"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
HUYỀN THOẠI VỀ MỘT NHÀ NƯỚC TỰ TIÊU VONG – MAI THÁI LĨNH
Chương II
Quan niệm “Chuyên chính vô sản”
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, khi nói đến nhiệm vụ trước
tiên của giai cấp vô sản, Marx và Engels đã viết: “(…) giai đoạn thứ
nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây
dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ.” (Sđd,
T. I, tr. 567)
Thuật ngữ “giành lấy dân chủ” có thể gây ra sự hiểu lầm là Marx
và Engels mong muốn xây dựng một chế độ dân chủ. Thật ra, không phải
hoàn toàn như vậy. Engels đã giải thích rõ ràng về khái niệm giành
lấy dân chủ trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản (1847). Trả lời câu hỏi: cuộc cách mạng vô sản sẽ diễn
biến như thế nào?, Engels viết:
Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp
hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản. Trực
tiếp như ở Anh là nơi mà hiện nay vô sản đã chiếm đa số trong nhân dân;
gián tiếp như ở Pháp và Đức là nơi mà đa số nhân dân không những gồm có
vô sản mà còn gồm cả tiểu nông và tiểu tư sản thành thị là những người
chỉ mới ở trong giai đoạn đang chuyển thành giai cấp vô sản, và trong
việc thực hiện mọi quyền lợi chính trị của mình, đang ngày càng phụ
thuộc vào giai cấp vô sản, do đó chẳng bao lâu, sẽ phải đồng ý với các
yêu cầu của giai cấp vô sản. Muốn thế, có lẽ cần phải có một cuộc đấu
tranh mới nữa, song cuộc đấu tranh mới đó nhất định sẽ kết thúc bằng
thắng lợi của giai cấp vô sản. (Sđd, T. I, tr. 455)
Như vậy, vào thời điểm này, Marx và Engels vẫn còn tin rằng sau khi
giành được chính quyền, giai cấp vô sản có thể dựa vào chế độ dân chủ
đã hình thành từ trước trong xã hội tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ
nghĩa xã hội; vì trong một số nước ở Tây Âu, chế độ đó có thể bảo đảm
được sự thống trị của giai cấp vô sản đối với toàn xã hội (nhất là đối
với các giai cấp nông dân và tiểu tư sản thành thị). Chế độ dân chủ đó
không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện
nhiệm vụ của cách mạng vô sản:
Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên hoàn toàn vô ích nếu
nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi hành những biện
pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự sinh sống
của giai cấp vô sản. (Sđd, T. I, tr. 455)
Thật ra, vào thời điểm viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Marx
chưa quan tâm đầy đủ đến hình thức và nội dung của nhà nước vô sản sau
khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền. Cuộc cách mạng năm 1848 ở các
nước lục địa châu Âu, nhất là nước Pháp, đã khiến cho Marx tập trung sự
chú ý vào vấn đề đó.
Như chúng ta đã biết, Marx đã đặt rất nhiều hy vọng vào cuộc cách mạng
năm 1848, mà tiêu điểm là nước Pháp. Bản thân ông và Engels cũng đã trực
tiếp tham gia hoạt động cách mạng trong thời gian đó ngay tại nước Đức –
là quốc gia láng giềng, chịu tác động rất lớn của các biến cố xảy ra từ
nước Pháp. Sự đàn áp khốc liệt của các chính quyền tư sản ở lục địa châu
Âu đối với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã đẩy phong trào
này vào một giai đoạn thoái trào tương đối lâu dài. Bản thân Marx và
Engels cũng phải rời bỏ nước Đức để bắt đầu một cuộc sống lưu vong ở
nước Anh. Chính trong hoàn cảnh đó, Marx đã nêu ra quan niệm chuyên
chính vô sản (proletarian dictatorship, dictature du prolétariat),
chủ yếu như một giải pháp để đối phó với cái mà ông gọi là nền chuyên
chính tư sản
[1] . Trong tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp
1848-1850 (1850), ông viết:
(…) giai cấp vô sản ngày càng tập hợp xung quanh chủ nghĩa xã
hội cách mạng, xung quanh chủ nghĩa cộng sản mà chính giai
cấp tư sản đã gán cho cái tên là Blanqui. Chủ nghĩa xã hội này là
lời tuyên bố cách mạng không ngừng, là chuyên chính giai cấp
của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến
xoá bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung, xoá bỏ tất cả những
quan hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xoá bỏ tất cả
những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi
đến cải biến tất cả những tư tuởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội
đó. (Sđd, T. II, tr. 137 )
Điều đó có nghĩa là giai cấp vô sản phải thiết lập chuyên chính vô
sản, hiểu theo nghĩa là một nền độc tài của giai cấp vô sản,
coi đó là giai đoạn quá độ để đi đến xoá bỏ tất cả các giai cấp. Như
trên đã nói, mục tiêu mà Marx và Engels nhắm đến không phải là một chế
độ dân chủ, mà là xã hội cộng sản, tức là một xã hội không còn có nhà
nước. Để đạt được mục tiêu đó, những người cộng sản có thể chọn một
trong hai phương tiện: chế độ dân chủ hoặc chuyên chính vô sản
(tức là một chế độ độc tài tạm thời).
