Nhóm ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
Từ Nguyễn Mạnh Tường Đến Mai Thái Lĩnh (Tưởng Năng Tiến)
Sổ
Tay Thường Dân
Tưởng Năng Tiến iến
Lời nói đầu: Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường
(www.lenduong.net) vừa nhận được từ nhà văn Tưởng Năng Tiến bài viết "Từ
Nguyễn Mạnh Tường Đến Mai Thái Lĩnh" khi anh so sánh những điểm tương
đồng và khí khái trong con người của Nguyễn Mạnh Tường và Mai Thái Lĩnh.
Qua bài
viết này, chúng ta sẽ thấy rõ thêm về giữa mọi thời đại vẫn có những con
người dám đứng thẳng và nói thật những điều mình suy nghĩ dẫu rằng
chúng có thể "gây ra nguy hiểm cho chính bản thân tôi." Như Mai Thái
Lĩnh đã từng nhận xét. Xin cám ơn anh Tưởng Năng Tiến và xin giới thiệu
đến quý thân
hữu
và các bạn trẻ bài viết "Từ Nguyễn Mạnh Tường Đến Mai Thái Lĩnh".
"Người đứng đầu các cơ quan, xí nghiệp, trường học, đoàn thể quần
chúng...phải là người có tài, có đức, được quần chúng tín nhiệm, không
phân biệt là đảng viên hay người ngoài đảng. Từ nay trở đi, để có thể
giữ những chức vụ trong bộ máy quản lý nhà nước, bộ máy quản lý kinh tế,
các đoàn thể quần chúng, đảng viên không còn "đặc quyền" gì mà phải "thi
đua" vớI quần chúng."
Mai
Thái Lĩnh
Đó
là ý kiến đóng góp để xây dựng đảng cộng sản Việt Nam của một nghị viên
Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh và Thành Phố, ông Mai Thái Lĩnh, được phát biểu
vào năm 1988. Ở thời điểm này, dù là đảng Cộng Sản Việt Nam đang hô hào
đổi mới và chủ trương cởi trói, ý kiến hoàn toàn không có gì là mới lạ
và độc đáo vừa nêu cũng đã khiến cho nhiều đồng chí lãnh đạo rất phiền
lòng!
Trước đó 32 năm, trong một bài tham luận đọc trước phiên họp của Mặt
Trận Tổ Quốc vào ngày 30 tháng 10 năm 56, một trí thức Việt Nam khác,
luật sư Nguyễn Mạnh Tường, cũng đã "góp ý" tương tự với đảng- bằng cách
nói ví von và diễu cợt hơn:
"Trong 10 năm qua ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu
óc chúng ta đến nỗi hai chữ 'lập trường' làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu dùng
một hình ảnh duy tâm, tôi ví lập trường như cái oan hồn theo đuổI ngày
đêm kẻ nào đã hãm hại chủ nó..."
"Dầu sao ở Việt Nam chúng ta đã xẩy ra những việc như sau đây, ta cần
ghi lại để con cháu ta cuời muôn thưở: Khi chọn một nguời lái xe ô tô,
ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi:"có lập trường
không?" Kết quả là :từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà-nội, hàng trăm
tai nạn xẩy ra, do những nguời vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm
chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra
thảo luận trước tiên là:"bệnh nhân thành phần giai cấp nào ?"
Chỉ
đề cập đến một tình trạng rất "quái gở" nhưng vô cùng phổ biến thế thôi
(vào đúng lúc đảng hô hào "sửa sai" sau vụ thảm sát cải cách ruộng đất)
nhưng đã là một cách "vời họa" của Nguyễn Mạnh Tường. Cái giá mà ông
phải trả cho những lời lẽ bộc trực, thẳng thắn và hơi diễu cợt vừa rồi
khá "mắc". Nó mắc tới cỡ nào -- cho mãi đến giờ phút này, nghĩa là sau
khi ông đã lìa đời ( vào ngày 13 tháng 6 năm 97 ) -- có lẽ không mấy
người biết rõ. Tưởng cũng nên nhắc lại chút đỉnh, nghe chơi, trước khi
tiếp tục câu chuyện Mai Thái Lĩnh.
"
Ông đi theo Việt Minh rất sớm, ngay từ 1942. Khi việc thương lượng với
Pháp thất bại, năm 1946 chính phủ Hồ Chí Minh ra bưng kháng chiến, NMT
cũng đi theo. Nhưng vì xuất thân từ thành phần phi vô sản, lại chịu ảnh
hưởng sâu đậm của nền văn hóa tư sản, nên ông không được trọng dụng..."
"
Mặc dù không được trọng dụng, lại còn bị hiểu lầm, bạc đãi, Nguyễn Mạnh
Tường vẫn một lòng cúc cung phục vụ kháng chiến, vì ông đã trót theo
kháng chiến và nghĩ rằng kháng chiến có chính nghĩa, có công trong việc
đánh bại thực dân Pháp. Ông còn hăng hái vận động nhiều trí thức khác
ủng hộ Việt Minh nữa..."
"
Cho mãi đến sau cải cách ruộng đất ông mới nhìn thấu bản chất của đảng
và chế độ. Nhân chính sách sửa sai ban bố sau đó, ông đã đọc một bài
tham luận dài tại mặt trận Tổ Quốc ngày 30-10-56, hùng hồn phê phán
những sai lầm của đảng...Trong dịp này Nguyễn Mạnh Tường đã bị cải tạo
lao động. Cho đến 1960 mớI được cho về nhà, chịu sự quản chế." (Phản
Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư, Minh Võ, Thông Vũ California 1999, trang
375 - 376).
Sau
đó là những năm tháng dài ông bị khai trừ (hay nói ví von là bị "vạ
tuyệt thông"), nghĩa là bị vùi dập, xa lánh và cô lập để chết dần mòn
trong đói lạnh, cô đơn và tủi nhục -- theo như tường thuật của chính
ông, qua hồi ký (Un Excommunié: Hanoi 1954-1991: Proces d'un
intellectuel), viết bằng tiếng Pháp, do nhà Quê Mẹ Paris xuất bản năm
1997.
"Nhà tôi ước mơ bán thuốc lá lẻ trên vỉa hè, nhưng không làm sao kiếm
nổi vốn liếng và tiền đấm mõm cho công an và cán bộ thu thuế để bọn họ
cho chúng tôi được yên thân."(tr. 253).
"Tôi phải làm gì bây giờ ? Tôi không thể đạp xích lô như vài đồng nghiệp
trẻ, không phải vì sợ những lời thị phi, nhưng chỉ vì tôi đã già rồi."
(tr. 255).
"Bạn bè cho gia đình tôi một con chó rất khôn. Chó có tuổi, chúng tôi
chẳng còn gì cho con vật đáng thương ăn cả. Con chó kiệt sức rơi nước
mắt, buồn bã vĩnh biệt chủ" (tr. 256).
"Trong chế độ này đói kém là chuyện thường. Nước da nhà tôi và con gái
tôi xanh mét, tấm thân gày gò. Nhưng cả hai cắn răng chịu đựng, họ sợ
làm tôi buồn nên chỉ khóc thầm trong đêm khuya. Tôi biết lắm nhưng giả
vờ không biết. Tôi cũng không ngăn được giọt lệ sót sa khi thấy vợ con
cắn răng chịu đựng bao nỗi cực khổ, không có hạt cơm lót bụng." (tr.
256-257trích từ Lê Đình Thông, "Thế Hệả Vong Thân, Thế Kỷ U Sầu." Tạp
Chí Thế Kỷ 21 Jan. 2000:54).
Không phải đợi đến khi cuốn hồi ký đẫm nước mắt và đầy phẫn nộ của
Nguyễn Mạnh Tường ra đời người ta mới biết đuợc những mảnh đời te tua,
bầm dập và tan nát, ở bên kia bức màn sắt, của gia đình ông và những
người đồng thời. Bi kịch nàyĩ đã đuợc ghi lại tương đói rõ ràng và đầy
đủ trong Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí, xuất bản năm
1959 và Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng Sản của Minh Võ, xuất bản năm 1963
tại Sài Gòn. Cả hai cuốn sách, có lẽ, đýu không được lưu tâm đúng mức.
Chúng chịu chung số phận cùng với tất cả những soạn phẩm hay tác phẩm,
với nội dung tương tự, xuất bản tại miền Nam Việt Nam; bởi thế, hai mươi
năm sau, lại thêm một mớ trí thức nữa tiếp tục đi theo con đường bi
thương của thế hệ Nguyễn Mạnh Tường.
Mai
Thái Lĩnh, nghĩ cho cùng, chỉ là một thí dụ cay đắng điển hình của thế
hệ sau - "thế hệ không chịu học bài" và vì "chưa thấy quan tài nên chưa
đổ lệ." Ông sinh trưởng ở miền Nam, tốt nghiệp cử nhân triết học và trở
thành giảng viên phụ giảng của trường Văn Khoa thuộc viện Đại Học Đà Lạt
- lúc còn rất trẻ. Được lệnh động viên vào mùa hè đỏ lửa 1972, thay vì
gia nhập quân đội miền Nam để bảo vệ phần đất đã bảo bọc và nuôi dưỡng
mình nên người, Mai Thái Lĩnh - vì thấtvọng trước cảnh bất toàn của xã
hội mà ông đang sống - đã từ chối nhập ngũ và "nhẩy núi" gia nhập Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam.
Mặt
trận này bị bức tử ngay sau khi miền Nam được "giải phóng". Còn "giấc mơ
đổi đời" của Mai Thái Lĩnh thì cũng dần phai màu "cách mạng" và biến
thành ác mộng sau đó, không lâu.
Cũng như Nguyễn Mạnh Tường, nhân dịp đảng chủ trương "đổi mới" và "cởi
trói", Mai Thái Lĩnh đã thẳng thắn và can đảm đặt vấn đề với nó:
Những bài báo, những tác phẩm văn nghệ phơi bầy những hiện tượng tiêu
cực trong đời sống xã hội có làm rối lòng dân, hoang mang dư luận không
? Cần khẳng định rằng: nếu chúng ta phản ánh đúng sự thật thì chúng
không thể có tác dụng tiêu cực. Bởi vì cái làm rối lòng dân hoang mang
dư luận không phải là những bài báo, những tác phẩm văn nghệ mà chính là
những hiện tượng tiêu cực đang sờ sờ trong đời sống hàng ngày, trước mặt
người dân. Và người ta không thể làm yên lòng dân nếu không bắt tay vào
việc chính những mâu thuẫn đang tồn tại trong thực tế. ( "Độ Trong Suốt
Của Một Nền Dân Chủ", tạp chí Langbian, số tháng 2 năm 1988).
Nói
như thế, e có người vẫn chưa nghe "thủng"; do đó, ba tháng sau, Mai Thái
Lĩnh nói lớn tiếng hơn: Cấm đoán và trừng phạt đó là ngón đòn quen thuộc
của chủ nghĩa giáo điều. Nhiều văn nghệ sĩ chân chính đã trở thành nạn
nhân của nó. Đó là tấn bi kịch của thời đại mới, thời đại xã hội chủ
nghĩa. ("Văn Nghệ Và Sự Thật", tạp chí Langbian, tháng 5 năm 1988).
Nói
kiểu này - kiểu Nguyễn Mạnh Tường, nghĩa là có sao nói vậy -- coi như
Mai Thế Lĩnh đã "vời họa" vào thân. Có lẽ cũng đã dự liệu được hệ lụy
tất yếu giữa mình và đảng Cộng Sản Việt Nam, cuối bài báo vừa dẫn, Mai
Thái Lĩnh viết câu kết luận như sau:"Vấn đề còn lại là tài năng, tính
trung thực và lòng dũng cảm của văn nghệ sĩ."
Và
Mai Thái Lĩnh quả... "viễn kiến". Tạp chí Langbian số tháng 5 năm 88 là
số báo thứ ba và là số báo cuối cùng. Nó bị đảng Cộng Sản Việt Nam bóp
chết, như họ đã từng làm với tờ Nhân Văn - ba mươi năm truớc đó. Khi Bùi
Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự -- những nguời chủ trương tờ Langbian - đi
thu thập chữ ký của những văn nghệ sĩ khác để phản đối việc này, họ đýu
bị đe doạ "xử lý kỷ luật".
