"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
HUYỀN THOẠI VỀ MỘT NHÀ NƯỚC TỰ TIÊU VONG – MAI THÁI LĨNH
Chương
I
Quan niệm của Marx về nhà nước
Vấn đề “nhà nước” không phải là một vấn đề trọng tâm của chủ nghĩa Marx,
mà chỉ là một vấn đề phái sinh. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm thiên
lệch cái nhìn của Marx; do đó ông ít quan tâm đến lĩnh vực chính trị nói
chung và vấn đề nhà nước nói riêng. Mặc dù đã dành rất nhiều công sức và
thời gian để viết bộ Tư bản, Marx hầu như không có một tác
phẩm nào bàn riêng về vấn đề nhà nước một cách thấu đáo. Quan niệm về
nhà nước của ông vì vậy chỉ có thể tìm thấy rải rác thông qua các tác
phẩm đã được công bố lúc sinh thời hoặc các bản thảo, thư từ được xuất
bản sau khi ông mất.
Nếu chỉ căn cứ vào các tác phẩm của Marx đã được chính thức công bố thì
quan niệm về nhà nước của ông đã được trình bày lần đầu tiên trong hai
tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (xuất bản năm 1847) và
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (xuất bản đầu năm 1848). Đó
cũng là những tác phẩm mà Lenin đã tham khảo vào đầu thế kỷ XX để viết
cuốn Nhà nước và cách mạng.
Thật ra, quan niệm về nhà nước của Marx đã được hình thành một cách khá
hoàn chỉnh trước đó ít lâu trong cuốn Hệ tư tưởng Đức,
viết chung với Engels trong những năm 1845-1846. Tác phẩm này không được
xuất bản lúc hai ông còn sống vì gặp khó khăn về tài chính và chế độ
kiểm duyệt; mãi đến năm 1932, dưới thời Stalin, bản thảo của tác phẩm
mới được xuất bản tại Liên Xô. Hệ tư tưởng Đức là một tác phẩm
hơi khó đọc, văn phong và cách lập luận còn chịu nhiều ảnh hưởng của
Hegel, nhiều chỗ diễn đạt hơi tối tăm, khó hiểu. Tuy nhiên, chính trong
bản thảo này, chúng ta có thể tìm thấy quan niệm của Marx về nguồn gốc
và bản chất của nhà nước nói chung.
Về nguồn gốc của nhà nước, Marx cho rằng sự ra đời của nhà nước bắt
nguồn từ sự phân công lao động trong xã hội, gắn liền với sự ra
đời của chế độ sở hữu tư nhân
[1] . Sự phân công lao động (và cùng với nó là chế độ sở
hữu tư nhân) làm phát sinh mâu thuẫn giữa lợi ích riêng (lợi ích
của cá nhân riêng biệt hay của gia đình riêng biệt) và lợi ích chung
(lợi ích tập thể của tất cả các cá nhân liên hệ với nhau). Nhà nước ra
đời nhằm giải quyết mâu thuẫn đó, dưới danh nghĩa là đại diện cho lợi
ích chung của xã hội. Do chỗ các cá nhân chỉ theo đuổi lợi ích riêng
của mình, cho nên cần thiết phải có sự can thiệp và kiềm chế của nhà
nước – đại diện cho lợi ích chung.
Quan niệm cho rằng nhà nước là đại diện cho lợi ích chung (lợi ích công
cộng), có nhiệm vụ điều hoà, giải quyết mâu thuẫn phát sinh giữa những
lợi ích riêng với nhau hoặc giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, không
phải là quan niệm của riêng Marx. Điều đặc biệt trong quan niệm của Marx
là ở chỗ ông coi nhà nước như một cộng đồng hư ảo, và cái lợi ích
“phổ biến” mà nhà nước là đại diện cũng chỉ là một thứ lợi ích phổ
biến mang tính chất hư ảo (Sđd, T. I, tr. 293-295).
Gọi nhà nước là một cộng đồng hư ảo, bởi vì mặc dù về danh nghĩa, nó đại
diện cho lợi ích chung của toàn xã hội; nhưng trong thực tế, nó
chỉ đại diện cho lợi ích chung của giai cấp thống trị mà thôi.
Còn đối với giai cấp bị trị, nhà nước không những là một cộng đồng hoàn
toàn hư ảo mà còn trở thành xiềng xích trói buộc:
Trong những cộng đồng giả đã tồn tại cho tới nay, trong nhà nước,v.v…,
tự do cá nhân chỉ tồn tại đối với những cá nhân đã phát triển trong
những điều kiện của giai cấp thống trị và chỉ trong chừng mực họ là
những cá nhân của giai cấp ấy. Cộng đồng hư ảo, mà các cá nhân đã thành
lập trước đây, bao giờ cũng tồn tại độc lập đối với họ và đồng thời do
chỗ nó đại diện cho sự liên hợp của một giai cấp chống lại một giai cấp
khác, cho nên đối với giai cấp bị trị, nó không những là một cộng đồng
hoàn toàn hư ảo mà còn là một xiềng xích mới. (Sđd, T. I, tr.
