Kính tặng
hương hồn cô ruột tôi
Hà Sĩ Phu
Nhiều
lúc tôi cứ tự hỏi sao chưa có nhà văn hoá nào nghiên cứu thật sâu về
cái sự “Chửi”
nhỉ? Hôm nay ngồi buồn tôi mở máy vi tính, thử mở “Từ điển Lạc việt năm
2002”,
tra hú hoạ chữ Chửi xem sao. Đây là cuốn từ điển
Việt Anh, mà lại dùng
cho máy vi tính, tôi nghĩ, có lẽ chẳng có chữ ấy đâu, may lắm thì có
một chữ Chửi
đơn giản là cùng.
Tôi nhầm! Các từ
về Chửi xếp đầy một trang màn hình!
Này là Chửi mắng, Chửi bới, Chửi đổng, Chửi nhau, Chửi rủa,
Chửi thầm, Chửi
thề, Chửi tục! Lại còn Chửi bâng quơ, Chửi vu vơ,
chửi thậm tệ! Chưa
hết, có cả Chửi bóng Chửi gió, Chửi chó mắng mèo, Chửi như tát
nước, Chửi
như vặt thịt, Chửi vuốt mặt không kịp nữa! Ngần ấy chữ Chửi
đều có
những động từ hay cụm từ tiếng Anh tương ứng. Hoá ra người Anh người Mỹ
họ cũng
chua ngoa, cũng điên tiết gớm chứ đâu có vừa (nhưng các “đế quốc to” ấy
nhất
định thua xa mình về cái khoa Chửi, kể cả Chửi đáng khen và Chửi đáng
chê).
Cuốn từ điển còn thiếu một khái niệm Chửi tối quan
trọng: Chửi như
mất gà! Rất may, tìm mãi mới thấy cụm từ Chửi này
có trong từ điển
Việt Hoa của Khổng Đức.
Nhưng rốt cuộc thì từ điển gì, chữ nghĩa gì cũng thua bà cô tôi hết,
một người
dân quê Việt Nam
không biết một chữ quốc ngữ bẻ làm đôi.
Khoan hãy tìm hiểu vì sao Gà lại giữ vị trí quan trọng trong khoa Chửi
của dân
An Nam mình đến thế. Tôi hãy phác qua vài nét nhân thân bà cô ruột, tức
cuốn từ
điển sống của tôi về Văn hoá Chửi. Dòng họ nhà tôi,
từ bố tôi trở về
trước nghèo lắm. Mấy đời chỉ là ông đồ dạy chữ nho, ông chú ruột tôi
mới sáu
tuổi đã bị đem cho một nhà thờ Đạo vì ông bà tôi không sao nuôi nổi.
Cô tôi đương nhiên không được học hành gì,
sớm được gả cho một anh thợ cày cũng nghèo kiết xác, là ông cậu tôi.
Cậu tôi
chẳng may mất sớm, để lại cô tôi goá bụa khi chưa đầy hai mươi với một
đứa con
gái chưa đầy ba tuổi. Chỉ một đôi quang thúng cũ nát, lèo tèo mấy quả
na quả
bưởi, mấy chiếc bánh đa, bánh gai… hoặc mấy mớ rau, con cá, bà đèo đẽo
đi khắp
chợ Hồ, chợ Gôi, chợ Ngo, chợ Dâu, chợ Keo, chợ Cẩm Giàng, chợ Núi (tức
núi
Thiên Thai) … trên dưới mười cây số. Áo xống nhuộm bùn (hồi trước các
cụ gọi
chiếc váy là xống), vá chằng vá đụp, làm chỗ cư trú lý tưởng cho lũ
chấy rận.
Lúc nào nghỉ chợ là bà lại đem áo xống ra bắt rận, tuốt trứng lép bép
và cắn
rận đôm đốp. Nhưng người cô nghèo khổ ấy thương lũ cháu, thương chúng
tôi lắm.
Cô cho chúng tôi cái bánh, quả na mà chậm ăn là cô chửi cho mất mặt, à
ra đều
mày khinh cô nghèo mày không ăn hử? Đến năm tôi đã là giảng viên Đại
học (chả
gì cũng gọi là Trí thức Xã hội chủ nghĩa) mà mỗi lần về thăm cô vẫn cho
tiền,
này thằng Tụ, cô cho mấy đồng cầm đi mà tiêu. Thương cô lắm mà vẫn phải
cầm,
chứ đợi cô chửi cho rồi mới cầm ư?