Với
tư cách hội viên Hội Văn Nghệ Lâm Đồng, ngày 7 tháng 6 năm 1989, Mai
Thái Lĩnh lên tiếng phản kháng bằng cách viết thư gửi ban chấp hành của
hội. Bức thư này có những đoạn đáng chú ý, như sau:
"
Trước hết, cần phải dẹp bỏ cái 'giáo điều' cho rằng không phải là đảng
viên thì không đuợc quyền bàn việc của Đảng... cấm dân bàn chuyện của
Đảng là điều cực kỳ phi lý... khi mà nhân dân bị trói tay, đại biểu nhân
dân cũng bị trói tay bởi 'cơ chế' bất hợp lý thì làm sao ngăn nổi sự lạm
quyền và tình trạng vi phạm dân chủ ?
"
"Về
trường hợp của hai anh Quốc và Cự, theo những gì tôi nắm đuợc, hai anh
không phải là những kẻ phản bội, cũng không phải là sâu dân mọt nước,
tham ô hối lộ, thóai hoá biến chất... Nếu hai anh bị thi hành kỷ luật vì
những lý do tương tự thì tôi chẳng phải nhọc công viết lá thư này..."
"
Có thể những điều tôi nói trong lá thư này là quá táo bạo, và gây ra
nguy hiểm cho chính bản thân tôi. Những bài báo của tôi trong thời gian
qua đã chẳng đem lại cho tôi ít nhiều tai hoạ đó sao?" (Tiêu Dao Bảo Cự.
Hành Trình Cuối Đông. Văn Nghệ California: 1998, trang 274 - 275).
Nửa
năm sau Liên Bang Xô Viết cùng với cả khối cộng sản Đông Âu sụp đổ. Chủ
trương đổi mới ở Việt Nam, tất nhiên, chấm dứt ngay sau đó. Giai đoạn
những lờI nói hay những bài báo trung thực mà chỉ "mang lại ít nhiều tai
họa"đã qua. Sau đó (ôi thôi) tùm lum tai họa xẩy đến cho Hà Sĩ Phu, Bùi
Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự... - những kẻ đã quyết liệt từ chối đưa tay
cho đảng trói trở lại.
Không trói đuợc tay thì đảng tìm cách trói chân, và trói bằng một thứ
xiềng xích tân kỳ của thời đại xã hội chủ nghĩa. Nó có tên là nghị định
31/ CP, được Võ Văn Kiệt ký vào tháng Năm năm 97, để biến vô số tư thất
ở Việt Nam thành...lao thất.
Ủa,
nói vậy không lẽ ở Việt Nam mà cũng có sự phân biệt giữa lao thất và tư
thất hay sao ?
Có
chớ. Sự dị biệt giữa hai nơi cư trú này rõ ràng như sau: ở lao thất thì
chắc chắn có cơm hẩm với muối và nước lã chứ còn ở tư thất thì chưa chắc
-- trừ khi trong nhà có chôn vàng thì không kể!
Bởi
vậy Nguyễn Mạnh Tường và vợ con mới đói thất điên bát đảo và dở sống dở
chết suốt cả kiếp người.
Riêng Mai Thái Lĩnh, sau bức thư ngỏ vừa dẫn, tên tuổI của ông chìm dần
vào quên lãng. Ông lựa chọn một thái độ im lặng hay bị bắt buộc lặng im
là điều kẻ bàng quan không thể nào biết được.
Bất
ngờ, ngày 31 tháng 5 năm 2000, cơ quan quốc tế đấu tranh cho nhân quyền
Human Rights Watch đã phổ biến một tuyên cáo "kêu gọi nhà cầm quyên Việt
Nam trả ngay tự do cho Hà Sĩ Phu." Cơ quan này cho biết ông Hà Sĩ Phu bị
công an tình nghi có liên lạc vớI một số trí thức, những người đã thảo
ra một tuyên ngôn chung đòi dân chủ có danh xưng là "Kết Ước 2000".
