCM,2000
[15]
Nguyên Ngọc, Nhà cải cách giáo
dục lớn đầu thế kỷ XX, tạp chí Tia Sáng, bộ Khoa học và Công nghệ, tháng
10.2002, Hànội
[16]
Daniel Héméry, trích theo
Nguyên Ngọc, tạp chí Tia Sáng (như trên)
[17]
Lê Bảo Sơn; Phan Trọng Hùng,
5 nhà trí thức phát biểu về “Con đường xã hội-dân chủ ở nướcta”,
talawas 2.9.2005;
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5273&rb=0401
[18]
Tạ Thao, Mô hình chủ nghĩa Xã
hội Dân chủ, talawas 425, 23.5.2007
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |