"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Ăn tết chữ cùng với Hà Sĩ Phu
Đặng Mi Lộc
Văn Hoá-Nghệ Thuật: Ăn tết chữ cùng với Hà Sĩ Phu
Đăng ngày 29/01/2006 lúc 17:26:57 CST
Đề tài:
Văn hóa
1 Giao thừa năm
nay, tôi được ít phút giây yên tĩnh để thưởng lãm mấy câu đối tết của Tú
Xuân Hà Sĩ Phu. Đã thành một thói quen từ mấy năm nay, cứ gần đến tết
thì anh em bạn làng chữ nghĩa lại được đọc ít câu đối tết của ông Tú
Xuân.
Kể cũng là một cái thú, bao lâu nay xã hội thay đổi quá, dưới thời bao
cấp thì chính sách giáo dục lệch lạc, bộ môn Tiếng Việt chỉ là nơi dạy
"chữ nghĩa Mao hoá"; qua thời đổi mới thì giáo dục lại càng rớt lại quá
xa phía sau so với nhu cầu đuổi theo tăng trưởng kinh tế và những hệ luỵ
văn hoá của nó. Trong khung cảnh xã hội như thế thì chữ nghĩa rẻ như
bèo, nên từ nhà trường đến xã hội đã xao nhãng quá lâu chuyện giữ cho
tiếng Việt trong sáng, nói gì đến chuyện phát huy những nét đẹp tinh tế
của tiếng Việt. Còn mấy ai thưởng thức những cái thú chơi chữ trong ngày
xuân ngày tết?
Thú chơi chữ? Thật thế. Đấy là một thú vui của người xưa còn lưu lại.
Chẳng là truyền thống văn học cổ vẫn chú trọng luật đối bên cạnh những
lề luật về niêm về vần. Riêng về luật đối thì cũng đã phát triển khá sâu
rộng để sinh ra loại văn biền ngẫu (mà phổ thông nhất là thể phú và văn
tế), trong đó mỗi câu văn là một liên đối hai vế đối nhau chan chát. Đọc
những bài phú hay những bài văn tế nổi tiếng là một cái thú. Trong đời
sống hằng ngày nơi thôn dã hay chốn phồn hoa đều không thiếu thú chơi
chữ, nhiều thời gian thì thơ hay phú, ít thì cũng phải có đôi câu đối
làm vui. Kho tàng giai thoại văn học còn lưu lại nhiều câu đối vào những
dịp quan, hôn, tang, tế.
Một điều kiện để chơi chữ là phải có… chữ. Đúng hơn, phải nói là người
chơi chữ cần nắm vững những tính cách phong phú của chữ nghĩa tiếng Việt
để có thể biến hoá nó trong ngữ cảnh. Không nắm vững những tính cách đó
thì câu đối sẽ nhạt phèo.
2 Nói về nghệ thuật chơi chữ trong câu đối thì Hà Sĩ Phu sử dụng
nhiều thủ pháp khác nhau, nhưng đại khái không ngoài những nghệ thuật
liên quan đến chữ và nghĩa của chữ.
Năm nay, Hà Sĩ Phu tặng bạn văn khắp nơi mấy câu đối như sau:
1 Gặp cúm gia cầm, Gà biệt xứ
Đến thời lục súc, Chó lên ngôi!
Về mặt dùng từ thì đều là những tiếng dễ hiểu, bình
thường, chẳng có gì khúc mắc cả. Chỉ có một từ lục súc là có ý nghĩa:
"lục súc" gợi cho ta hình ảnh sáu con vật trong một truyện nôm cổ Lục
súc tranh công (thế kỉ XIX), chúng tranh cãi nhau để tranh thắng về
chỗ đứng, vai vế của mình so với đồng bọn. Đây là lối dùng từ liên
nghĩa. Từ một sự kiện thuộc về hiện thực xã hội trong năm qua (cúm gia
cầm làm tiêu số gà nuôi ở trong nước), HSP nghĩ đến năm mới, năm của một
con vật trong mười hai con giáp, mà cũng là một con vật trong số sáu con
gia súc tranh cãi với nhau trong một tác phẩm văn học; rồi từ đó ông
liên tưởng đến một hiện thực rộng lớn hơn, ở đó cũng có những “con vật”
thật sự thì chẳng có gì hay ho, đặc sắc, nhưng lại lớn tiếng tranh nhau
để giành phần hơn, có thể là miếng ăn lớn hơn, chỗ ngồi rộng mát hơn,
và… quyền lực cũng lớn hơn! Bọn chúng tranh giành nhau, sát phát nhau,
thật chẳng ra gì, thật là đồ lục súc! Người ta có thể khẽ nhếch mép cười
nhẹ khi liên tưởng đến không khí tranh giành quyền lực trước đại hội
đảng CS X, thấy cũng có vẻ hao hao giống. Đấy là lối “nói xỏ”, lối chơi
chữ khá “khăm”.
Câu đối thứ nhì:
2 Bảy món cầy tơ, mấy chú vện vằn đang khởi
“sắc”
Một bầy chó đẻ, ba quân í oẳng sắp lên “hương”!
Câu đối này cũng không
có từ nào khó hiểu cả. Thủ pháp chơi chữ trong câu đối trên là ghép một
số từ liên quan đến loài chó: cầy tơ, vện vằn, chó đẻ, í oẳng.
Cũng có thể phải thêm hai chữ sắc và hương là nói đến màu
sắc cháy vàng và hương vị thơm tho khi người ta thui thịt chó.
Về ý nghĩa thì vế trên và vế dưới đều nói về một hoạt cảnh thui chó để
sửa soạn cho bảy món thịt cầy. Nếu thế thì chẳng có gì đáng nói. Cái hóm
hỉnh ở đây lại là một liên tưởng khác: cảnh ồn ào bát nháo của một nơi
thui chó cũng na ná như cảnh tượng đấu đá giữa một đám lưu manh, cũng í
oẳng, gấu ó như một bầy “chó đẻ” (nghe như một tiếng chửi thề!). Đám
người này là ai thế? Một hội đồng của những kẻ thậm thụt như lũ chuột?
Một đám mafia? Một đám quan chức tham nhũng ở một xứ sở độc tài nào đó
trên đời này? Có thể lắm!
3 Trung thành ra phết, mà ăn bẩn
Nô lệ thò đuôi, chẳng biết dơ!
Về mặt chữ thì cũng
không có chữ nào khó cả. Về mặt nghĩa thì năm chó mà đặc tả những tính
cách của chó Việt Nam như trên thì thật là chính xác. Chó Việt Nam ăn
bẩn là thường, không biết sợ dơ bao giờ; chó thì rất trung thành, hết
lòng vì chủ. Đó là mặt nghĩa cụ thể, nghĩa đen. Nâng lên bậc nghĩa bóng,
nghĩa liên tưởng thì có thể nhận ra nụ cười hóm hỉnh của ông Tú Xuân khi
“đặc tả” những thuộc tính của lũ quan tham lại nhũng thời xưa cũng như
thời nay: não trạng nô lệ, ăn bẩn không biết sợ, và trung với chủ ngày
nào còn được cho ăn ngập mặt. A! Có lẽ anh Tú Xuân lại lỡm đám quan chức
lưu manh rồi đây!
3 Ngoài ba câu đối hoàn chỉnh trên đây, năm nay, Hà Sĩ Phu cũng
ra thêm mấy vế đối hóm hỉnh khác và mời mọi người tham gia trò chơi đối
lại. Câu thứ nhất là:
1 Năm Khuyển, vừa khuyên vừa hỏi
Nghệ thuật chơi chữ ở đây gồm có mấy yếu tố sau:
(1) “chiết tự” (chẻ chữ ra làm nhiều phần nhỏ): chữ khuyển gồm có
phần âm khuyên + phần thanh điệu hỏi. Muốn đối lại vế đối
của ông thì cũng phải dùng thủ pháp chiết tự để cho cân xứng. Nhưng
không phải chỉ có chiết tự, vì mỗi chữ của cả câu vẫn có ý nghĩa của
chúng;
(2) về ý nghĩa, câu trên là một phát biểu về hiện thực: năm 2006 –theo
lịch Tàu- là năm con chó, vậy thì dùng chữ “khuyển” là phải rồi. Chưa
hết ý đâu; người ra vế đối còn tỏ ý rằng năm con chó này cần chúng ta
khuyên nhủ nhau, nếu cần thì cứ hỏi han nhau, thậm chí chất vấn nhau cho
tỏ tường mọi chuyện...
Câu thứ hai là:
2 Hoa đào cho sắc mừng năm Chó!
Câu này cũng dùng lối
chiết tự theo kiểu của chữ quốc ngữ (cho + sắc = chó), và lối dùng từ
đồng âm có ý nghĩa. Cả câu đều có ý nghĩa: hoa đào nở là tạo màu sắc
tươi đẹp để chào đón năm Chó.
Câu thứ ba:
3a Đào của xứ hoa cho sắc để mừng...năm Chó
đấy
3b Anh mê đào của xứ hoa, năm Chó say đào, mê mẩn vì đào cho sắc
đấy
Vế đối 3a là một câu đối "song quan", liền một
mạch; trong khi vế 3b là một câu dài, cắt làm ba đoạn, trong lối văn
biền ngẫu gọi là “câu cách cú”; về từ ngữ thì có ba chữ đào, một
chữ chó, và một chữ chó thứ nhì nằm dưới dạng chiết tự (cho
sắc).
Cả ba câu đều có lối chơi chữ quen thuộc trong nghệ thuật đối: chiết tự.
Có khác chăng là ngày xưa các cụ thường chẻ một chữ nho làm thành những
mảng nhỏ, chẳng hạn: muốn nói đến chữ “hồ” thì nhà văn có thể nói “cổ
nguyệt” (vì theo chữ nho hồ = cổ +nguyệt) [1]. Đối với chữ quốc
ngữ thì chiết tự quen thuộc là lối “đánh vần”: cho + sắc = chó,
khuyên + hỏi = khuyển.
4 Nghề chơi chữ quả là công phu. Công phu vận dụng hết các ngóc
ngách của việc biến báo lối dùng chữ kể đã nhiều rồi; nhưng công phu
dùng chữ không thôi chưa phải là đủ, nếu câu đối không cho thấy được
chút tâm sự, tâm trạng của người làm câu đối.
Về mặt này, có thể nói đến hai mặt của một tính cách của những câu đối
tết của Tú Xuân: nét hóm hỉnh cười cợt của một người thích đùa trước
những cái lố bịch của một thời “bùn nhão” [2]. Câu đối nào của ông
cũng có hai mặt nội dung này. Cho nên có thể là ông mở đầu câu đối bằng
một sự kiện rất tầm thường, vô thưởng vô phạt (chẳng hạn câu đối 1 năm
nay: thời buổi cúm gia cầm khiến gà biệt tăm biệt tích), nhưng vế đối sẽ
là một bất ngờ với nội dung rất hiện thực của con người và của thời thế
mà ông đang sống từng ngày từng giờ với nó (thời chó má trong đó có đủ
thứ gấu ó, tranh chấp quyền lực rất bẩn thỉu). Cái mô hình nội dung đó
khá thống nhất ở mọi câu đối, không chỉ năm nay, mà cả những năm trước.
Ở đây có thể thấy tác dụng của câu đối: dùng ngôn ngữ văn học để kêu lên
những tiếng bất bình của con người trước thời thế (“bất bình tắc minh”).
Đó là cách ông Tú Xuân sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình trong một
tình thế mà mọi thứ quyền tự nhiên của con người bình thường đã bị tước
đoạt hết cả rồi [3] .
Ở chừng mức này thì dường như ông có lí: khi mà mọi thứ của con người đã
bị nén xuống quá lâu và quá sâu, thì sự vùng dậy của ngôn từ có sức bật
của một vật bị nén đã lâu nay bật lên, có sức công phá [4].
5 Ngày xưa các ông đồ nho ăn tết chữ là dùng cái đẹp của ngôn từ
để nói lên tâm cảnh của mình trong ngày đầu năm. Bây giờ ăn tết chữ cùng
với ông Tú Xuân HSP mà sao lòng không thanh thản được? Tâm sự ngổn
ngang, không bình yên? Có phải vì thời thế bây giờ trần trụi quá, "chó
đẻ" quá mà nó ra nông nỗi ấy? Mua vui với ông được một vài giây lát mà
"sầu ở lại", lâu dài.
Đặng Mi Lộc
Cước chú
[1] Có lẽ là một lệ ngoại hiếm hoi khi một nhà nho làm câu đối chiết tự
theo lối chữ quốc ngữ mà không phải là chữ quốc ngữ. Đó là câu đối chữ
hán, tương truyền là của cụ Bùi Bằng Đoàn làm để tặng một người đi lính
cho Pháp trở về sau khi thế chiến I chấm dứt, được quan Pháp cho làm
việc ở toà sứ:
Tiếp tiệp hoan hoàn, tê ư tư sắc tứ
Binh bình sự sứ, hát ô hô huyền hồ!
(Nghĩa: nhận được tin thắng trận, vui vẻ mà về,
được quan tây phong sắc phẩm hàm; xong việc nhà binh là ở toà sứ, kêu to
lên: ô hô, treo cung rồi.).
Nét độc đáo của lối chơi chữ ở đây là cụ Bùi dùng năm tiếng cuối của mỗi
vế theo lối đánh vần chữ quốc ngữ thời đầu thế kỉ XX, nhưng lại là năm
chữ nho có ý nghĩa hẳn hoi. Lối chơi chữ nước đôi như thế có lẽ nay đã
ít ỏi lắm rồi –nếu không nói là mai một.
[2] HSP: "... tuy bề ngoài thay đổi rất nhiều mà về căn bản thì xã hội
vẫn như dẫm chân tại chỗ, dẫm chân tại chỗ mà vẫn lục đục không yên,
không yên mà vẫn không thể bứt ra thành một cái gì khác về chất được. Ðã
vậy, tính khôn vặt và những khát khao thực dụng của ''con người Việt nam
sau chiến tranh'' đang cùng với sự chuyên chính rất xảo quyệt của giới
cầm quyền tạo ra một trạng thái cân bằng bùng nhùng không dễ gì phá vỡ
được, vì những yếu tố ấy quyện vào nhau khá khắng khít. Trong đám ''bùn
nhão'' ấy mọi người dù lem luốc nhưng vẫn kiếm được ăn, vẫn có không ít
sự béo bở thật và béo bở ảo vọng, không ít những hương hỏa phải cố giữ
lấy.
Trong đám ''bùn nhão'' ấy, (tôi dùng chữ bùn nhão để chỉ một trạng thái
vật lý vô định hình), mọi mâu thuẫn đều nhoè nhoẹt đi, mọi áp suất đều
được xì van, mọi sự cố nếu có xảy ra rồi cũng dễ dàng tắt ngấm. Ðám đông
tự soi vào nhau và thấy mặt mũi mình cũng chẳng kém ai (vẫn thấy chân
dung mình là: rũ bùn đứng dậy sáng loà!), nên chẳng thấy có gì lớn cần
thay đổi cả!" (Hà Sĩ Phu,
“Thư HSP gửi NGK”, th 3.2000)
[3] HSP: "Khi những kẻ ăn cắp lại chi phối luật pháp, lại độc chiếm hết
diễn đàn để giảng đạo đức (tất nhiên là đạo đức giả), thì người mất cắp
đành phải chửi thôi. Những phụ nữ chịu nhiều tầng ràng buộc nhất chỉ còn
cách tự vệ ấy để quyết thực hiện quyền ngôn luận,” tự do báo chí” của
mình…" (HSP,
“Văn hoá chửi”)
[4] HSP: "Đến một lúc ta lại khám phá ra rằng, trong các cụm từ gồm
những yếu tố ngược nhau, chống nhau kia toát lên một ẩn ức : Dường như
người nói phải khẳng định một giá trị mà biết chắc là sẽ rất nhiều người
muốn phủ định. Hơn thế, người nói dường như biết mình là thiểu số, là
không chính thống, nhưng lại tin chắc sự thật và cái đúng nằm ở phía
mình. Ngôn ngữ được phát ra trong một tương quan tranh chấp." (HSP,
"Sức nén của ngôn từ")
Re: Ăn tết chữ cùng với
Hà Sĩ Phu (Điểm: 0)
by (Doc gia) ngày 30/01/2006 lúc 05:42:00 CST |
Thấy ông Hà Sĩ Phu ra mấy
câu đối khá thú vị, tôi xin được góp vài câu đối
đối lại như sau:
Câu 1: Năm khuyển vừa khuyên vừa hỏi
Xin đối là: Đỗ Mười tám mươi phải huyền
(TBT Đỗ Mười vốn dốt đặc cán mai nhưng lại tham
quyền cố vị, nhưng … trời có mắt, nên không may
đến tuổi 80 bị treo chức (huyền), cho về
vườn tiếp tục hoạn lợn.
Câu 2: Hoa đào cho sắc mừng năm Chó
Xin đối là: Xử tội Hô huyền treo cổ Hồ!
(HCM là một tội đồ của dân tộc nên rất xứng đáng
bị nhân dân xử tội treo cổ)
Câu 3: Đào của xứ hoa cho sắc để mừng…năm Chó
đấy
Xin đối là: Hạm gộc thành Hồ kiết nặng khó
tiêu chú Kiệt ơi!
(Khi làm bí thu thành uỷ thành Hồ, Võ Văn Kiệt
ăn bẩn quá nhiều nhưng không biết điều với các
hạm khác ở chóp đỉnh quyền lực, nên bị giáng
chức)
Có câu thứ tư là: Vẫn nghề giai cấp đấu
tranh, lê mác lại mài cho sắc nhỉ
Xin đối là: Quen thói cậy mạnh hiếp yếu,
giang hồ mà ngán câu hỏi ư ?
(Bọn Đại Hán thường vẫn dùng kế “lấy thịt đè
người”. Những lãnh tụ đại Hán thời nay như Giang
Trạch Dân hay Hồ Cẩm Đào (Giang và Hồ)vẫn
quen xử ức VN phải nhượng biển cắt đất biên giới
cho chúng, nhưng (biết đâu) chúng lại sợ bị cật
vấn (câu hỏi)!
Kim Khôi
NC - USA |
|
|
Bản quyền © 1988-2006 Thông Luận
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |
|