"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
DÂN CHỦ - XÃ HỘI LÀ GÌ ?
Hình thành từ những thập niên
60 và 70 của thế kỷ 19, phong trào xã hội chủ nghĩa dần dần tách thành
hai trào lưu lớn : dân chủ - xã hội (Social Democracy,
social-démocratie) và cộng sản (Communism, communisme). Sự cạnh
tranh, thậm chí đối lập, giữa hai trào lưu đó là một nét nổi bật của thế
kỷ 20. Do hoàn cảnh lịch sử, việc truyền bá chủ nghĩa xã hội vào nước ta
hầu như chỉ thông qua con đường của những người cộng sản, sự hiểu biết
của giới trí thức về trào lưu dân chủ - xã hội có thể nói là vô cùng ít
ỏi. Bài viết này nhằm mục đích góp phần bổ sung cho sự thiếu sót đó.
Vào thời kỳ đầu của phong trào
được mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội” (Socialism, socialisme),
nhất là trong giai đoạn hình thành các tổ chức chính trị đầu tiên của
giai cấp công nhân, danh xưng “dân chủ - xã hội” được dùng để chỉ
những người xã hội chủ nghĩa nói chung, nhằm phân biệt họ với những
người thuộc phái vô chính phủ (anarchism, anarchisme).
Như chúng ta đã
biết, Quốc Tế I (First International, Première Internationale)
được thành lập vào ngày 28.9.1864, và đại hội đầu tiên diễn ra tại
Geneva (Genève, Thuỵ Sĩ) vào năm 1866. Tố chức quốc tế này hoạt động cho
đến năm 1872 thì bị tê liệt và bốn năm sau (1876) phải tự tuyên bố giải
tán vì sự chia rẽ giữa hai phe : phe theo Marx và phe vô chính phủ theo
Bakunin.
Gần như đồng thời
với Quốc tế I, thậm chí trước cả Quốc tế I, một số tổ chức chính trị của
công nhân cũng lần lượt ra đời ở các nước châu Âu, nhất là tại Đức. Năm
1863, Ferdinand Lassalle (1825-1864) - người được coi là kiến trúc sư
của phong trào công nhân Đức, đã sáng lập Tổng Hội Công nhân Đức (Allgemeiner
Deutscher Arbeiterverein,
General German Workers' Union,
Association générale allemande de travailleurs ; viết tắt là ADAV). Tờ
báo chính thức của ADAV lấy tên là Người Dân chủ - Xã hội (Der
Social-Demokrat, The Social Democrat), xuất bản định kỳ ở
Berlin mỗi tuần ba kỳ, kể từ cuối năm 1864 cho đến năm 1871. Trên tạp
chí này có đăng một số văn bản quan trọng của Quốc tế I như bản dịch
tiếng Đức của « Tuyên ngôn thành lập Hiệp hội Công nhân Quốc tế” - do
chính tay Marx viết (được đăng trên số 2 và số 3 - ngày 21 và
30.12.1864) hoặc lá thư của Quốc tế I gửi Abraham Lincoln nhân dịp ông
này tái đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ (đăng trên số 3 – ngày 30.12.1864).
Trong bức thư này, Karl Marx gọi Abraham Lincoln là “người con vững như
sắt thép của giai cấp công nhân”.
Song song với sự
phát triển của ADAV, một số tổ chức chính trị của công nhân cũng lần
lượt hình thành ở vùng Saxony (Saxe, Sachsen) và miền Nam nước
Đức. Những nhóm này chịu ảnh hưởng của Marx và tranh giành ảnh hưởng với
phái Lassalle. Đến năm 1869, dưới sự lãnh đạo của August Bebel và
Wilhelm Liebknecht, những nhóm này đã hợp nhất thành một đảng chính trị
lấy tên là Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội (Sozialdemokratische
Arbeiterpartei,
Social Democratic Workers' Party,
Parti
travailliste social-démocrate, viết tắt là SDAP)
. Sự chia rẽ
giữa phái mác-xít và phái Lassalle kéo dài mãi đến năm 1875, khi hai tổ
chức chính trị này hợp nhất với nhau trên cơ sở của một cương lĩnh mang
tính thoả hiệp (cương lĩnh Gotha). Tổ chức hợp nhất này có tên gọi ban
đầu là Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa (Sozialistische Arbeiterpartei,
Socialist Workers' Party, Parti ouvrier socialiste ; viết tắt là SAP). Năm
1890, đảng này đổi tên thành Đảng Dân chủ - Xã hội Đức (Sozialdemokratische
Partei Deutschlands,
Social Democratic Party of Germany,
Parti social-démocrate
d'Allemagne ; viết tắt là SPD) và giữ tên đó đến tận ngày nay. Năm 1875, tức là
thời điểm hợp nhất giữa hai phái mác-xít và Lassalle, vẫn được coi là
thời điểm thành lập đảng.
Như vậy, danh xưng “dân chủ
- xã hội” đồng nghĩa với danh xưng “xã hội chủ nghĩa”, được
dùng để chỉ những người xã hội chủ nghĩa nói chung, chưa có sự phân biệt
giữa dân chủ - xã hội và cộng sản như về sau này.
Sự chia rẽ trong
lòng Quốc tế II
Karl Marx mất vào
năm 1883. Sáu năm sau (1889), theo sáng kiến của các nhà xã hội chủ
nghĩa và các nhà hoạt động công đoàn ở nhiều nước, Quốc tế II
(Second International, Deuxième Internationale) được thành lập với sự
kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên
thế giới - chủ yếu là tại châu Âu
. Phái vô
chính phủ bộc lộ sự bất đồng ý kiến ngay từ đầu, nhưng sau đại hội
London (Londres, thủ đô Anh) năm 1896, bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi tổ
chức quốc tế này.
Về mặt tổ chức, Quốc tế II
không phải là một tổ chức mang tính tập trung cao độ như Quốc tế I mà là
một liên minh lỏng lẻo giữa các đảng chính trị và các tổ chức công đoàn
ở nhiều quốc gia. Mãi đến 11 năm sau khi thành lập, tại Đại hội Paris
(9.1900), một cơ quan chấp hành mới được hình thành lấy tên là Văn phòng
Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế
(International Socialist
Bureau, Bureau Socialiste International ), bao gồm đại biểu của các đảng
xã hội chủ nghĩa ở tất cả các nước, với một bộ phận thường trực đóng tại
Brussels (Bruxelles, thủ đô Bỉ). Trong thực tế, đây là một cơ quan liên
lạc, phối hợp chứ không phải là một cơ quan chấp hành có uy quyền như
Tổng Hội đồng (General Council, Conseil générale) của Quốc tế I.
Về mặt lý thuyết, Quốc tế II
chịu sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa Marx, mặc dù ảnh hưởng của nhiều
trường phái tư tưởng phi-marxist (như phái Lassalle, phái Fabian,…) vẫn
còn tồn tại trong lòng các đảng thành viên. Chưa đầy 10 năm sau khi
thành lập, sau khi Engels mất, một vài cuộc tranh luận đã nổ ra trong
lòng đảng SPD - chính đảng lớn nhất và quan trọng nhất của Quốc tế II.
Đặc biệt gây sôi nổi là các luận điểm của Eduard Bernstein, một trong
những lãnh tụ có uy tín của đảng vào lúc ấy, được mệnh danh là chủ
nghĩa xét lại (revisionism, revisionisme).
Như trên đã nói, đảng SPD là sự
kết hợp mang tính thoả hiệp của hai phái : phái mác-xít và phái
Lassalle. Sau khi thành lập không bao lâu thì đảng bị đàn áp bởi đạo
luật chống những người xã hội chủ nghĩa do Thủ tướng Bismarck ban hành
vào năm 1878. Sau khi đạo luật này bị bãi bỏ (1890), đảng SPD đã họp Đại
hội tại Erfurt vào năm 1891 và sửa đổi lại cương lĩnh. So sánh cương
lĩnh Erfurt năm 1891 với cương lĩnh Gotha năm 1875, chúng ta thấy rõ sự
thắng thế của chủ nghĩa Marx so với tư tưởng của Lassalle. Điều này bắt
nguồn từ sự đàn áp của chính quyền Bismarck trong hơn một thập niên
trước đó, làm củng cố xu hướng cách mạng trong đảng. Trong hoàn cảnh đó,
việc Bernstein đề xuất các luận điểm xét lại đã vấp phải những phản ứng
không thuận lợi. Tại Đại hội Hanover (Hanovre, trong tiếng Đức là Hannover)
họp vàp tháng 10 năm 1899, các đại biểu đã dành ra 3 ngày rưỡi để thảo
luận và sau cùng đi đến một nghị quyết bác bỏ các luận điểm của
Bernstein. Karl Kautsky, nhà lý luận chính thống của đảng SPD lúc ấy,
lên án Bernstein đã bỏ rơi các nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội
khoa học. Rosa Luxemburg, người tiêu biểu cho cánh tả của đảng SPD,
người chủ trương cách mạng triệt để, còn dành hẳn một cuốn sách “Cải
cách xã hội hay cách mạng?” để đấu tranh chống lại xu hướng xét lại.
Mặc dù vậy, qua thực tế hoạt động, ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại ngày
càng lớn mạnh trong lòng đảng SPD, hình thành nên phái hữu (phái cải
cách) và đồng thời làm phát sinh phái tả (phái cách mạng)
trong lòng đảng này nói riêng và trong toàn bộ phong trào xã hội chủ
nghĩa nói chung.
Mặc dù “cải cách” hay “cách
mạng” mới là mâu thuẫn chủ yếu, sâu xa của Quốc tế II, cuộc xung đột lại
bùng nổ qua một chủ đề khác. Đó là thái độ, lập trường của các nhà xã
hội chủ nghĩa đối với chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh.
Trước cuộc Chiến tranh Thế giới
lần I, lập trường chung của Quốc tế II là ngăn ngừa một cuộc chiến tranh
nổ ra trên toàn châu Âu. Tại Đại hội Stuttgart (1907), chiến tranh và
chủ nghĩa quân phiệt đã trở thành chủ đề chính. Sau nhiều cuộc tranh cãi
gay gắt, đa số đại biểu đã bác bỏ chủ trương tiến hành tổng đình công và
nổi dậy do Gustave Hervé (đại biểu Pháp) đề xuất. Nghị quyết cuối cùng
của Đại hội có thể tóm tắt trong hai điểm chính : (1) cần thiết phải
ngăn ngừa chiến tranh bằng mọi cách và (2) trong trường hợp chiến tranh
nổ ra, lợi dụng cuộc khủng hoảng tạo ra bởi chiến tranh để “đẩy nhanh sự
sụp đổ của nền thống trị tư bản chủ nghĩa.” Điểm thứ hai chính là điều
khoản sửa đổi bổ sung do cánh tả của Quốc tế (Lenin, Rosa Luxemburg,
Clara Zetkin…) đề nghị.
Nhưng thực tế diễn ra cho thấy
“chủ nghĩa quốc tế vô sản” chỉ là sản phẩm của tư duy, không phù hợp với
hiện thực. Hiện thực của thế kỷ XX cho thấy “quốc gia-dân tộc” chứ không
phải “giai cấp” mới là nhân tố làm nền tảng cho các thực thể chính trị -
xã hội, và hoà bình chỉ có thể thiết lập giữa các quốc gia chứ không
phải giữa giai cấp vô sản các nước.
Tình hình đó làm cho Quốc tế bị
rạn nứt, chia làm ba phái : phái hữu giữ lập trường yêu nước,
đứng về phía quốc gia của mình để ủng hộ chiến tranh; phái trung dung
bao gồm những người chống chiến tranh, tìm kiếm hoà bình (pacifism,
pacifisme) và phái tả đứng trên lập trường quốc tế, chẳng những
chống chiến tranh mà còn muốn biến chiến tranh thành cơ hội để tiến hành
cách mạng. Trong thời kỳ đầu, phái ủng hộ chiến tranh chiếm đa số. Ngay
cả một số người thuộc phái trung dung (như Kautsky chẳng hạn) tuy chống
chiến tranh nhưng trong thời gian đầu cũng chưa muốn tách khỏi khối đa
số. Trung thành với nghị quyết Stuttgart chỉ còn có phái tả,
trong đó đáng kể nhất là nhóm “Quốc tế” (International Group) của Karl
Liebknecht
và Rosa Luxemburg ở Đức và
Lenin ở Nga.
Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
và sự ra đời của trào lưu cộng sản
Mặc dù cuộc Chiến tranh Thế
giới là cơ hội làm bùng phát mâu thuẫn giữa các phe phái trong lòng Quốc
tế II, nhưng chính mâu thuẫn giữa hai con đường cải cách và
cách mạng mới thật sự làm tan vỡ tổ chức Quốc tế này. Địa bàn làm
phát sinh mâu thuẫn lại không phải là Tây Âu, nơi Marx và Engels trông
chờ cuộc cách mạng vô sản nổ ra, mà là nước Nga – nơi mà giai cấp vô sản
yếu ớt bị chìm lỉm giữa một môi trường nông thôn rộng lớn và lạc hậu.
Trong những năm cuối của triều
đại Romanov, phần lớn các đảng chính trị có ảnh hưởng ở Nga đều xưng
danh là đảng xã hội chủ nghĩa. Những người không chọn con đường
xã hội chủ nghĩa là những người thuộc phái tự do (liberals).
Giới tư sản và các trí thức theo chủ nghĩa tự do
(liberalism, libéralisme) lúc đầu tập hợp trong một tổ chức có tên là
Liên hiệp Giải phóng (Soyuz Osvobozhdeniya, Union of Liberation)
- được thành lập vào tháng 1 năm 1904. Về sau, tổ chức này và một số trí
thức khác có liên hệ với các hội đồng địa phương (zemstvos) đã
hợp nhất với nhau để thành lập Đảng Dân chủ - Lập hiến (gọi tắt
là K.D. hoặc Kadet)
vào tháng 10 năm 1905. Đây
là một tổ chức chính trị chủ trương một sự thay đổi cấp tiến ở Nga theo
hướng tiến đến một chế độ quân chủ lập hiến tương tự như nước Anh. Kadet
chiếm đa số tại Quốc hội (Duma) đầu tiên sau cuộc bầu cử năm
1906, nhưng trong những Duma tiếp theo, sức mạnh của đảng này bị suy
giảm dần. Tính chất bảo thủ, chuyên chế của chế độ Sa hoàng, những khó
khăn gây ra bởi cuộc Chiến tranh Thế giới I, và sự gia tăng của bầu khí
cách mạng trong quần chúng cũng như tâm trạng lo âu của thời chiến đã
làm cho quần chúng ngả dần sang các đảng cách mạng. Mặc dù vậy, sau Cách
mạng Tháng hai năm 1917, Kadet vẫn là một trong những đảng nằm trong
hàng ngũ cách mạng. Bốn thành viên trong nội các đầu tiên của Chính phủ
Cách mạng Lâm thời là đảng viên Kadet. Mãi đến khi những người Bolshevik
nắm được chính quyền, họ mới tuyên bố rằng Kadet là một tổ chức bất hợp
pháp vào cuối năm 1917, và kể từ đó các hoạt động của đảng này chấm dứt
trong nội địa nước Nga.
Trong số
các đảng tự xưng danh là xã hội chủ nghĩa, đảng có ảnh hưởng sâu rộng
nhất trong quần chúng là Đảng Xã hội – Cách mạng. Điều này có nguyên
nhân từ ảnh hưởng của một trào lưu tư tưởng trong thế kỷ 19, được gọi
là chủ nghĩa dân tuý (populism, populisme). Những người dân tuý (Narodniks,
populists, populistes) cho rằng chủ nghĩa Marx không thể áp dụng được ở
nước Nga nông dân, nơi mà giai cấp vô sản (giai cấp công nhân công
nghiệp) hầu như không tồn tại. Aleksandr Herzen (1812-1870), nhà tư tưởng tiêu biểu cho
chủ nghĩa dân tuý ở Nga, coi các công xã ở nông thôn là mầm mống của xã
hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai và lập luận rằng nước Nga có thể bỏ
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng một cộng đồng hợp tác dựa
trên truyền thống làng xã.
Trong thập niên 1870, hoạt động
của phái dân tuý rộ lên, mà trung tâm là giới sinh viên đại học. Trong
những năm 1873 và 1874, hàng trăm sinh viên - bao gồm cả nữ sinh viên,
đã “đến với nhân dân”
bằng cách xâm nhập vùng quê,
mặc quần áo nông dân, lao động cùng nông dân để tìm cách thức tỉnh nông
dân bằng những bài diễn thuyết. Nhưng một mặt họ gặp phải sự thờ ơ của
nông dân, mặt khác họ bị cảnh sát đàn áp. Một số nhà cách mạng trẻ bị
kết án tù, và hàng trăm người bị đày đến những vùng đất xa xôi, thậm chí
đến tận Siberia. Năm 1876, một đảng mới được thành lập lấy tên là Đất
đai và và Tự do (Zemlia I Volia, Land and Freedom, Terre et
Liberté). Một số thành viên của đảng này chủ trương ám sát các quan chức
cao cấp để trả thù cho đồng đội bị ngược đãi và coi khủng bố là phương
pháp để gây áp lực với chính quyền, buộc họ ban hành các quyền tự do
theo kiểu phương Tây. Kinh nghiệm cũng cho họ thấy trong khi nông dân
sống phân tán và thờ ơ với cách mạng thì công nhân ở các đô thị công
nghiệp hoá trở thành đối tượng có nhiều hứa hẹn hơn. Một số nhóm khác
không tán thành phương pháp ám sát, và tiếp tục tin vào nông dân hơn là
công nhân, đồng thời cũng tỏ ra thờ ơ với cuộc đấu tranh để giành các
quyền tự do chính trị. Năm 1879, đảng bị chia rẽ. Cánh có xu hướng chính
trị và theo chủ nghĩa khủng bố lấy tên là Ý chí của Nhân dân
(Narodnaïa Volia, People’s Will, Volonté du Peuple). Sau một
vài dự án thất bại, cuối cùng họ cũng thành công trong việc ám sát Nga
hoàng Alexander II vào ngày 1.3 năm 1881 (tức ngày 13.3 tính theo Lịch
Mới). Các thủ lĩnh của nhóm bị bắt, và có 5 người trong số đó bị treo
cổ. Cánh thứ hai có tên là Sự Tái phân phối Đen (Chorny Peredel,
Black Repartition) tiếp tục hoạt động trong nông dân cho đến khi chuyển
dần sự chú ý sang giai cấp vô sản thành thị trong thập niên 1880.
Đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa dân
tuý được tái sinh qua Đảng Xã hội - Cách mạng (Sotsialisty
Revolyutsionery, Socialist Revolutionary Party, gọi tắt là
SR) - được thành lập vào năm 1901. Kế thừa chủ nghĩa dân tuý về mặt
tư tưởng, đảng này đề ra chủ trương xã hội hoá ruộng đất và thành lập
một chính quyền liên bang. Vào năm 1917, đảng này là nhóm xã hội chủ
nghĩa đông nhất và có ảnh hưởng nhất ở Nga. Một số đảng viên SR nắm chức
vụ cao trong Chính phủ Lâm thời sau Cách mạng Tháng Hai như Aleksandr
Kerensky, Viktor Chernov, và trong cuộc bầu cử vào Quốc hội Lập hiến
vào tháng 11 năm 1917, đảng này chiếm đến 410 ghế trong khi Đảng
Bolshevik chỉ chiếm có 175 ghế. Mặc dù vậy, đảng này không đề ra được
một đường lối có tính thuyết phục, lại bị chia rẽ nội bộ, và trong đảng
vẫn luôn tồn tại một xu hướng muốn áp dụng các phương pháp khủng bố.
Nhóm ly khai của đảng này, thường được gọi là những người Xã hội –
Cách mạng cánh Tả (Left Socialist Revolutionaries) đã cộng tác với
Đảng Bolshevik trong cuộc Cách mạng Tháng Mười và sau đó tham gia chính
quyền xô-viết cho đến khi bị trục xuất bởi Đại hội Các Xô-viết lần thứ
năm (tháng 7 năm 1918). Sau khi phe Bolshevik chiến thắng trong cuộc Nội
Chiến, Đảng Bolshevik đã xoá bỏ hoàn toàn đảng Xã hội – Cách mạng.
Đóng vai trò lịch sử quan trọng
nhất ở Nga là những người xã hội chủ nghĩa mác-xít. Những người này tin
rằng giai cấp công nhân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Họ thành lập
nên Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga
.
Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội
Nga
được thành lập chính thức vào năm 1898 tại thành phố Minsk (nay là thủ
đô của Belarus
) trên cơ sở
hợp nhất nhiều tổ chức chính trị mác-xít đã có trước đó. Nhưng đại hội
thành lập này gần như không có kết quả bởi vì không
bao lâu sau khi thành lập, phần lớn các nhà lãnh đạo của đảng đều bị bắt
. Mặt khác, tại đại hội thành lập, hàng loạt vấn đề (như cương lĩnh,
điều lệ,…) chưa được giải quyết. Đại hội lần thứ hai (tháng 7 – tháng 8
năm 1903) đã diễn ra tại hải ngoại
. Chính tại Đại hội này, bắt
đầu có sự chia rẽ giữa hai quan điểm khác nhau. Cánh cấp tiến, đứng đầu
là Lenin, chủ trương xây dựng một đảng hành động bao gồm những nhà cách
mạng chuyên nghiệp, sử dụng mọi phương tiện để xây dựng cho bằng được
một xã hội cộng sản. Ngược lại, những đối thủ của Lenin lại chủ trương
kết nạp tất cả những ai tuyên bố tán thành những mục tiêu của đảng,
không kể có trực tiếp tham gia hoạt động hay không. Mặc dù đại hội tán
thành phương án thứ hai (do Martov đề xướng), nhưng khi biểu quyết một
số vấn đề khác - như bầu ban biên tập báo Tia lửa (Iskra) hay bầu
ban lãnh đạo, phe Lenin lại chiếm đa số, do phái Bund
bất ngờ rời bỏ đại hội. Từ
đó phái theo Lenin được gọi là Bolshevik (trong tiếng Nga có
nghĩa là “đa số”) trong khi phe đối lập được gọi là Menshevik
(trong tiếng Nga có nghĩa là “thiểu số”). Cách gọi tên được giữ mãi về
sau, mặc dù trong thực tế, không phải lúc nào phe Bolshevik cũng là phe
đa số trong phong trào cách mạng Nga.
Kể từ sau khi cuộc Cách mạng
năm 1905 thất bại, sự chia rẽ giữa hai phái càng ngày càng sâu sắc. Cả
Menshevik lẫn Bolshevik đều đồng ý về sự cần thiết của một cuộc cách
mạng, nhưng lại không đồng ý về phương pháp đấu tranh cách mạng. Khi
Quốc hội (Duma) được thành lập như một sự nhượng bộ của Sa hoàng
trước sức ép xủa quần chúng, những người Bolshevik chỉ coi đây là một
diễn đàn để tuyên truyền trong khi phái Menshevik lại chủ trương cộng
tác với các nhà chính trị “tư sản” trong quốc hội để hợp pháp hoá các
quyền dân sự và sử dụng các quyền đó trong việc tổ chức công nhân, chuẩn
bị cho cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn kế tiếp. Cuối cùng, vào
năm 1912, Lenin đã quyết định triệu tập đại hội riêng của phái Bolshevik
tại Prague (Tiệp Khắc). Kể từ đó, hai phái trở thành gần như hai đảng
riêng biệt, có ban chấp hành và cơ quan ngôn luận riêng và tìm cách
tranh giành ảnh hưởng trong giai cấp công nhân cũng như trong chính
trường Nga nói chung. Điều đáng lưu ý là cả hai đảng đều giành lấy danh
xưng cũ (Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga). Đảng Bolshevik được gọi
là Đảng Công nhân Dân chủ -Xã hội Bolshevik Nga (Russian
Social Democratic (b) Worker’s Party)
.
Cuộc Cách mạng Tháng Hai
năm 1917 nổ ra là kết quả
của sự phối hợp giữa các lực lượng cánh tả với những phần tử tiến bộ
trong giai cấp tư sản, tức là những người thuộc phái tự do (liberals).
Khi Lenin, với sự giúp đỡ của chính phủ Đức, bí mật trở về Nga bằng con
đường Thuỵ Điển - Phần Lan vào tháng 4 năm 1917, cả bốn đảng đều có mặt
trên chính trường : đảng Kadet, đảng Xã hội – Cách mạng, đảng Menshevik
và đảng Bolshevik. Trong khi chờ đợi bầu cử Quốc hội Lập hiến, quyền
hành tạm thời được giao cho Chính phủ Lâm thời. Nhưng điều phức tạp là ở
chỗ Chính phủ Lâm thời không nắm được trọn vẹn quyền lực, bởi vì trong
cuộc Cách mạng Tháng Hai, ở Petrograd và một số thành phố lớn, công nhân
và binh lính đã học tập kinh nghiệm của năm 1905 để bầu ra các xô-viết (Soviets,
trong tiếng Nga có nghĩa là “hội đồng”). Trong số các xô-viết thì
Xô-viết Petrograd có quyền lực mạnh hơn hết. Nhưng Xô-viết Petrograd lúc
đó lại chịu ảnh hưởng của đảng Xã hội – Cách mạng và đảng Menshevik, do
đó họ đã chấp thuận việc hình thành Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Như
vậy là tồn tại hai quyền lực song song (dual power), và quyền lực thứ
nhất (Chính phủ Lâm thời) sở dĩ tồn tại được là nhờ sự ủng hộ của quyền
lực thứ hai (Các xô-viết).
Sự mâu thuẫn giữa Lenin và phái
Menshevik tập trung vào hai vấn đề chính : (1) có tiến hành cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa hay không? và (2) có tiếp tục chiến tranh hay
không?
Về vấn đề thứ nhất, tất cả các
phái dân chủ - xã hội đều đồng ý với nhau về cuộc cách mạng hai giai
đoạn (two-stage revolution), như đã được George Plekhanov trình bày
trong tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chính trị”
(Socialism and Political Struggle) xuất bản vào năm 1883 và một số tác
phẩm khác. Theo Plekhanov, nước Nga bị lôi cuốn vào một sự phát triển tư
bản chủ nghĩa; sự phát triển này làm thay đổi toàn bộ cơ cấu xã hội cũ
và tạo điều kiện cho việc lật đổ chế độ chuyên chế của Nga hoàng và
thiết lập một chế độ dân chủ tư sản (bourgeois-democratic regime). Do
đó, những người mác-xít phải tổ chức giai cấp công nhân công nghiệp còn
non trẻ để đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế. Sau khi lật đổ được
chế độ Sa hoàng, sự phát triển hơn nữa của chủ nghĩa tư bản sẽ làm cho
số lượng công nhân tăng lên gấp bội và khi đó, dưới sự lãnh đạo của một
đảng dân chủ - xã hội, giai cấp công nhân sẽ tự giải phóng mình bằng một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn phát sinh kể từ khi Lenin cho
rằng ở nước Nga, nơi mà giai cấp tư sản còn yếu đuối, cuộc cách mạng có
thể phối hợp cả hai giai đoạn “tư sản” và “vô sản” bằng cách lôi kéo
giai cấp nông dân thành đồng minh của giai cấp công nhân. Ông còn tiến
tới gần quan điểm của Leon Trotsky về một cuộc “cách mạng không ngừng”
khi cho rằng cuộc cách mạng sắp nổ ra ở Nga, “khâu yếu nhất” của chủ
nghĩa đế quốc trên thế giới, và cách mạng Nga sẽ châm ngòi cho một cuộc
cách mạng toàn cầu.
Như vậy, lập trường của
Plekhanov và của phái Menshevik là chưa vội tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa trong khi Lenin lại nôn nóng tiến hành ngay cuộc
cách mạng thứ hai. Đó là lý do Lenin đánh giá tất cả các đảng “chần
chừ’ không chịu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa là “cơ hội”, là “thoả
hiệp với giai cấp tư sản”, là “phản bội lợi ích của giai cấp công nhân”
và tìm cách loại bỏ họ ra khỏi chính trường.
Vấn đề thứ hai gây mâu thuẫn là
lập trường đối với cuộc chiến tranh. Vào lúc nổ ra cuộc chiến tranh, tất
cả các đại biểu dân chủ -xã hội tại Duma - kể cả Bolshevik và Menshevik,
đều phản đối chiến tranh bằng cách bỏ phòng họp đi ra, không tham gia
biểu quyết. Riêng Plekhanov, lúc đó sang sống lưu vong, lại ủng hộ chiến
tranh, vì ông cho rằng chiến thắng của phe Đức sẽ là một thảm hoạ đối
với nước Nga. Trong quá trình chiến tranh tiếp diễn, phái Menshevik
chuyển sang lập trường ủng hộ chiến tranh như phái đa số trong Quốc tế
II. Chỉ có Lenin là trước sau như một trung thành với lập trường chống
chiến tranh vì ông cho đây là cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, không
đáng được ủng hộ.
Tình hình càng trở nên phức tạp
sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917, vì lúc này chế độ Sa hoàng sụp
đổ, chính quyền mới là chính quyền “cách mạng”. Phần lớn các đảng cách
mạng – kể cả những người Bolshevik đang hoạt động trong nước, đều ủng hộ
Chính phủ Lâm thời tiếp tục cuộc chiến tranh. Chỉ riêng có Lenin là kiên
trì lập trường của mình, vì ông muốn lợi dụng chiêu bài “hoà bình” để
lật đổ Chính phủ Lâm thời, đồng thời qua chiêu bài “hoà bình” kêu gọi
phe xã hội chủ nghĩa trên thế giới - nhất là ở Đức, lật đổ các chính
quyền “tư sản” để làm cách mạng thế giới.
Diễn biến của cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga đã chứng minh sự khôn khéo và các thủ đoạn chính trị tài
tình của Lenin. Ông đã biết lợi dụng những nhu cấu bức thiết của nhân
dân Nga (ruộng đất cho người nông dân, hoà bình bằng bất
cứ giá nào, bánh mì cho người dân đang đói khổ…) để khích động
quần chúng chống lại Chính phủ Lâm thời. Từ một đảng thiểu số kể cả
trong các xô-viết, đảng Bolshevik dần dần mở rộng ảnh hưởng và biến khẩu
hiệu “tất cả quyền lực về tay các xô-viết” thành một khẩu hiệu lật đổ.
Khi Chính phủ Lâm thời chuyển sang áp dụng các biện pháp cứng rắn để đối
phó với tình hình biến động, đảng Bolshevik rút vào hoạt động bí mật và
thông qua các xô-viết để tiến hành cuộc “cách mạng lần thứ hai”, lật đổ
chính cái chính phủ “cách mạng” mà họ mới vừa lập ra trước đó hơn nửa
năm.
Như chúng ta đã biết, bằng cuộc
Cách mạng Tháng Mười,
đảng Bolshevik đã tước quyền của Chính phủ Lâm thời và chuyển giao quyền
lực cho Hội đồng Dân uỷ (Council of People’s Commissars, Conseil des Commissaires du Peuple)
- một tổ chức hoàn toàn do phái Bolshevik kiểm soát. Tháng 3 năm 1918,
đảng Dân chủ - Xã hội (Bolshevik) Nga được đổi tên thành Đảng cộng
sản (Bolshevik) Nga.
Kể từ tháng 7 năm
1918, tất cả các đảng phái khác đều bị cấm hoạt động. Chuyên chính vô
sản được thành lập ở nước Nga.
Nhưng Cách mạng Tháng Mười nổ
ra thành công là phúc hay hoạ cho nước Nga? Chúng ta hãy
nghe nhận định của George Plekhanov, người thường được coi là “người
thầy của chủ nghĩa Marx ở Nga”. Là một người sống lưu vong lâu năm, ngay
khi nghe tin cuộc Cách mạng Tháng Hai thành công, Plekhanov đã tìm cách
trở về tổ quốc. Khi được biết phe Bolshevik chủ trương tiến hành cuộc
cách mạng “giai đoạn hai”, ông tìm mọi cách để ngăn cản, nhưng không
thành công. Vào ngày 28.10.1917, nghĩa là chỉ hơn một tuần trước ngày nổ
ra cuộc Cách mạng Tháng Mười, Plekhanov gửi một lá thư ngỏ cho các công
nhân ở thủ đô Petrograd, trong đó có đoạn :
“Lý do khiến cho những biến cố
trong những ngày qua làm tôi đau lòng không phải bởi vì tôi không muốn
thấy lý tưởng của giai cấp công nhân giành được chiến thắng, mà ngược
lại, chính bởi vì, bằng tất cả sinh mạng của mình, tôi mong muốn sự
chiến thắng của giai cấp công nhân . Những thành phần có ý thức nhất
trong giai cấp công nhân của chúng ta phải tự hỏi : giai cấp vô sản của
chúng ta đã sẵn sàng để công bố một nền chuyên chính hay chưa ? Bất cứ
người nào đã có một sự hiểu biết ít nhiều về những điều kiện kinh tế cần
thiết để thiết lập nền chuyên chính vô sản đều không ngần ngại trả lời
“không” cho câu hỏi này.
Không, giai cấp công nhân của
chúng ta còn xa mới nắm được quyền lực chính trị với lợi thế thuộc về nó
nói riêng và về cả đất nước nói chung. Gán ghép một quyền lực như thế
cho nó có nghĩa là đẩy nó đến một thảm hoạ lịch sử to lớn (a great
historical calamity), một thảm hoạ sẽ là bi kịch lớn nhất (the greatest
tragedy)
cho toàn thể nước
Nga.
Người ta nói rằng công nhân Nga
sẽ bắt đầu và công nhân Đức sẽ kết thúc. Điều chắc chắn là xét về phương
diện kinh tế, nước Đức phát triển hơn nhiều so với nước Nga. Cuộc cách
mạng xã hội ở Đức gần hơn là cuộc cách mạng ở Nga. Nhưng ngay cả đối với
những người Đức, cuộc cách mạng vẫn chưa được đặt ra trong chương trình
nghị sự.
Điều đó có nghĩa là người Đức
sẽ không hoàn thành cái mà người Nga đã bắt đầu, và cả người Pháp, người
Anh hay người Mỹ cũng vậy. Bằng cách nắm chính quyền vào lúc này, giai
cấp vô sản Nga sẽ không hoàn thành một cuộc cách mạng xã hội. Nó chỉ đem
lại cuộc nội chiến, cuộc nội chiến đó cuối cùng sẽ đem lại một bước
thoái bộ so với những vị trí đã đạt được vào tháng Hai hay tháng Ba năm
nay.”
Ngày nay, sau khi chủ nghĩa
cộng sản sụp đổ tại nước Nga cũng như tại Đông Âu, đọc lại lời cảnh báo
này, chúng ta thấy Plekhanov quả thật là sáng suốt ! Đáng tiếc là người
đã từng tự nhận là học trò của ông giờ đây đã trở nên cao ngạo, bởi tham
vọng ngất trời và lòng cuồng tín vào những giáo điều của Marx! Tiếng nói
của Plekhanov trở nên lạc lõng giữa một đám đông đang say sưa “làm lịch
sử” với lòng tin ngây thơ rằng mình đang làm những người lính tiên phong
cho cả nhân loại. Tệ hơn nữa, những chỉ
trích của ông đối với chính quyền cách mạng lại bị hiểu lầm. Dưới con
mắt của một vài Cận vệ Đỏ quá nhiệt tình, “người thầy của chủ nghĩa Marx
ở Nga” được đánh giá là “kẻ thù của nhân dân”. Bị xúc phạm, ông rời bỏ
Tổ quốc và sau đó ít lâu, qua đời vì bệnh lao ở Phần Lan.
Cũng cần nói thêm là Plekhanov
vốn là một người mác-xít chính thống. Không giống như Hjalmar Branting ở
Thuỵ Điển, ông sớm bác bỏ chủ nghĩa xét lại của Bernstein. Là một người
“cách mạng”, ông tin vào con đường cách mạng vô sản. Sự khác biệt giữa
ông và Lenin là ở chỗ do sống lâu năm ở phương Tây, ông nhìn thấy rõ
tình hình phát triển của phong trào xã hội chủ nghĩa và không có chút ảo
tưởng nào về một cuộc cách mạng vô sản sắp nổ ra.
Cách mạng ở Đức và sự thất
bại của những người cộng sản Đức
Đúng như lời tiên đoán của
Plekhanov, sau khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, nước Nga rơi vào
nội chiến. Mặc dù vậy, Lenin vẫn còn hy vọng vào việc cách mạng sẽ nổ ra
ở Đức. Trong thực tế tình hình của nước Đức lại phù hợp với những nhận
định của Plekhanov hơn là những nhận định của Lenin.
Cũng tương tự như cuộc Cách
mạng Nga năm 1917, cuộc Cách mạng Đức năm 1918 diễn ra trong bối cảnh
nước Đức đang phải gánh chịu những hậu quả tai hại của cuộc Chiến tranh
Thế giới I. Mặc dù giành được chiến thắng đối với quân Nga trên mặt trận
phía đông, quân Đức bị cầm chân trên mặt trận phía tây, không thể chiếm
đóng được nước Pháp như đã dự tính. Tháng 4 năm 1918, Tướng Erich
Ludendorff
quyết định mở một cuộc tấn
công lớn, với hy vọng cứu vãn tình hình cho đế chế Đức, mặc dù vẫn còn
khoảng 1 triệu quân kẹt lại ở phía đông để buộc chính quyền cách mạng
của Lenin thi hành hiệp ước Brest-Litovsk. Cuộc tấn công của Ludendorff
đã chọc thủng được phòng tuyến phía tây nhưng hậu quả của những năm
chiến tranh tiêu hao đã khiến cho quân Đức không còn đủ dự trữ để phát
huy triệt để thắng lợi đã đạt được. Với sự hỗ trợ của 1 triệu quân Hoa
Kỳ còn đang sung sức, quân Đồng minh đã phản công một cách có hiệu quả.
Ngày 8.8, quân Đức chịu một thất bại nghiêm trọng ở miền bắc nước Pháp.
Hoàng đế William II (Guillaume II, tên tiếng Đức là
Wilhelm
II)
nhượng bộ các lực lượng dân chủ bằng cách thành lập một chính phủ có xu
hướng tự do hơn, đứng đầu là Hoàng thân Max von Baden, trong đó có hai
thành viên là đảng viên SPD. Chính phủ mới bắt đầu các cuộc thương lượng
để tìm hoà bình, nhưng trước khi các cuộc thương thuyết bắt đầu, cách
mạng đã nổ ra bằng cuộc binh biến trong hải quân Đức, sau đó lan rộng ra
toàn bộ quân đội và cả trong giai cấp công nhân.
Từ ngày 29.10 đến ngày
3.11.1918, 40 ngàn thuỷ thủ và lính hải quân ở cảng Kiel đã chiếm cảng
để chống lại lệnh của bộ chỉ huy định đưa lực lượng hải quân ra giao
chiến với Hải quân Hoàng gia Anh, vì họ cho rằng cuộc tấn công trong
tình thế tuyệt vọng này là một “hành động tự sát”. Khoảng ngày 8.11,
công nhân và binh sĩ đã thành lập các “hội đồng” (Räte)
kiểm soát được phần lớn các thành phố ở Đức, tạo điều kiện để thành lập
một nước Cộng hoà Hội đồng ( Räterepublik, Council Republic) theo
kiểu chính quyền xô-viết ở Nga vào năm 1917. Hoàng đế buộc phải thoái vị
vào ngày 9.11.1918, chạy trốn sang Hà Lan, chấm dứt nền quân chủ của
nước Đức mặc dù vào lúc này hậu thuẫn của hoàng gia vẫn còn rất mạnh,
đặc biệt là trong các giai cấp thượng lưu và trung lưu. Lo sợ trước viễn
cảnh của một cuộc cách mạng vô sản, Baden đã đề nghị Friedrich Ebert,
lãnh đạo của phái đa số đảng SPD, đứng ra thành lập chính phủ.
Từ trước chiến tranh, đảng SPD đã trở thành một đảng
mạnh, giành được thắng lợi ngày càng lớn trong các cuộc bầu cử. Năm
1912, đảng đã giành được 34,8% số phiếu bầu với 110 trên tổng số 397 ghế
trong Quốc hội (Reichstag) . Nhưng trong quá trình diễn biến của
cuộc chiến tranh, đảng ngày càng bị chia rẽ. Do lập trường chống chiến
tranh, một nhóm đối lập đã dần dần hình thành trong lòng đảng SPD; điều
này được phản ánh qua sự kiện số đại biểu SPD biểu quyết chống ngân sách
chiến tranh ngày càng tăng lên. Đầu năm 1916, nhóm của Rosa Luxemburg và
Karl Liebknecht quyết định phát hành một tờ báo bí mật lấy tên là
Spartacus (theo tên của người nô lệ nổi loạn dưới thời đế quốc La Mã);
từ đó nhóm này được gọi là nhóm Spartacus (Spartacists hay Spartacus
Group). Tháng 4 năm 1917, nghĩa là sau khi Cuộc Cách mạng Tháng Hai nổ
ra ở Nga, nhóm đối lập chống chiến tranh tách khỏi SPD để thành lập
Đảng Dân chủ - Xã hội Độc lập (Unabhängige Sozialdemocratische
Partei Deutschlands; Independent Social Democratic Party, viết tắt
là USPD). Tham gia đảng này có cả những người theo xu hướng cải cách như
Karl Kautsky, Eduard Bernstein lẫn những người theo xu hướng cách mạng
như nhóm Spartacus. Nhóm Spartacus gia nhập vào đảng này nhưng vẫn giữ
tư thế như một bộ phận độc lập trong lòng đảng mới.
Như vậy trong thực tế Đảng SPD bị chia làm ba phái :
cánh hữu do Friedrich Ebert lãnh đạo, cánh trung dung của
Kautsky và Bernstein và cánh tả của Rosa Luxemburg và Karl
Liebknecht . Do cánh hữu chiếm đa số nên phái này còn được gọi là Những
người Dân chủ - Xã hội Đa số (Majority Socialists) hoặc Đảng SPD Đa số
(MSPD), để phân biệt với Những người Xã hội chủ nghĩa Độc lập
(Independent Socialists) hay Đảng SPD Độc lập (USPD).
Khi đảm nhận vai trò tổ chức
chính quyền mới, Ebert phải đối diện với một tình trạng bấp bênh, những
nguy hiểm đe doạ ngày càng tăng trên toàn lãnh thổ. Bốn năm rưỡi chiến
tranh đã đem lại tâm lý bất mãn trong nhân dân, làm giảm uy tín của đế
chế cũng như của hoàng tộc. Thiếu hụt lương thực và nhiên liệu đã khiến
cho dân chúng dễ bị tổn thương bởi nạn dịch cúm đang hoành hành châu Âu.
Ngày 8.11, Vua Louis III ở Bavaria
phải thoái vị và Đảng USPD
tuyên bố thành lập nền cộng hoà “hội đồng” ở Munich. Các cảng biển dọc
Biến Bắc và Biển Baltic rơi vào tay các Hội đồng của Thuỷ thủ, Binh sĩ
và Công nhân - theo gương cuộc nổi dậy của hải quân ở Kiel.
Đối với các nhà sử học, nền
cộng hoà được công bố vào buổi chiều ngày thứ bảy 9.11.1918, thật sự là
một nền “cộng hoà ngẫu nhiên”. Bởi vì khi Friedrich Ebert chấp nhận
quyền thủ tướng của đế chế từ tay Max von Baden, ông có dự định chuyển
hoá chế độ quân chủ thành một một nền quân chủ lập hiến. Thế nhưng đúng
vào lúc Ebert nhận chức Thủ tướng Đức tại toà nhà Quốc hội vào ngày 9.11
thì cách đó khoảng một dặm Anh, trong một cuộc mít-tinh tập hợp những
người ủng hộ nhóm Spartacus phía trước Cung điện Hoàng gia, Karl
Liebknecht lại tuyên bố thành lập một nước Cộng hoà Hội đồng
(Räterepublik) . Được trang bị trong đầu một kịch bản mang nặng tính
ý thức hệ, Liebknecht nuôi tham vọng trở thành Lenin của nước Đức. Khi
một đám đông cuồng nộ tập hợp trước toà nhà Quốc hội, Ebert lại vừa rời
khỏi nơi đây, chỉ còn lại người phụ tá là Philipp Scheidemann. Để đề
phòng phe đảng của Liebknecht chớp thời cơ, Scheidemann trong khi phát
biểu trước đám đông đã sử dụng câu “Nước Cộng hoà Đức muôn năm!”.
Khi nghe được tin này, Ebert nổi giận bởi vì điều này nằm ngoài dự tính
của ông. Nhưng lời tuyên bố ấy không thể rút lại được, Ebert đành phải
bỏ kế hoạch thành lập chế độ quân chủ lập hiến.
Ngày 10.11, một cuộc họp liên tịch của Hội đồng Công nhân
và Binh sĩ thành phố Berlin đã quyết định công nhận một
Hội đồng Uỷ viên Nhân dân
(tức chính phủ lâm thời) bao gồm ba uỷ viên của SPD (trong đó có Ebert
và Sheidemann) và ba uỷ viên của USPD. Đó là kết quả của sự thương lượng
giữa Ebert và ban lãnh đạo của USPD. Về phía USPD, mặc dù lập trường của
họ không cấp tiến như nhóm Spartacus, họ vẫn giữ quan điểm về một nước
“Cộng hoà Hội đồng” (Räterepublik) . USPD hy vọng rằng trong
những tuần lễ tiếp theo, công nhân và binh lính sẽ bầu ra vô số các “hội
đồng” trên khắp đất nước; các hội đồng này sẽ đảm nhiệm việc thành lập
một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa “chân chính”. Trong khi đó, Ebert vẫn
hy vọng cuộc bầu cử quốc hội lập hiến trong tương lai sẽ dẫn đến việc
thành lập một nước cộng hoà dân chủ ôn hoà.
Mặt khác, trong một
cuộc điện đàm với với Wilhelm Groener, đại diện của quân đội Đức vào đêm
9.11, Ebert đã thoả thuận với Groener về những điều khoản để ngừng bắn.
Groener đồng ý ký quyết định đình chiến để tạo điều kiện quân đội có thể
trở về tham gia ổn định tình hình. Một lãnh đạo dân sự - Matthias
Erzberger thuộc Đảng Trung Tâm (Centre Party), đã ký hiệp ước đình
chiến, có hiệu lực kể từ ngày 11.11.1918.
Về phía nhóm
Spartacus, các hoạt động để chuẩn bị cho hành động cách mạng ngày càng
gia tăng. Khoảng 11.11, nhóm Spartacus công khai thành lập
Liên đoàn Spartacus
và mở các
cuộc thương lượng với USPD và Ban Đại diện Công nhân Cách mạng (Revolutionaere
Obleute, The Revolutionary Shop Stewards) - một tổ chức công đoàn ly
khai hình thành từ đầu năm 1918.
Lập trường của SPD
và của nhóm Spartacus khác nhau về căn bản. Mục tiêu của Ebert,
Scheidemann và các nhà lãnh đạo SPD khác là tái lập trật tự và luật pháp
càng nhanh càng tốt. Họ tìm cách thiết lập một Quốc hội Lập hiến. Trong
khi đó, nhóm Spartacus lại coi các “Hội đồng” của công nhân và Binh sĩ
mới là nền tảng đích thực của một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa của
công nhân. Họ tố cáo các lãnh tụ của SPD là “những đặc vụ giấu mặt của
giai cấp tư sản” bởi vì những người này ủng hộ cho việc thành lập quốc
hội. Rosa Luxemburg gọi quốc hội là một “sự chệch hướng hèn nhát”
(cowardly detour) và là “một cái vỏ rỗng” (an empty shell). Các phần tử
cực tả trong nhóm Spartacus còn gọi SPD là “những phần tử phản cách
mạng”. Khẩu hiệu của nhóm Spartacus là “Huỷ bỏ quốc hội và chuyển giao
toàn bộ quyền lực cho các hội đồng công nhân và binh sĩ!” Về phía các
lãnh tụ của phái cải cách, họ tố cáo những người thuộc phái Spartacus là
“những kẻ khủng bố”, “phản dân chủ”,…
Đại hội Toàn quốc
của các Hội đồng Công nhân và Binh sĩ (họp từ ngày 16 đến 20.12.1918) đã
ủng hộ mạnh mẽ việc thành lập Quốc hội và quyết định tổ chức bầu cử vào
ngày 19.1. Kế hoạch của Ebert đã có được hậu thuẫn vững chắc.
Trong những ngày
cuối tháng 12, tình hình ngày càng căng thẳng. Phía USPD rút khỏi chính
phủ lâm thời vì không đạt được mục tiêu thành lập nước Cộng hoà Hội
đồng. SPD thay thế các ghế bỏ trống bằng các đảng viên của họ, trong số
đó có Gustav Noske, người sau này đảm nhiệm chức Uỷ viên phụ trách Quốc
phòng và đóng vai trò tích cực trong việc đàn áp cuộc nổi dậy của những
người cộng sản. Trong khi đó, được sự cổ vũ của Đảng Bolshevik Nga, Liên
đoàn Spartacus quyết định chuyển từ một tổ chức lỏng lẻo thành một đảng
cộng sản tập trung chỉ huy. Trước hết nhóm Spartacus ra tối hậu thư cho
USPD, yêu cầu đảng này tổ chức một đại hội bất thường để thảo luận về
tình hình mới. Bị bác bỏ, nhóm Spartacus triệu tập hội nghị riêng vào
29.12 để thành lập Đảng Cộng sản Đức (KPD)
. Xu hướng
cực tả tràn ngập đại hội. Mặc dù có sự khuyến cáo của Rosa Luxemburg,
đại hội đã biểu quyết tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến với 62
phiếu thuận, 23 phiếu chống. Phát biểu tại đại hội, Otto Ruehle nói :
“Chúng ta phải kích thích liên tục những chính sách sinh động của đường
phố… nhiệm vụ của chúng ta là cố gắng phá vỡ (Quốc hội).” Mặt khác, tại
Đại hội cũng vang lên những ý kiến chống đối các công đoàn chính thức.
Nhiều đảng viên của đảng cộng sản mới thành lập đã không biết rằng quần
chúng công nhân ngày càng đến với các công đoàn. Số đoàn viên công đoàn
tăng lên nhanh chóng : trước cuộc Cách mạng tháng 11, chỉ có 1,5 triệu
đoàn viên công đoàn, cuối tháng 12 năm 1918, số đoàn viên công đoàn tăng
lên đến 2,2 triệu.
Cuộc nổi dậy của
phái Spartacus
diễn ra trong bối cảnh đó. Lo ngại cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến (dự
định tổ chức vào ngày 19.1) sẽ giúp Ebert ổn định được tình hình,
Liebknecht quyết định nổi dậy vào ngày 6.1.1919. Nhóm Spartacus (nay trở
thành Đảng cộng sản Đức) đã khởi
động những cuộc biểu tình lớn ở Berlin, nhanh chóng nắm lấy các vị trí
then chốt và các trung tâm liên lạc.
Nhưng những biến cố của “Tuần
lễ Spartacus” đã chứng minh rằng nước Đức chưa đủ chín muồi cho một cuộc
cách mạng vô sản như những người lãnh đạo phái tả hằng tin tưởng. Đúng
như Luxemburg đã lo sợ, sự ủng hộ đối với chủ nghĩa cộng sản chưa thật
sự hiện hữu trong lòng công nhân Đức; thay vào đó, phần lớn công nhân
còn trung thành với phái Độc lập (USPD) hay với cái nhìn ôn hoà hơn và
dân chủ hơn của phái Đa số (SPD). Hơn thế nữa, Quân đội Đức đã phục hồi
được dũng khí của họ và quyết định ngăn ngừa một bước chuyển hơn nữa về
phía tả. Vào tháng 12 năm 1918, quân đội đã bắt đầu huấn luyện một cách
bí mật những đơn vị nhỏ được gọi là Đội quân Tự do (Freikorps,
Free Corps). Đội quân tình nguyện này trong những năm kế tiếp đã đi lang
thang khắp đất nước, tìm kiếm các phần tử cách mạng để đàn áp. Cuộc nổi
dậy Spartacus bị hạn chế ở Berlin, bị dập tắt trong vòng một tuần lễ bởi
khoảng 3.000 thành viên của Freikorps. Khi Liebknecht và Luxemburg bị
bắt vào ngày 15 tháng 1, cả hai bị bắn không xét xử theo quyết định của
các sĩ quan Freikorps. Mặc dù các hoạt động cách mạng rải rác còn tiếp
tục ở các nơi khác trên nước Đức trong những tháng kế tiếp, sự thất bại
ở Berlin đã đánh dấu sự sụp đổ của nó một cách rõ ràng. Nền cộng hoà
“xô-viết” ở Bavaria được thành lập vào ngày 4.4.1919 cũng chỉ tồn tại
trong một thời gian ngắn ngủi; các đơn vị Freikorps đã đánh đổ nó vào
khoảng cuối tháng.
Cuộc bầu cử vào ngày 19.1.1919
- cuộc bầu cử đầu tiên ở Đức trong đó phụ nữ được hưởng quyền bầu cử -
đã đem lại một chiến thắng vang dội cho quan niệm dân chủ của Ebert. Ba
phần tư cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ cho các đảng chủ trương chuyển nước
Đức sang một chế độ dân chủ
. Cuộc bầu cử này cũng xác nhận sự tín nhiệm của cử tri đối
với phái đa số của đảng SPD : SPD đạt 37,9 % trong khi USPD đạt 7,4 % số
phiếu. Sau những tháng rối loạn, nước Đức trở thành một nước cộng hoà
dân chủ. Quốc hội lập hiến bắt đầu các cuộc bàn cãi vào ngày 6.2.1919,
chọn chỗ họp là Weimar, một thành phố nhỏ được coi là ít bị ảnh hưởng
của xu hướng chính trị cấp tiến hơn là Berlin. Ebert, lãnh tụ phái đa số
của SPD, được bầu làm Tổng thống nước Cộng hoà.
Quốc hội Weimar đã dự thảo một bản Hiến pháp (chính thức ban hành ngày
11.8.1919), theo đó, nước Đức là một nước cộng hoà liên bang bao gồm 19
bang
. Hiến pháp Weimar quy định
một Tổng thống do nhân dân bầu ra, người này được giao quyền lực đáng kể
về chính sách ngoại giao và lực lượng vũ trang. Điều 48 đem lại cho Tổng
thống quyền ban hành sắc lệnh trong trường hợp khẩn cấp nhằm bảo vệ nền
cộng hoà trước các cuộc khủng hoảng gây ra bởi các kẻ thù từ phía tả
cũng như phía hữu. Tổng thống có quyền bổ nhiệm thủ tướng, nhưng chính
phủ do thủ tướng thành lập phải được sự tin cậy của Hạ viện (Reichstag),
được bầu ra bởi đầu phiếu phổ thông thông qua một hệ thống đại diện căn
cứ theo tỷ lệ. Trong trường hợp chính phủ không được quốc hội tín nhiệm,
tổng thống có thể yêu cầu người khác thành lập chính phủ hoặc tiến hành
bầu cử lại quốc hội. Quốc hội còn có một Thượng viện (Reichsrat)
bao gồm các đại biểu được chỉ định bởi chính quyền các bang (Länder)
trong liên bang, nhưng quyền lực trong thực tế tập trung ở Hạ viện, do
đó khi nói đến Quốc hội, người ta thường nghĩ đến Hạ viện ((Reichstag).
Như vậy là ở nước Đức, cuộc cách mạng “giai đoạn một” (theo cách
gọi của Plekhanov) đã nổ ra, nhưng cuộc cách mạng “giai đoạn hai”
(tức là cách mạng vô sản) đã thất bại. Dự đoán của Marx - và sau đó của
Lenin, về một cuộc cách mạng vô sản toàn thế giới đã không được chứng
thực.
Nền Cộng hoà Weimar và lý do sụp đổ của nó
Trong thực tế, nền Cộng hoà
Weimar chính là kết quả của một sự nhượng bộ của giai cấp quý tộc - địa
chủ (junker) đối với những đòi hỏi của quần chúng. Do thất bại về
quân sự, trước sức ép của phong trào chống chiến tranh và nguy cơ của
một cuộc “cách mạng” kiểu bolshevik, họ buộc phải nhường chính quyền lại
cho một đảng cánh tả có xu hướng ôn hoà (SPD). Sự tồn tại của chế độ dân
chủ có được là nhờ sự liên kết giữa SPD với các đảng thuộc phái giữa
(trung dung) - đại diện cho các tầng lớp trung lưu trong xã hội như :
Đảng Trung tâm, Đảng Dân chủ và ở một mức độ lỏng lẻo hơn, với Đảng Nhân
dân.
Nhưng Đảng Dân chủ - Xã hội Đức (SPD) - thành phần
nòng cốt của nền Cộng hoà Weimar, đã bị tổn thương trầm trọng, do sự
chia rẽ trong phong trào công nhân. Trong cuộc bầu cử quốc hội lần đầu
tiên (tháng 6 năm 1920), đảng SPD bị mất rất nhiều phiếu vì một số công
nhân chạy sang phía cực tả. Số phiếu bầu cho SPD chỉ còn 21,7 %. Từ sau
thất bại này cho đến năm 1928, đảng SPD không tham gia chính phủ hoặc
chỉ tham gia với tư cách thành viên của một chính phủ liên minh do đảng
khác lãnh đạo. Mãi đến tháng 5 năm 1928, đảng SPD mới giành lại được vị
trí hàng đầu. Trong cuộc bầu cử này, số ghế của SPD trong Quốc hội tăng
từ 135 lên 153, số phiếu bầu lên đến 9,1 triệu phiếu; đảng Nhân dân
(DVP) chiếm vị trí thứ hai với 86 ghế. Hermann Müller được cử làm Thủ
tướng, cùng với Đảng Nhân dân và một số đảng trung dung khác thành lập
một chính phủ liên minh. Chính phủ này đã giải quyết được một số việc,
nhất là điều đình với Đồng minh để giảm bớt gánh nặng bồi thường chiến
tranh và tiến hành Kế hoạch Young, nhận các khoản cho vay từ Hoa Kỳ để
phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 đã tác động mạnh
mẽ vào nước Đức, giữa đảng SPD (đại diện cho lao động) và đảng Nhân dân
(đại diện cho giới chủ) bất đồng ý kiến với nhau về chính sách trợ cấp
thất nghiệp, liên minh bị tan rã, Müller phải từ chức vào ngày
27.3.1930. Kể từ đó cho đến khi nền cộng hoà sụp đổ, Đảng SPD không còn
tham gia chính phủ nào nữa.
Mặc dù cho đến giờ phút cuối, đảng SPD vẫn một lòng bảo
vệ chế độ dân chủ và nền cộng hoà nhưng từ cuối thập niên 1920 - đầu
thập niên 1930, đảng này ngày càng tỏ ra thiếu kiên quyết, phản ứng kém
nhậy bén trước những tình huống phức tạp. Ngày 20.7.1932, vừa lên nắm
quyền, để lấy lòng đảng Nazi, Papen (Thủ tướng Liên bang) đã dùng vũ lực
giải thế chính phủ hợp hiến của Otto Braun (Thủ tướng của bang Phổ,
Prussia). Phản ứng của SPD trong việc này rất yếu ớt, mặc dù Otto Braun
là một lãnh tụ có uy tín của SPD trong khi bang Phổ là một căn cứ địa
lâu năm của SPD và là pháo đài chống phát-xít cuối cùng ở Đức. Phản ứng
này thể hiện sự bạc nhược của SPD, có tác dụng khuyến khích các phần tử
cực hữu (nhất là Hitler và phe đảng) sử dụng các biện pháp táo bạo hơn
nữa trong việc khai tử nền cộng hoà. Khủng hoảng về lãnh đạo cũng là một
nhược điểm của SPD. Sau khi Ebert mất vào năm 1925, SPD định đưa Otto
Braun ra ứng cử chức Tổng thống nhưng không thành công. Kể từ đó SPD
không có ứng cử viên nào cho chức vụ tổng thống.
William L. Shirer, tác giả của tác phẩm nổi tiếng “Sự
trỗi dậy và suy vong của Đệ tam Đế chế” (The Rise and Fall of The Third
Reich), đã nhận xét rằng nước Đức thời đó thiếu một giai cấp trung
lưu mạnh về chính trị, vốn là xương sống của các nền dân chủ ở Pháp,
Anh và Hoa Kỳ
.
Nhược điểm đó thể hiện rất rõ qua tình hình của các đảng thuộc phái
giữa, đại diện cho các tầng lớp trung lưu.
Khác với lập trường dũng cảm đối đầu với chế độ độc đoán
dưới thời Bismarck, dưới chế độ cộng hoà Weimar, đảng Trung Tâm lại hành
xử theo một lập trường cơ hội, đôi khi vô nguyên tắc. Ngày 30.8.1932,
đảng Trung Tâm đã thoả hiệp với đảng Nazi để đưa Goering vào chức vụ Chủ
tịch Quốc hội. Vào tháng 3 năm 1933, khiếp nhược trước sự khủng bố của
đảng Nazi, các đại biểu đảng này đã bỏ phiếu thuận cho đạo luật “trao
quyền” (Enabling Act ), tạo điều kiện cho Adolf Hitler thiết lập quyền
lực độc tài.
Đảng
Dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Partei,
German Democratic Party, DDP) là một đảng của giai cấp trung lưu
do Friedrich Naumann và nhà xã hội học Max Weber thành lập vào năm 1919.
Là hậu thân của đảng Tiến bộ (Progressive Party) thời kỳ trước chiến
tranh, đảng này có xu hướng tự do khuynh tả (left-liberal). Tuy nhiên
đảng này lại không được sự hậu thuẫn rộng rãi của cử tri, do đó chỉ tham
gia vào các chính phủ liên minh chứ không thể đứng ra thành lập chính
phủ. Hugo Preuss, một nhà lý luận chính trị thuộc Đảng Dân chủ, là tác
giả chính của bản hiến pháp Weimar. Một nhân vật nổi tiếng khác thuộc
Đảng Dân chủ là Walther Rathenau, tham gia vào chính phủ liên minh của
Wirth vào tháng 5 năm 1921 với chức vụ bộ trưởng tái thiết, và đến cuối
tháng 1 năm 1922, trở thành bộ trưởng ngoại giao. Mặc dù thành công
trong lĩnh vực ngoại giao, ông bị các phần tử cực hữu trong nước ghét
cay ghét đắng vì cho là”thân cộng”, là có nguồn gốc Do Thái. Tháng 6 năm
1922, ông bị các phần tử cuồng tín cực hữu ám sát trên đường đến cơ
quan.
Một đảng có vai trò đáng chú ý khác là Đảng Nhân dân
Đức (Deutschenationale Volkspartei, German People's Party,
DVP) của Gustav Stresemann. Đảng này có nguồn gốc từ Đảng Quốc gia -
Tự do (National Liberal Party) thời Bismarck và có xu hướng tự do khuynh
hữu (right-liberal). Có thể coi đảng này là một đảng cánh hữu ôn hoà, có
hậu thuẫn trong giới hữu sản và giới trí thức.
Stresemann xuất thân là một người bảo hoàng. Sau khi
chiến tranh thế giới I chấm dứt, ông thành lập Đảng Nhân dân với mục
đích chống lại nền cộng hoà. Đầu năm 1920, khi cuộc đảo chính Kapp nổ
ra, ông giữ thái độ chờ thời (wait-and-see). Tuy nhiên, sau khi một số
chính trị gia bị các phần tử cực hữu ám sát, ông cho rằng cần phải điều
hành chế độ Cộng hoà một cách có hiệu quả để chống lại các chế độ tả hay
hữu dựa trên bạo lực. Chính do suy nghĩ đó mà tháng 8 năm 1923, giữa khi
nước Đức rơi vào hỗn loạn về kinh tế và chính trị, Stresemann đã chấp
nhận đề nghị của Tổng thống Ebert, đứng ra thành lập một chính phủ mới
để giải quyết cuộc khủng hoảng. Chính phủ của Stresemann được gọi là
chính phủ “liên minh lớn” bao gồm Đảng SPD, Đảng Trung Tâm, Đảng Dân chủ
Đức (DDP) và Đảng Nhân dân Đức (DVP). Mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian
ngắn (từ tháng 8 cho đến tháng 11 năm 1923) chính phủ Stresemann đã đề
ra các biện pháp có hiệu quả về đối nội và đối ngoại, giúp cho nền Cộng
hoà Weimar hưởng được một sự yên tĩnh tương đối kéo dài cho đến cuối
thập niên 1920. Do sự chống đối của cả phía tả lẫn phía hữu, Stresemann
phải từ chức, nhưng ông vẫn giữ chức bộ trưởng ngoại giao cho đến khi
ông mất vào năm 1929. Mặc dù những đóng góp của Stresemann đã khiến cho
ông nổi tiếng ở nước ngoài
,
ở trong nước ông vẫn bị các thành phần cực hữu công kích, coi ông như
một thành phần phản bội, chấp nhận một cách mặc nhiên hoà ước Versailles
– mà họ coi là một nỗi ô nhục của dân tộc Đức.
Trường hợp của Stresemann và đảng Nhân dân cho thấy những
người cánh hữu có xu hướng tự do, ủng hộ chế độ dân chủ dễ bị rơi vào
thế cô lập. Điều này phù hợp với nhận xét của Schirer khi ông nêu ra một
nhược điểm khác của nước Đức thời đó là sự thiếu vắng của một đảng
bảo thủ chân chính (a truly consevative party)
.
Xét về kết cấu chính trị-xã hội của nước Đức vào đầu thế
kỷ 20, giai cấp địa chủ quý tộc (junker) là giai cấp có ảnh hưởng chính
trị quyết định. Chính giới quý tộc Đức đã xây dựng và trang bị cho quân
đội Đức (Reichswehr) trở thành lực lượng chủ yếu trong công cuộc
thống nhất nước Đức. Ảnh hưởng của họ chi phối nền chính trị của nước
Đức suốt thời kỳ của Đế chế Đức (German Empire), và vẫn còn rất mạnh
trong suốt thời kỳ của nền Cộng hoà Weimar. Đối với họ, điều đáng quan
tâm trước tiên là bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền lợi của gia đình, dòng
họ; do đó họ thích một chế độ chuyên chế theo kiểu Bismarck hơn là chế
độ dân chủ.
Về phía cánh hữu, đảng chính trị quan trọng nhất ở Đức
lúc đó là Đảng Quốc gia Đức (DNVP)
.
Đảng này thể hiện xu hướng ái quốc cực đoan (chauvinism), có thái độ thù
địch với nền cộng hoà và chống lại việc các nước Đồng minh đòi bồi
thường chiến tranh. Đảng này chủ trương tái lập nền quân chủ, xây dựng
một nước Đức thống nhất và tự do kinh doanh. Lãnh tụ của Đảng Quốc gia,
Alfred Hugenberg, là chủ nhân của một hệ thống báo chí và phim ảnh lớn.
Tình hình cuối thập niên 1920 – đầu thập niên 1930 cho thấy chính đảng
này chịu trách nhiệm rất lớn trong việc cộng tác với đảng Nazi của
Hitler, tạo cơ hội cho Hitler lên cầm quyền.
Như vậy là ngoại trừ phái tả ôn hoà và phái giữa, phần
lớn phái hữu và phái cực tả đều muốn lật đổ nền cộng hoà Weimar. Phái
hữu muốn lật đổ nền cộng hoà để trở lại với một chế độ chuyên chế theo
kiểu Bismarck, phái cực tả thì muốn làm “cách mạng vô sản” để thiết lập
chế độ toàn trị theo kiểu bolshevik Nga. Riêng phái cực hữu (Hitler) thì
nuôi mộng làm một cuộc “cách mạng” theo kiểu mới để thiết lập một “chế
độ toàn trị” của cánh hữu, lấy “chủng tộc Đức” - một chủng tộc được coi
là “ưu việt”, làm nhân vật trung tâm.
Những mưu toan lật đổ nền cộng hoà đã diễn ra ngay trong
giai đoạn đầu của nền Cộng hoà Weimar (1920 – 1923), nghĩa là giai đoạn
nước Đức chưa ổn định về kinh tế và chính trị. Nước Đức chưa kịp hoàn
hồn sau cuộc nổi dậy của phái Spartacus thì những phần tử cực hữu đã
toan lật đổ chính phủ dân cử. Tháng 3 năm 1920, với sự tiếp tay của
Tướng Erich Ludendorff, hai lữ đoàn Ehrhardt và Baltikum của lực lượng
Freikorps xâm nhập vào Berlin với ý định đưa Wolfgang Kapp
lên làm Thủ tướng. Do không có sự ủng hộ của quân đội, chính phủ Ebert
phải bỏ trốn đến Stuttgart. Âm mưu
này (thường được gọi là cuộc đảo chính Kapp, Kapp Putsch) bất
thành vì công nhân dưới sự lãnh đạo của SPD và KPD đã tổ chức tổng đình
công ở Berlin để chống lại và các công chức dân sự cũng từ chối không
hợp tác với Kapp.
Về phía cánh tả, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản,
đảng Cộng sản Đức (KPD) vẫn chưa từ bỏ ý định “làm cách mạng vô sản” để
lật đổ nền cộng hoà. Tháng 3 năm 1921, KPD phát động một cuộc “tấn công”
để hỗ trợ cho các thợ mỏ ở miền trung nước Đức (thường được gọi là “Hành
động Tháng Ba”, March Action). Cuộc “tấn công” này dựa trên một lý
thuyết của những người cộng sản Đức lúc đó cho rằng bộ phận tiền phong
(tức KPD) có thể dùng hành động của mình để “kích thích” giai cấp vô sản
đang thụ động chuyển sang hành động cách mạng. Trong thực tế, cuộc “nổi
dậy” này chỉ hạn chế trong một phạm vi hẹp ở bang Saxony và được hỗ trợ
bằng một cuộc đình công chiếm cảng ở Hamburg, do đó đã bị đè bẹp một
cách dễ dàng.
Nhưng tình hình trở nên đặc biệt nguy hiểm là vào năm
1923. Vào thời điểm này, nước Đức rơi vào khủng hoảng cả về kinh tế và
chính trị. Đầu năm 1923, quân Pháp và Bỉ lấy cớ Đức không bồi thường
chiến tranh đúng kỳ hạn, kéo vào chiếm đóng vùng công nghiệp Ruhr. Chính
phủ Đức phản ứng bằng cách kêu gọi nhân dân vùng này ngừng các hoạt động
sản xuất công nghiệp. Mặt khác, do chính sách in tiền bừa bãi, nạn lạm
phát tăng với tốc độ ngoài sức tưởng tượng : 1 USD năm 1914 tương đương
4 marks, đến đầu năm 1923 ăn 18.000 marks và đến tháng 11 năm 1923 ăn
4.200 tỷ marks (4,2 trillions marks). Người dân muốn mua hàng hoá thông
dụng, phải dùng xe cút-kít để chở tiền. Nước Đức rơi vào hỗn loạn : đình
công tự phát, bạo lực trên đường phố, tin đồn về âm mưu “đảo chính” của
phái cực hữu và “cách mạng” của phái cực tả làm người dân hoang mang cực
độ. Khoảng cuối năm 1922, đã có gần 400 vụ ám sát chính trị xảy ra, phần
lớn đều có thể truy nguyên từ cánh hữu. Các nạn nhân bao gồm cả các nhà
chính trị xuất sắc như Matthias Erzberger, người ký hiệp ước đình chiến
năm 1918 và Walther Rathenau, bộ trưởng ngoại giao.
Nhận định rằng tình thế cách mạng đã “chín muồi”, Quốc tế
cộng sản đã chỉ đạo đảng KPD tiến hành nổi dậy vào tháng 10 năm 1923.
Nhưng dự định lôi kéo chính phủ của những người dân chủ - xã hội cánh tả
ở hai bang Saxony (Sachsen) và Thuringia (Thüringen) chống
lại chính quyền liên bang không thành công, phần do quân đội bao vây,
phần khác do phe dân chủ - xã hội phản đối kế hoạch tổng đình công.
Riêng cuộc nổi dậy ở Hamburg vẫn tiến hành vì không kịp thông báo lệnh
đình hoãn. Ngày 23.10, 1.300 đảng viên KPD chiếm giữ 17 trạm cảnh sát ở
Hamburg và dựng rào cản ở các quận có đông công nhân. Ngày hôm sau, họ
thông báo lệnh tổng đình công, nhưng không nhận được sự hưởng ứng. Sau
ba ngày, cảnh sát đã dẹp tan cuộc nổi loạn.
Cũng chính trong thời điểm này, một cuộc đảo chính bất
thành đã làm mọi người chú ý đến một nhân vật chính trị cực hữu mới xuất
hiện trên trường chính trị của Đức; đó là Adolf Hitler.
Là một hạ sĩ quan trong quân đội Đức, sau khi giải ngũ vì
bị thương trong chiến tranh, vào năm 1919 Hitler gia nhập vào một đảng
chính trị nhỏ ở Bavaria (Bayern) có tên là Đảng Công nhân Đức
(Geman Worker’s Party). Nhờ nghị lực và tài hùng biện, không bao lâu
ông ta giành được ảnh hưởng trong đảng, loại trừ được các thủ lãnh cũ để
trở thành lãnh đạo đảng. Hitler đổi tên đảng thành
Đảng Quốc -Xã Đức
(NSDAP) hay còn gọi là đảng Nazi (Nazi Party).
Tháng 11 năm 1923, Adolf Hitler đã tổ chức đảo chính ở Munich (thường
được gọi là cuộc đảo chính “Nhà hàng Bia”,
Beer Hall Putsch
)
với ý định sử dụng Bavaria như một căn cứ để tiến về Berlin. Cuộc đảo
chính thất bại, Hitler bị đưa ra toà nhưng chỉ bị kết án nhẹ (5 năm) và
sau khi ngồi tù 13 tháng thì được thả ra. Điều đáng nói là Hitler đã lôi
kéo được Tướng Ludendorff cùng tham gia, và sau phiên toà này, ông ta
trở nên nổi tiếng. Trong thời gian ngồi tù, Hitler nghiền ngẫm lại kinh
nghiệm đấu tranh chính trị của mình và quyết định nắm chính quyền bằng
con đường hợp pháp, như ông ta đã trình bày trong cuốn tự truyện “Mein
Kampf”(Cuộc đấu tranh của tôi, xuất bản năm 1925).
Mặc dù vào năm 1923, đảng Nazi chỉ mới là một đảng nhỏ
với ảnh hưởng không đáng kể, nhưng những diễn biến sau đó cho thấy chính
nó mới là nguy cơ thật sự cho nền Cộng hoà Weimar. Từ giữa thập niên
1920, từ căn cứ địa ở bang Bavaria (Bayern), các nhóm Nazi bung ra ở các
vùng khác của nước Đức. Năm 1927, Nazi tổ chức Đại hội đầu tiên của đảng
ở Nuremberg. Khoảng 1928, số đảng viên vượt quá 100.000; tuy nhiên đảng
Nazi chỉ thu được 2,6 % số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng Năm.
Chính là nhờ vào sự cộng tác với đảng Quốc gia (DNVP) mà
đảng Nazi được chú ý nhiều hơn vào năm 1929. Hai đảng này cộng tác với
nhau để khởi động một cuộc trưng cầu ý dân nhằm chống lại Kế hoạch Young
về những vấn đề bồi thường chiến tranh. Lãnh tụ của Đảng Quốc gia,
Alfred Hugenberg, muốn lợi dụng tài hùng biện có sức mê hoặc của Hiler
như một phương tiện có ích để thu hút phiếu bầu. Nhưng những phương tiện
truyền thông của Hugenberg đã giúp cho Hitler quảng cáo hình ảnh của ông
ta, tuyên truyền rộng rãi cho đảng Nazi và quan trọng hơn nữa, thu phục
được những người ủng hộ giàu có.
Thời cơ đến với đảng Nazi khi nền kinh tế thế giới rơi
vào cuộc Đại suy thoái (Great Depression), bắt đầu bằng sự sụp đổ của
thị trường chứng khoán Wall Street (Hoa Kỳ) vào tháng 10 năm 1929. Nền
kinh tế Đức vốn lệ thuộc vào các khoản cho vay ngắn hạn từ phía Hoa Kỳ,
do đó bị tổn thương nặng nề bởi khủng hoảng kinh tế. Nạn thất nghiệp
tăng nhanh, từ 8.5 % vào năm 1929 lên đến 21,9 % vào năm 1931 và đạt
đỉnh điểm 29,9% vào năm 1932. Các chính sách kinh tế khắc khổ thực hiện
bởi nhà chính trị Heinrich Brüning thuộc Đảng Trung Tâm (Thủ tướng Đức
từ tháng 3.1930 đến cuối tháng 5.1932) càng làm cho tình hình thêm trầm
trọng. Mặc dù vào năm 1932, Tổng thống Hoa Kỳ Herbert Hoover tuyên bố
“đình hoãn bồi thường chiến tranh” (reparations moratorium) đối với nước
Đức nhưng cuộc Đại suy thoái càng trầm trọng thêm, và bất mãn xã hội
tăng cao đến mức nước Đức dường như đứng trên bờ vực của nội chiến.
Chính trong những thời điểm tuyệt vọng nhất, cử tri lại
sẵn sàng cho những giải pháp cực đoan, và đảng Nazi đã khéo lợi dụng
tình hình đó. Chính sách tuyên truyền khôn khéo của Joseph Goebbels đã
lôi cuốn được nhiều người dân thất nghiệp, các trại chủ, các công nhân
cổ trắng, các thành viên của giai cấp trung lưu đã bị thiệt hại bởi cuộc
Đại suy thoái hoặc đã mất địa vị xã hội kể từ sau khi Chiến tranh Thế
giới chấm dứt, và những người trẻ đang hăm hở hiến thân cho những lý
tưởng quốc gia. Cũng giống như các đảng cánh hữu khác, Đảng Nazi đổ lỗi
cho Hiệp ước Versailles và các khoản bồi thường chiến tranh đã gây ra
khủng hoảng cho đất nước. Tuyên truyền của đảng Nazi tấn công vào hệ
thống chính trị Weimar, “các tội phạm Tháng Mười Một”, những người
mác-xít, những người theo chủ nghĩa quốc tế (internationalists) và những
người Do Thái. Bên cạnh việc hứa hẹn một giải pháp cho cuộc khủng hoảng
kinh tế, đảng Nazi đem lại cho người dân Đức một tình cảm tự hào dân tộc
và lời hứa khôi phục lại trật tự.
Kết quả bầu cử trong những năm đầu thập kỷ 1930 cho thấy
ảnh hưởng của phía cực tả (cộng sản) và phía cực hữu (phát-xít) tăng một
cách đáng kinh ngạc. Số ghế của Đảng Cộng sản (KPD) trong Quốc hội tăng
gần gấp đôi, từ 54 năm 1928 đến 100 vào tháng 11 năm 1932. Thành công
của Đảng Nazi (NSDAP) còn lớn hơn nữa. Bắt đầu với 12 ghế vào năm 1928,
đảng Nazi tăng số ghế của họ lên gần chục lần, đến 107 ghế vào năm 1930.
Họ tăng số ghế lên gấp đôi (230) vào năm 1932; thành tích này làm cho
Nazi trở thành đảng lớn nhất ở Quốc hội Đức, vượt xa đảng SPD (133 ghế).
Những thắng lợi của Nazi gây thiệt hại cho các đảng cánh hữu và trung
dung khác.
Điều tai hại là quân đội Đức kể từ sau chiến tranh thế
giới I đã dần dần từ bỏ truyền thống “phi chính trị”, ngày càng can
thiệp sâu vào lĩnh vực chính trị. Năm 1925, sau khi Tổng thống Ebert
(lãnh tụ của SPD) qua đời, Thống tướng (Field Marshall) Hindenburg được
bầu vào chức vụ Tổng thống. Nhưng vào cuối thập niên 1920 - đầu thập
niên 1930, nhân vật tiêu biểu cho quân đội và là biểu tượng của sự đoàn
kết quốc gia này ngày càng trở thành một nhân vật bù nhìn để cho các nhà
chính trị gốc quân sự đứng đàng sau thao túng. Chính từ âm mưu câu kết
của một số nhân vật chính trị gốc từ quân đội như Franz von Papen, Kurt
von Schleicher,…mà Hitler nắm được chức vụ Thủ tướng vào ngày 30.1.1933.
Hitler và Đảng Quốc-Xã thực hiện cuộc “cách mạng” của họ
chỉ trong vài tháng, sử dụng phối hợp cả phương pháp hợp pháp, thuyết
phục lẫn khủng bố. Do chỗ chính phủ liên minh do Hitler đứng đầu không
có được đa số tại Quốc hội, Hindenburg giải tán Quốc hội và tổ chức bầu
cử lại vào ngày 5.3.1933. Một tuần trước ngày bầu cử, Toà nhà Quốc hội
(Reichstag) bị đốt cháy. Đảng Nazi đổ tội cho phe Cộng sản và vào ngày
8.2, Tổng thống dựa vào điều 48 trong Hiến pháp để ký sắc lệnh cho phép
Hitler được quyền đàn áp phe đối lập. Được cho phép bởi sắc lệnh đó, lực
lượng Xung kích (SA) bắt giam hay đe doạ những người dân chủ - xã hội
và cộng sản.
Cuộc bầu cử ngày 5.3.1933 là cuộc bầu cử tự do cuối cùng
ở Đức tính cho đến cuối cuộc Chiến tranh Thế giới II. Mặc dù các đảng
đối lập bị sách nhiễu nặng nề, đảng Nazi chỉ đạt được 43,9 % số phiếu.
Tuy nhiên, cộng với 8% của Đảng Quốc gia (DNVP), liên minh giữa hai đảng
đã giành được đa số ở Quốc hội. Với sự giúp đỡ của các đồng minh chính
trị, Hitler đã trình Quốc hội một dự thảo luật gọi là Luật “Trao quyền”
(Enabling Act) cho phép ông ta cai trị không cần đến Quốc hội trong vòng
4 năm. Vào ngày 23.3, dự thảo luật này đã được thông qua với sự hỗ trợ
của Đảng Trung Tâm và các đảng khác. Toàn bộ các đại biểu Cộng sản và
một số đại biểu Dân chủ - Xã hội không được biểu quyết. Do đó đạo luật
này được thông qua với 441 phiếu thuận, chỉ có 84 phiếu chống (tất cả
đều của đảng SPD).
Hitler đã sử dụng Đạo luật Trao quyền để áp đặt tất cả
các thiết chế và tổ chức chính trị dưới sự kiểm soát của đảng Nazi. Sau
Đảng cộng sản (KPD), đến lượt Đảng Dân chủ - Xã hội bị đặt ra ngoài vòng
pháp luật, và sau đó đến lượt tất cả các đảng khác. Riêng Đảng Quốc gia
(thành viên của chính phủ liên minh cầm quyền) thì có vinh dự “tự nguyện
giải tán” khi lực lượng SA chiếm đóng trụ sở của họ vào ngày 29.6. Ngày
14.7.1933, một đạo luật mới được ban hành, nói rõ : “Đảng Công nhân Quốc
gia – Xã hội là đảng chính trị duy nhất ở Đức.” Đế chế Thứ ba (Third
Reich) trở thành nền “chuyên chính tư sản” như một đối trọng của nền
“chuyên chính vô sản” được thiết lập ở Nga trước đó 16 năm. Chế độ
“toàn trị - cộng sản” có thêm một hình mẫu là chế độ “toàn trị -
phát xít” để làm đối tượng so sánh, đối chiếu.
Như vậy là tất cả những nhân vật chính trị của cánh hữu
đều nuôi ảo tưởng rằng họ có thể thuần hoá được Hitler, lợi dụng được
đảng Nazi để tái lập một chế độ chuyên chế của cánh hữu. Nhưng phái hữu
không có được một nhân vật nào có thể sánh ngang với Hitler về thủ đoạn
tàn nhẫn và khả năng thiên phú trong việc nắm quyền lực. Do đó, thay vì
lợi dụng được Hitler để đánh phá cánh tả, xoá bỏ nền dân chủ, thiết lập
quyền lực chuyên chế của cánh hữu truyền thống, các nhân vật chính trị
của cánh hữu đã lót đường cho Hitler lên nắm chính quyền. Còn phải đợi
đổ thêm nhiều máu và nước mắt nữa để cho cánh hữu của nước Đức hiểu được
những giá trị của nền dân chủ và học hỏi các “đảng bảo thủ chân chính” ở
các nước phương Tây khác.
Điều đáng
ngạc nhiên nhất là chính sách mù quáng của Quốc tế III và những người
cộng sản Đức. Kể từ Đại hội lần 6 (tháng 8 năm 1928), Quốc tế Cộng sản
đánh giá rằng thế giới đang bước vào giai đoạn thứ ba – nghĩa là giai
đoạn của chiến tranh và cách mạng
. Phái Stalin cho rằng “mối
nguy hiểm chính” bây giờ bắt nguồn từ phía cánh tả, vì vậy các đảng cộng
sản phải cắt đứt liên hệ với các công đoàn chính thức và tái lập các
“công đoàn đỏ”. Những người dân chủ - xã hội trên toàn thế giới bị tố
cáo là bọn “phát-xít xã hội” (social fascists) - kẻ thù chính của những
người cộng sản. Theo lời Stalin : “Chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa dân
chủ - xã hội không phải là đối lập nhau, mà là anh em sinh đôi.” Ở Đức,
KPD phát hành một tập sách nhỏ nhan đề : “Chủ nghĩa phát-xít – xã hội
là gì ?”, trong đó viết rằng công nhân phải tập trung vào “cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa phát-xít dưới hình thức nguy hiểm nhất hiện nay,
nghĩa là dưới hình thức dân chủ - xã hội.” Vào năm 1928, Ernst Thälmann
- nhà lý luận hàng đầu của đảng KPD, phát biểu rằng với việc chính
phủ dân chủ - xã hội của Mueller trúng cử, chủ nghĩa phát-xít đã chiến
thắng!
Dựa trên quan niệm của Leon Trotsky, một số nhà nghiên
cứu mác-xít ngày nay (như Rob Sewell, Pierre Broué) cho rằng sự chia rẽ
giữa đảng KPD và SPD đã gây ra một sự suy yếu trong phong trào công
nhân, khiến cho giai cấp công nhân không thể sử dụng được tổng đình công
như một sức mạnh để kiềm chế Hitler và đảng Nazi. Nhưng làm thế nào có
thể có được sự đoàn kết giữa những người cộng sản và những người dân chủ
- xã hội khi mà một bên quyết làm cách mạng để lật đổ chế độ “dân chủ tư
sản” và “chủ nghĩa tư bản” trong khi bên kia quyết tâm thiết lập một nền
dân chủ “cho mọi người”, từ chối con đường cách mạng ?
Sự phân ly giữa
trào lưu dân chủ - xã hội và trào lưu cộng sản trên toàn thế giới
Trở lại với phong
trào xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy thành công của cách mạng vô sản ở
Nga và thất bại của cách mạng vô sản ở Đức cũng dẫn đến việc phân ly
hoàn toàn giữa những người cộng sản và những người dân chủ - xã hội.
Tháng 3 năm 1919, nghĩa là giữa lúc nước Nga chưa thoát ra khỏi cuộc Nội
chiến, Quốc tế
III (tức Quốc tế Cộng sản, Comintern)
được thành lập. Mục
đích của Lenin khi thành lập tổ chức này là nhằm để tạo ra thế hỗ trợ
cho nước Nga xô-viết hiện đang ở thế cô lập, vì Cách mạng Nga nổ ra
trong khi cách mạng ở những nước Âu - Mỹ tiên tiến hơn lại không nổ ra
như lý thuyết của Marx đã dự kiến. Lenin cũng có ý định thành lập một tổ
chức Quốc tế thay cho Quốc tế II - hầu như đã tê liệt kể từ khi Chiến
tranh Thế giới bùng nổ. Tại Đại hội lần thứ 2 của Quốc tế III họp vào
tháng 7-8 năm 1920, Lenin đưa ra 21 điều kiện để gia nhập Quốc tế
Cộng sản, trong đó có điều 16 quy định rằng tất cả các đảng cộng sản
mới phải xây dựng cương lĩnh phù hợp với “những điều kiện đặc thù của
đất nước mình” và “những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản”. Tuy nhiên,
chính Quốc tế Cộng sản và ban chấp hành của Quốc tế mới có quyền quyết
định cái gì là “những điều kiện đặc thù”.
Việc thành lập Quốc
tế III (Quốc tế Cộng sản) vào tháng 3 năm 1919 mở đường cho sự hình
thành của trào lưu
cộng sản, đồng thời chính
thức làm phân ly phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là
ở Đức. Xu hướng của đảng Dân chủ - xã hội Độc lập (USPD) ngày
càng ngả sang phía tả. Sau Đại hội lần 2 của Quốc tế III (tháng 7.1920)
việc hợp nhất giữa USPD và Đảng cộng sản Đức (KPD) được đẩy mạnh. Tại
Đại hội Halle của USPD (tháng 10.1920), đa số đã biểu quyết chấp thuận
21 điều kiện của Lenin và gia nhập Quốc tế Cộng sản. Một số đại biểu
trước đây vì lập trường chống chiến tranh đã tách khỏi đảng SPD để gia
nhập USPD, đến nay do không chấp nhận chuyên chính vô sản lại rời bỏ
USPD để trở lại với đảng cũ (như trường hợp của Kautsky hay Bernstein
chẳng hạn). Từ ba đảng, phong trào xã hội chủ nghĩa ở Đức phân cực thành
hai đảng : SPD và KPD.
Tình hình cũng diễn ra tương tự ở nhiều nước khác.
Nhìn chung, các đảng cộng sản được thành
lập do một thiểu số tách ra từ các đảng xã hội chủ
nghĩa đã có sẵn, trừ vài trường hợp ngoại lệ như Na Uy và Pháp. Ở Pháp,
tại Đại hội 18 của đảng Xã hội (SFIO) họp tại thành phố Tours vào năm
1920, đa số đại biểu đã biểu quyết gia nhập Quốc tế III và thành lập
Đảng Cộng sản Pháp
. Phe cộng
sản chiếm được bộ máy đảng và cả cơ quan ngôn luận là tờ l’Humanité
( Nhân Đạo), nhưng phần lớn các đảng viên là đại biểu Quốc hội hoặc nghị
viên ở địa phương vẫn ở lại với Đảng Xã hội. Mặc dù gặp khó khăn sau Đại
hội Tours, Đảng Xã hội dẩn dần phục hồi được sức mạnh, chiếm lại được
thế thượng phong và về sau trở thành đảng cánh tả lớn nhất ở Pháp. Trong
khi đó, Đảng Cộng sản mặc dù có ảnh hưởng lớn trong phong trào công đoàn
và ở một vài thời điểm trở thành một đảng mạnh, nhưng nhìn chung vẫn là
một đảng thiểu số trong phong trào cánh tả Pháp. Là một trong hai đảng
cộng sản lớn nhất ở các nước phương Tây, Đảng Cộng sản Pháp tỏ ra kém
linh hoạt và thiếu tự chủ hơn so với Đảng Cộng sản Ý, do bị lệ thuộc
ngay từ đầu vào Đảng Cộng sản Liên Xô và chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ
nghĩa Stalin.
Về mặt lý thuyết,
lập luận chung của Lenin và các lãnh tụ Quốc tế III đều cho rằng quyền
lợi của chế độ Xô-viết hoàn toàn phù hợp với quyền lợi của tất cả các
đảng cộng sản thành viên. Nhưng trong thực tế, một quá trình chuyên chế
hoá đã diễn ra vào năm 1921, sau khi một số nhà cách mạng cánh tả theo
lập trường của Rosa Luxemburg (như Anton Pannehoek, Herman Gorter,…) bị
loại
bỏ. Cho đến năm 1928, Quốc tế III hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của
Đảng Cộng sản Liên Xô. Nguyên tắc “tập trung dân chủ” (democratic
centralism) áp dụng vào Quốc tế III trong thực tế đã biến tổ chức này
thành một siêu - đảng (super-party) với cách tổ chức giống với Đảng Cộng
sản Liên Xô. Vào tháng 5 năm 1943, Quốc tế III bị giải tán như một nghĩa
cử của Liên Xô để bảo đảm lòng tin của các nước đồng minh trong cuộc
Chiến tranh Thế giới II. Trong 24 năm tồn tại của nó, những bước ngoặt
chủ yếu của Quốc tế III được quy định bởi cuộc đấu tranh để tranh giành
quyền lực trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô hay những vấn đề đối ngoại
của chính quyền Xô-viết. Không có một quốc gia xã hội chủ nghĩa hay nửa
– xã hội chủ nghĩa nào được thiết lập, trừ Nước Cộng hoà Nhân dân Mông
Cổ - một sự kiện chẳng liên quan gì đến Quốc tế III.
Sau khi chiến tranh chấm dứt,
Quốc tế III được tái lập với tên gọi là Văn
Phòng Thông tin Cộng sản Quốc tế (Cominform)
. Ba năm sau cái chết của
Stalin (1953), Khrushev tiến hành công cuộc giải trừ ý thức hệ Stalin.
Để thể hiện sự hoà giải đối với Nam Tư, Liên Xô đã giải tán tổ chức này
vào ngày 17.4.1956.
Sự thất bại của Quốc
tế III là hậu quả của một tổ chức đặt nền tảng trên những nguyên tắc
“giai cấp toàn cầu”, “đảng chính trị toàn cầu” và “cách mạng toàn thế
giới” (Weltklasse, Weltpatei, Weltrevolution). Điều đó chứng tỏ
các khái niệm sinh ra từ ý thức hệ không thể thay thế cho các thực thể
sinh ra từ cuộc sống.
Trong khi đó, mặc dù Quốc tế II
bị tan rã do cuộc Chiến tranh thế giới I, nhiều nỗ lực đã được tiến hành
để lập lại tổ chức này và đã đạt được thành công.
Năm 1920, Quốc tế II được tổ
chức lại. Thế nhưng, một số đảng xã hội chủ nghĩa ở châu Âu không tham
gia và quyết định thành lập Liên hiệp Công nhân Quốc tế của các đảng Xã
hội chủ nghĩa (International
Working Union of Socialist Parties, IWUSP), thường được gọi là
Quốc tế Hai rưỡi ("Second and a half International" hay
"Two-and-a-half International"), chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa mác-xít Áo
(Austromarxism). Tháng 5 năm 1923, Quốc tế II và Quốc tế Hai rưỡi
(IWUSP) hợp nhất thành Quốc tế Lao động
và Xã hội (Labour and Socialist International).
Tổ chức xã hội
chủ nghĩa này nhằm chống lại Quốc tế III đang chịu sự thống trị của Liên
Xô, nhưng lại không đạt được tầm vóc của Quốc tế II. Những cuộc chiến
tranh xâm lược của Adolf Hitler đã tàn phá hầu hết các nền tảng của nó ở
châu Âu. Trong thực tế, tổ chức này đã chấm dứt hoạt động kể từ 1940.
Sau khi Chiến tranh Thế giới II
chấm dứt, các nỗ lực để tái lập Quốc tế II lại được tiến hành từng bước
mà đỉnh cao là Đại hội đầu tiên sau chiến tranh được triệu tập tại
Frankfurt (Đức) vào tháng 7 năm 1951. Tại Đại hội này, Quốc tế II được
hồi sinh với tên gọi là Quốc tế Xã hội (hay Quốc tế Xã hội
chủ nghĩa, Socialist International, Internationale socialiste).
Lúc đầu nó chỉ tập hợp các đảng dân chủ - xã hội trên các địa bàn truyền
thống; nhưng cùng với quá trình phi thực dân hoá và nhất là sau sự sụp
đổ của trào lưu cộng sản, ảnh hưởng của Quốc tế Xã hội ngày càng lan
rộng. Ngày nay, nó bao gồm hơn 90 thành viên chính thức, không kể các
thành viên tư vấn và quan sát viên.
Ngược dòng lịch sử
để tìm hiểu về sự ra đời và bước đầu phát triển của trào lưu dân chủ -
xã hội, chúng ta có thể đặt câu hỏi : sự khác
biệt căn bản giữa hai trào lưu dân chủ - xã hội và cộng sản là ở chỗ
nào ?
Như đã nói ở trên,
danh xưng « dân chủ - xã hội » đựợc dùng ở Đức từ thập niên 1860. Thế
nhưng, theo Karl Marx, danh xưng này đã được dùng lần đầu tiên ngay từ
sau cuộc cách mạng 1848 ở Pháp. Đầu năm 1849, một đảng đối lập ra đời do
sự kết hợp giữa phái Núi Mới (của Alexandre Ledru-Rollin) với những
người xã hội chủ nghĩa, lấy tên là
Đảng Dân chủ - Xã hội (Parti social-démocrate)
. Karl Marx coi đây là « liên minh giữa những người tiểu tư sản và công
nhân ».
Nhận xét của ông về
sự kết hợp này rất đáng cho chúng ta lưu ý. Trong tác phẩm « Ngày 18
tháng Sương mù », ông viết như sau :
« Những yêu sách của
giai cấp vô sản bị cắt mất cái mũi nhọn cách mạng của chúng và mang một
màu sắc dân chủ, còn những yêu sách dân chủ của giai cấp tiểu tư sản thì
mất đi cái hình thức thuần tuý chính trị của chúng và mang màu sắc xã
hội chủ nghĩa. Đảng dân chủ - xã hội đã xuất hiện như vậy đó»
Đánh giá nói trên
của Marx cho thấy đối với ông, dân chủ là yêu sách của giai cấp
tiểu tư sản, còn xã hội (xã hội chủ nghĩa) mới đích thực là yêu
sách của giai cấp vô sản. Nói cách khác, dân chủ chỉ là mục tiêu
tạm thời, thứ yếu mà phong trào xã hội chủ nghĩa phải tạm chấp nhận để
củng cố sức mạnh, bởi vì dân chủ làm hao mòn tính chất cách mạng;
còn xã hội chủ nghĩa mới là mục tiêu chính của phong trào công
nhân.
Sự thành lập của
Đảng Dân chủ - Xã hội Đức (SPD) một lần nữa lặp lại sự thoả hiệp đã từng
diễn ra ở Pháp vào năm 1849. Trước khi tiến hành đại hội hợp nhất tại
Gotha, lo sợ trước ảnh hưởng của phái Lassalle, Karl Marx đã viết một
bản « nhận xét ngoài lề » để phê phán bản dự thảo cương lĩnh. Bản nhận
xét này được chuyển cho một số lãnh tụ của phái Eisenach (trong đó có cả
Bebel và Liebknecht) ngay trước khi tiến hành đại hội. Về sau (năm
1891), Engels đã công bố bản nhận xét này với tên gọi là « Phê phán
cương lĩnh Gotha ». Trong bản nhận xét này, Marx đã vạch ra những sự
khác biệt căn bản giữa quan niệm của ông với quan niệm của Lassalle. Đặc
biệt, ông nhấn mạnh rằng bản cương lĩnh « không đả động gì đến vấn đề
chuyên chính vô sản, cũng chẳng nói gì đến chế độ nhà nước tương lai
trong xã hội cộng sản chủ nghĩa ».
Như vậy, trào lưu
dân chủ - xã hội có liên quan mật thiết với chủ nghĩa Marx, được gợi
hứng từ chủ nghĩa Marx một cách trực tiếp (như đảng SPD ở Đức), hoặc
gián tiếp (như đảng Lao động Anh, đảng SAP ở Thuỵ Điển). Nhưng dần dần,
trong quá trình phát triển, các đảng dân chủ - xã hội đã loại bỏ quan
niệm chuyên chính vô sản để đi đến chấp nhận đấu tranh trong khuôn khổ
của chế độ dân chủ đa nguyên. Sự phân ly, tách rời giữa trào lưu dân chủ
- xã hội và trào lưu cộng sản bắt đầu từ đó.
Trong hai yêu cầu
dân chủ và
xã hội chủ nghĩa, những người dân chủ -xã hội đã đặt ưu tiên cho yêu
cầu dân chủ, trong khi đối với những người cộng sản, xã hội
chủ nghĩa mới là yêu cầu ưu tiên. Những người cộng sản coi dân chủ
chỉ là yêu cầu phụ thuộc, tạm thời; mục đích chính của họ là chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Khi cần thiết, họ có thể hy sinh mục tiêu
dân chủ cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đó là lý do khiến cho họ trở
thành chuyên chế, độc đoán, nhất là sau khi nắm được chính quyền. Ngược
lại, đối với những người dân chủ -xã hội, dân chủ trở thành mục tiêu
hàng đầu; do đó, trong khuôn khổ chế độ dân chủ đa nguyên, họ chỉ được
phép làm những gì nhân dân tán đồng (thông qua hình thức bầu cử, trưng
cầu ý kiến,…). Tình hình đó khiến cho các đảng dân chủ - xã hội dần dần
phải bỏ bớt những nội dung của chủ nghĩa Marx nếu xét thấy không phù hợp
với lợi ích của quốc gia - dân tộc, hoặc không khả thi, hoặc không có
hiệu quả thực tế.
Thế kỷ 20 là thế kỷ của sự phổ
biến chủ nghĩa Marx, đồng thời cũng là thế kỷ chứng kiến sự tàn tạ của
chủ nghĩa Marx. Những người cộng sản do chỗ áp dụng chuyên chính vô sản
(mà họ gọi một cách nguỵ biện là “dân chủ vô sản”), bác bỏ chế độ dân
chủ đa nguyên (mà họ cho là “dân chủ tư sản”), đã tạo dựng nên một thứ
“lâu đài trên cát”. Hệ thống kinh tế-xã hội mà họ dựng nên đã từng làm
mê hoặc nhiều dân tộc nhược tiểu, đôi khi còn làm loá mắt cả những “đối
thủ tư sản”, cuối cùng đã sụp đổ. Ngược lại, những người dân chủ - xã
hội chấp nhận dân chủ, từ chỗ bác bỏ chuyên chính vô sản đã dần dần từ
bỏ hoặc sửa đổi các nội dung khác của chủ nghĩa Marx để rồi cuối cùng,
trở thành các đảng “phi mác-xít”, chỉ còn giữ lại hình ảnh Marx như một
nhân vật lịch sử đáng kính, có công sáng lập phong trào.
Hiện nay, sau sự sụp đổ của hệ
thống “cộng sản” quốc tế, trên thế giới chỉ còn lại bốn quốc gia còn
theo con đường cộng sản. Trong số đó, Trung Quốc và Việt Nam lại đổi
hướng bằng cách chuyển qua kinh tế thị trường. Quan sát sự diễn biến ở
hai quốc gia này, chúng ta thấy họ từng bước áp dụng những biện pháp
giống hệt như những biện pháp mà các đảng dân chủ - xã hội đã từng áp
dụng trước đây hơn nửa thế kỷ. Chính vì thế, có sự ngộ nhận cho rằng các
đảng cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam đang dần dần lột xác để trở thành
các đảng dân chủ -xã hội. Một số nhà “cải cách” trong hai đảng này cũng
đang vô tình hay cố ý tạo ra sự ngộ nhận ấy. Nhưng như trên đã nói, sự
khác biệt căn bản giữa một đảng dân chủ -xã hội và một đảng cộng sản là
ở chỗ : đảng đó có coi dân chủ là mục tiêu ưu tiên hàng đầu hay
không? Bao lâu đảng cộng sản còn giữ độc quyền chính trị, không chấp
nhận nền dân chủ đa nguyên, coi những ai đấu tranh cho dân chủ là kẻ thù
thì cho dù đảng ấy có đổi tên là “đảng Lao động”, “đảng Nhân dân”, thậm
chí “đảng Dân chủ - Xã hội”,v.v… và v.v.. , đảng ấy vẫn chưa lột xác và
trong thực chất vẫn là “đảng Cộng sản”.
Lenin đã từng coi “chuyên
chính vô sản” là viên đá thử vàng để xác định ai là người
mác-xít chân chính nhất. Ngày nay, chúng ta cũng phải dùng “dân chủ”
như viên đá thử vàng để xác định ai là người dân chủ - xã hội
thật và ai là người cộng sản đội lốt dân chủ -
xã hội.
Đà Lạt,
5.11.2006
Mai Thái Lĩnh
Tài liệu tham khảo :
1)
William L. Shirer, The Rise and Fall of The Third Reich, Simon
And Schuster, New York, 1960.
2)
Tuyển tập Mác – Ăng ghen, Nxb Dietz Verlag - Berlin và NXb Sự Thật - Hà
Nội, 1980-1984, 6 tập.
3) Rob
Sewell, Germany : From Revolution to Counter-Revolution, 1988.
http://www.marxist.com/germany-counter-revolution-rise-fascism.htm
4)
Encyclopaedia Britannica Library ; from Encyclopaedia Britannica 2005
Deluxe Edition CD-ROM. Copyright © 1994-2003 Encyclopædia Britannica,
Inc.
5)
Wikipedia, The Free Encyclopedia.
http://en.wikipedia.org/
6)
LAIDLER, Harry W. , History of Socialism, Thomas Y. Crowell
Company, New York, 1968.
7)
SASSOON, Donald, One Hundred Years of Socialism, Harper Collins
Publishers, Fontana Press, Paperback Edition, London, 1997
Liên đoàn Spartacus
(Spartakusbund, Spartacist League, Ligue Spartakiste)
chính là tiền thân của Đảng cộng sản Đức.
Do tình hình còn
phức tạp, việc bầu cử Tổng thống được dời lại 3 năm và việc bầu
cử Quốc hội được hoãn lại đến tháng 6 năm 1920.
Stresemann được
tặng Giải Nobel về Hoà bình năm 1926 cùng với ngoại trưởng Pháp
Aristide Briand.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|