Human Rights Watch cũng tiết lộ danh tánh một ngườI thứ hai có liên quan
đến nội vụ là ông Mai Thái Lĩnh. Ông cũng bị soát nhà và công an đã tìm
ra bản thảo của Kết Ước này.
Cũng theo HRW :"Năm ngoái khi soát nhà Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội, công
an đã tìm thấy một bức thư yêu cầu ông Giang thu thập chữ ký của những
nguời bất đồng chính kiến cho bản kết ước, việc này đã dẫn đến chuyện
ông Giang bị bắt vào tháng 3 năm 99 (Last year, when police searched the
house of HaNoi dissident Nguyễn Thanh Giang, they found a letter
requesting Giang to gather signatures on the dissent statement, which
led to Giang's arrest in March 1999).
Năm
1991, sau một phần tư thế kẻ bị đầy đọa, Nguyễn Mạnh Tường vẫn giữ
nguyên được sự dũng cảm và khí phách của một sĩ phu. Cũng như bản tham
luận viết năm 1956 - trong cuốn hồi ký Un Excommunié: Hanoi 1954-: 1991:
Proces d'un intellectuel, hoàn tất năm 1991- Nguyễn Mạnh Tường vẫn tiếp
tục lớn tiếng lên án những sai trái và tội ác của Đảng Cộng Sản Việt
Nam:
"Họ
là những cái thùng rỗng tuyếch khua ầm ĩ. Mở miệng ra là nói Mác, nhưng
không bao giờ đọc sách vở của Mác, hoặc nếu ngẫu nhiên đọc một trang
trong cuốn tư bản luận cũng chẳng hiểu ất giáp gì." (tr. 27)
"Đất nước mất đi bản sắc, chỉ nhắm mắt bắt chước, sao chép (sự tàn ác
của) Liên Xô và Trung Quốc (Le Vietnam perd sa personalité pour devenir
le reflet, le fac-simile de l'Union soviétique et de la Chine)."
(tr.84).
Niềm tin của Nguyễn Mạnh Tường vào cuộc đời và vào tương lai vẫn vững
mạnh như khi ông còn trai
trẻ:"(Chúng ta) nhất định ngăn chận không cho những thảm họa tương tự
tái diễn trong tương lai." (tr. 153 theo Lê Đình Thông, Tạp Chí Thế Kỷ
21, số đd, tr. 58).
Năm
2000, sau một phần tư thế kỷ bị lường gạt, Mai Thái Lĩnh cũng vẫn giữ
nguyên được niềm tin vào công lý và điều thiện. Hãy xem qua bản Kết Ước
2000 mà ông "bị tình nghi" là có liên quan ít nhiếu chi đó đến nộI dung
của nó:
"Thế kyỵ 21 và thiên niên kyỵ thứ ba đến vào giữa lúc mà xu hướng toàn
cầu hóa đã trơỵ thành áp đaỵo. Trong kyỵ nguyên mới này, cũng là kyỵ
nguyên cuỵa sáng kiến và sự hiểu biết, các quốc gia mà biên giớI được
coi như hàng rào ngăn chặn đà tiến chung vànhững giá trị phổ cập cuỵa
loài người sẽ không còn lý do tồn tại và sẽ không thể tồn tại. Các quốc
gia như thế sẽ không được sự hươỵng ứng cuỵa người dân, sẽ không động
viên được nội lực, sẽ thua kém, sẽ bị giaỵi thể trong lòng người và sau
cùng sẽ tan rã."
"Chúng tôi là những người Việt Nam cùng chia seỵ một lo âu trước sự tụt
hậu cuỵa đất nước, trước sự thờ ơ cuỵa quần chúng và trước sự thiếu tầm
nhìn cuỵa nhiều người lãnh đạo đất nước. Chúng tôi tin là phaỵi tìm ra
một giaỵi đáp chung cho những khó khăn cuỵa đất nước; sự kiện người dân
mất lòng tin và ý thức cộng đồng, mỗi người tự tìm một giaỵi pháp cá
nhân là rất nguy hại cho đất nước và cho mọi người. Chúng tôi muốn giữ
đất nước mà ông cha đã đổ mồ hôi và xương máu tạo dựng cho con cháu.
Chúng tôi muốn để lại cho các thế hệ mai sau một đất nước đẹp hơn, đáng
yêu và đáng tự hào hơn."
"Chúng tôi quan niệm đất nước cần cho mọi người, vì đó là một tình caỵm
và một không gian tương trợ giữa những người cùng một ngôn ngữ, lịch sưỵ
và văn hóa. Đất nước ấy nhìn nhận và baỵo đaỵm chỗ đứng và tiếng nói
ngang nhau cho mọi người. Bạo lực và đàn áp phaỵi được loại boỵ, thay
vào đó, đối thoại, thoỵa hiệp và hợp tác phaỵi được tôn vinh như những
giá trị nền taỵng cuỵa xã hội; mọi người Việt Nam phaỵi quí mến nhau
trong sự tôn trọng mọi khác biệt. Nhà nước phaỵi xuất phát từ nhân dân
qua một chọn lựa thực sự tự do..."
Nội
dung chỉ có vậy thôi mà Mai Thái Lĩnh, Hà Sĩ Phu... -- những kẻ chỉ bị
tình nghi có liên quan đến
những người dự thảo văn kiện này -- đã bị qui chụp tộI phản quốc. Bằng
tội danh này, theo điều luật 78 của Bộ Luật Hình Sự hiện tại ở Việt Nam,
hai ông có thể bị kết án tử hình!
Từ
nửa thế kỷ trước, dù bị vây khốn suốt đời bên trong bức màn sắt, những
ngọn đòn thù đê tiện nhất của đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ làm lao
đao nhưng không đánh gục nổi Nguyễn Mạnh Tường và những văn nghệ sĩ
trong nhóm Nhân Văn. Dù vậy, người cộng sản Việt Nam vẫn không nhận ra
sự thất bại thê thảm của họ trong việc sử dụng bạo lực. Do đó - trước
thái độ bất khuất của giới văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam hôm nay - họ
lại tiếp tục loay hoay tìm cách trấn áp, khủng bố bằng những thủ đoạn ti
tiện cố hữu.
Họ
quên rằng bức màn sắt để che chắn tội ác bên trong thế giới cộng sản đã
thủng te tua và thủng từ lâu. Họ cũng quên rằng cái thời có thể bắt ép
mọi ngườI phải xa lánh Nguyễn Mạnh Tường không còn nữa. Bên cạnh Hà Sĩ
Phu, Mai Thái Lĩnh hôm nay không chỉ đơn thuần có giới trí thức và văn
nghệ sĩ mà còn có tu sĩ, nông dân và tín hữu của tất cả những tôn giáo
chính ở Việt Nam.
Chưa hết, mới đây, ông Nguyễn Văn Chấn - một thương nhân, có biệt danh
là Vua Lốp, bị qui chụp là tư sản, tịch thu hết tài sản vào năm 1983, và
cả gia đình bị đuổi ra đường - đã không ngừng gửi đơn kiện đảng và nhà
nuớc cộng sản Việt Nam suốt 17 năm qua. Khi đuợc đài BBC phỏng vấn về
vấn đề này, ông Nguyễn Văn Chấn đã trả lời một cách cương quyết như
sau:" Tôi nghĩ thế này:cơm thì có thể ăn nửa bữa đuợc, ngủ thì có thể
nửa đêm thức giấc dậy cũng đuợc, nhưngcon đuờng chân lý thì quyết đi tới
cùng" (nhật báo Việt Báo, ấn bản Bắc California, số ra ngày 09 tháng 6
năm 2.000).
Thái đội quyết liệt "tới cùng" của ông Nguyễn Văn Chấn quả là đáng sợ.
Người ta không e ngại cho chính bản thân ông ta, cho những nguời nông
dân ở Thái Bình - Xuân Lộc, cho những tín hữu ở An Giang -- Châu Đốc,
hay cho những người dũng cảm như Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh ... mà là
cho những kẻ đui điếc và chậm trí đang cố làm vật cản trên "con đường
chân lý" của dân tộc Việt.
Tưởng Năng Tiến
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |