"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
KỶ NIỆM VỀ MỘT NGÔI TRƯỜNG
Cuối năm 1967, tôi vào học tại Viện Đại học Đà Lạt,
sau khi đã hoàn tất năm Dự bị Văn khoa (nhiệm ý Triết học) tại Sài Gòn.
Viện Đại học Đà Lạt lúc đó, theo thống kê, có gần 2 ngàn
rưởi sinh viên ghi danh theo học; trong đó trường Chính trị Kinh doanh
đã chiếm non một nửa số sinh viên. Trong ba trường còn lại (Văn khoa,
Khoa học và Sư phạm), Văn khoa là trường đông hơn cả, với 952 sinh viên
ghi danh.
Trường Đại học Văn khoa Đà Lạt thời đó còn thực hiện chế độ
chứng chỉ, sinh viên có thể ghi danh học đến hai chứng chỉ trong mỗi năm
học. Vì vậy tôi nuôi quyết tâm học xong Cử nhân trong vòng hai năm nữa,
mỗi năm học hai chứng chỉ, để rút ngắn phần nào sự chậm trễ trong những
năm 1964-66, khi học Đại học Khoa học Sài Gòn không có kết quả.
Ấn tượng đầu tiên của tôi là ngôi trường rất đẹp. Nhìn từ
mặt tiền, những giảng đường một tầng lầu được xây dựng với mái chữ A
trông rất gọn gàng, xinh xắn, được bố trí một cách hài hoà giữa những
bãi cỏ, bồn hoa và những hàng thông. Riêng cánh trái của khu đồi là cả
một rừng thông nhỏ chạy dài từ toà Viện trưởng mang tên Hoà Lạc đến tận
dòng suối dưới chân đồi. Phong cảnh mỹ lệ đó, cộng với khí hậu trong
lành, mát lạnh của thành phố cao nguyên, quả là môi trường lý tưởng cho
việc học tập, và cũng là khung cảnh của biết bao chuyện tình trong giới
sinh viên.
Xét về mặt quy hoạch, trường nằm ở một vị trí rất độc đáo :
phía bắc hồ Xuân Hương, cuối khu Đồi Cù - một khu bất kiến tạo (zone
non ædificandi) với những bãi cỏ và rặng thông tuyệt đẹp mà các nhà
quy hoạch thời Pháp thuộc đã chừa lại giữa lòng đô thị để tạo nên nét
đẹp thiên nhiên cho Đà Lạt. Hồi đó Đồi Cù còn là công viên, không bị rào
lại như ngày nay, cho nên giáo sư và sinh viên có thể nhìn thấy ngay
trước mặt mình một phong cảnh tuyệt vời và nếu thích, có thể tản bộ ra
đó để hít thở không khí trong lành của cao nguyên. Tháp chuông của nhà
nguyện Năng Tĩnh được bố trí trên đỉnh đồi, nên từ nhiều nơi xa trong
thành phố người ta vẫn có thể nhìn thấy dễ dàng.
Thật ra, trước khi trở thành sinh viên của trường, tôi đã
từng có dịp vào Viện. Vào cuối năm 1966, ban Trầm Ca đã từng vào biểu
diễn một đêm tại giảng đường Spellman và đã được các giáo sư, sinh viên
cũng như giới trẻ của Đà Lạt cổ vũ rất nồng nhiệt. Cũng nhờ uy tín đó,
trong hai năm học tại Viện, tôi đã được các đơn vị hướng đạo sinh nam và
nữ cũng như nhiều lớp học sinh trung học mời đến dạy hát, chủ yếu là
những bài dân ca và những bài hát du ca đang được ưa chuộng thời đó.
Tại Viện, ngoài chuyện học hành, tôi cũng tham gia
hoạt động xã hội. Thật ra, trong số bốn trường, trường Chính trị Kinh
doanh có số sinh viên đông hơn, năng động hơn. Anh chị em bên đó hoạt
động rất sôi nổi, từ việc quay cours (giáo trình, in bằng kỹ
thuật roneo) để bán cho sinh viên cho đến sinh hoạt văn nghệ, công tác
xã hội,v.v…Còn các trường bên này thì im ắng, trầm lắng hơn. Cùng với
một số bạn đồng môn, tôi đã tổ chức ra nhóm Triết - một trong những câu
lạc bộ sinh viên đầu tiên của trường Văn khoa. Tôi được bầu làm trưởng
nhóm. Chữ
Φ
(mẫu tự đầu trong từ Hy Lạp philosophia, triết học) được chọn làm
biểu tượng của nhóm. Ngoài việc ghi lại bài giảng của các thầy, sau đó
tổ chức in ấn để bán lại cho sinh viên làm tài liệu học tập, nhóm còn tổ
chức các sinh hoạt khác để sinh viên Triết có thể hoà mình vào cuộc sống
chung của sinh viên toàn Viện. Có lần tôi tổ chức récital, mời
một người bạn là Nguyễn Thạc (giáo sư trung học) đến độc tấu đàn ghi-ta
để các bạn sinh viên có dịp thưởng thức các bản nhạc cổ điển phương Tây.
Căn phòng nhỏ cạnh giảng đường Hội Hữu trở thành tổ ấm của nhóm.
Sau hai năm học tại Viện, tôi tốt nghiệp Cử nhân Giáo khoa
Triết học vào tháng 9 năm 1969 và được nhận văn bằng trong một buổi lễ
tổ chức rất long trọng nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập trường. Vì lúc
đó Đại học Đà Lạt chưa cho phép sinh viên Văn khoa ghi danh làm tiểu
luận Cao học, tôi phải về Sài Gòn để ghi danh tiếp.
Kế hoạch làm tiểu luận Cao học cuối cùng cũng bị bỏ lỡ. Mặc
dù vẫn còn tiếp tục tham gia các hoạt động của Phong trào Du Ca trong
một thời gian ngắn, nhận thức chính trị của tôi đã bắt đầu thay đổi, do
ảnh hưởng của xu hướng phản chiến trong và ngoài nước. Những cuộc đấu
tranh của giới sinh viên học sinh và trí thức ngay giữa lòng Sài Gòn
trong năm 1970 đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm tư, tình cảm của tôi.
Trong số những gương mặt của các tù nhân chính trị được thả ra từ Côn
đảo và các nhà tù khác ở miền Nam, tôi nhìn thấy những gương mặt thân
quen của bạn bè. Bản thân tôi cũng là con của một cán bộ Việt Minh, và
mặc dù từ nhỏ đến lớn, tôi không nhận được tin tức gì, không biết cha
tôi còn sống hay đã mất, điều bí ẩn của cội nguồn vẫn tiếp tục đeo đẳng,
làm tôi day dứt - một khi chưa được giải mã. Tôi không thể hoàn thành
được tiểu luận Cao học, nhưng nếu cứ tiếp tục như vậy thì trước sau gì
cũng phải đi lính. Chính trong hoàn cảnh đó, giáo sư Nguyễn Khắc Dương
đã gọi tôi trở về Đà Lạt. Cuối năm 1970, tôi nhận làm phụ khảo
(assistant) tại Đại học Văn khoa Đà lạt, chính thức bước vào nghề dạy
học, lương hàng tháng 13.000 đồng, không kể các khoản phụ cấp. Năm đó
tôi được 24 tuổi.
Quãng đời dạy đại học của tôi chỉ kéo dài khoảng một năm, từ
cuối 1970 đến cuối 1971. Cũng chính trong năm đó, tôi từng bước tham gia
vào đấu tranh chính trị đòi hoà bình, dân chủ và sau cuộc đấu tranh
chống bầu cử “độc diễn” (tháng 10 năm 1971), tôi chính thức bắt liên lạc
với tổ chức của cách mạng. Việc tham gia đấu tranh công khai đã dẫn đến
hậu quả : hai người bạn của tôi là giáo sư trung học bị điều động đi địa
phương khác, còn tôi thì nhận được lệnh động viên. Đầu năm 1972, tôi từ
giã giảng đường đại học để vào quân trường Thủ Đức. Mãn khoá học, không
được biệt phái trở lại trường, tôi bỏ đơn vị và sau một thời gian sống
lẩn tránh ở Sài Gòn, tôi rời bỏ thành thị để “vào bưng”. Lúc đó là đầu
năm 1973, đúng vào lúc hiệp định Paris có hiệu lực. Khi rời thành phố ra
đi, tôi bỏ lại sau lưng không những cả những người thân trong gia đình
mà cả một sự nghiệp đang mở ra một tiền đồ rạng rỡ. Lúc đó tôi không
tiếc gì cả, kể cả mạng sống, bởi vì tôi nghĩ sự hy sinh của mình là quá
nhỏ nhoi so với biết bao sự hy sinh khác.
