"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
HUYỀN THOẠI VỀ MỘT NHÀ NƯỚC TỰ TIÊU VONG – MAI THÁI LĨNH
Chương
III
Cuộc đấu tranh giữa những người xã hội chủ nghĩa
Phong trào công nhân ở các nước tiên tiến, kể từ buổi ban đầu cho đến
nay, luôn luôn mang tính chất đa nguyên về mặt tư tưởng; điều này
được thể hiện ngay trong cuộc đấu tranh nội bộ của Hội liên hiệp công
nhân quốc tế (tức Quốc tế I). Chính Engels đã phải thừa nhận như sau:
Trong Hội liên hiệp của chúng ta, có nhiều loại người khác nhau – những
người cộng sản, những người thuộc phái Proudhon, những người thuộc phái
Công liên, những người hoạt động cho phong trào hợp tác hoá, những người
thuộc phái Ba-cu-nin,v.v…, và ngay cả trong Tổng hội đồng của chúng ta,
cũng có những người có quan điểm khá khác nhau. (Engels gửi Carlo
Cafiero, ngày 1–3.7.1871, Sđd, T. IV, tr. 552-553)
Chính vì vậy, Marx và Engels luôn luôn phải đấu tranh để bảo vệ quan
điểm của mình, chống lại ảnh hưởng của các trường phái tư tuởng khác,
nhất là phái Lassalle và phái vô chính phủ.
Ferdinand Lassalle (1825-1864) là một lãnh tụ nổi tiếng
của phong trào công nhân Đức, đã từng liên kết hoạt động với Marx và
Engels trong thời gian Cách mạng 1848, nhưng về sau giữa họ có sự khác
biệt về một số quan điểm. Lassalle tin vào sự tác động của một quy luật
kinh tế mà ông gọi là “quy luật sắt của tiền công”; quy luật này
đã ngăn cản công nhân cải thiện những điều kiện sống của họ trong xã hội
tư bản. Để đảm bảo cho công nhân được hưởng “đầy đủ những sản phẩm lao
động của họ”, ông chủ trương thành lập các hiệp hội hoặc hợp tác xã của
những người sản xuất với sự trợ giúp và giám sát của nhà nước
[1] .
Về vấn đề nhà nước và dân chủ, Lassalle nhấn mạnh rằng chức năng thật sự
của nhà nước là “giúp cho sự phát triển của loài người tiến đến tự do”.
Ông cho rằng một nhà nước như thế chỉ có thể đạt được bằng một sự cai
trị của đa số, dựa trên quyền đầu phiếu phổ thông và bình đẳng. Sự lớn
mạnh của hệ thống công xưởng đã làm cho công nhân trở thành một tiềm lực
mạnh nhất ở Đức, do đó bước tiếp theo là làm cho họ trở thành lực lượng
hợp pháp mạnh nhất bằng cách thiết lập một nền dân chủ hoàn chỉnh. Ông
cho rằng cuộc cách mạng trong tương lai sẽ đưa giai cấp công nhân lên
nắm chính quyền, và điều đó sẽ là thắng lợi của toàn nhân loại
[2] .
Là người sáng lập Hội công nhân toàn Đức (1863) – tổ chức chính trị đầu
tiên của giai cấp công nhân Đức, đồng thời cũng là lãnh tụ hàng đầu của
phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Đức, Lassalle có uy tín rất lớn trong
giai cấp công nhân Đức. Mặc dù Lassalle mất sớm (lúc mới 39 tuổi), nhưng
phái Lassalle vẫn là một lực lượng rất mạnh trong phong trào công nhân
Đức. Năm 1875, tại Đại hội Gotha, Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Đức
được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai phái Lassalle và mác-xít.
Tháng 5 năm 1875, Marx viết bản “Những nhận xét bên lề về bản cương lĩnh
của Đảng công nhân Đức” gửi riêng cho một số lãnh tụ của đảng ở Đức. Bài
viết này, được Engels công bố lần đầu tiên vào năm 1891 với nhan đề
Phê phán cương lĩnh Gotha, đã vạch rõ sự khác biệt về quan
điểm giữa Marx và phái Lassalle. Về vấn đề nhà nước và dân chủ, Marx phê
phán khái niệm “Nhà nước tự do” mà phái Lasssalle đưa vào cương
lĩnh:
Nhà nước
tự do là cái gì ?
Làm cho nhà nước được "tự do", - đó quyết không phải là mục đích của
những người công nhân đã thoát khỏi cái cách suy nghĩ hạn chế của những
thần dân. Ở Đế chế Đức, "nhà nước" hầu như cũng "tự do" như ở Nga. Tự do
là ở chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao của xã hội, thành một cơ quan
hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội, và ngay cả ngày nay nữa, các hình thức
nhà nước tự do hay không tự do là tuỳ ở chỗ trong những hình thức ấy,
"sự tự do của nhà nước" bị hạn chế nhiều hay ít. (Sđd, T. IV, tr.
490)
Biến nhà nước “thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội”, đó là
một ý tưởng thật sự hấp dẫn. Nhưng vấn đề là biến đổi bằng cách nào? Sự
khác nhau là ở chỗ: như Marx đã phê phán, phái Lassalle coi nhà nước là
một thực tại độc lập, tách rời khỏi xã hội (hiểu theo nghĩa là độc lập
với các quan hệ kinh tế):
Đảng công nhân Đức - ít nhất cũng là khi nó lấy bản cương lĩnh ấy làm
cương lĩnh của mình - chứng tỏ rằng nó chưa thấm nhuần những tư tưởng xã
hội chủ nghĩa; đáng lẽ phải coi xã hội hiện tồn (và điều này cũng áp
dụng cho mọi xã hội tương lai) là cơ sở của nhà nước hiện
tồn (hoặc coi xã hội tương lai là cơ sở của nhà nước tương lai), thì
trái lại, Đảng công nhân Đức lại coi nhà nước là một thực tại độc lập,
có những ”cơ sở tinh thần, đạo đức và tự do" riêng của nó. (Sđd,
T. IV, tr. 490)
Phái Lassalle muốn dựa vào nhà nước hiện tồn để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, và tìm cách biến nhà nước đó thành nhà nước thật sự dân chủ. Còn
Marx lại chủ trương nhà nước hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội, nghĩa là
phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế; do đó không thể dựa vào nhà nước cũ,
mà phải đập bỏ bộ máy nhà nước ấy đi, sau đó thiết lập chuyên chính vô
sản (một nền độc tài tạm thời của giai cấp vô sản) để rồi cuối cùng tiến
tới chỗ hoà tan nhà nước vào xã hội (như Công xã Paris đã làm). Do đó,
Marx phê phán bản cương lĩnh đã “không đả động gì đến vấn đề chuyên
chính vô sản, cũng chẳng nói gì đến chế độ nhà nước tương lai trong xã
hội cộng sản chủ nghĩa”. (Sđd, T. IV, tr. 491)
Nhận xét chung về bản cương lĩnh, Marx viết như sau:
Vả lại, mặc dầu tất cả những lời lẽ dân chủ rất kêu của nó, toàn bộ
cương lĩnh từ đầu chí cuối đều nhiễm phải cái bệnh của phái Lassalle là
lòng tin của thần dân vào nhà nước, hoặc là - điều này cũng chẳng có gì
tốt hơn - tin vào phép mầu dân chủ, hay nói cho đúng hơn, đó là sự thoả
hiệp giữa hai lòng tin ấy vào phép mầu, cả hai loại đều xa lạ như nhau
với chủ nghĩa xã hội. (Sđd, T. IV, tr. 495)
Điểm bất đồng căn bản là: phái Lassalle đấu tranh để biến đổi nhà nước
hiện hành thành một chế độ dân chủ thật sự – do giai cấp công nhân lãnh
đạo, còn Marx thì không tin vào nhà nước hiện hành (mà ông cho là một
sản phẩm mang tính chất tư sản). Đối với Marx, chỉ có tự do thật sự
trong một xã hội cộng sản, nghĩa là một xã hội không còn có nhà nước
nữa; còn đối với nhà nước hiện tồn, chỉ có mỗi một cách là đập tan nó để
xây dựng chuyên chính vô sản, tiến tới xã hội cộng sản không còn có nhà
nước.
Đối với trường phái vô chính phủ, có hai nhân vật nổi bật: Pierre
- Joseph Proudhon (1809-1865) và Mikhail A. Bakunin
(1814-1876).
Proudhon là một nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp thường được coi
là cha đẻ của chủ nghĩa vô chính phủ triết học (philosophic
anarchism, anarchisme philosophique). Trong cuốn Qu’est-ce que la
propriété? (Sở hữu là gì?), Proudhon lên án sự lạm dụng của quyền
lực kinh tế và chế độ sở hữu tư nhân tập trung. Những lý thuyết cực đoan
của ông làm cho ông nổi tiếng là một nhà tư tưởng vô chính phủ. Proudhon
phản đối quan điểm của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng người Pháp
như Fourier, Saint-Simon,… và cho rằng xã hội không thể được cải biến
theo một kế hoạch được dự kiến trước. Ông hình dung một xã hội trong đó
bản chất đạo đức và ý thức trách nhiệm về luân lý được phát triển cao
đến mức không cần đến chính quyền để điều hoà và bảo vệ xã hội nữa.
Proudhon phản đối việc sử dụng bạo lực để áp đặt bất cứ hệ thống nào cho
nhân dân. Trong trạng thái lý tưởng của xã hội, mà ông gọi là “trật
tự trong trạng thái vô chính phủ” (order in anarchy), nhân dân sẽ
hành động một cách đạo đức và có trách nhiệm theo ý chí tự do của họ.
Ông chủ trương loại bỏ quyền uy ra khỏi xã hội, để thiết lập một thứ chủ
nghĩa cá nhân cực đoan. Nói chung, phái Proudhon từ khước mọi phương
thức bạo động và hy vọng vào một sự tiến hoá tiệm tiến của xã hội để đạt
tới một tổ chức vô chính phủ
[3] .
Mặc dù đã từng tuyên bố “Sở hữu là của ăn cắp”, Proudhon không lên án
chế độ tư hữu nói chung mà chỉ lên án thứ chế độ tư hữu trong đó người
này bóc lột lao động của người khác. Ông bênh vực chế độ tư hữu nhỏ của
người nông dân và người thợ thủ công mà ông coi là điều kiện cần thiết
để bảo vệ tự do, và phê phán chủ nghĩa cộng sản (kể cả không tưởng lẫn
mác-xít) là đã huỷ diệt tự do khi tước quyền kiểm soát của cá nhân đối
với các tư liệu sản xuất
[4] . Do đó, trong nhiều tác phẩm, Marx phê phán gay gắt
tư tưởng của Proudhon, coi đó là trường phái xã hội chủ nghĩa của giai
cấp tiểu tư sản mang tính chất phản động vì đi ngược lại đà tiến hoá của
nhân loại. Trong “Sự khốn cùng của triết học”, Marx đánh giá Proudhon
như sau:
Ông ta muốn là sự tổng hợp, kỳ thực ông ta chỉ là một sai lầm kép mà
thôi.
Ông ta muốn nhà khoa học bay lượn trên cả những nhà tư sản lẫn những
người vô sản; kỳ thực, ông ta chỉ là người tiểu tư sản, luôn luôn ngả
nghiêng giữa Tư bản và Lao động, giữa khoa kinh tế chính trị và chủ
nghĩa cộng sản mà thôi. (Sđd, T. I, tr. 400-401)
Sau khi Proudhon mất, trường phái vô chính phủ đứng đầu là Bakunin đã
trở thành mối đe doạ chính đối với chủ nghĩa Marx. Khác với Proudhon -
một nhà triết học vô chính phủ, Bakunin thiên về những hành động có tổ
chức. Từ đầu thập niên 1860, sau khi thoát khỏi cảnh lưu đày ở Siberia,
Bakunin đã truyền bá quan điểm của ông khắp châu Âu. Năm 1868, ông gia
nhập Quốc tế I. Tuy nhiên, không bao lâu sau đó, ông lại kết nạp những
người theo ông vào một tổ chức nửa - bí mật tên là Liên minh Dân chủ -
Xã hội mà ông quan niệm như một tổ chức tiền phong cách mạng nằm ngay
trong lòng Quốc tế. Do chỗ một tổ chức không thể mang trong lòng nó hai
nhân vật có thế lực và xung khắc nhau; cho nên tại Đại hội Hague (La
Haye) năm 1872, Marx đã tìm cách trục xuất được Bakunin và phái của ông
ra khỏi Quốc tế. Sự bất hoà giữa hai phái vô chính phủ và mác-xít đã gây
chia rẽ và làm suy yếu phong trào cách mạng ở châu Âu trong nhiều năm.
Là một nhà cách mạng không khoan nhượng chẳng kém gì Marx, Bakunin không
ngừng tuyên truyền việc lật đổ trật tự hiện hành bằng những phương tiện
bạo lực; nhưng ông bác bỏ mọi sự kiểm soát và tập quyền về mặt chính
trị, mọi sự phục tùng đối với quyền uy (trong khi vẫn duy trì một cách
không ý thức quyền uy của chính bản thân ông trong phong trào như một
trường hợp ngoại lệ). Ông tố cáo cái mà ông coi là những phương pháp tư
duy và tổ chức đặc trưng của người Đức, và để đối lập lại, ông đề cao
tinh thần nổi loạn bẩm sinh mà ông tìm thấy biểu hiện trong người nông
dân Nga. Bakunin không có những tác phẩm trình bày học thuyết của ông
một cách có hệ thống, nhưng ảnh hưởng của ông đã tạo ra những nhóm ủng
hộ rải rác ở nhiều nước: Anh, Thuỵ Sĩ, Đức và nhất là Ý và Tây Ban Nha
[5] .
Mặc dù tự nhận là môn đệ của Proudhon, Bakunin đã sửa đổi một số điểm
quan trọng về mặt lý thuyết. Trước hết, ông cho rằng quyền sở hữu theo
quan niệm của Proudhon là không thể thực hiện được, và tán thành chủ
trương tập thể hoá các tư liệu sản xuất. Mặt khác, trong khi Proudhon
tin rằng có thể xây dựng các hiệp hội tương trợ của những người sản xuất
ngay trong xã hội hiện tồn để từng bước thay thế dần cho chế độ sở hữu
cũ, thì Bakunin nghiêng về hành động bằng bạo lực. Ông tuyên bố rằng
“niềm đam mê phá hoại cũng là một sự thúc đẩy mang tính sáng tạo”. Ông
từ chối giải pháp cải cách tiệm tiến và cho rằng cần thiết phải có một
cuộc cách mạng bằng bạo lực để xoá bỏ mọi thiết chế hiện tồn nhằm tạo ra
một xã hội mới - tự do và hoà bình.
Mặc dù tư tưởng của Proudhon (dựa trên chủ nghĩa cá nhân và
nguyên tắc bất bạo động) vẫn còn tồn tại trong những trào lưu
ngoại vi của chủ nghĩa vô chính phủ, chính tư tưởng của Bakunin (mà đặc
trưng là chủ nghĩa tập thể và cách mạng bằng bạo lực) mới
là xu hướng thống trị trong phong trào này kể từ thời Quốc tế I cho đến
khi bị suy sụp vào cuối cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (năm 1939). Cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhiều nhà vô chính phủ đã coi những hành
động khủng bố như những biện pháp cần thiết để đạt được các mục tiêu
cách mạng. Nhiều chính khách nổi tiếng trên thế giới đã trở thành mục
tiêu ám sát của họ.
[6]
Nhận xét về Bakunin, Engels cho rằng Bakunin “có học thuyết riêng của
mình,một sự trộn lẫn chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa Proudhon” (Engels
gửi Carlo Carfiero ngày 1-3.7.1871, Sđd, T. IV, tr. 551). Về nhà
nước, Engels nêu rõ sự khác biệt căn bản giữa quan điểm mác-xít và quan
điểm vô chính phủ như sau:
Trong khi quảng đại quần chúng công nhân dân chủ - xã hội nhất trí với
quan điểm của chúng ta cho rằng chính quyền nhà nước không phải là cái
gì khác mà là một tổ chức do các giai cấp thống trị - địa chủ và nhà tư
bản - tạo ra để bảo vệ các đặc quyền xã hội của chúng thì Ba-cu-nin
khẳng định rằng nhà nước đã tạo ra tư bản và nhà tư bản có được
tư bản chỉ là nhờ ân huệ của nhà nước. Do đó, vì nhà nước là tai
hoạ chính nên trước hết phải thủ tiêu nó, rồi sau đó chủ nghĩa tư bản sẽ
tự tiêu vong. Còn chúng ta, trái lại, chúng ta nói: Hãy xoá bỏ tư bản,
hãy xoá bỏ sự tập trung tất cả tư liệu sản xuất trong tay một số ít
người thì nhà nước sẽ tự tiêu vong. (Engels gửi Theodor Cuno, 24.1.1872,
Sđd, T. IV, tr. 563-564)
Nói cách khác, phái vô chính phủ chủ trương xoá bỏ ngay nhà nước để đạt
tới tự do tuyệt đối, và sau đó chủ nghĩa tư bản tự khắc sẽ tự tiêu vong;
còn Marx và Engels lại cho rằng trước mắt phải đập tan nhà nước tư sản,
thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản để làm cách mạng vô sản, rồi khi
chủ nghĩa cộng sản đã được thiết lập thì nhà nước sẽ “tự tiêu vong”.
Phái Bakunin tỏ ra nguy hiểm đối với chủ nghĩa Marx, bởi vì những sách
lược của nó đe doạ làm tan rã tổ chức của Quốc tế I. Cũng trong lá thư
nói trên, Engels viết:
Nhưng vì Ba-cu-nin cho nhà nước là tai hoạ chủ yếu, nên phải tránh mọi
hành động có thể duy trì sự tồn tại của nhà nước, nghĩa là của bất cứ
nhà nước nào, dù là nhà nước cộng hoà, quân chủ hay một nhà nước nào
khác. Do đó, tuyệt đối không được tham gia bất cứ một hoạt động chính
trị nào. Thực hiện một hoạt động chính trị, đặc biệt là tham gia bầu
cử, như vậy là vi phạm nguyên tắc đó. Công việc phải làm là tiến hành
công tác tuyên truyền, nguyền rủa nhà nước, xây dựng tổ chức, và cuối
cùng, khi đã tranh thủ được tất cả công nhân, tức là tranh thủ được đa
số, thì sẽ xoá bỏ được tất cả các thiết chế nhà nước, sẽ xoá bỏ được nhà
nước, và tổ chức của Quốc tế sẽ thay thế nó. Hành động vĩ đại đó - hành
động mở màn cho một kỷ nguyên hạnh phúc ngàn năm - được gọi là sự
thanh toán về mặt xã hội. (…) Vì theo Ba-cu-nin, Quốc tế được thành
lập không phải để đấu tranh chính trị mà để thay thế ngay lập tức tổ
chức nhà nước cũ sau khi tiến hành cuộc thanh toán về mặt xã hội, nên
Quốc tế phải hết sức gần với quan niệm của Ba-cu-nin về xã hội tương
lai. Trong xã hội này, trước hết là sẽ không có quyền uy nào cả,
vì quyền uy = nhà nước = tai hoạ tuyệt đối. (Sđd, T. IV, tr.
564-565)
Bác bỏ quyền uy có nghĩa là bác bỏ cả quyền uy của Tổng hội đồng, trước
hết là nhắm vào Marx và Engels. Vì vậy, vào năm 1873, Marx đã viết bài
“Chủ nghĩa thờ ơ chính trị” và Engels viết bài “Bàn về quyền uy” đăng
trong văn tập Almanacco Republicano của những người xã hội chủ
nghĩa Ý, đả kích mạnh mẽ tư tuởng của Bakunin và của cả Proudhon.
Cũng chính trong quá trình đấu tranh về tư tưởng với các phái Lassalle
và vô chính phủ, Marx và Engels đã làm rõ thêm một số khái niệm mà hai
ông đã nêu ra trước đây.
Trong Phê phán cương lĩnh Gotha, Marx xác định là giữa xã hội tư
bản và xã hội cộng sản, có một thời kỳ quá độ; thích ứng với thời kỳ ấy
là “nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Nhưng khi
nói về chế độ cộng sản chủ nghĩa trong tương lai, Marx cũng không xác
định rõ chế độ nhà nước sẽ biến đổi như thế nào. Ông viết:
Tuy thế, mặc dầu có vô vàn hình thức khác nhau, nhưng những nhà nước
khác nhau trong những nước văn minh khác nhau đều có một điểm chung là
được xây dựng trên miếng đất của xã hội tư sản hiện đại, chỉ có điều là
phát triển ít hay nhiều theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, những
nhà nước ấy cũng đều có chung một số tính chất căn bản. (…) Một vấn đề
nảy ra là: chế độ nhà nước sẽ biến đổi như thế nào trong một xã hội cộng
sản chủ nghĩa? Nói một cách khác, lúc bấy giờ sẽ còn lại những chức năng
xã hội nào giống như những chức năng hiện nay của nhà nước? Chỉ có thể
giải đáp câu hỏi đó một cách khoa học mà thôi, và dù có ghép từ nhân dân
với từ nhà nước đến một nghìn lần thì người ta cũng không làm cho vấn đề
nhích thêm được một chút nào. (Sđd, T. IV, tr. 490-491)
Ở đây, có hai vấn đề được đặt ra. Vấn đề thứ nhất: Nhà nước biến mất
như thế nào? Khi Nhà nước biến mất thì những chức năng nào của Nhà
nước sẽ mất theo, và những chức năng nào sẽ còn lại? Vấn đề thứ hai:
trong giai đoạn quá độ, chuyên chính vô sản có còn là Nhà nước hay
không, và nó khác với các Nhà nước cũ trước đây như thế nào?
Engels đã tìm cách giải đáp hai câu hỏi đó. Trong khi tranh luận với
phái vô chính phủ, ông nhấn mạnh rằng Nhà nước không thể bị xoá bỏ theo
ý muốn chủ quan của con người, nó chỉ có thể tự tiêu vong. Nhưng thế nào
là Nhà nước tự tiêu vong? Engels giải thích trong tác phẩm Chống
Dühring (1878) như sau:
Khi nhà nước, cuối cùng, thật sự trở thành đại biểu của toàn thể xã hội
thì bản thân nó sẽ trở thành thừa. Một khi không còn giai cấp xã hội nào
cần phải duy trì trong vòng áp bức nữa, một khi mà cùng với sự thống trị
giai cấp và sự đấu tranh để sinh tồn xây dựng trên tình trạng vô chính
phủ từ trước tới nay trong sản xuất, những xung đột và những sự quá lạm
nẩy sinh từ tình hình đó cũng đều bị loại trừ, thì lúc đó sẽ không còn
có gì để đàn áp nữa, lúc đó một lực lượng đặc biệt để đàn áp, tức là nhà
nước, cũng sẽ không còn cần thiết nữa. Hành động đầu tiên, qua đó nhà
nước thật sự thể hiện ra là đại biểu của toàn thể xã hội - chiếm lấy các
tư liệu sản xuất nhân danh xã hội - cũng đồng thời là hành động độc lập
cuối cùng của nó với tư cách là nhà nước. Sự can thiệp của chính quyền
nhà nước vào các quan hệ xã hội sẽ hoá ra thừa trong hết lĩnh vực này
đến lĩnh vực khác và tự đình chỉ. Việc cai quản người sẽ nhường chỗ cho
việc quản lý vật và chỉ đạo quá trình sản xuất. Nhà nước không "bị xoá
bỏ", nó tự tiêu vong. (Sđd , T. V , tr. 396-397)
Như vậy, “việc quản lý người” bằng nhà nước sẽ nhường chỗ cho
“việc quản lý vật và chỉ đạo quá trình sản xuất” bằng cái tổ chức mà
Marx đã từng gọi là liên hiệp. Chúng ta có thể hiểu rằng khi Nhà
nước mất đi thì những chức năng quản lý về chính trị cũng mất đi, và
trong xã hội cộng sản, chỉ còn lại những chức năng quản lý về kinh tế.
Engels cũng cho biết: ý tưởng thay quản lý người bằng quản lý vật này
bắt nguồn từ tư tưởng của Saint-Simon:
Năm 1816, Saint-Simon tuyên bố rằng chính trị chỉ là khoa học về sản
xuất và đã báo trước rằng chính trị sẽ bị kinh tế hoàn toàn nuốt hết.
Nếu ở đây nhận thức cho rằng tình hình kinh tế là cơ sở của các thiết
chế chính trị chỉ mới bộc lộ ra dưới hình thức mầm mống, thì trái lại,
tư tưởng cho rằng việc quản lý người về chính trị phải biến thành việc
quản lý vật và thành việc chỉ đạo quá trình sản xuất, nghĩa là tư tưởng
‘xoá bỏ nhà nước’ mà gần đây người ta đã làm ầm ĩ rất nhiều,- tư tưởng
ấy đã được nêu lên một cách hoàn toàn rõ rệt. (Sđd, T. V, tr.
365)
Về vấn đề thứ hai, năm 1875, khi phê phán khái niệm“nhà nước nhân dân
tự do” của phái Lassalle, Engels đã viết như sau:
Nhà nước nhân dân tự do đã trở thành một nhà nước tự do. Đứng về mặt ngữ
pháp của từ ngữ ấy mà xét thì một nhà nước tự do là một nhà nước được tự
do đối với các công dân của mình, tức là một nhà nước có một chính phủ
độc tài. Có lẽ nên bỏ hẳn tất cả những câu ba hoa như vậy về nhà nước
đi, nhất là sau Công xã; Công xã không còn là một nhà nước theo nghĩa
đen của từ này nữa. Bọn vô chính phủ chủ nghĩa đã làm chối óc chúng ta
khá nhiều về mấy tiếng nhà nước nhân dân, mặc dầu quyển sách của
Mác viết chống Proudhon rồi đến cuốn "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" cũng
đều đã nói hết sức rõ là với sự thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà
nước sẽ tự tiêu vong và biến đi. Vì nhà nước, xét cho cùng, chỉ là một
thiết chế tạm thời mà người ta phải dùng đến trong đấu tranh, trong cách
mạng, để đàn áp kẻ địch của mình bằng bạo lực, cho nên nói đến một nhà
nước nhân dân tự do là hoàn toàn vô nghĩa: chừng nào mà giai cấp vô sản
còn cần đến nhà nước thì như thế, tuyệt nhiên không phải là vì tự
do, mà là vì để trấn áp kẻ địch của mình. Và ngày nào có thể nói đến tự
do thì nhà nước sẽ không còn tồn tại với tư cách là nhà nước nữa. Vì
vậy, chúng tôi đề nghị rằng bất cứ ở đâu cũng nên thay từ ’nhà nước’
bằng từ "Gemeinwesen" (công xã) là một tiếng Đức cổ rất đắt, tương đương
với từ Commune (công xã) trong tiếng Pháp. (Engels gửi August Bebel,
18-28.3.1875; Sđd, T. IV, tr. 585)
Như vậy, chuyên chính vô sản vẫn còn là nhà nước, bởi vì như trên
đã nói: giai cấp vô sản thiết lập nền chuyên chính vô sản chủ yếu không
phải vì tự do, mà vì để trấn áp kẻ địch của mình bằng bạo lực. Nhưng
chuyên chính vô sản không còn là nhà nước đúng nghĩa nữa, bởi vì
nó là nhà nước đang tự tiêu vong. Năm 1871, Marx viết: “Công xã đã cung
cấp cho nền cộng hoà cái cơ sở của những thiết chế thật sự dân chủ” (Sđd,
T. IV, tr. 97). Hai mươi năm sau (1891), Engels đã xác định chuyên
chính vô sản (mà hình mẫu là Công xã Paris) là “một chính quyền nhà nước
mới, thật sự dân chủ” (“Lời mở đầu viết cho lần xuất bản thứ ba bằng
tiếng Đức tác phẩm ‘Nội chiến ở Pháp’”; Sđd, T. VI, tr. 482)
Mặc dù là nhà nước mới, chuyên chính vô sản vẫn còn là nhà nước;
do đó, Engels cảnh cáo người cách mạng đừng sa vào căn bệnh mê tín
nhà nước – một căn bệnh mà ông cho là rất phổ biến ở người Đức. Ông
viết tiếp:
Nhưng thực ra, nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này
dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân
chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ. Và trong trường hợp
tốt nhất, người ta cũng có thể nói được rằng nhà nước cũng chỉ là một
tai hoạ mà giai cấp vô sản chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành quyền
thống trị giai cấp đã được thừa hưởng; cũng giống như Công xã trước kia,
giai cấp vô sản chiến thắng sẽ không thể không tức khắc tước bỏ những
mặt nguy hại nhất của tai hoạ đó, cho đến khi một thế hệ lớn lên trong
những điều kiện xã hội mới và tự do, có đủ sức vứt bỏ được tất cả cái
thứ đồ cũ là nhà nước kia đi. (Sđd, T. VI, tr. 482)
Làm thế nào để “tước bỏ những mặt nguy hại nhất của tai hoạ đó”? Cũng
như Marx, Engels hoàn toàn tin vào kinh nghiệm của Công xã Paris:
Để tránh cái tình trạng không thể tránh khỏi được ấy trong tất cả các
nhà nước tồn tại từ trước đến nay, - tức là tình trạng nhà nước nguyên
là tôi tớ của xã hội, sau biến thành chủ nhân của xã hội, - Công xã đã
dùng hai biện pháp hết sức công hiệu. Thứ nhất là Công xã đã đưa tất cả
những chức vị hành chính, tư pháp, giáo dục quốc dân ra để thông qua đầu
phiếu phổ thông mà chọn người đảm nhiệm, và đồng thời đã thi hành quyền
bãi miễn những người được bầu ấy bất cứ lúc nào, căn cứ vào quyết nghị
của những cử tri đã bầu ra họ. Và thứ hai là nó trả cho tất cả các công
vụ, từ việc thấp nhất đến việc cao nhất, một số tiền lương bằng lương
của các công nhân khác. Nói chung, số lương cao nhất mà Công xã đã trả
là 6000 phrăng. Như vậy là đã tạo ra được một trở ngại chắc chắn để
phòng ngừa tình trạng chạy chọt chức vị và chủ nghĩa thăng quan phát
tài, và ngoài ra Công xã còn thi hành thêm chế độ uỷ nhiệm thư mà các
đại biểu được bầu vào các cơ quan đại diện tuyệt đối phải tuân theo. (Sđd,
T. VI, tr. 481)
Quan niệm cho
rằng chuyên chính vô sản là một nhà nước mới, thật sự dân chủ của
Engels chính là gợi ý để sau này, Lenin nêu ra quan niệm về một nền dân
chủ vô sản, một thứ nhà nước kiểu mới, dân chủ gấp triệu lần so với nhà
nước dân chủ tư sản.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|