345)
Nhà nước, trong quan niệm của Marx, là một hình thức tổ chức mà giai cấp
thống trị sử dụng để thực hiện lợi ích chung của họ. Nhưng để buộc mọi
người trong xã hội phải chấp nhận, nhà nước đó lấy danh nghĩa đại
diện cho lợi ích chung của toàn xã hội, nghĩa là trở thành quyền
lực công cộng:
Vì nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị
dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó, toàn bộ
xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung, nên
mọi thiết chế công cộng đều thông qua nhà nước và mang một hình thức
chính trị. (Sđd, T. I, tr. 364)
Bằng cái nhìn duy vật lịch sử, Marx coi mọi cuộc đấu tranh chính trị
(đấu tranh trong nội bộ nhà nước, đấu tranh giữa phái dân chủ, phái quý
tộc và phái quân chủ, đấu tranh cho quyền bầu cử, v.v…) thực ra chỉ là
những ”hình thức hư ảo” của những cuộc đấu tranh thực sự giữa các
giai cấp khác nhau. Nói cách khác, chính trị lệ thuộc vào kinh tế, và
muốn tìm nguồn gốc của những cuộc đấu tranh giành quyền lực, phải tìm
nguyên nhân trong những quan hệ giai cấp, và sâu xa hơn nữa, trong những
quan hệ sản xuất.
Để làm rõ sự phụ thuộc của nhà nước vào những quan hệ giai cấp, những
quan hệ sản xuất, Marx dùng khái niệm “xã hội công dân” (civil
society, société civile, còn được dịch là “xã hội dân sự”):
Xã hội công dân bao gồm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân
trong một giai đoạn phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất.
Nó bao gồm toàn bộ đời sống thương nghiệp và công nghiệp của một giai
đoạn và do đó, vượt ra ngoài nhà nước và dân tộc, mặc dầu ngoài ra, nó
vẫn phải thể hiện ra bên ngoài thành dân tộc, và tự tổ chức ở bên trong
thành nhà nước. (Hệ tư tưởng Đức, Sđd, tr. 362)
Ở đây, ta thấy khái niệm”xã hội công dân” không phải là một khái
niệm chính trị – xã hội hay khái niệm pháp lý theo cách hiểu của các nhà
triết học thế kỷ XVIII hay của Hegel, mà là một khái niệm nặng về nội
dung kinh tế. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của sản
xuất, trao đổi và tiêu thụ, “chúng ta sẽ có một chế độ xã hội nhất định,
một tổ chức nhất định của gia đình, của các đẳng cấp hay giai cấp, nói
tóm lại, là có một xã hội công dân nhất định” (Marx, “Thư gửi P. V.
An-nen-côp, 28.12.1846”; Sđd, T. I, tr. 788).
Theo Marx, xã hội công dân trong bất cứ thời đại nào cũng là cơ sở của
nhà nước và của kiến trúc thượng tầng tư tưởng. Đó là sự áp dụng phương
pháp biện chứng duy vật vào lĩnh vực lịch sử - xã hội: vật chất quyết
định ý thức, kinh tế quyết định chính trị.
Nhà nước sinh ra từ xã hội công dân, nhưng lại tách rời khỏi xã hội,
đứng đối lập với xã hội. Mâu thuẫn này gắn liền với sự phân công lao
động xã hội, với chế độ tư hữu, với tình trạng chia cắt giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung:
Và cuối cùng, sự phân công lao động cung cấp trực tiếp cho chúng ta ví
dụ đầu tiên về tình hình sau đây: chừng nào con người còn ở trong một xã
hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, do đó chừng nào sự phân chia hoạt
động còn được tiến hành không phải một cách tự nguyện mà một cách tự
nhiên thì chừng đó hành động của bản thân con người sẽ trở thành một lực
lượng xa lạ, đối lập với con người, và nô dịch con người, chứ không phải
bị con người thống trị. (Sđd, T. I, tr. 295)
Hoàn cảnh trong đó “hành động của bản thân con người trở thành một lực
lượng xa lạ, đối lập với con người, nô dịch con người” được Marx gọi là
“sự tha hoá", “sự vong thân” (alienation, aliénation). Sự tha hoá
ấy chỉ có thể mất đi khi sự phân công lao động không còn nữa, nghĩa là
khi chế độ sở hữu tư nhân không còn nữa. Cuộc cách mạng cộng sản chủ
nghĩa sẽ xoá bỏ tình trạng tha hoá đó, giúp cho con người kiểm soát được
những lực lượng lâu nay vẫn thống trị con người:
Sự phụ thuộc phổ biến, hình thức tự nhiên đầu tiên ấy của sự hợp
tác có tính lịch sử thế giới của các cá nhân, sẽ được cuộc cách
mạng cộng sản chủ nghĩa biến thành sự kiểm soát và sự thống trị có ý
thức đối với những lực lượng nảy sinh ra từ tác động lẫn nhau giữa những
con người và cho đến nay vẫn chi phối và thống trị con người với tư cách
là những lực lượng hoàn toàn xa lạ với con người. (Sđd, T. I, tr.
302)
Marx vẽ ra một viễn cảnh hết sức hấp dẫn, một hình ảnh lãng mạn tựa như
“Bồng lai, tiên cảnh” hay “vườn Địa đàng”:
… còn
trong xã hội cộng sản, trong đó không ai có một lĩnh vực hoạt động độc
chuyên và mỗi người đều có thể tự hoàn thiện trong ngành mình thích, thì
xã hội điều tiết nền sản xuất chung, thành thử tôi có khả năng hôm nay
làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh
cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tuỳ theo sở
thích của tôi mà chẳng bao giờ tôi trở thành người đi săn, người đánh
cá, người chăn nuôi hoặc nhà phê phán cả. (Sđd, T. I, tr. 295)
Nhân đây, cũng nên nói thêm đôi chút về quan niệm tự do của Marx. Đối
với Marx, trong những cộng đồng xã hội tồn tại trước xã hội cộng sản, cá
nhân chỉ tham gia cộng đồng với tư cách là thành viên của một giai cấp
nhất định chứ không phải với tư cách cá nhân thực sự. Chỉ khi nào tiến
đến một xã hội cộng sản, là xã hội mà con người đã làm chủ hoàn toàn nền
sản xuất, thì cá nhân mới thật sự tham gia vào cộng đồng với tư cách là
cá nhân:
Nhưng trong cộng đồng của những người vô sản cách mạng là những người
kiểm soát được toàn bộ những điều kiện tồn tại của bản thân mình lẫn
những điều kiện tồn tại của mọi thành viên của xã hội thì tình hình lại
ngược lại: các cá nhân tham gia vào cộng đồng ấy với tư cách là những cá
nhân. (Sđd, T. I, tr. 349)
Marx hoàn
toàn bác bỏ quan niệm về tự do cá nhân do các nhà tư tưởng thế kỷ XVIII
đề xướng. Ông cho rằng trong các xã hội bóc lột - nhất là xã hội tư sản,
tự do cá nhân chỉ là cái quyền được huởng tính ngẫu nhiên trong khuôn
khổ những điều kiện nhất định:
Sự liên
hợp từ trước tới nay hoàn toàn không phải là một sự liên hợp tự nguyện,
như đã được miêu tả trong "Contrat social"
[2] chẳng hạn, mà là sự liên hợp tất yếu dựa vào những
điều kiện trong đó các cá nhân có thể hưởng tính ngẫu nhiên (…). Cái
quyền được yên trí hưởng như vậy tính ngẫu nhiên trong khuôn khổ những
điều kiện nhất định là cái mà cho tới nay người ta gọi là tự do cá nhân.
(Sđd, T. I, tr. 349)
Nói cách
khác, không thể có tự do cá nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Chỉ có
xã hội cộng sản mới được coi là cộng đồng thật sự, trong đó các cá nhân
được thật sự tự do:
Trong những cộng đồng thật sự, các cá nhân có được tự do, ngay khi họ
liên hợp lại và nhờ sự liên hợp ấy. (Sđd, T. I, tr. 345)
Trong một đoạn văn khác, Marx mô tả xã hội cộng sản như sau:
Chủ nghĩa cộng sản khác với tất cả các phong trào trước kia ở chỗ nó đảo
lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp trước kia, và lần đầu
tiên nó coi một cách có ý thức tất cả những tiền đề tự nhiên là những
sáng tạo của những người đã sống trước chúng ta và nó tước bỏ tính chất
tự nhiên của những tiền đề ấy và đặt chúng dưới quyền lực của các cá
nhân đã liên hợp lại. (Sđd, T. I, tr. 350)
“Quyền lực của các cá nhân đã liên hợp lại“ không phải là một
hình thức chính quyền mới, mà là một xã hội không còn có nhà nước, như
Marx viết trong Sự khốn cùng của triết học (xuất bản năm 1847):
Phải chăng như vậy có nghĩa là sau khi xã hội cũ sụp đổ, sẽ có một sự
thống trị giai cấp mới, biểu hiện tập trung ở một chính quyền mới ?
Không phải.
Điều kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là sự xoá bỏ mọi giai
cấp, cũng giống như trước kia, điều kiện giải phóng của đẳng cấp thứ ba,
tầng lớp tư sản, là sự xoá bỏ tất cả các đẳng cấp và tất cả các tầng
lớp.
Trong quá trình phát triển của nó, giai cấp lao động sẽ thay thế xã hội
công dân cũ bằng một tổ chức liên hiệp, tổ chức liên hiệp này sẽ loại bỏ
các giai cấp và sự đối kháng giai cấp, và sẽ không còn có chính quyền
theo đúng nghĩa của chữ ấy nữa, vì chính quyền chính là biểu hiện tập
trung chính thức của sự đối kháng trong xã hội thị dân. (Sđd, T.
I, tr. 410)
Ở đây, ta thấy ảnh hưởng của biện chứng pháp kiểu Hegel: Chính đề
(thesis, thèse) - Phản đề (antithesis, antithèse) - Hợp đề (synthesis,
synthèse). Xã hội công dân là chính đề, Nhà nước là phản đề, và hợp
đề chính là cái mà Marx gọi là liên hiệp (association), quyền
của các cá nhân đã liên hiệp lại.
Xét về mặt lô-gích, kết luận này là điều hoàn toàn dễ hiểu. Bởi vì nhà
nước ra đời là do có sự phân công lao động xã hội, có chế độ tư hữu, có
giai cấp; cho nên một khi không còn có sự phân công lao động, không còn
chế độ tư hữu, không còn giai cấp thì tất nhiên sẽ không còn có nhà nước
nữa.
Tháng 11 năm 1848, “Liên đoàn những người cộng sản” họp đại hội tại
Luân-đôn (Anh), đã giao trách nhiệm cho Marx và Engels khởi thảo một
cương lĩnh của đảng. Bản cương lĩnh này chính là tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản – một trong những tác phẩm quan trọng và nổi tiếng
nhất của chủ nghĩa Marx. Nói về xã hội cộng sản trong tương lai, Marx và
Engels gọi đó là một liên hiệp (association), trong đó quyền
lực công cộng mất đi tính chất chính trị của nó (nói cách khác là
không còn có nhà nước ):
Khi những đối kháng giai cấp đã mất đi trong tiến trình của sự phát
triển và toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã liên
hợp lại với nhau thì quyền lực công cộng cũng mất tính chất chính trị
của nó. Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Nếu giai cấp vô sản
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức
thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở
thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng
bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt
chế độ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối
kháng giai cấp,nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu
diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình.
Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của
nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. (Sđd,
T. I, tr. 569)
Trong đoạn văn thường được trích dẫn này, nhà nước (quyền lực chính
trị) được định nghĩa một cách ngắn gọn là “bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”. Như vậy, dựa vào giả
thuyết về nguồn gốc phát sinh của nhà nước, Marx đã đi đến một định
nghĩa xác định bản chất giai cấp của nhà nước.
Vấn đề đặt ra ở đây là: một khi không còn có nhà nước thì xã hội sẽ
được điều hành như thế nào? Điều đặc biệt quan trọng là trong giai
đoạn chuyển tiếp giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản; nhà nước còn tồn
tại hay không, và nếu có, nhà nước sẽ mang hình thức như thế nào? Về vấn
đề này, Marx và Engels vẫn chưa nói rõ trong Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản. Nhưng đó lại là điểm mấu chốt gây ra sự chia rẽ giữa những
người mác-xít với những trường phái khác trong phong trào công nhân (như
phái Lassalle, chủ nghĩa vô chính phủ,…), cũng như đã gây chia rẽ trong
bản thân phong trào mác-xít (giữa chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa Marx
chính thống, giữa các đảng dân chủ - xã hội và các đảng cộng sản,…).
[1]“Vả lại, sự phân công lao động và sở hữu tư nhân là
những từ ngữ cùng nghĩa: người ta dùng từ ngữ thứ nhất để nói về mặt
hoạt động và dùng từ ngữ thứ hai để nói về mặt sản phẩm của hoạt động”
(Marx, Engels, Tuyển tập, Nxb Sự Thật (cộng tác xuất bản: Dietz
Verlag Berlin), Hà Nội, 1980-1984, sáu tập, T. I, tr. 293).
[2]Khế ước xã hội, tác phẩm của Jean Jacques
Rousseau, xuất bản năm 1762. Nhan đề đầy đủ của tác phẩm là Bàn về
khế ước xã hội, hay những nguyên lý của quyền chính trị (Du contrat
social, ou principes du droit politique).
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|