Như vậy, chuyên chính vô sản là một sáng tạo về mặt tư tưởng của bản
thân Marx chứ không phải là sự bóp méo, xuyên tạc do các môn đệ đời sau.
Chính Marx đã khẳng định điều này trong lá thư gửi Joseph Wedemeyer
(ngày 5.3.1852):
Còn về bản thân tôi thì tôi không có cái công lao là đã phát hiện ra sự
tồn tại của các giai cấp trong xã hội hiện đại, cũng như cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp ấy với nhau. Các sử gia tư sản trước tôi rất lâu đã
trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp ấy, còn các
nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày giải phẫu kinh tế của các giai
cấp ấy. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1. sự tồn tại của
các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử
nhất định của sản xuất; 2. cuộc đấu tranh giai cấp nhất thiết sẽ dẫn
tới chuyên chính vô sản; 3. bản thân nền chuyên chính này chỉ là
bước quá độ tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới
một xã hội không giai cấp. (Sđd, T.II ,tr. 661-662)
Nền chuyên chính này có phải là một sự tiếp thu, hoàn thiện bộ máy nhà
nước cũ hay không? Trong cuốn Ngày 18 tháng Sương mù của Louis
Bonaparte (1852), qua nghiên cứu sự phát triển của bộ máy nhà
nước tư sản ở Pháp từ thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến cho đến
khi thành lập Đế chế II (triều đại Napoléon III), Marx cho rằng phải đập
bỏ bộ máy nhà nước tư sản thay vì tiếp thu hay hoàn thiện bộ máy đó:
Tất cả các cuộc cách mạng đã hoàn bị bộ máy đó chứ không đập tan nó. Các
chính đảng nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi việc đoạt
lấy toà lâu đài nhà nước đồ sộ ấy là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến
thắng. (Sđd, T. II, tr.514 )
Trong những năm tháng sống lưu vong ở nước Anh, Marx đã dành hết thời
gian, sức lực và tâm trí để hoàn thành bộ Tư bản, nhằm chứng minh
bản chất bóc lột của xã hội tư bản và sự diệt vong tất yếu của xã hội
đó. Ông tập trung vào việc nghiên cứu kinh tế – chính trị học, ít chú ý
đến lĩnh vực chính trị, đến vấn đề nhà nước. Nhưng ngay trong tập I,
quyển I bộ Tư bản (xuất bản năm 1867), khi nói đến các phương
pháp tích luỹ ban đầu của chủ nghĩa tư bản, Marx đã viết những dòng như
sau :
Nhưng tất cả các phương pháp đó đều lợi dụng quyền lực nhà nước, tức là
bạo lực xã hội tập trung và có tổ chức, để đẩy nhanh quá trình chuyển
hoá của phương thức sản xuất phong kiến thành phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, và rút ngắn những giai đoạn quá độ của quá trình đó lại.
Bạo lực là bà đỡ của mọi chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ
mới. Bản thân bạo lực là một tiềm lực kinh tế. (Sđd, T. III, tr.
576)
Trong đoạn văn trên đây, quyền lực nhà nước được định nghĩa là bạo
lực xã hội tập trung và có tổ chức. Marx coi bạo lực là bà đỡ của
mọi chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới, là một tiềm lực
kinh tế. Cho nên không có gì đáng ngạc nhiên nếu ông chủ trương sử dụng
nhà nước như một hình thức bạo lực tập trung và có tổ chức nhằm thực
hiện việc xoá bỏ chế độ tư hữu.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nét phác thảo về mặt lý thuyết, còn mang
tính chất mơ hồ, chung chung. Khái niệm chuyên chính vô sản cần có nội
dung cụ thể hơn để có thể trở thành một khái niệm cơ bản, một phạm trù
của chủ nghĩa xã hội khoa học. Marx đã tìm thấy lời giải đáp trong kinh
nghiệm của Công xã Paris (1871).
*
Ngày 18.3.1871, công nhân Paris nổi dậy cướp chính quyền, thành lập Công
xã Paris. Mặc dù chỉ tồn tại có hơn hai tháng (18.3 – 27.5.1871),
“chính quyền vô sản đầu tiên của thế giới” này đã để lại dấu ấn sâu
đậm trong phong trào đấu tranh của những người mác-xít. Ở đây, chúng ta
không xét xem Công xã Paris đã tồn tại như thế nào trong thực tế, hoặc
có ý nghĩa lịch sử như thế nào đối với nhân loại, mà xét xem từ kinh
nghiệm lịch sử đó Marx đã rút ra những kết luận gì để bổ sung cho quan
niệm về nhà nước của ông.
Trước hết, ngay giữa những ngày Công xã Paris đang còn tồn tại, Marx đã
tỏ ra rất tự hào về việc Công xã làm đúng như điều ông đã quan niệm từ
gần hai thập niên trước:
Nếu anh coi lại chương cuối cùng trong quyển Ngày 18 tháng Sương mù
của tôi, anh sẽ thấy tôi nói rằng mục tiêu cách mạng sắp tới ở Pháp sẽ
không nên là việc chuyển giao bộ máy quân phiệt quan liêu từ tay kẻ này
sang tay kẻ khác như trước nữa, mà là đập tan bộ máy ấy, và đó là
điều kiện tiên quyết của mọi cuộc cách mạng nhân dân thật sự ở lục địa.
Đó cũng là điều mà các đồng chí anh dũng của chúng ta ở Pa-ri đang cố
gắng thực hiện. (“Thư gửi Ludwig Kugelman, 12.4.1871”; Sđd, T.
IV, tr. 547)
Công xã đã đập tan bộ máy nhà nước cũ thay vì chiếm lấy nó. Việc
phá huỷ bộ máy nhà nước cũ thể hiện trên hai hành động: bãi bỏ quân
đội thường trực để thay bằng nhân dân được vũ trang và xoá bỏ bộ
máy quan liêu (tức là xoá bỏ bộ máy công chức hành chính).
Marx rất tự hào về thành tích đó của Công xã. Ông viết:
“Công xã đã thực hiện được khẩu hiệu của tất cả các cuộc cách mạng tư
sản là thiết lập một chính phủ ít tốn kém, bằng cách huỷ bỏ hai món chi
tiêu lớn nhất: quân đội thường trực và hệ thống quan lại.”
[2] (Sđd, T. IV, tr. 96)
Điều cần nhấn mạnh là Marx hoàn toàn bác bỏ quan niệm coi bộ máy nhà
nước như một bộ máy chuyên môn hoá, đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ
để quản lý một cách có hiệu quả. Ông tán dương việc Công xã giao công
tác hành chính nhà nước cho quần chúng công nhân:
Đã mất đi cái ảo tưởng trước kia cho
rằng việc quản lý hành chính và chính trị là những điều bí mật, là những
chức năng siêu việt mà người ta chỉ có thể giao phó vào tay của một đẳng
cấp thạo việc gồm những kẻ ăn bám nhà nước, những tên mật thám được trả
lương hậu và những kẻ hưởng lộc thánh, chúng được đặt vào những chức vụ
cao, thu hút trí thông minh của quần chúng và quay trí thông minh đó trở
lại chống quần chúng ở những bậc thang đẳng cấp thấp. (…) Nó [Công xã]
đã lập tức biến các chức năng công cộng - quân sự, hành chính, chính trị
- thành những chức năng thật sự công nhân, chứ không phải thành
những thuộc tính bí mật của một đẳng cấp thạo việc… (“Dự thảo lần thứ
nhất của Nội chiến ở Pháp”, Sđd, T. IV, tr. 35-36)
Xoá bỏ bộ máy hành chính do đó cũng đồng nghĩa với việc xoá bỏ
đội ngũ công chức (mà Marx gọi là “đẳng cấp thạo việc”). Đồng thời
với việc xoá bỏ bộ máy hành chính kiểu cũ, Công xã cũng thủ tiêu luôn
chế độ đại nghị:
Chế độ đại nghị ở Pháp đã đến giờ tận số. (…) Dưới thời đế chế, với Hội
nghị lập pháp và Thượng nghị viện của nó (…) chế độ đại nghị chỉ là một
trò hề đơn giản, một vật phụ thuộc đơn giản của chế độ độc tài dưới hình
thức thô sơ nhất. Từ đó, chế độ đại nghị đã chết hẳn ở Pháp và cuộc cách
mạng công nhân chắc chắn sẽ không làm cho nó sống lại từ đống tro tàn
của nó. (Sđd, T. IV, tr. 33)
Thay cho chế độ đại nghị với nguyên tắc phân chia quyền lực (séparation
des pouvoirs) là một nhà nước tóm thâu cả quyền hành pháp và quyền lập
pháp trong tay:
Công xã không nên là một cơ quan đại
nghị
[3] , mà phải là một cơ thể hành động, vừa hành chính,
vừa lập pháp. (Sđd, T. IV, tr. 92)
Tính độc lập của ngành tư pháp, một đặc điểm của chế độ tam quyền phân
lập, cũng bị bác bỏ, bởi vì tính độc lập này chỉ là hình thức, dùng để
che đậy sự phụ thuộc vào quyền hành pháp:
Các viên chức tư pháp đều mất hết cái vẻ độc lập bề ngoài được dùng chỉ
để che đậy sự phục tùng hèn hạ của họ đối với tất cả mọi chính phủ nối
tiếp nhau mà họ đã lần lượt tuyên thệ trung thành để rồi về sau lại bội
phản. Cũng như các công chức khác trong xã hội, từ nay trở đi, họ đều
phải được công khai bầu lên, chịu trách nhiệm và có thể bị bãi miễn. (Sđd,
T. IV, tr. 93)
Nhưng làm thế nào để một bộ máy tập trung quyền hành như thế không trở
thành một bộ máy quan liêu? Theo Marx, Công xã bao gồm những uỷ viên hội
đồng thành phố (conseillers municipals) được bầu lên từ các khu phố của
Paris, theo thể thức phổ thông đầu phiếu: “Họ là những đại biểu có trách
nhiệm và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào”. Mặt khác, “đa số uỷ viên
của Công xã tất nhiên phải là những công nhân hoặc là những đại biểu
được thừa nhận của giai cấp công nhân” (Sđd, T. IV, tr. 92). Nói
cách khác, đó là một chính phủ của giai cấp công nhân:
… về thực chất, nó [Công xã] là một chính phủ của giai cấp công nhân, là
kết quả của cuộc đấu tranh của giai cấp những người sản xuất chống lại
giai cấp chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được
khiến cho có thể thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế.
(Sđd, T. IV, tr. 97)
Marx cho rằng Công xã đã áp dụng những biện pháp có hiệu quả để chống
chủ nghĩa quan liêu: bất cứ viên chức nhà nước nào cũng phải được bầu
và có thể bị bãi miễn, luôn luôn đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân,
lĩnh lương ngang với công nhân:
Công xã loại bỏ hoàn toàn hệ thống
đẳng cấp chính trị và thay thế những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng
những đầy tớ luôn luôn có thể bị bãi miễn; thay thế một trách nhiệm
tưởng tượng bằng một trách nhiệm thật sự, vì những người được uỷ nhiệm
này luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân. Họ được trả
lương như những người công nhân lành nghề, 12 li-vrơ mỗi tháng, tiền
lương cao nhất không quá 240 li-vrơ một năm, tiền lương mà theo một nhà
khoa học có uy tín là giáo sư Huxley thì chỉ cao hơn một chút so với 1/5
tiền lương của một công chức của Hội đồng giáo dục ở Luân-đôn. (Sđd,
T. IV, tr. 35)
Mặt khác, Công xã áp dụng nguyên tắc “công khai hoá” mọi hoạt động của
mình:
Nhưng Công xã không hề tự cho mình là không bao giờ sai lầm, như tất cả
các chính phủ cũ vẫn thường tự nhận là như thế. Công xã công bố tất cả
những báo cáo hội nghị của mình, thông báo tất cả những hoạt động của
mình, nói cho công chúng biết tất cả những khuyết điểm của mình. (Sđd,
T. IV, tr. 106)
Mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn (72 ngày) và trong một
hoàn cảnh đặc biệt (thù trong, giặc ngoài), nhưng Công xã không phải chỉ
là khuôn mẫu chính quyền của riêng thủ đô Paris, mà còn là hình mẫu có
thể áp dụng cho toàn nước Pháp:
Tất nhiên là Công xã Pa-ri phải là kiểu mẫu cho tất cả các trung tâm
công nghiệp lớn ở Pháp. Chế độ của Công xã một khi đã được thiết lập ở
Pa-ri và ở các trung tâm thứ yếu rồi thì cả ở các tỉnh, chính phủ tập
quyền cũ cũng phải nhường chỗ cho cơ quan tự quản của những người sản
xuất. Trong một bản phác hoạ ngắn gọn về tổ chức quốc gia mà Công xã
chưa kịp xây dựng tỉ mỉ thêm, người ta đã khẳng định dứt khoát rằng Công
xã cần phải trở thành hình thức chính trị của ngay cả những thôn xóm nhỏ
nhất, và quân đội thường trực ở các miền nông thôn cũng phải được thay
thế bằng một đội dân cảnh với thời hạn nghĩa vụ quân sự rất ngắn. Một
hội đồng đại biểu đóng ở tỉnh lỵ phải quản lý những công việc chung của
tất cả các công xã nông thôn trong tỉnh, và các hội đồng hàng tỉnh đó,
đến lượt chúng, lại phải cử đại biểu đi tham dự Nghị viện quốc gia đóng
ở Pa-ri; các đại biểu đều phải nghiêm khắc tuân theo một mandat
impératif (chế độ uỷ nhiệm tuyệt đối) của các cử tri của mình và có thể
bị bãi miễn bất cứ lúc nào. (Sđd, T. IV, tr. 93-94)
Công xã cũng là chính phủ dân tộc chân chính, đồng thời là một
chính phủ mang tính chất quốc tế :
Vậy nếu Công xã là đại biểu chân chính của tất cả những thành phần lành
mạnh của xã hội Pháp, và do đó là chính phủ dân tộc chân chính thì do
chỗ Công xã đồng thời là chính phủ của công nhân, là người chiến sĩ dũng
cảm đấu tranh để giải phóng lao động, nên Công xã cũng hoàn toàn có đầy
đủ tính chất quốc tế. Trước mắt quân đội Phổ, cái quân đội đã sáp nhập
hai tỉnh của nước Pháp vào Đức, Công xã đã sáp nhập công nhân toàn thế
giới về phía nước Pháp. (Sđd, T. IV, tr. 103)
Công xã là chính quyền của một giai cấp (giai cấp công nhân), nhưng lại
là một chính phủ dân tộc chân chính. Công xã là một chế độ độc tài,
nhưng lại là một chính quyền thật sự dân chủ: “Công xã đã cung cấp cho
nền cộng hoà cái cơ sở của những thiết chế thật sự dân chủ” (Sđd,
T. IV, tr. 97).
Tất cả những mâu thuẫn đó (chuyên chính - dân chủ, giai cấp - dân tộc,
quốc gia - quốc tế) đều được giải quyết một cách ổn thoả, bởi vì Marx đã
từng phát biểu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: “Tất cả những
phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc
đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập
của tuyệt đại đa số, mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số” (Sđd, T. I,
tr.555). Hơn nữa, Marx tin rằng sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử
chỉ là biểu hiện của một sự tha hoá mà xã hội cộng sản trong tương lai
phải xoá bỏ. Trong bản dự thảo lần thứ nhất cũng như trong bản chính
thức của tác phẩm Nội chiến ở Pháp, người ta có thể tìm thấy
nhiều thuật ngữ mang ý nghĩa xấu mà Marx sử dụng để gọi bộ máy nhà nước:
một con trăn khổng lồ… chằng (bọc) lấy cơ thể sống của xã hội công
dân, cái bướu ăn bám xã hội công dân, cái ác mộng làm nghẹt thở, cái
quái thai siêu tự nhiên của xã hội, con quái vật nhà nước, một sỉ nhục
lớn nhất của xã hội, cái vườn ươm tất cả những điều thối tha của xã hội,
vv…
Trong cách lập luận biện chứng theo kiểu Hegel, Marx coi xã hội công dân
là chính đề (thesis, thèse), Nhà nước là phản đề (antithesis,
antithèse). Vì thế, trong cái hợp đề (synthesis, synthèse) mà Marx gọi
là liên hiệp (association), Nhà nước sẽ biến mất, hoà tan vào xã hội
công dân, chứ không còn là một thực thể tách rời với xã hội công dân
nữa:
Công xã là việc xã hội đoạt lại
quyền lực nhà nước, quyền lực này trở thành một sức sống của bản thân xã