Ngày quê hương ngừng tiếng súng, cũng như những trí thức tả
khuynh khác, tôi tin rằng cả một tương lai tươi sáng đang mở ra cho đất
nước ta. Thế nhưng khi hoà bình, độc lập, thống nhất đã đến, cái “ngày
mai ca hát” mà các nhạc sĩ trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”
đã từng tô vẽ bằng những sắc màu lãng mạn lại không trở thảnh hiện thực.
Hiện thực tàn nhẫn và khắc nghiệt cho thấy không phải chỉ cần đuổi những
người ngoại quốc đi là mọi sự sẽ đương nhiên trở nên tốt đẹp. Từ chỗ hy
vọng, tôi đã đi đến chỗ thất vọng. Từ chỗ mơ mộng, tôi đã đi đến chỗ vỡ
mộng.
Điều may mắn là tôi đã không tuyệt vọng, không đầu hàng,
không gục ngã. Nếu như nhà thơ Phùng Quán đã từng “vịn vào câu thơ mà
đứng dậy” thì trong những phút ngã lòng, tôi đã vịn vào tư duy triết
học mà đứng dậy. Chính vì thế, tôi vô cùng biết ơn những ngày tháng
học triết trong môi trường Thụ Nhân. Chính môi trường đó đã dạy cho tôi
không chỉ là kiến thức, mà đã giúp tôi có được một phương pháp tư duy
đúng đắn, một thái độ tinh thần độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ thần
tượng nào, không dựa vào bất cứ một tín điều sẵn có nào. Nhờ đó mà tôi
đã có thể học tập Descartes, ít nhất là một lần trong đời, quyết đặt tất
cả kiến thức sẵn có “vào trong dấu ngoặc”, để duyệt xét lại toàn bộ sự
hiểu biết của mình, để nhận thức lại, truy tìm lại. Nhờ
hoài nghi triết học mà tôi tìm lại được chân lý, khôi phục niềm tin
trong cuộc sống.
Nhiều người nghĩ rằng Viện Đại học Đà Lạt là một cơ sở giáo
dục tư nhân do Giáo hội Công giáo lập ra, tất nhiên chỉ nhằm quảng bá tư
tưởng Công giáo, phục vụ cho lợi ích của Giáo hội Công giáo. Đó là một
sự ngộ nhận đáng tiếc. Bản thân tôi xuất thân từ một gia đình Phật giáo,
thế nhưng, cũng như rất nhiều sinh viên và giáo sư khác, tôi đã học tập
và sau đó làm việc tại Viện mà không hề gặp một trở ngại nào. Ngược lại,
có thể nói nhờ vào thời gian học và dạy tại Viện, tôi đã có dịp tiếp xúc
nhiều với các giáo sư và sinh viên Công giáo; điều đó giúp tôi có được
cái nhìn đúng đắn hơn đối với cộng đồng Công giáo tại Việt Nam - một
cộng đồng mà từ thuở thiếu thời đối với tôi thật là xa lạ, bí ẩn, mặc dù
trong bạn bè không ít người là tín đồ Ki-tô giáo thuần thành.
Sở dĩ Viện Đại học Đà Lạt làm được điều đó là vì nó được xây
dựng dựa trên hình mẫu của các Viện đại học phương Tây, nơi mà “tự do
học thuật, tự do hàn lâm” (academic freedom) tạo thành cốt lõi của quy
chế tự trị đại học. Nói một cách dễ hiểu, đó là quyền của giáo sư và
sinh viên được tự do nghiên cứu trong mọi lĩnh vực của tri thức, không
chịu áp lực của bất cứ quyền lực chính trị hay tôn giáo nào cả. Cũng như
các đại học khác được thành lập vào cuối thập niên 1950 - đầu thập niên
1960 trên toàn miền Nam, do ảnh hưởng của các viện trưởng, khoa trưởng,
giáo sư được đào tạo từ các đại học Âu - Mỹ, Viện đại học Đà Lạt mặc dù
do Giáo hội Công giáo lập ra, vẫn tràn ngập tinh thần “tự do học thuật”,
không hề mang tính chất giáo điều, ý thức hệ. Đó cũng chính là điểm khác
biệt căn bản giữa các trường đại học thời đó với các trường Quốc Tử Giám
thời trung cổ và với cả các trường đại học hiện nay ở trong nước. Chúng
ta cần tri ân các Viện trưởng như Linh mục Nguyễn Văn Lập, Linh mục Lê
văn Lý và những giáo sư khác đã giúp chúng ta được hưởng cái bầu khí tự
do tinh thần tuyệt vời đó.
Theo tôi, trách nhiệm của tất cả những cựu sinh viên Thụ
Nhân hiện vẫn còn sống trong và ngoài nước là phải phục hồi lại tinh
thần “tự do học thuật” đó nói riêng, và “tự do tư tưởng” nói chung. Chỉ
bằng cách làm sống lại tinh thần đó, chúng ta mới có thể có được cái
ngôn ngữ của đối thoại để thay cho thứ ngôn ngữ độc thoại của chiến
tranh, của ý thức hệ. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có thể xoá bỏ được
những thành kiến, sự nghi kỵ, lòng hận thù đã từng xé đôi nhiều thế hệ
người Việt Nam - trong đó có gia đình Thụ Nhân chúng ta, thành hai phía
đối địch nhau. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới làm cho cuộc họp mặt huynh
đệ giữa các cựu sinh viên Thụ Nhân có ý nghĩa hơn, có tác dụng hơn đối
với cuộc sống tinh thần và tương lai của dân tộc.
Không hiểu sao, mỗi khi ngắm hình cây thông xanh được vẽ
trên huy hiệu của Thụ Nhân, tôi lại nhớ đến câu thơ cảm khái của Nguyễn
Công Trứ ngày xưa : “Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng
giữa trời mà reo”. Nhưng tại sao phải chờ đến kiếp sau? Nhà thơ
Phùng Quán, một người gần gủi hơn với chúng ta, đã viết nên những dòng
như sau : “Yêu ai cứ bảo là yêu, Ghét ai cứ bảo là ghét, Dù ai ngon
ngọt nuông chiều, Cũng không nói yêu thành ghét, Dù ai cầm dao doạ giết,
Cũng không nói ghét thành yêu”. Chúng ta vẫn có thể sống như cây
thông “đứng giữa trời mà reo” ngay trong đời này, kiếp này, không chờ
đến kiếp sau.
Nếu mỗi cựu sinh viên
Thụ Nhân chúng ta cố gắng làm một cây thông, tất cả chúng ta sẽ là một
rừng thông. Và khi mà dưới chân mỗi cây thông già lại nẩy mầm những cây
thông con, thì rừng thông sẽ được tái sinh mãi, tràn đầy sức sống.
Một khu rừng xanh
ngắt. Ngay giữa lòng dân tộc - một dân tộc vô cùng khổ đau, nhưng cũng
vô cùng mạnh mẽ. Mạnh mẽ như những người mẹ Việt Nam chưa kịp lau khô
nước mắt vì đứa con chết trận đã phải vội vã lao vào cuộc sống hối hả,
tất bật thường ngày để nuôi lớn những đứa con còn lại.
Đà Lạt, mùa hoa quỳ, 2004.
MAI THÁI LĨNH (tức HOÀNG THÁI LĨNH)
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|