Khinh vua
Hà Sĩ Phu
“…Vợ là người mà ông yêu quý,
vua là người mà ông khinh ghét, đối thế e làm tủi vong linh
người vợ “màu tím hoa sim”! Nhưng người sành câu đối như Hữu
Loan chắc ông không giận…”
Thi sĩ độc đáo, “anh chồng độc
đáo” Hữu Loan đã quyết định bỏ cõi trần nặng như thồ đá, về nơi
biền biệt chiều hoang màu tím của ông.
Ông đi tối hôm trước, trưa hôm sau tôi mới được tin, vội bỏ hết
công việc, hạ quyết tâm trong nửa giờ phải nghĩ xong câu đối
tiễn ông. Trời phù hộ, những người như Phùng Quán, Hữu Loan
thiêng lắm. Các ông cứ như hiện về trước mặt, tươi cười vỗ vai
“gà” ý sẵn cho mình làm câu đối để nộp bài cho kịp. Cứ như làm
bài thi mà trúng tủ vậy, ngoáy một mạch là xong. Hay nói như
Hoàng Cầm, cứ như có ai hiện về đọc cho mình viết.
Đọc rằng:

Viết vội gửi đi, nay có thời giờ, xin nói rõ thêm vài ý.
Hữu Loan có “khinh vua” không? Thưa có, mà khinh lắm (thực ra
không thèm khinh thì cũng là quá khinh thôi). May mắn là từ khi
Hội Văn Nghệ Lâm Đồng thành lập (1987) mà Hữu Loan đột nhiên đến
chào mừng như từ trên trời rơi xuống, thì mấy anh em viết văn
chúng tôi (Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu…) có may
mắn được làm bạn vong niên của ông, được ông kể dông dài cho
nghe nhiều chuyện, đọc cho nghe những bài thơ chưa đăng… Có
những chi tiết hôm nay vẫn chưa tiện nói hết.
 |
Hữu Loan qua nét vẽ
Lê Quân |
Hữu Loan bảo đất Thanh Hóa của ông là đất Trạng, Trạng chỉ khoái
chửi vua thôi. Sau này, trong một cuộc phỏng vấn của đài BBC ông
còn kể thẳng tên “vua” cách mạng ấy ra. Tội “khi quân” là tội
chết. Biết mình có cái “tật” đáng chết ấy nên tự lui về sớm là
hơn. Quả nhiên khi nhà nước tặng giải muộn mằn cho 4 vị Nhân
Văn thì ông cũng bị loại ra, tội khinh vua dễ gì tha cho
được? Trần Dần (tuy rất khí phách) nhưng khi xin tái nhập Hội
Nhà Văn thì Hữu Loan cũng chê.
Có bạn hỏi: “Khóc vợ” đối với “Khinh vua” có chỉnh không? Thưa,
chỉnh lắm. Động từ đối động từ, danh từ đối danh từ (mà động từ
“khóc” ở chỗ này cũng như “khinh” đều là động từ cập vật, verbe
transitif, đòi hỏi bổ ngữ: khóc ai, khinh ai), bằng trắc rất
nghiêm. Còn VỢ đối với VUA thì có thể trách là không chỉnh,
không phải vì thất lễ với vua mà thất lễ với vợ. Vợ là người mà
ông yêu quý, vua là người mà ông khinh ghét, đối thế e làm tủi
vong linh người vợ “màu tím hoa sim”! Nhưng người sành câu đối
như Hữu Loan chắc ông không giận. Bởi câu đối cho phép tương
phản chứ đâu cứ phải tương xứng.
Này, Hồ Xuân Hương viết:
Võng đào
ông lớn đi trên ấy
Váy rách bà con vỗ dưới này
Nữ sĩ cũng
cho phép cái “trên ấy” của “quan lớn” được chơi
trèo, đối với cái “dưới này” của “bà con” giữa lúc
váy rách, quan thất lễ thế vẫn được văn học coi câu đối ấy là
rất “chỉnh” kia mà!
*
Câu đối xướng họa giữa Tú Sót-Hữu Loan và Hà Sĩ Phu sự thể như
sau. Vế xuất đối
“Bác
bôi tôi không bằng tôi bôi bác!”
của ông đồ
Nghệ Tú Sót ra đời đã lâu nhưng chưa ai đối được. BÁC BÔI TÔI –
TÔI BÔI BÁC, thành hai cụm, chỉ tráo vị trí giữa hai chữ mà
nghĩa khác hẳn, làm cho cụm sau nặng hơn cụm trước, bôi bác
là từ đơn cũng là từ ghép, tôi là ai mà bác là ai?
Nhẹ như đùa mà sâu.
Khi Tú Sót vào thăm tôi ở Đà Lạt, ông khoe đã có người đối là
Hữu Loan, và đọc:
Mày ăn dân hết
nước, dân ăn mày!
Tôi nghe mà
sướng tỉnh người. Đem “mày” đối với “bác”. Khinh
đấy chứ đâu? Chữ “mày” đã tài (ăn mày) mà chữ “ăn”
càng tài (ăn nhau cũng nghĩa là xơi nhau, là ăn thua, là ăn thịt
nhau), chữ “nước” càng tài hơn. Hết nước là hết cách, mà
cũng có nghĩa mất nước thì dân đi ăn mày.Tất cả đều đa nghĩa.
Tôi bái phục khẩu khí Hữu Loan, nhưng để đáp lễ Hữu Loan và Tú
Sót, tôi cũng ứng khẩu:
NHÀ VÔ ĐỊCH luôn
sợ ĐỊCH VÔ NHÀ!
Cũng hai
cụm, mỗi cụm 3 chữ, tráo đầu nhau, cụm sau phủ định cụm trước,
như anh chàng tự xưng nhà vô địch cho oai, mà trong lòng
lúc nào cũng lo địch vô nhà để diễn biến hoà bình và lật
đổ, mối lo phía sau cho thấy “nhà vô địch” phía trước đích thị
là vô địch “dỏm”.
Cuộc đàm thoại này đã được thuật lại
trong một bài của tôi ba năm trước, khi tiễn nhà thơ Tú Sót
qua đời.
Đà Lạt 20-3-2010
Hà Sĩ Phu