Nhưng chửi cũng ba
bảy đường chửi. Bà chửi thương, chửi yêu
thì chỉ chửi “nôm” thế thôi, chứ không có bài. Khác hẳn những khi định
hướng
vào “kẻ thù”, là những kẻ ăn không ăn nảy của bà, vu oan giá họa cho
bà, cạy
quyền cạy thế chèn ép lấn át bà (kiểu như bây giờ ta gọi là vi phạm
quyền dân
chủ ở cơ sở ấy mà) thì vũ khí Chửi của bà tung ra đầy tính kỹ thuật ,
bài bản
hẳn hoi và đầy sức lôi cuốn. Một ngón võ thật sự.
Hôm ấy bà đi chợ về muộn. Chuẩn bị nấu cơm chiều, vét niêu cơm cháy,
vừa ngô,
vừa khoai được một bát đầy hú hụ, bà cất tiếng “chích chích chích
chích”, “pập
pập pập pập” gọi mấy con gà mà bà đã chăm chút cả năm để chuẩn bị ăn
Tết. Lũ gà
quen tín hiệu đã tề tựu ngay tắp lự. Chờ mãi vẫn không thấy con gà mái
nâu,
đang ghẹ, béo nhất đàn. Bà bổ đi tìm quanh, “điều tra” khắp vườn, khắp
xóm.
Không thấy. Vẻ mặt bà hằm hằm, mắt bà chợp chợp, tôi biết cơn giận
trong bà đã
chất chứa đến nhường nào. Nhưng bà lẳng lặng đi nấu cơm. Hai mẹ con bà
ăn cơm
xong đâu đấy. Mọi nhà đã lên đèn. Tôi nằm chơi trên cái chõng tre giữa
sân.
Đúng lúc làng xóm đang yên tĩnh, ổn định, thì bài trường ca bắt đầu.
Hình như trời phú cho những người nghèo khổ, sống dưới đáy xã hội một
cơ quan
phát âm, đúng ra là cơ quan phát thanh, có độ vang đủ phủ sóng khắp
“địa bàn”
cư trú. Phần giao đãi của trường ca mất khoảng mười phút, nhưng cũng đủ
cho
việc đặt vấn đề. Người nghe đã kịp nhận ra cuộc chửi liên quan đến vụ
việc gì,
bà nghi ngờ cho ai. Sau khi đã khu trú được vấn đề và đối tượng (tất
nhiên bà
chẳng cần gọi tên chúng ra), bà vào phần chính của việc chửi bới. Bà
mạt sát
đối thủ bằng những tư liệu rút ra từ gia phả, án tích, dư luận; bà
chứng minh
tội phạm bằng những chứng cứ và suy luận mà bà đã quan sát và thu thập
được; và
cuối cùng là phần hình phạt. Bà phạt kẻ bị tình nghi phạm tội bằng
phương pháp
rất nhân đạo là cho ăn và cho uống, thực đơn gồm toàn những thứ sống
sít từ cơ
thể thiên nhiên của bà. Thì bà còn có gì khác ngoài cái vốn tự có ấy?
Toàn bộ “cáo
trạng” từ việc điều tra, luận tội và xử phạt
bà làm độ nửa giờ là xong. “Phiên toà” kiểu này có cái “hay” là không
cần mời
ai đến dự mà vẫn xử được công khai. Bà có phải bộ máy Nhà nước đâu mà
bảo bà
hành xử như thế là sự độc đoán hay sự tuỳ tiện của kẻ không có chính
nghĩa? Xã
hội ấy không có lề luật dân chủ để bảo vệ người dân thì người dân phải
tự phá
rào, phải vượt lên trên lề luật để đòi công lý. Quy luật của muôn đời
là thế.
Bà “viết” văn xuôi
theo lối biền ngẫu, rất nhiều đoạn rập
theo một công thức như lối viết báo cáo hoặc xã luận của những anh
không chịu
đổi mới ngày nay.Văn xuôi nhưng lại có vần như thơ (có thể đây là tiền
thân của
loại thơ văn xuôi bây giờ đấy nhá!), lại có lên
bổng xuống trầm như
nhạc. Đặc biệt, vô cùng đặc biệt là đoạn cao trào. Tôi nghe một lần là
nhớ suốt
đời.
Đoạn ấy thế này: “… Nếu mày có trót dại bắt con gà của bà,
nghe bà chửi mà
không khôn hồn thả nó ra, mà cả nhà cả ổ mày cứ húc đầu vào ăn cho đầy
miệng,
thì bà cứ cho chúng mày ăn cái máu l…, rớt l… của bà đây này
(lúc này bà
khẽ rướn người lên, hai đầu ngón tay khẽ nhúm chiếc váy đụp nâng lên
phía
trước, tuy đứng một mình mà bà làm như đang diễn thuyết trước đám đông
người).