hội, chứ không phải là một lực lượng thống trị và nô dịch xã hội. Đó là
việc bản thân quần chúng nhân dân đoạt lại quyền lực nhà nước, họ là
những người thay thế cái quyền lực có tổ chức dùng để áp bức họ bằng
quyền lực của bản thân họ... (Sđd , T. IV, tr. 33)
Nhà nước ký sinh trên cơ thể xã hội, kìm hãm sự tự do phát triển của xã
hội. Vì vậy, khi xoá bỏ bộ máy nhà nước cũ, Công xã đã giải phóng xã hội
một cách triệt để:
Chế độ công xã hình như đã hoàn lại cho cơ thể xã hội tất cả những lực
luợng từ trước đến nay đã bị nuốt mất bởi cái “nhà nước” ăn bám trên
thân thể xã hội và kìm hãm sự tự do phát triển của xã hội (Sđd ,
T. IV, tr. 95)
Điều cần lưu ý là Nội chiến ở Pháp là một tác phẩm viết rất vội
vàng. Ngày 18.4.1871, giữa lúc Công xã Paris còn đang tồn tại, trong một
phiên họp của Tổng hội đồng của Quốc tế I, Marx đã đề nghị ra một “lời
kêu gọi” nhằm biến những kinh nghiệm của Công xã thành tài sản chung của
phong trào công nhân quốc tế. Được Tổng hội đồng giao nhiệm vụ soạn thảo
lời kêu gọi, Marx đã viết hai bản dự thảo để rồi sau cùng hoàn chỉnh
thành bản dự thảo cuối cùng; bản này được Tổng hội đồng thông qua vào
ngày 30.5.1871, nghĩa là vài ngày sau khi Công xã Paris bị thất bại. Bản
chính thức được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Anh ở Luân-đôn vào ngày
13.6.1871 với cái tên Nội chiến ở Pháp – Lời kêu gọi của Tổng hội
đồng Hội liên hiệp công nhân quốc tế. Engels đã viết về điều này như
sau:
Ngày 28 tháng năm, những chiến sĩ cuối cùng của Công xã đã hy sinh trên
dốc Belleville trong cuộc chiến đấu với những lực lượng đối địch đông
hơn, và hai hôm sau, ngày 30 tháng năm, Mác đã đọc trước Tổng hội đồng
tác phẩm của mình, trong đó ý nghĩa lịch sử của Công xã Paris được nêu
bật lên bằng vài nét ngắn gọn, mạnh mẽ, nhưng chính xác và nhất là rất
trung thực đến nỗi toàn bộ cái khối phong phú sách báo sau này viết về
vấn đề đó đều không tài nào theo kịp. (“Lời mở đầu viết cho lần xuất bản
thứ ba bằng tiếng Đức tác phẩm Nội chiến ở Pháp”, Sđd, T.
VI , tr. 467)
Cũng trong bài viết này, Engels ca ngợi “thiên tài kỳ diệu” của Marx,
thiên tài đã khiến cho Marx “có thể hiểu rõ được tính chất, ý nghĩa và
những hậu quả tất nhiên của các sự biến lịch sử lớn, ngay trong lúc mà
những sự biến đó còn đang diễn ra trước mắt chúng ta, hoặc vừa mới chấm
dứt xong” (Sđd, T. VI, tr. 465-466). Nhưng một tác phẩm viết vội
vàng như thế nhằm đáp ứng nhu cầu cổ động chính trị trước mắt làm sao có
thể trở thành một tác phẩm thật sự mang tính chất khoa học? Đó là điều
mà Engels, vì quá say sưa ca ngợi thiên tài của bạn mình, đã quên không
nghĩ tới.
[1]Trong Nhà nước và cách mạng (1917), Lenin cho
rằng Marx và Engels đã nêu lên tư tưởng chuyên chính vô sản ngay trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, khi hai ông định nghĩa nhà
nước là “giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị”. Cách
giải thích này không có tính thuyết phục, bởi vì giai cấp vô sản vẫn có
thể thống trị bằng con đường của chế độ dân chủ, như cách giải thích của
Engels trên đây, hoặc như cách giải thích của Karl Kautsky mà chúng ta
sẽ thấy trong phần sau.
[2]Trong bản dịch tiếng Pháp: fonctionnarisme d’Etat (chế
độ công chức Nhà nước). Xem: Karl Marx et Friedrich Engels, Œuvres
choisies, Editions du Progrès, Moscou, 1979, tr. 299.
[3]Trong bản dịch tiếng Pháp: organisme parlementaire.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|