"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
HUYỀN THOẠI VỀ MỘT NHÀ NƯỚC TỰ TIÊU VONG – MAI THÁI LĨNH
Chương
IV
Những đóng góp của F. Engels
Mặc dù quan niệm về nhà nước của Marx đã dần dần được hình thành trên
những nét lớn; nhưng cho đến khi mất, ông vẫn không dành riêng một tác
phẩm nào để hệ thống hoá toàn bộ quan niệm ấy. Do coi trọng kinh tế hơn
chính trị, từ đầu thập niên 50 của thế kỷ XIX, Marx dành phần lớn thời
gian để nghiên cứu lĩnh vực kinh tế, nhất là để hoàn thành bộ Tư bản.
Chính Engels mới là người đã góp công hoàn chỉnh lý thuyết về nhà nước
của Marx.
Sau khi Marx mất, Engels đã bắt tay vào nghiên cứu xã hội thời cổ đại.
Dựa trên tác phẩm Ancient Society (Xã hội thời cổ, xuất
bản năm 1877) của nhà nhân chủng học người Mỹ Lewis H. Morgan, viết về
các bộ lạc của thổ dân ở Bắc Mỹ; đồng thời dựa trên bản tóm tắt chi tiết
của Marx về tác phẩm này, Engels đã hoàn thành cuốn Nguồn gốc của
gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước (xuất bản lần đầu
năm 1884). Ông coi đây là một việc làm nhằm thực hiện di chúc của Marx.
Trong tác phẩm này, Engels đã trình bày khá tỉ mỉ về sự ra đời, phát
triển và tiêu vong của nhà nước trong lịch sử.
Về nguồn gốc của nhà nước trong lịch sử, Engels đã trình bày sự hình
thành của ba nhà nước tiêu biểu ở châu Âu: nhà nước Athena ở Hy Lạp thời
cổ đại, nhà nước La Mã thời cổ đại, và nhà nước của người German
(Germain) cuối thời cổ đại. Qua đó, ông chứng minh rằng cả ba nhà nước
này đều nảy sinh từ sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, nói
chính xác hơn là từ sự tan rã của chế độ thị tộc.
Mặc dù chế độ thị tộc thời nguyên thuỷ không còn tồn tại, nhưng người ta
vẫn có thể tìm hiểu thông qua những tàn tích của chế độ thị tộc còn sót
lại. Trong tác phẩm của mình, Morgan trình bày khá tỉ mỉ về chế độ thị
tộc của người Iroquois ở Bắc Mỹ - nhất là các thị tộc thuộc bộ lạc
Seneca ở tiểu bang New York (Hoa Kỳ) mà ông đã từng tiếp xúc trực tiếp
để quan sát, nghiên cứu qua nhiều năm.
Dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc (gens, clan) là đơn vị
cơ bản của xã hội. Cơ quan quyền lực tối cao của thị tộc là Hội đồng
thị tộc, tức là đại hội dân chủ gồm tất cả các thành viên của bộ
lạc, kể cả nam và nữ, tất cả đều có quyền bầu cử như nhau. Hội đồng bầu
ra và bãi miễn tù truởng và thủ lĩnh quân sự; nhưng quyền lực của tù
trưởng chỉ là quyền lực gia trưởng, thuần về mặt đạo đức, không có
phương tiện cưỡng bách nào cả; còn thủ lĩnh quân sự thì chỉ có thể ra
mệnh lệnh trong thời gian xuất chinh mà thôi. Nhiều thị tộc họp thành
bào tộc (phratry, phratrie), nhiều bào tộc họp thành bộ lạc
(tribe, tribu). Bộ lạc có quyền bãi chức những tù trưởng hay thủ
lĩnh quân sự của thị tộc ngay cả khi thị tộc không đồng ý. Đứng đầu bộ
lạc là Hội đồng bộ lạc, bao gồm tất cả các tù trưởng và thủ lĩnh
quân sự của các thị tộc. Hội đồng bộ lạc họp công khai, đứng xung quanh
là các thành viên khác của bộ lạc, họ có quyền tham gia thảo luận và
phát biểu ý kiến, nhưng quyền quyết định thuộc về Hội đồng. Nhiệm vụ
chính của Hội đồng bộ lạc là điều tiết các quan hệ đối ngoại với các bộ
lạc khác, tuyên chiến và ký hoà ước. Trong một vài bộ lạc, có một vị thủ
lĩnh tối cao nhưng quyền hành rất hạn chế: đó là một trong các tù trưởng
có nhiệm vụ ban hành những biện pháp tạm thời trong trường hợp khẩn cấp
trước khi Hội đồng bộ lạc có thể họp lại để quyết định dứt khoát.
Trong lúc tuyệt đại đa số người Indians ở châu Mỹ chưa vượt qua giai
đoạn hình thành bộ lạc thì riêng người Iroquois đã tiến tới giai đoạn
hình thành Liên minh bộ lạc (theo Morgan có năm bộ lạc). Cơ quan
quyền lực của liên minh là Hội đồng liên minh, gồm 50 tù trưởng,
tất cả đều có uy tín và địa vị ngang nhau; không có ai đứng đầu liên
minh, không có người nào đứng đầu quyền hành pháp, nhưng lại có hai thủ
lĩnh quân sự tối cao, có quyền hạn và nhiệm vụ ngang nhau. Nhận xét về
xã hội của người Iroquois, “một xã hội chưa từng biết đến nhà nước”,
Engels viết:
Với tất cả cái tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là
một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát,
không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có
nhà tù, không có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy.(…) Mặc
dù những công việc chung là nhiều hơn ngày nay rất nhiều - nền kinh tế
gia đình được một loạt gia đình tiến hành chung và theo nguyên tắc cộng
sản chủ nghĩa; đất đai là tài sản của toàn thể bộ lạc,chỉ có những mảnh
vườn nhỏ bé mới tạm giao cho các gia đình sử dụng, - nhưng người ta vẫn
không hề cần đến cái bộ máy quản lý cồng kềnh và phức tạp của chúng ta.
Mọi việc đều do những người hữu quan tự giải quyết lấy và trong đa số
các trường hợp, một tập quán lâu đời đã giải quyết trước tất cả mọi việc
rồi. (Sđd, T. VI, tr. 151-152)
Dưới thời cộng sản nguyên thuỷ, sự phân công lao động hoàn toàn mang
tính chất tự nhiên: chỉ có sự phân công giữa nam và nữ. Kinh tế gia đình
là kinh tế cộng sản chung cho nhiều gia đình, thường là chung cho một số
lớn gia đình. “Cái gì cùng nhau làm ra và dùng chung, cái đó là tài sản
chung, như nhà cửa, vườn tược và thuyền độc mộc”. (Sđd, T. VI,
tr. 244)
Sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên là sự tách rời giữa trồng
trọt và chăn nuôi. Ở các bộ lạc du mục, sản xuất tăng nhanh và sở
hữu tư nhân bắt đầu xuất hiện. Khi các đàn gia súc trở thành sở hữu tư
nhân thì việc trao đổi hàng hoá trở thành thường xuyên; gia súc bắt đầu
trở thành tiền tệ (vật ngang giá chung). Người ta làm ra được khung dệt
và chế tạo ra các công cụ bằng đồng. Nghề trồng trọt và nghề thủ công
cũng phát triển hơn. Sản xuất tăng nhanh khiến cho sản phẩm làm ra nhiều
hơn số sản phẩm cần thiết cho sinh hoạt của thị tộc. Do đó đẻ ra nhu cầu
thu hút sức lao động mới. Tù binh trong chiến tranh biến thành người nô
lệ. Như vậy, từ sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất, đã nảy sinh
ra sự phân chia giai cấp đầu tiên: xã hội phân thành hai giai
cấp – chủ nô và nô lệ. Chế độ mẫu quyền sụp đổ, nhường chỗ cho chế
độ phụ quyền.
Đến thời đại đồ sắt, lại diễn ra sự phân công lao động xã hội lớn lần
thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Chế độ nô lệ trở
thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội: nô lệ không chỉ là
người giúp việc đơn thuần mà bị đẩy đi làm việc ngoài đồng ruộng và
trong xưởng thợ thành từng đoàn mươi, mười hai người một. Sản xuất hàng
hoá ra đời, và cùng với nó là thương nghiệp. Bên cạnh sự phân biệt giữa
người tự do và nô lệ đã xuất hiện sự phân biệt giữa kẻ giàu và người
nghèo. Đất đai do thị tộc tạm cấp trước đây dần dần chuyển thành sở hữu
tư nhân. Sự hợp nhất những bộ lạc biến lãnh thổ riêng của các bộ lạc
thành lãnh thổ chung. Thủ lĩnh quân sự (rex, basileus, thiudans) do dân
bầu ra dần dần trở thành viên chức thường xuyên. Các cơ quan của xã hội
thị tộc trước đây (thủ lĩnh quân sự, hội đồng, đại hội nhân dân) phát
triển thành nền dân chủ quân sự (military democracy, démocratie
militaire).
Chiến tranh trước kia chỉ nhằm để trả thù những vụ xâm lược hay để mở
rộng lãnh thổ thì nay trở thành một ngành “kinh doanh” thường xuyên.
Những cuộc chiến tranh cướp bóc làm tăng thêm quyền lực của thủ lĩnh
quân sự tối cao cũng như quyền lực của các thủ lĩnh quân sự dưới quyền
của người đó. Tập quán lựa chọn thủ lĩnh trong cùng một gia đình dần dần
trở thành một sự kế thừa cha truyền con nối:
Như vậy là những cơ quan của tổ chức thị tộc đã dần dần tách khỏi cái
gốc rễ của chúng trong nhân dân, trong thị tộc, bào tộc, bộ lạc; và toàn
bộ tổ chức thị tộc chuyển hoá thành cái đối lập với nó; từ chỗ là một tổ
chức của bộ lạc nhằm giải quyết một cách tự do những công việc của mình,
tổ chức thị tộc đã trở thành một tổ chức để cướp bóc và áp bức láng
giềng; và do đó, các cơ quan của nó, lúc đầu là công cụ của ý chí của
nhân dân, đã trở thành những cơ quan độc lập nhằm thống trị và áp bức
chính ngay nhân dân. (Sđd, T. VI, tr. 252)
Lúc này ta đang đứng ở ngưỡng cửa của thời đại văn minh. Sự đối lập giữa
thành thị và nông thôn càng trầm trọng. Lại xuất hiện thêm sự phân
công lớn lần thứ ba: sự xuất hiện của thương nghiệp:
Ở đây, lần đầu tiên, xuất hiện một giai cấp, tuy không tham gia sản xuất
một tí nào, nhưng lại chiếm toàn quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những
người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế; nó tự đứng ra làm kẻ
trung gian không thể thiếu được giữa hai người sản xuất và bóc lột cả
hai. (Sđd, T. VI, tr.254)
Cùng với những thương nhân là sự xuất hiện của tiền kim loại (tức tiền
đúc), và xuất hiện việc cho vay lấy lãi. Bên cạnh của cải bằng hàng hoá
và nô lệ, bên cạnh của cải bằng tiền, còn xuất hiện của cải bằng ruộng
đất. Từ chỗ là tài sản của thị tộc, ruộng đất trở thành hàng hoá, có thể
đem bán hay cầm cố được. Sự tích tụ và tập trung của cải vào tay một số
ít người diễn ra cùng lúc với sự bần cùng hoá ngày càng tăng của quần
chúng và sự tăng thêm của đám đông dân nghèo. Bên cạnh những người dân
tự do phân chia thành nhiều giai cấp tuỳ theo tài sản của họ, thì số nô
lệ tăng lên rất đông (nhất là ở Hy Lạp); lao động cưỡng bách của nô lệ
là cơ sở trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng của toàn bộ xã hội.
Xã hội thị tộc tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp đối kháng:
Cuối cùng, tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đến mâu
thuẫn nội tại và nó chỉ thích hợp với một xã hội kiểu ấy mà thôi. Ngoài
dư luận công chúng ra, nó không có một phương tiện cưỡng chế nào cả.
Nhưng bây giờ, một xã hội mới đã ra đời, một xã hội do toàn bộ những
điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó mà phải chia ra thành những
người tự do và nô lệ, thành những kẻ giàu có đi bóc lột và những người
nghèo khổ bị bóc lột, một xã hội không những không thể lại điều hoà một
lần nữa những mặt đối lập đó, mà còn buộc phải đẩy chúng đi đến chỗ ngày
càng gay gắt. Một xã hội như vậy chỉ có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh
không ngừng và công khai giữa các giai cấp đó với nhau, hoặc giả là tồn
tại dưới sự thống trị của một lực lượng thứ ba, một lực lượng tựa hồ như
đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với nhau, dập tắt cuộc xung đột
công khai giữa các giai cấp ấy và cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai
cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp.
Tổ chức thị tộc đã không còn tồn tại nữa. Nó đã bị sự phân công và hậu
quả của sự phân công ấy, tức là sự phân chia của xã hội thành giai cấp,
phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế. (Sđd, T. VI, tr.
258-259)
Từ những căn cứ đó, Engels kết luận:
Vậy nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào
xã hội. Nó càng không phải là cái "hiện thực của ý niệm đạo đức", là
"hình ảnh và hiện thực của lý tính" như Hegel khẳng định. Đúng ra, nhà
nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất
định; nó là sự thú nhận xã hội đó bị lúng túng trong một mối mâu thuẫn
với bản thân mà không sao giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân
thành những mặt đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực không
sao loại bỏ được. Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có
quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau
và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần
phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã
hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm
trong vòng "trật tự"; và lực lượng đó, nảy sinh ra từ xã hội, nhưng lại
đứng lên trên xã hội và ngày càng xa rời xã hội, chính là nhà nước. (Sđd,
T. VI, tr. 260-261)
Engels nêu ra những đặc trưng của nhà nước làm cho nó phân biệt với tổ
chức điều hành của xã hội thị tộc:
-
Đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở
chỗ nó phân chia dân cư theo địa vực chứ không phải theo
quan hệ dòng máu.
-
Đặc trưng thứ hai là sự thiết lập một
quyền lực công cộng tách rời khỏi xã hội: quân đội thường
trực thay cho nhân dân tự vũ trang, ngoài ra còn có đội cảnh
binh và những công cụ vật chất khác như nhà tù và đủ loại
cơ quan cưỡng bức khác.
-
Đặc trưng thứ ba là sự đóng góp của
công dân thông qua thuế má nhằm để duy trì quyền lực công
cộng đó; trong thời hiện đại, ngoài thuế ra còn có công trái.
-
Đặc trưng thứ tư là bọn quan lại
(các công chức)
[7] . Nắm được quyền lực công cộng và quyền thu
thuế, các quan lại (công chức) được đặt lên trên xã hội. Nhà nước
mọc lên từ xã hội nay trở thành xa lạ, đối lập với xã hội; quyền uy
mang tính chất cưỡng bách thay cho lòng tôn kính tự nguyện trước
kia:
Viên cảnh sát tồi nhất của một nhà nước văn minh vẫn có
“quyền uy” hơn tất cả những cơ quan của xã hội thị tộc cộng lại; nhưng
một vương công có thế lực nhất, một chính khách hoặc một chỉ huy quân sự
lớn nhất của thời đại văn minh vẫn có thể ghen với vị thủ lĩnh nhỏ nhất
trong thị tộc về sự tôn kính tự nguyện và không thể tranh cãi được mà vị
thủ lĩnh ấy được hưởng. Đó là vì vị thủ lĩnh thị tộc nằm ngay trong lòng
xã hội, còn những người kia thì bắt buộc phải mong muốn đại biểu cho một
cái gì ở bên ngoài và đứng trên xã hội. (Sđd, T. VI, tr. 263)
Về bản chất của nhà nước, Engels cho rằng mặc dù trong quá trình phát
triển, nhà nước đã mang nhiều hình thức khác nhau, nhưng bao giờ nó cũng
là công cụ của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế; điều đó làm
cho nhà nước mang bản chất giai cấp:
Vì nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai
cấp, nhưng vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của
các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai
cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có
nhà nước, mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó
có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp
bức. (Sđd, T. VI, tr. 263)
Engels nêu ra “ba hình thức nô dịch lớn đặc trưng cho ba thời đại lớn
của văn minh”: chế độ nô lệ thời cổ, chế độ nông nô thời trung cổ, và
chế độ làm thuê thời hiện đại (Sđd, T. VI,, tr. 269).
Tương ứng với ba hình thức bóc lột đó là: nhà nước của chủ nô
dùng để đàn áp nô lệ, nhà nước phong kiến - cơ quan của bọn quý
tộc dùng để đàn áp nông nô và những nông dân bị phụ thuộc, và nhà
nước đại nghị hiện đại - công cụ của tư bản dùng để bóc lột lao động
làm thuê (Sđd, T. VI,, tr. 263). Tuy nhiên, ông cũng thừa
nhận rằng trong một số trường hợp ngoại lệ, nhà nước có thể có một mức
độ độc lập nào đó đối với các giai cấp đang đối địch nhau; đó là những
thời kỳ mà những giai cấp đang đấu tranh lẫn nhau lại gần đạt được một
thế quân bình. Chẳng hạn như chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỷ XVII và
XVIII (do thế thăng bằng giữa bọn quý tộc và giai cấp tư sản); như chế
độ Bonaparte của Đế chế I và đặc biệt là của Đế chế II ở Pháp (đứng giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản), hay nhà nước Đức của Bismarck (do
thế quân bình giữa các nhà tư bản và công nhân).
Theo Engels, trong đa số nhà nước đã từng tồn tại trong lịch sử, những
quyền ban cho công dân còn tỷ lệ với tài sản của họ, điều đó cho thấy
rằng nhà nước là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ
giai cấp này chống lại giai cấp không có của. Tuy nhiên việc thừa
nhận về mặt chính trị sự chênh lệch về tài sản không phải là một dấu chỉ
căn bản; nó chỉ chứng tỏ rằng nhà nước đang còn ở một trình độ thấp. Đối
với chế độ cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước cao hơn, sự chênh lệch
về của cải không còn được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý. Trong chế
độ đó, của cải vẫn phát huy quyền lực của nó một cách gián tiếp, nhưng
lại càng chắc chắn hơn nhiều: một mặt, dưới hình thức trực tiếp mua
chuộc những người công chức; mặt khác, dưới hình thức liên minh giữa
chính phủ và sở giao dịch. Ngoài ra, dưới chế độ cộng hoà dân chủ, giai
cấp hữu sản thống trị trực tiếp bằng hình thức đầu phiếu phổ thông.
Đối với Engels, đầu phiếu phổ thông là một cách thức thống trị của giai
cấp tư sản; nhưng cũng là “cái thước đo sự trưởng thành của giai cấp
công nhân”.
Việc xác định rằng trong quá khứ, đã từng có lúc xã hội loài người
không có nhà nước củng cố thêm lòng tin của những người cộng sản về
một tương lai trong đó nhà nước sẽ tự tiêu vong. Engels đã khẳng định
điều đó bằng một giọng văn hùng hồn:
Như vậy là không phải lúc nào cũng đã có nhà nước. Đã từng có những xã
hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và
chính quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định,
giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp
thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành một tất yếu. Bây giờ,
chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất,
trong đó sự tồn tại của những giai cấp nói trên không những không còn là
một sự tất yếu nữa, mà đã trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản xuất.
Những giai cấp đó nhất định sẽ biến mất cũng như xưa kia, chúng nhất
định phải xuất hiện. Giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng không tránh
khỏi tiêu vong theo. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên
hợp tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy
nhà nước xếp vào cái vị trí thật sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo
tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng. (Sđd,
T. VI, tr. 265-266)
Có thể nói kể từ khi xuất bản, tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước của Engels đã trở thành một trong
những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx. Nó tạo ra một căn cứ
khoa học, hay ít ra cũng cung cấp một lớp vỏ bề ngoài mang dáng
vẻ khoa học cho lý thuyết mác-xít về nhà nước và chuyên chính vô
sản. Đầu thế kỷ XX, Lenin đã dựa vào nó như một tác phẩm căn bản để
nghiên cứu lý thuyết mác-xít về nhà nước, cũng như để viết cuốn Nhà
nước và cách mạng.
[1]"Lassalle, Ferdinand", Microsoft® Encarta®
Encyclopedia 2001, © 1993-2000
[2]Harry W. Laidler, History of Socialism, Thomas
Y. Crowell Company, New York 1968, tr. 226-227.
[3]"Proudhon, Pierre Joseph", “Anarchism”; Microsoft®
Encarta® Encyclopedia 2001, © 1993-2000.
[4]“Proudhon, Pierre-Joseph”, Encyclopaedia Britannica
2000, 1994-2000.
[5]“Bakunin, Mikhail Aleksandrovich”, Encyclopaedia
Britannica 2000, 1994-2000.
[6]“Russian anarchist thought”, Encyclopædia
Britannica 2000; “Anarchism”, Microsoft® Encarta® Encyclopedia
2001.
[7]Trong bản dịch tiếng Pháp: fonctionnaires (công chức).
Xem: Fr. Engels, L’origine de la famille, de la propriété et de
l’Etat, traduit par Bracke (A.M. Desrousseaux, Alfred Costes, Paris
1946, tr. 225).
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|