Mày tưởng mày có quyền có thế, có người làm ông nọ bà kia mà ăn hiếp
gái già
này à? Cứ ra mặt với bà xem! Bà thì cứ… dứt cái lông l… thứ tám, bà chẻ
tạm làm
tư, bà trói cổ cái ông tổ năm đời mười đời nhà mày lại, bà vẫn còn thừa
cái nút
hậu!...”. (Cái sinh lực nữ tính mới đầy uy lực làm sao!)
Lạ chưa? Cái lông
thứ tám? Vậy là trong cái đám lôm xôm ít
được thấy ánh sáng văn minh ấy cũng phải có trật tự, có ngôi thứ đánh
số hẳn
hoi (cứ như trong trại lính hay trong triều đình xôi thịt vậy)! Không
biết cái
ngôi thứ này là do chúng cọ xát với nhau mà phân định hay do bà phải
đánh số để
tiện việc quản lý?
Để ra quân, bà chưa cần cử các ngôi vị thứ nhất, thứ hai, thứ ba trang
trọng
làm gì, mà mới dùng cái “thằng” thứ tám, thậm chí chả cần cả “thằng”
thứ tám
nữa, nên bà mới tạm chẻ nó làm tư (khiếp thật, xưa nay người chi ly lắm
cũng
chỉ chẻ sợi tóc làm đôi là cùng). Còn ở trận tuyến bên kia thì bà không
thèm
chấp cái bọn ăn cắp gà, không thèm trói chúng cho bẩn… cái dây trói của
bà, mà
lôi cổ hẳn cái ông tổ năm đời mười đời nhà nó ra (bọn này về chầu ông …
vải từ
lâu rồi mà bà vẫn không tha, vì chính chúng đã khai sinh ra cái lũ ăn
cắp gà vô
liêm sỉ này). Binh lực của bà đã tự giảm đi bấy nhiêu lần, binh lực của
địch
cho phép tăng lên bấy nhiêu lần, vậy mà vẫn chưa cân sức: cái dây trói
vẫn quá
dài so với cái cổ bự của những ông tổ năm đời mười đời kia, trói cẩn
thận đâu
vào đấy rồi mà dây vẫn còn thừa nhiều quá, lại phải buộc thêm một “múi”
nữa cho
dây đỡ luề thuề, tức là phải buộc thêm cái nút hậu. Tương quan địch
ta
chênh lệch như thế thì chúng còn làm sao dám ra mặt với bà được nữa,
chứ nói gì
đến lên mặt, giở thói kiêu ngạo rởm thâm căn cố đế của chúng trước bàn
dân
thiên hạ?
Như thế, bản Trường ca đã dùng một “thi pháp” so sánh, tương phản đầy
ấn tượng!
Thiết kế một bài Chửi khoa học và tinh tế như thế thì các bậc thâm nho,
hay các
viện sĩ khoa học mọi thời đều xin bái lạy. Mà trong tay bà nào có gì
đâu ngoài
sức mạnh của sự thật và lòng căm giận!
Thiên nhiên sinh ra muôn loài vốn đã tài tình, xã hội loài người tự
nhiên cũng
tài tình như thế. Cứ phải tự cân bằng, cứ phải tạo lấy cái hợp lý để
cân bằng
lại cái vô lý. Đấu tranh sinh tồn mà sinh ra cả.
Một lần , đọc bài
thơ của một nhà thơ trẻ miền Trung, tôi
gặp một tứ thơ độc đáo: “Trong tấn tuồng đời bọn bất lương đã giành
đóng hết
các vai đạo đức mất rồi”! Bảng phân vai chỉ còn các vai phản diện, xấu
xa, mà
những người bị trị, những người lương thiện, bao giờ cũng chậm chân,
đành phải
nhận đóng. Không nhận những vai ấy cũng không được. Đã là tuồng đời thì
anh
không đóng cũng không được, “lẩn tránh” cũng là một vai của tuồng đời
chứ đâu
có thoát.
Khi những kẻ ăn cắp gà lại chi phối luật pháp, lại độc chiếm hết diễn
đàn để
giảng đạo đức (tất nhiên là đạo đức giả), thì người mất gà đành phải
chửi thôi.
Những phụ nữ chịu nhiều tầng ràng buộc nhất chỉ còn cách tự vệ ấy để
quyết thực
hiện quyền ngôn luận, quyền “tự do báo chí” của mình. Bài Chửi độc đáo
kia,
nghe tưởng cay độc quá, nhưng xem kỹ lại thấy vẫn nhân đạo. Bà vẫn mở
đường:
nếu mày không sửa chữa thì bà mới làm như thế, như thế!
Đấu tranh sinh tồn
là cuộc “nội chiến” muôn đời. Đã là cuộc
chiến phải có vũ khí, phải có binh pháp. Bọn thống trị khôn ngoan bao
giờ cũng
lo xa, tước hết vũ khí vật chất và tinh thần của đám bị trị. Nhưng trời
sinh
voi thì trời sinh cỏ. Bị lột trần trụi thì chính cái trần trụi khỏa
thân biến
thành vũ khí.
Những giá trị thật mà bị dè bỉu (hoặc giả vờ dè bỉu), đẩy xuống dưới
cùng,
chính là tiền đề để nó bật lên thành vũ khí, xấn vào tận mặt kẻ làm bộ
khinh rẻ
nó, cái “Yoni ” của các bà chính là một phẩm vật như thế. Trong võ cổ
truyền hay
Judo, chính kẻ ở dưới mới chuyển được sang thế thượng phong để chơi
ngón “bốc”,
ngón “quật”, ngón “ném”. Cho nên, trong văn hoá , kẻ
nào đẩy những giá
trị cao quý xuống tận đáy chính là tự chuốc lấy diệt vong.
Chửi là vũ khí của người nghèo bất khuất,
người yếu bất khuất. Kẻ
có quyền thế hoặc kẻ phi nghĩa mà chửi thì nhạt thếch, sẽ thành tàn
bạo, thô
tục, thành lố bịch ngay. Trái lại, dân tộc nào, tầng
lớp nào sức sống dai
dẳng nhưng bị nhược tiểu, bị “yếu kinh niên” sẽ có khả năng mài rũa vũ
khí Chửi
của mình trở nên hoàn thiện. (Lời viết
thêm năm 2015: Vũ khí phê
phán có 3 cấp độ, tùy theo tư thế phê phán. Phê phán chính luận-chính
diện là
giữa hai đối thủ ngang hàng, chửi là tư thế của kẻ có chân lý nhưng
biết mình ở
thế dưới bất lực, giễu cợt mới chính là phê phán với tư thế đứng trên
đối
phương vậy).
Trong môn Chửi,
tên tục của hai “sinh thực khí” có một vị
trí độc đáo.
Cái Linga và cái Yoni đã sinh ra loài người thì khi con người bị đẩy
vào tư thế
trần trụi, nguy nan không lối thoát, hai thứ ấy lập tức phải đứng ra mà
đương
đầu cứu viện, mà chiến đấu với cái tên thật của nó. Cửa sinh, cửa tử,
cũng là
cửa thoát! Vậy thì: Yoni - Linga muôn năm!
Chim bướm muôn
năm! (khẩu hiệu này đáng ra phải hô bằng tên thật,
những Linga – chim -
bướm phải được hô bằng cái “tên cúng cơm” Việt Nam
của nó!).
Đành rằng
có chửi cũng chẳng mấy khi tìm lại được gà,
nhưng cái “Chửi” đánh thức lương tâm, đánh thức và nuôi dưỡng công lý.
Lương
tâm và công lý sẽ lớn lên , chặn tay bọn ăn cắp những CON GÀ VÀNG nặng
hàng
chục tấn, cướp từ kho báu của nước mình hay nước bạn, và trả lại cho
đời, cho
dân những công bằng lớn lao hơn. Ý nghĩa Văn hoá của sự Chửi chính là ở
đó.

Hà Sĩ Phu bên tượng Yoni
Cụ bà Nguyễn thị
K., một công dân vô danh trong xã hội,
người cô ruột xấu số đáng thương và đáng quý ấy là cuốn từ điển sống
của tôi,
là một khối văn hoá vừa “vật thể” vừa “phi vật thể”. Trong cuốn từ điển
Chửi
ấy, nếu thấy cần bổ sung thì có lẽ chỉ cần ghi thêm khái niệm “Chửi
Chữ”
nữa thôi.
Thưa cô, cháu học hành cả đời, hôm nay mới nhận ra cô thì cô không còn
nữa.
Cháu thèm được cô cho một chiếc bánh gai và lại chửi cho một câu như
những ngày
nào tấm bé.
HSP 19 - 4 - 2005
http://vandoanviet.blogspot.ru/2015/02/van-hoa-chui.html#more
http://vanviet.info/van/van-ha-chui