Hà Sĩ Phu, một Trí Tuệ Việt nam
(Tham luận
cho buổi sinh hoạt ra mắt Sáng Trăng
của Hà Sĩ Phu tại PARIS
02.05.04).
Kính thưa Quý vị và các
Bạn,
Như chúng ta đều biết,
từ năm 1988, với bài Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường
của trí tuệ, Hà Sĩ Phu được dư luận trong nước, ngoài nước đặc biệt
chú ý. Và đương nhiên, cũng được chính quyền đặc biệt ‘chiếu cố’. Theo
nhận xét của Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu có “ tư duy khúc chiết, chính
xác, đầy tính chất toán học”. Đọc Dắt tay nhau… rồi đọc Đôi
điều suy nghĩ của một công dân và Chia tay ý thức hệ, hay
Thằng Bờm, Biện chứng và Nguỵ biện trong công cuộc đổi mới, dù
không phải là nhà khoa học như Nguyễn Thanh Giang, và dù đồng ý hay
không đồng ý với Hà Sĩ Phu, ai cũng phải cảm phục lối lý luận chặt chẽ,
cao thâm của tác giả. Nhưng lý luận ở đây lại được trình bày bằng một
văn phong độc đáo. Mà văn là người. Văn mới là người. Người Hà Sĩ Phu
trước hết là một tấm lòng. Anh suy tư bằng khối óc, nhưng nói bằng trái
tim, nói từ trái tim. Trí tuệ trong những bài viết ngắn, dài của anh,
quan trọng ở chữ ‘tuệ’. Tuệ như đuốc tuệ. Nhắc tới Hà Sĩ Phu như một
trí tuệ Việt Nam, tôi muốn nói về Hà Sĩ Phu như một tấm lòng. Hà Sĩ
Phu trước hết là một tấm lòng. Tấm lòng ấy bàng bạc trong những bài tiểu
luận, nhưng kín đáo. Vì lý luận khoa học thượng tôn lý trí và thực tại
khách quan nên người đọc nhiều khi thấy rõ cái trí mà không nhìn ra
cái tâm của tác giả. Ngược lại, trong thơ văn, tâm không bị kiềm
chế. Trí có can thiệp cũng chỉ là nhằm tước bỏ những gì dư thừa, quá
trớn khiến cho tâm biểu lộ rõ ràng hơn, trong sáng hơn. Tập Sáng
Trăng
vừa xuất bản, đặc biệt với gần một trăm bài thơ dài ngắn, thường là
ngắn, có khi rất ngắn hướng dẫn người đọc vào cõi tâm của Hà Sĩ Phu (mà
vì thế, là một bổ túc cần thiết cho những bài viết có tính cách lý luận
của anh).
Nỗi đau đời.
Hà Sĩ Phu thích văn
thơ : “ từ nhỏ đã nhiều phen ngứa ngáy đôi dòng ”, như chính anh
thú nhận. Tại sao vậy? Câu trả lời nằm trong những bài thơ-chân dung,
những bài thơ trong đó tác giả như vẽ chân dung tâm hồn mình. Thí dụ :
Hành Trang
…Hành trang đó theo
anh từng bước
Một tấm lòng sau
trước thảnh thơi
Mẹ đau, mình mới ra
đời
Đời đau, nên để một
lời vào thơ
Có thơ vì mẹ đau, đời
đau. Đời đau, nên đau đời. Tâm trạng này, ngày xưa gọi là ưu thời mẫn
thế. Ngày nay gọi là có tình, tình người. Có tình với người. Có tình với
chất người của người, nơi người, nơi mình. Montaigne, một văn hào
rất nhậy cảm về sự đa dạng, khác biệt, dị biệt, mâu thuẫn giữa người với
người, giữa từng người với chính mình, nhưng cũng nhận ra rằng
« chaque homme porte en lui un exemplaire de l’humaine nature / mỗi
người mang trong mình một bản người ». Nhân bản. Hà Sĩ Phu
cũng nghĩ như Montaigne thôi, nhưng một cách rất Việt Nam :
Hạt mưa
Phải chăng đi khắp đó
đây
Nên ta lại gặp được
ngay chính mình
Phải chăng sống hết
với mình
Nên ta lại gặp chúng
sinh muôn loài
Hạt mưa mang nặng đất
trời
Mảnh thân mang cả nỗi
đời vô biên
Đã là người thì đâu đâu
cũng thế, thời nào cũng vậy : mang tính chất người. Cộng sản hay quốc
gia, đen vàng trắng đỏ, thánh hay tặc… : người cả. Nhưng người gặp người
không tất yếu. Thế mới có chuyện. Mấy ai sống hết với mình để gặp được
mình, được người, nói gì gặp được chúng sinh muôn loài? Người cũng tự
làm nhục mình, tự xỉ vả mình nhiều lắm. Chỉ có những người như hạt mưa
mang nặng đất trời mới thấm thía nỗi đời vô biên. Mà đã thấm thía nỗi
đời vô biên thì không thể không đau đời.
Nếu Đất Nước bình
thường…
1- Vậy nếu đất nước bình
thường, hẳn Hà Sĩ Phu đã tìm được nhiều thú vui nghề nghiệp trong công
trình nghiên cứu khoa học, và chắc chắn anh cũng cứ ngứa ngáy thơ, văn
để vui buồn thế sự. Anh tâm sự trong Mấy Lời Cùng Bè Bạn ngay ở
đầu tập sách : Trò chơi mà, ăn bổng ăn giải gì mà lo. Dĩ nhiên,
Hà Sĩ Phu không viết để được vào Hội Nhà văn. Anh cũng chẳng viết để
thành danh. Văn thơ đối với anh là một trò chơi. Nhưng đừng tưởng Hà Sĩ
Phu nói chơi. Anh nói thật đó. Văn chương là một trò chơi, vì đời là một
trò chơi. Trò chơi của con (trẻ) Tạo mà. Trò chơi ‘đầy mộng, đầy thơ,
đầy tuyệt vọng ’ (Hàn Mạc Tử). Đời thật đẹp. Đời cũng là một trò
chơi đầy sát khí, điên rồ ; trò chơi chết người, trò chơi giết người (mà
có ai không chết nhỉ , có gì không mai một?). Hài hay bi? Cười hay
khóc? Không gì vui bằng hề. Không gì buồn như hề. (Có khi không gì hề
bằng hề khi làm hề mà không biết mình làm hề). Vâng, cười hay khóc? Tùy
cái tạng của mỗi người. Và nơi mỗi người cũng còn tùy nơi, tùy lúc.
2- Nếu đất nước bình
thương, nếu cuộc đời chỉ là trò chơi muôn thuở, thì chắc chắn Hà Sĩ Phu
cũng đủ chất liệu cho mộng mơ nuối tiếc. Vài thí dụ :
Ôi mùa thu cũ cứ thơ
ngây
Cứ thắm như tà áo vẫn
bay
Cứ ngát bông cau mềm
bóng liễu
Nhưng không trở lại…
thế gian này…
Những mùa Thu qua có bao
giờ trở lại! Nhưng qua đi, những mùa Thu vẫn nằm nguyên trong bộ nhớ.
Năm tháng trôi đi, ta ở lại. Ở lại với trí nhớ mơ về dĩ vãng và thêu dệt
tương lai. Có điều, ta ở lại nhưng biết mình rồi cũng qua đi. Khi còn là
sinh viên bên Tiệp Khắc, Hà Sĩ Phu đã có lúc giật mình :
Một mình không ngủ đã
buồn tênh
Trăng gió sông Ngân
cứ giỡn tình
Tóc bạc lại thêm
nhiều đấy nhỉ
Như trăm tên trắng
doạ đầu xanh
Ta cũng qua đi. Sinh,
Lão, Bệnh, Tử. Chưa chừng, chỉ có cái qua đi là không qua đi, và mùa thu
không trở lại thế gian này biết đâu chẳng gợi nhớ một mùa thu vĩnh cửu :
…
Đất trời chín nắng
mười mưa
Mà nàng giặt lụa hồ
thu chẳng già
3- Nếu đất nước bình
thường, thơ văn Hà Sĩ Phu cũng nói lên những bất mãn thường tình của một
tâm hồn trong sáng trước những cảnh nhiễu nhương ngoài xã hội :
…
Kinh kỳ nhộn nhạo
những bon chen
Nhố nhăng một lũ đồ
không dạy
Nhâng nháo bao nhiêu
kẻ có quyền
Nhà thơ hết gạo thành
nhem nhuốc
Thầy giáo không tiền
bỗng nhỏ nhen
…
Nhưng Đất Nước mình
không bình thường!
Nên trò chơi văn chương
bó buộc phải lên một bậc.
Tôi tò mò về cái tên
sách : Sáng Trăng. Tại sao ‘Sáng trăng’? Lật tới trang 13, gặp
bài Sáng Trăng. Chú ý mấy lời đề tặng (coi chừng lối chơi chữ của
Hà Sĩ Phu) : (Lấy Ca dao bái tặng nữ sĩ Xuân Hương và…)*. Thế rồi
hoa thị lại gửi xuống cuối trang thế này : * (… và những bông sen
trong bùn, ngát Hương muôn thuở). Ca dao, Hồ Xuân
Hương, Sen trong bùn. Ca dao Việt Nam khi tình tự thì đậm đà thắm thiết,
nhưng lúc châm biếm, trào lộng thì Voltaire cũng phải chào thua.
Bên cạnh ca dao : Hồ Xuân Hương. Nhưng Hà Sĩ Phu biến thành Xuân Hương…
để Hương Xuân nhắc nhở người đọc những cánh Sen trong bùn lầy của một
đất nước đã bị bọn đầu tư thiên đàng nào đó chiếm hữu. Bài thơ rất ngắn,
dài hơn lời đề tặng có 8 chữ :
Tình bằng vỗ cái… lá đa
Giữa đêm vằng vặc chém cha sự đời
Hỏi em,
em bảo
tối trời
Ngứa tay…
vuốt…
ngược
những lời
thế gian.
(2003)
Không phải nhân lúc tối
trời, chính vì tối trời nên vuốt… ngược. Này nhá : tối trời nhưng là đêm
vằng vặc. Giữa đêm vằng vặc thì chẳng có gì che giấu được. Càng che giấu
càng lạy ông tôi ở bụi này. Nhưng tại sao vuốt ngược? Thưa, vuốt ngược
vì ngứa tay. Vuốt ngược thực ra là vuốt xuôi. Thi sĩ ngược đời vì đời
ngược. Phải cất tiếng cho đời xuôi. Có Thơ Tay Trái
vì tại đất nước mình cái gì cũng trái khoáy, phải trái lộn sòng, nói
theo kiểu Hà Sĩ Phu. Cái gì cũng ‘trái tay’cả, nên mới “ vẽ
lộn đất trời / Cho điều phải trái trên đời được minh ”. Có kẻ sẽ đặt
nghi vấn : đời này tranh tối tranh sáng, biết đâu phải, biết đâu trái?
Nghe có lý. Nhưng “ Đời dẫu muôn phức tạp / Cũng hai màu trắng đen ”.
Đừng vin cớ ánh sáng pha lẫn bóng tối mà bào chữa cho những lương tâm co
giãn. Tệ hơn, đừng tự lừa dối mà “ Phê bình một tý, ra điều tiết tháo
».
Hay ho gì những kẻ (như chú cua) « chỉ bò mà được tiếng ngang ”.
Nửa thế kỷ sau Điện Biên Phủ, trắng đen về cái chế độ một ngàn lần
dân chủ, về cái ‘đỉnh cao của trí tuệ’ chuyên môn phản lại trí tuệ, quá
rõ ràng. Thơ văn trong tập Sáng Trăng cũng quá đầy đủ để
vẽ nên cảnh ngộ suy tàn của đất nước. Điều đáng nói : Sáng
Trăng chính là tia sáng tác giả muốn chắt chiu và nếu cần, thắp lên
nơi chính chúng ta, kể cả nơi những người đang dày xéo đất nước. Để
dưỡng nuôi hy vọng.
Bùi Tín đã chưng ra
Mặt Thật của Mây mù Thế Kỷ. Vũ Thư Hiên đã tố giác cái
Đêm Giữa Ban Ngày… Khi đêm đen của ngu dốt, của đểu cáng ti tiện,
của tội ác… trùm lên giữa thanh thiên bạch nhật thì, ngay trong cái đen
của đêm đen ấy loé lên những vì sao, những ánh trăng vằng vặc. Khi áp
bức tràn lan, chính là lúc tự do con người biểu lộ. Mãnh liệt. Kiên
vững. Như Sen trong bùn, như Hương của mùa Xuân muôn thuở. Những người
tự do nhất, tự do thực sự tại Việt Nam lúc này là những Dương Thu Hương,
những Bùi Minh Quốc, những Hà Sĩ Phu, những Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Ngọc
Huy, Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Phạm Quế Dương, Nguyễn Vũ Bình…
Nguyễn Hộ, Chân Tín, Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Lê Quang Liêm… Dù
ngồi tù, bị quản chế hay bị theo dõi, họ là những tia sáng không một đêm
đen nào của bạo lực có thể dập tắt. Hà Sĩ Phu trong B14 Hà Nội vẫn “một
tấm lòng sau trước thảnh thơi ”, anh
Tự Đắc
Cái thú trong tù dễ
mấy ai
Thâm nghiêm cửa đóng
với then cài
Cửa nhà dân dựng tha
hồ ở
Cơm nước trên ban mặc
sức xài
Cầu tiêu một hố kề
bên nách
Giường đá hai bên
vững tựa ngai
‘Mời ra làm viêc’,
khi nghe gọi
Tưởng tiếng non sông
gọi tướng tài
Nói chuyện với cửa
lim
-
Tính tự do sinh thời phong kiến
Chẳng trước thì sau tớ cũng tù
Nhưng đàng ấy ở rừng
Hiên ngang tứ thiết
Cũng vào đây ư?
Lim bảo
-
Nếu trời không bắt thế
Sao gặp Hà Sĩ Phu?
Té ra
Hà Sĩ Phu là một trong những nhân vật khó gặp nhất tại Việt Nam! Hiên
ngang tứ thiết như Lim mà còn phải có duyên lắm mới được kiến diện,
chứng tỏ con người ấy là một quý nhân hiếm có trên đời. Tự giỡn như vậy,
sao lại hiện thực quá.
Nhưng
trong tù, Hà Sĩ Phu không chỉ tự giỡn. Hình như nhà tù khiến anh sâu
lắng : Đêm Nô en anh nhớ nhà. Dễ hiểu. Nhưng nhớ nhà, anh “nhớ người
sinh trên máng cỏ / Lại nhớ về Thích Ca / Nhớ Lão Trang Khổng Mạnh / Các
Mác và Ala… Rồi suy niệm :
Chân lý như Đức Mẹ
Hư
thực ở lòng ta
Rộng hẹp không bờ bến
Đồng trinh vẫn nguyên vẹn
Để
anh vào anh ra
…
Lương tâm vác thánh giá
Trí tuệ vào nhà pha.
…
Chân
lý, thực hư, nhà pha, thánh giá… và bài sau đây :
Lời Phật
Cho con trải một lần tù
Để
con tròn một kiếp tu với đời
Kiếp người đau thế con ơi
Mỗi dòng con viết lệ rơi mấy lần?
Viết đi cho sạch nợ trần
Lâng lâng đuốc tuệ soi chân con về!
Về
đâu?!
Với
mấy vần thơ trên, Hà Sĩ Phu đã vượt qua tiếng cười tiếng khóc. Đọc lên,
tưởng chừng anh đã thoát sang ‘bên kia bờ ảo vọng’ (chữ của Dương
Thu Hương), quên chuyện đất nước, tìm thanh thản, có lẽ tìm ủi an, trong
vùng trời mênh mang của Đạo giáo, của Tôn giáo, của Chân Lý chữ hoa?
Ðúng. Có thoát. Nhưng không trốn thoát. Thoát để mở rộng tầm nhìn. Vì
(xin nhắc lại) có ‘đi khắp đó đây’, mới ‘gặp được ngay chính
mình’. Có khắc khoải kiếp người và mở ra vô tận của ‘nỗi đời vô
biên’, mới nhìn ra cái kề cận ngay sát nách. Nói tắt : có biết quên
mới biết nhớ. Có ‘quên đi chuyện non nước mình’ (Trịnh Cộng Sơn)
mới trút bỏ được những tranh chấp nhỏ nhen, vị kỷ, những hận thù đục
khoét tâm can, những hoài bão huyễn hoặc ru ngủ tri thức ; mới giữ được
‘tấm lòng sau trước thảnh thơi ’ để nhìn đời, nhìn người và nhìn
ra quê hương đất nước.
Hà Sĩ
Phu phê bình chế độ, Hà Sĩ Phu phê phán học thuyết mác-xít. Nhưng từ một
góc độ vượt xa chính trị và dĩ nhiên hoàn toàn xa lạ với những con người
chỉ hiểu được ngôn ngữ của Quyền và Lợi. Nơi anh, có gì thật cũ. Cũ,
không phải cũ kỹ. Cũ, nhưng tung tăng như trong nhà mình giữa những gì
mới nhất, tân tiến nhất của thời đại. Cũ như ca dao, như lời ru của mẹ,
như tiếng cười dân gian. Cũ như cái phần sinh động của truyền thống Dân
tộc, mặc dầu muôn vàn xáo trộn và đổi thay, chẳng những không mai một,
mà còn giúp đi vào thời đại những bước thảnh thơi. Ðọc Hà Sĩ Phu, rồi
nghiền ngẫm Hà Sĩ Phu, chúng ta càng thêm tin tưởng vào Ðất nước và con
người Viet nam.
Nếu
không sợ đụng chạm đến lòng khiêm tốn của anh, ta có thể coi anh như
biểu tượng thân thương của Trí Tuệ Việt Nam. Một lần nữa, xin được ấn
mạnh chữ Tuệ.
Xin
cảm ơn Quý Vị và các Bạn.
Đỗ Mạnh Tri.
Paris 26. 04. 2004.
Bài Mùa
thu không trở lại, 1983, tr. 19
Bài Hai
Bài thơ làm ở Tiệp Khắc, 1979, tr.11
Bài Nhộn
nhạo Kinh kỳ, 1986, tr. 21
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |