LÝ LUẬN     VĂN HỌC     BÌNH LUẬN     PHỎNG VẤN     VỤ ÁN LIÊN QUAN     NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ

"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988

"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993

"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995

Nhóm ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh

Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh

Về nền tảng đạo đức Nho giáo


Để xây dựng một chế độ chính trị-xã hội mới trên một đất nước có nền văn hoá lâu đời như ở nước ta, không thể bắt đầu từ con số không, cũng không thể khởi đầu bằng sự đập phá, đạp đổ di sản của cha ông để lại. Khác hẳn với những người cộng sản, và cũng khác với những người mác-xít có xu hướng cách mạng, Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ - xã hội, nghĩa là một nhà xã hội chủ nghĩa có xu hướng cải cách. Mà muốn thực hiện cải cách thì trước tiên phải đánh giá lại một cách công bằng nền văn hoá cũ, phân biệt được một cách khách quan cái đượccái không được, cái haycái dở, để từ đó xây dựng nên nền văn hoá mới phù hợp với  truyền thống và bản sắc của dân tộc, đồng thời theo kịp với đà tiến bộ của văn minh nhân loại.

Nhà cải cách Phan Châu Trinh đã bắt đầu công việc đó bằng cách đánh giá lại nền đạo đức truyền thống của nước ta. Tại sao lại bắt đầu bằng đạo đức ? Ông giải thích như sau :

Tôi chọn lấy vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng những thuần nhờ cái sức mạnh mà thôi, mà phải nhờ có đạo đức làm gốc nữa; nhất là dân tộc nào đã bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên khỏi bị người đè lên thì lại cần phải có một cái nền đạo đức vững chắc hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình. (NQT, tr. 476; NVD, tr. 928)

Như vậy, trong cuộc chạy đua trong thời đại mới, sức mạnh hàng đầu của một dân tộc nhược tiểu không phải là sức mạnh vật chất hay sức mạnh quân sự, mà chính là sức mạnh tinh thần, sức mạnh đạo đức. Một “nền đạo đức vững chắc” chính là cái gốc, là nền tảng cho dân tộc ta có thể “hội nhập” vào thế giới hiện đại mà không sợ thua thiệt, mà vẫn có thể cạnh tranh với các dân tộc khác. Chính con người làm ra của cải vật chất, chính con người cầm vũ khí để bảo vệ Tổ quốc của mình; nhưng cái làm cho con người thật sự trở thành con người lại chính là đạo đức.

Những điều cần gìn giữ trong di sản của Nho giáo

Để đánh giá lại di sản của Nho giáo, Phan Châu Trinh đã sử dụng hai khái niệm “đạo đức” và “luân lý”.

Theo ông, “đạo đức” bao gồm những nguyên lý căn bản của “đạo làm người” :

“Đã gọi là người thì phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm. Nhân là có lòng thương người, nghĩa là làm việc phải, lễ là ăn ở cho có lễ độ, trí để làm việc cho đúng, tín là nói với ai cũng giữ lời cho người ta tin mình mới làm được việc, cần là làm việc phải siêng năng, kiệm là ăn ở dành dụm trong lúc no để phòng lúc đói, lúc có để phòng lúc không,v.v…Người có đạo đức tức là người đã ở trong đạo làm người vậy.” (NQT, tr. 478; NVD, tr. 930)

Ông cho rằng đạo đức là cái gì không thay đổi theo thời gian và không gian, và có giá trị phổ biến :

“Đạo đức đã như thế thì không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng phải giữ đạo đức ấy mới là người trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa, dầu các chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hoặc cộng sản nữa, cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức, nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.” (NQT, tr. 478-479; NVD, tr. 930)

Nhưng đạo đức không chỉ là những giá trị tinh thần, những nguyên lý triết học để người ta chiêm ngưỡng hay tranh luận thuần tuý về mặt lý thuyết mà còn thể hiện trong thực hành qua một tập hợp bao gồm những quy tắc ứng xử, những mối quan hệ xã hội được gọi là “luân lý”.  Theo Phan Châu Trinh, đạo đức không thay đổi trong khi luân lý lại thay đổi tuỳ theo văn hoá, tín ngưỡng, những điều  kiện sống và những nhu cầu của xã hội :

“Luân lý thì không thế. Luân lý có thể thay đổi được luôn. Luân lý tuỳ mỗi thời mà khác, tuỳ mỗi nơi mà khác.” (NQT, tr. 479; NVD, tr.930)

Hiện tượng luân lý thay đổi tuỳ theo thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh chính trị hay môi trường kinh tế-xã hội là hiện tượng rất dễ nhận thấy. Cùng là chữ hiếu nhưng vào thời xa xưa có bộ tộc sau khi cha mẹ chết, người ta ăn thịt cha mẹ để tỏ lòng hiếu thảo, trong khi ở nơi khác, làm như vậy là vô luân. Ngay như ở nước ta, cha mẹ qua đời phải chôn cất, xây mộ chứ không hoả táng như ở Ấn Độ; nhưng đến nay, hoả táng ngày càng được áp dụng rộng rãi và có thể trong tương lai sẽ thay thế dần cho phương pháp chôn cất. Ngày xưa, việc vua kết hôn là việc trọng đại, nhưng vào đời nhà Đinh, vua có đến năm bà hoàng hậu; trong khi các đời sau dù vua có bao nhiêu vợ cũng chỉ có một bà được phong làm hoàng hậu mà thôi. Đời nhà Trần, để bảo vệ ngai vàng, người trong họ được lấy nhau, trong khi đối với các đời sau, đó lại là chuyện loạn luân.

Từ những hiện tượng đó, ông đi đến kết luận

Người ta có thể thay đổi được luân lý mà không thể thay đổi được đạo đức.[1] Ấy luân lý và đạo đức khác nhau là thế. Nói cho rõ hơn thì luân lý như cái áo tuỳ người lớn nhỏ mà thay đổi, nhưng cũng không mất hình cái áo đi, chí như đạo đức thì như cơm, như nước, như đồ bổ dưỡng, cần cho mọi người, dẫu muốn thay đổi cũng không thay đổi được; thay đổi được thì là đạo đức giả. (NQT, tr. 479; NVD, tr. 931)

Người ta có thể không đồng ý với Phan Châu Trinh về sự phân biệt hai khái niệm “đạo đức” và “luân lý” hoặc không tán thành quan niệm của ông về giá trị vĩnh cữu, phổ quát của các giá trị đạo đức. Nhưng bởi vì ông không phải là một nhà đạo đức học hoặc một triết gia, chúng ta có thể tạm gác lại việc tranh luận lý thuyết xung quanh những vấn đề này. Ở đây, chúng ta chỉ cần xem xét chủ ý của ông khi đưa ra hai khái niệm đó.

Như chúng ta đã biết, kể từ khi phát động phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh nuôi một hoài bão rất lớn : làm thay đổi toàn bộ nền văn hoá cổ truyền để đưa dân tộc ta đến với những giá trị mới mang tính nhân loại, giúp đất nước ta hội nhập vào thế giới văn minh hiện đại. Do đó, điều quan trọng trước hết là phải phân biệt cái cần bảo tồn, phát huy cái cần xoá bỏ triệt để  trong di sản văn hoá truyền thống. Khi đưa ra hai khái niệm “đạo đức” và “luân lý”, ông muốn phân biệt “đạo đức”cái cần gìn giữ, phát huy với “luân lý “ là cái có thể thay đổi và cần thiết phải thay đổi để phù hợp với thời đại mới.

Đối với Phan Châu Trinh, những nguyên lý đạo đức, những giá trị đạo đức như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm,… chính là những tinh hoa của Nho giáo đã làm thành “cái tính chất của dân tộc”. Trải qua quá trình lịch sử tiến hoá, những tinh hoa đó đã trải qua thử thách, kết tinh thành viên ngọc mài không mòn, thành sắt nguội đánh không vỡ, bền vững với thời gian, và ông tin rằng trong tương lai, khi hội nhập với thế giới, các giá trị đạo đức ấy vẫn cần thiết cho dân tộc ta :

“Đạo đức đây chỉ rằng : “Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn vũ, đã có một cái lịch sử chính đáng, thì phải gìn giữ những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình”, nghĩa là gìn giữ lấy những đức hay tính tốt mấy trăm nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nước nào, dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại, là một cái tính chất của một dân tộc đã trải lâu năm kết tinh lại như hòn ngọc mài không mòn, như sắt nguội đánh không bể thì mới gọi là đạo đức được.” (NQT, tr. 476; NVD, tr. 928)

Chính vì vậy, ông chủ trương “giữ gìn đạo đức Nho giáo” để tạo ra nền tảng cho công cuộc đổi mới; đồng thời “thay đổi luân lý Nho giáo” nhằm đưa nước Việt Nam trở thành một quốc gia dân chủ, chuẩn bị điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, hội nhập vào thế giới văn  minh, hiện đại.

Theo quan niệm của Nho giáo, đạo đức được thể hiện thành luân lý thông qua năm mối quan hệ của người đời là : vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn; thường được gọi là ngũ luân. Luân lý cũng được thể hiện trong ba lĩnh vực từ hẹp đến rộng bao gồm : gia đình, quốc giaxã hội, mà nhà Nho tổng kết bằng câu : “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [2].

Phan Châu Trinh đánh giá rằng tinh hoa của đạo đức Nho giáo được tập trung trong lĩnh vực luân lý gia đình :

“Trên tôi đã nói luân lý của ta có năm mà thuộc về gia đình hết ba, nghĩa là cha con, anh em, vợ chồng. Nếu nói theo đúng trí tưởng luân lý từ xưa để lại mà làm cho đúng thì tưởng cũng không còn chỗ nào chỉ trích được.” (NQT, tr. 484; NVD, tr. 934-935)

Do đó, muốn khôi phục lại nền đạo đức cũ, trước hết phải khôi phục lại luân lý gia đình để làm nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới. Nhưng tại sao phải khôi phục lại luân lý gia đình trước khi tiếp thu đạo đức luân lý của Âu Tây ? Về vấn đề này, ông phát biểu như sau :

Có người hỏi luân lý ta mất thì ta đem luân lý của Âu châu về ta dùng hẳn có được không ? Tôi xin trả lời rằng : không. Một nước luân lý cũ đã mất là nước không có cơ sở, nay bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu ?

Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một cây rất tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy. (NQT, tr. 505-506; NVD, tr. 954-955)

Nói “cứu chữa cây luân lý cũ” hay “khôi phục lại nền đạo đức cũ” của ta không có nghĩa là khôi phục lại luân lý gia đình y nguyên như xưa. Ngược lại, chúng ta phải biết gạn lọc, rút tỉa những gì cần gìn giữ, phát huy và những gì là cái cần phải loại bỏ. Bởi lẽ, trải qua chế độ quân chủ, luân lý gia đình của các nước Á Đông đã phần nào bị hư hỏng, không còn theo đúng tinh thần của đạo Khổng Mạnh nữa.

Có một số nguyên nhân làm cho luân lý Nho giáo thoái hoá, không còn theo đúng tinh thần của đạo Khổng Mạnh.

Nguyên nhân thứ nhất là do chế độ quân chủ chuyên chế lợi dụng luân lý gia đình để củng cố quyền lực của vua, qua đó làm hỏng luân lý gia đình. Để tăng cường quyền lực quân chủ, vua và tầng lớp quan lại đã đồng thời tăng cường vai trò của người cha, người chồng trong gia đình; nói cách khác là ách áp bức của triều đình được tăng cường thêm bởi ách áp bức của người cha, người chồng trong gia đình :

“Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lại lập mưu kéo cả kẻ làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm bẫy độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ.” ((NQT, tr. 484; NVD, tr. 935)

Hậu quả là gia đình trở thành nơi tập rèn tính nô lệ cho người dân Việt ngay từ nhỏ :

“Ta thử xem gia đình của ta bây giờ thì cha mẹ coi con như của, nói rằng của mình đã sinh ra [3], mình muốn thế nào thì phải thế. Đại khái cha mẹ không muốn lo việc đời, thì cũng không cho con lo vệc đời, cha mẹ không muốn đi xa cũng không muốn cho con đi xa, cha mẹ muốn lòn cúi cửa ông lớn này, ông lớn nọ để con làm các sở cho vẻ vang thì cũng bắt con như thế, thật không còn gì là cho con một chút tự do. Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn như các nhà nghèo dạy con thì  tát, thì chưởi, thì đánh, rồi nói rằng thương con cho roi cho vọt, mà không biết rằng làm như thế là nuôi cho con một cái tính phục tùng nô lệ. Khi còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không khí chuyên chế trong trường học (tính người mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người . Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.” (NQT, tr. 485-486; NVD, tr. 936-937)

Nguyên nhân thứ hai là trong khi thực hành luân lý Nho giáo, giới “thượng lưu” và “trung lưu” ở nước ta đã chú trọng hình thức mà xem nhẹ nội dung, biến lễ nghĩa trở thành một thứ hình thức trang trí, thậm chí trở thành “đạo đức giả” :

“Trong luật ta cho cha mẹ và chồng có quyền nhiều. Đạo cha con xem ra thì chỉ còn thấy những kẻ tay lấm chân bùn còn biết cắm cúi lo làm để nuôi cha nuôi mẹ, chí như bọn thượng lưu trung lưu thì ta không còn thấy đến chữ hiếu nữa.

Bọn ấy phần nhiều mượn những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho mang vào để che miệng thế gian, chớ không có chút gì gọi là hiếu là thuận cả. Nào là nằm đường, nào là chống gậy, nào là khóc mả, nào là ở dơ, nhưng kỳ trung có thương xót, có yêu dấu gì đâu [4], chỉ đem một trò giả dối diễn ra trước mặt mọi người mà thôi vậy. Chẳng những bọn ấy giả dối trong khi cha mẹ họ tử hậu mà trong lúc sinh tiền họ cũng không ăn ở thật lòng.” (NQT.,tr. 486; NVD, tr. 937)

Nhưng Phan Châu Trinh cũng nhận xét rất xác đáng rằng những thứ “luân thường đạo lý” mà bọn “tà nho” ở Trung Quốc và Việt Nam đặt ra một cách trái tự nhiên thì khi đem ra thực hành, người dân cũng đã tự mình sửa chữa một phần nào :

“Về đạo vợ chồng thì ta vẫn nói là “phu xướng phụ tuỳ” [5], là “thiếp phụ dĩ thuận vi chính” [6], hoặc “xuất giá tùng phu” [7], song ta coi thì rút cục lại nhà nào thuận hoà tức là vợ chồng nhà ấy có đạo đức, có tính cách ngang nhau mới được thế. Nếu nhà nào vợ khôn hơn chồng thì vợ làm chủ. Xem đó thì cũng đủ biết rằng sự gì gầy dựng ra không theo tính tự nhiên của loài người thì dẫu có quyền chuyên chế mạnh đến đâu cũng không buộc người ta theo được.” (NQT.,tr. 486; NVD, tr. 937)

Tóm lại, theo ông, ưu điểm lớn nhất của đạo đức Nho giáo được thể hiện trong luân lý gia đình. Nhưng không thể giữ y nguyên luân lý gia đình như trước, mà phải gạn lọc lại hoặc thay đổi cho phù hợp với thời đại; và nhất là phải thuận theo “tính tự nhiên của loài người”. Ông tin rằng cái gì không hợp với lẽ tự nhiên, với nhân tính thì không sớm thì muộn cũng bị đào thải, dù áp chế đến đâu cũng không buộc người ta theo được.

Ông còn nhấn mạnh : khôi phục lại nền đạo đức cũ không phải là khôi phục những luân lý mang tính chất chuyên chế, mà là khôi phục lại những mối quan hệ trong gia đình phù hợp với “đạo đức trung dung” của Khổng Mạnh :

“Tôi cũng đã biết rằng muốn khôi phục lại nền đạo đức của một nước mà trăm việc đều đổ nát như thế này, không phải là việc dễ. Nhưng nay ta bảo rằng khó, không khôi phục lại nền đạo đức cũ thì biết bao giờ mới mở mặt được với người. Tôi nói đạo đức cũ không phải là con phải làm tôi mọi cho cha, vợ phải làm tôi mọi cho chồng, tôi phải làm tôi mọi cho vua đâu, mà chính là cái đạo đức trung dung của Khổng Mạnh, đem dùng vào đời nào cùng nước nào cũng được, không cổ, không kim, không Đông, không Tây như tôi đã nói đó vậy. Đạo ấy ở trong những câu : “Sĩ khả sát, bất khả nhục” (Giết người học trò được, mà làm nhục họ thì không được). “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” (Giàu sang không mê được lòng mình, nghèo hèn không đổi được chí mình, sức mạnh không buộc mình cúi đầu, được thế mới gọi là đại trượng phu),v.v…(NQT., tr. 507-508; NVD, tr. 956-957)

Đạo Khổng Mạnh và ý thức hệ Nho giáo

Theo Phan Châu Trinh, Nho giáo chân chính nằm ở đạo Khổng Mạnh nguyên thuỷ chứ không phải là thứ Nho giáo bị chuyên chế hoá đã được đem vào áp dụng ở nước ta từ thế kỷ 15. Bởi vì từ Nho giáo du nhập vào nước ta là thứ Nho giáo ở Trung Quốc đã bị biến dạng, thoái hoá kể từ sau đời nhà Tần.

Là một nhà hiền triết sống vào thời cổ đại, Khổng Tử chủ trương “quân dân tịnh trọng” (vua và dân đều trọng như nhau). Vua và dân đều cần có đạo đức luân lý, nghĩa là dân phải kính trọng vua như cha mẹ mà vua cũng phải suy từ lòng đó yêu thương dân như con đỏ vậy. Từ vua đến dân đều phải lấy việc “tu thân” (sửa mình, rèn luyện bản thân) làm gốc, điều đó thể hiện tinh thần bình đẳng giữa vua và dân. Theo Phan Châu Trinh, nếu áp dụng quan niệm đó một cách đúng đắn, người ta có thể tiến đến một  thể chế “quân dân cộng trị” (vua và dân cùng nhau cai trị), tức là chế độ quân chủ lập hiến (monarchie constitutionnelle, constitutional monarchy) :

Hiện nay có nước Anh, nước Bỉ và nước Nhật đang theo chính thể ấy. Dân trí hai nước trên đã tiến tới nhiều, cho nên quyền vua cũng đã giảm bớt nhưng dân vẫn thương vua mà vua cũng vẫn yêu dân. Nước Nhật thì có kém thua nhưng đã theo chính thể lập hiến thì trước sau rồi cũng tới nơi vậy. (NQT, tr. 499-500; NVD, tr. 949)

Phan Châu Trinh đặc biệt đề cao Mạnh Tử, với quan niệm : “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân quý hơn hết, đất cát thứ nhì, vua là nhẹ hơn cả). Ông gọi đó là chủ nghĩa dân chủ [8].

Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy chỗ hạn chế của tư tưởng Khổng Mạnh:

Đức Khổng đã nói rằng : Vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua không thương dân thì dân phải làm sao ? Tiếc thay ! Ngài không dạy đến. Ông Mạnh cũng nói rằng : Dân quý mà vua khinh, nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua quý mà dân khinh thì dân phải làm sao ? Ông cũng không hề nói đến. Vậy cho nên từ khi Khổng Mạnh đã qua rồi thì dân Tàu cũng thế mà dân ta cũng thế, hễ họ vua nào hơn thì lấy được nước, họ vua nào thua thì mất nước; vua công minh [9] thì dân theo, vua tàn bạo thì dân giết, thành ra đời nào bền lắm là mấy chục năm, thay đổi tranh giành gây ra lắm cuộc trị, loạn làm cho giết hại lẫn nhau; cha giết con, con giết cha, anh giết em, em giết anh, vua giết tôi, tôi giết vua, không còn gì là đạo lý luân thường nữa. (NQT, tr. 500; NVD, tr. 949-950)

Nói cách khác, Nho giáo tuy có mầm mống của tư tưởng dân chủ nhưng lại không sáng tạo ra được một cơ chế nào để hạn chế được sự chuyên quyền cũng như bảo đảm việc chuyển giao quyền lực từ đời này sang đời khác một cách công bằng, hợp lý; vì vậy hết trị lại tới loạn, từ triều đại này sang triều đại khác chủ yếu cũng dựa trên sức mạnh chứ không phải dựa trên lòng dân. Ngay cả những triều đại dựa vào dân để chống ngoại xâm thắng lợi thì ngay khi nắm được chính quyền cũng nhanh chóng rời xa dân, coi việc bảo vệ ngai vàng là trên hết. Đó chính là nguồn gốc sâu xa của những bi kịch như vụ án “Lệ Chi Viên” đã đem lại cái chết thảm khốc của nhà nho vĩ đại Nguyễn Trãi vào năm 1442.

Ở Trung Quốc, sau khi nhà Tần thất bại trong việc đàn áp Nho giáo, vương triều nhà Hán và các triều đại sau đó thay đổi chính sách, công kênh Khổng Mạnh lên và tìm cách lợi dụng Nho giáo. Kể từ khi trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho giáo đánh mất tinh thần “vì dân” của Khổng Tử, xa rời “chủ nghĩa thân dân” của Mạnh Tử, thoái hoá thành một thứ ý thức hệ bảo vệ ngôi vua, bảo vệ quyền quân chủ.

Trong bài nói chuyện “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”, Phan Châu Trinh có nhận xét về thủ đoạn khôn khéo này của các vương triều Á Đông. Theo ông, chế độ quân chủ ở châu Âu bộc lộ sự chuyên chế một cách rõ ràng hơn, do đó không lừa dối được dân một cách lâu dài :

“Vua Âu châu ở xứ thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng [10]                                                                                                                                                mà ngay thực, cho đến sự độc ác cũng vậy. Lúc trước [11] muốn đè nén dân thì phải thông đồng với Giáo hội, bày đặt ra nói ông vua là ông Thần Trời, thay mặt cho Thần Trời, hay là Thần Trời hoá thành ra, nghĩa là ông vua không phải một loài với dân thì dân phải tôn kính ông vua. Nhưng mà những cái lẽ đó là cạn cùng giả dối [12], chỉ có phỉnh dân ngu được một lúc mà thôi, cho nên sau rồi ở Âu châu cái dân quyền càng mạnh chừng nào thì quân quyền càng xếp lại chừng nấy.” (NQT, tr. 457-458; NVD, tr. 971-972)

Như chúng ta đã biết, ở châu Âu, lý thuyết “quyền của thần linh” (droit divin, divine right) giải thích rằng quyền lực của nhà vua bắt nguồn từ Thiên Chúa (Chúa Trời). Từ thế kỷ 17,  Thomas Hobbes và sau đó là John Locke đã bác bỏ lý thuyết này. Cuộc tranh luận xung quanh vấn đề nguồn gốc của quyền lực chính trị vào các thế kỷ 17, 18 đã mở đường cho các lý thuyết chính trị mới đưa các nước Tây Âu và Bắc Mỹ vào thời đại dân chủ.

Nhưng vua ở Á Đông thì “khéo” hơn (xảo quyệt hơn). Các triều đại quân chủ tìm cách lợi dụng Nho giáo để lừa mị dân, củng cố cho quân quyền :

“Vua Á Đông thì họ không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông Khổng, ông Mạnh, hoặc ở trong các sách cổ những câu nói có nhiều nghĩa để họ dựa vào đó; họ lập ra pháp luật để bó buộc cai trị dân [13]; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra ngoài cái hàng bà con của dân mà họ lại đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói “quân, sư, phụ”, lại thường nói “vua, cha, chồng”. Dù ở chốn hương thôn dốt nát không biết ông vua thế nào, nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng, thì họ cũng cho đứng vào đám thân thiết. Dân ngu thì họ cứ kính, cứ yêu,[14] chớ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người ta .” (NQT, tr. 458; NVD, tr. 972)

Bên cạnh việc biến Nho giáo thành một ý thức hệ để bảo vệ quyền quân chủ, các triều đình Á Đông còn tạo ra một tầng lớp quý tộc dựa vào quan văn là chính, còn quan võ thì chủ yếu là những kẻ dốt nát :

“Dân bên Âu châu thượng võ, cho nên dòng quý tộc chư hầu phải có võ công mới lên được, mà đã lên được thì khó mất lắm. Còn bên Á Đông này, cái cánh [15] quý tộc lại chuộng thi văn, mà trong thi văn đó ai đậu mới được làm quan, ai không đậu thì thôi, bên quan võ thì chỉ hồi có giặc hay là hồi khai quốc mới có người tài thật, kỳ dư thi võ chức chỉ là để thưởng cho những người dốt nát [16]. Thí dụ như một người đi lính từ 20 tuổi đến 50 tuổi, thì thế nào cũng lên được chức lãnh binh, đề đốc, hưởng được cái mùi phú quý [17] ít năm, nghĩa là mình ăn ở miễn cho người ta đừng ghét là được. Ấy là cái mưu quân chủ rèn tập cái trí dân ở Á Đông làm cho khờ khỉnh. “ (NQT, tr. 458-459; NVD, tr. 972-973)

Nhưng chế độ quân chủ chỉ làm cho dân ngu chứ không thể làm cho nước ngoài ngu, do đó tạo ra được một chính quyền mạnh đối vối dân, nhưng lại yếu hèn, nhu nhược  đối với nước ngoài :

“Có hay đâu giữ khéo thì dân trong nước không động đến ngôi vua của con cháu thật, nhưng mà ngoại quốc lấy thì dễ như chơi, bởi vì dân nó ngu! Nó không biết nước là cái gì cả .[18] Ta thử xem cái gương nhà Tống trước thì mất với Liêu rồi sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông cổ, còn nhà Minh thì lại mất với Mãn châu, Cao Ly thì mất với Nhật, Việt Nam thì mất với Tây.

Thương hại thay trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó chi đến cái lợi hại dân tộc, chỉ lo tính toán mà đè nén cái trí dân, để mà giữ chặt cái chìa khoá tủ sắt ngôi Thiên tử cho con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu thì nước phải yếu, vua quan lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. Nếu dân ngu quá, yếu quá, không đủ dấy loạn được, thì các nước khác nó tràn vào, ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái ngôi vua thay đổi luôn, cũng như cái ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.” (NQT, tr. 460; NVD, tr. 973-974)

Do nhận định như vậy, cho nên Phan Châu Trinh công kích Nho giáo đời sau mà không công kích đạo Khổng Mạnh, tức Nho giáo chân chính. Theo ông, từ đời Tần Thuỷ Hoàng, đạo nho chân chính không còn nữa :

“Xét cái lịch sử quân chủ ở Á Đông này thì chúng ta biết rằng từ Tần Thỉ Hoàng về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật trong nước không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ còn sót lại một hai điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén dân.” (NQT, tr. 457; NVD, tr. 971)

Đối với lịch sử của chế độ quân chủ ở nước ta, ông ca ngợi nhà Trần là một triều đại còn giữ được mối quan hệ tốt đối với dân :

Trừ ra đời nhà Trần thì vua với dân gần nhau lắm. Con vua cũng đi chơi với con dân, những kẻ phụ lão đều được dự bàn việc nước, và những khi vua đã truyền ngôi cho hoàng thái tử rồi thì thường đi khắp dân gian xem xét phong tục, chính trị, để sửa sang lại cho hiệp với lòng ước vọng của dân; cho nên dân mến đức mà cảm phục, mấy lần tử chiến với giặc Mông Cổ, mấy phen hiệp sức để giúp nhà vua mới được thắng trận một cách vẻ vang như thế. (NQT, tr. 488; NVD, tr. 939)

Trở lại với tinh thần “vì dân”, với “chủ nghĩa thân dân” của Khổng Mạnh chính là tạo tiền đề tiến đến chế độ dân chủ, bởi lẽ “đạo Khổng Mạnh”, tức Nho giáo chân chính, không đối lập với dân chủ hoặc với văn minh Âu châu :

“Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc rất thần hiệu để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về. Đạo Khổng Mạnh là đạo trung dung thường dùng như cơm nước thường ngày; như kính trọng cha mẹ, như thương người đồng loại, chớ không phải mê tín như các đạo khác. Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng [19] thêm đạo Khổng Mạnh ra.” (NQT, tr. 500-501; NVD, tr. 950)

Chính vì những lẽ đó, Phan Châu Trinh cho rằng đạo đức Nho giáo chân chính vẫn là cái gốc để dân tộc ta bước vào thế giới văn minh, vẫn là nền tảng để xây dựng chế độ dân chủ, sau đó tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội :

Nếu ta giữ được một ít đạo đức của ta, thâu thái một ít đạo đức của Âu châu đem về hoà lại [20], rồi khuếch trương luân lý ta ra cho có quốc gia luân lý, nghĩa là khiến dân Việt nam ai ai cũng đều biết nghĩa vụ đối với nước Việt Nam. Được như thế thì chẳng những nước Việt Nam sau này giàu mạnh, mà trong thế giới này bất kỳ dân nào muốn đến ăn chung ở đậu trên miếng đất này cũng không dám đem lòng khinh dể ta như ngày nay nữa.” (NQT, tr. 508; NVD, tr. 957)

 

Những điều cần học hỏi nơi văn minh Âu Tây :

Đạo đức Nho giáo chỉ phát huy trong phạm vi gia đình, nhưng lại thất bại khi bước sang lĩnh vực quốc gia. Dưới thời quân chủ, ở nước ta không có luân lý quốc gia :

Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có. Tôi xin nói tạm rằng quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không nói đến “dân và nước” vì dân không được bàn việc nước !” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 937-938)

Nói cách khác, “luân lý quốc gia” dưới chế độ quân chủ thực chất cũng chỉ là một thứ “luân lý gia đình” mở rộng. Vua quan coi dân như con, cư xử với dân như con cái, nhưng tệ hơn so với quan hệ cha-con bởi vì vua không có trách nhiệm gì với dân nhưng một khi nổi giận lại có thể “giết cả ba họ” (tru di tam tộc) [21]. Phan Châu Trinh so sánh quan hệ vua-tôi với quan hệ cha-con :

"Mà còn ông cha, ông thầy, ông chồng thì có làm ích cho ta, chớ có khi nào làm hại làm ác như thế. Còn khi cha mẹ ta đẻ ta ra, thì đói, no, sống, chết thế nào cũng ở trong tay cha mẹ ta, nào ông vua có biết đến đâu. Thế mà đến hồi tuổi ta lồng lộng [22] lớn lên thì đánh một tiếng là “tôi trời con vua ”. Ông vua muốn cho sống thì được sống, ông vua muốn cho chết thì phải chết, ta không có thể chối được, là nghĩa lý gì ?” (NQT, tr. 458; NVD, tr. 972)

Vì chế độ quân chủ hạn chế đạo đức Nho giáo trong phạm vi luân lý gia đình, cho nên muốn tiến lên luân lý quốc gia, cần phải học hỏi ở văn minh Âu Tây. Nói cách khác, muốn xây dựng đạo đức luân lý phù hợp với chế độ dân chủ, phải học hỏi nơi các nước phương Tây. 

Để phân biệt luân lý gia đình với luân lý quốc gia, luân lý xã hội, Phan Châu Trinh sử dụng các khái niệm tư đức công đức. Những giá trị đạo đức truyền thống (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần kiệm,…) mà Nho giáo đã đem lại cho dân tộc Việt Nam trong phạm vi luân lý gia đình được gọi là tư đức (đạo đức riêng) hay đạo đức nhỏ . Khi bước sang lĩnh vực luân lý quốc gia và luân lý xã hội, cần có những giá trị đạo đức mới gọi chung là công đức (đạo đức chung) hay đạo đức lớn. Đạo đức lớn tạo điều kiện cho đạo đức nhỏ phát triển; ngược lại, nếu đạo đức lớn không có thì đạo đức nhỏ cũng không còn :

Đạo đức lớn ta không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của mỗi người, ta có hay không ? Thưa rằng : Không ! Một xứ đã bị chuyên chế thì tính chất gì thuộc về đạo đức cũng không thể nào sinh sản được. (NQT, tr. 498; NVD, tr. 947)

Để có thể hiểu rõ hai khái niệm tư đức công đức, chúng ta cần tìm hiểu thêm quan niệm đạo đức học của Montesquieu - một trong hai nhà tư tưởng đã có ảnh hưởng lớn lao đến quan niệm chính trị của nhà chí sĩ họ Phan.

Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần của pháp luật” (De l’esprit des lois)  xuất bản vào năm 1748,  Montesquieu có sử dụng khái niệm “đức hạnh chính trị ” (vertu politique). Ông giải thích về khái niệm này như sau :

Người ta có thể định nghĩa đức hạnh đó là tình yêu đối với luật pháp và tổ quốc. Tình yêu đó đòi hỏi một sự ưu ái liên tục đối với lợi  ích chung hơn là lợi ích của riêng mình, tình yêu đó đem lại tất cả những đức hạnh riêng bởi vì những đức hạnh riêng không là gì khác hơn chính sự ưu ái đó.

 

Tình yêu đó đặc biệt gắn liền với các nền dân chủ. Chỉ trong các nền dân chủ, chính quyền được giao phó cho mỗi công dân. Giờ đây, chính quyền cũng giống như mọi thứ khác trên đời : để giữ gìn nó, phải yêu nó.” [23]

Khái niệm “đức hạnh chính trị” (vertu politique), được định nghĩa như “sự ưu ái liên tục đối với lợi ích chung hơn là lợi ích riêng” (une préférence continuelle de l'intérêt public au sien propre), là khái niệm tương đương với khái niệm “công đức” (đạo đức chung) của Phan Châu Trinh. Còn “những đức hạnh riêng” (vertus morales particulières) tương đương với khái niệm “tư đức” (đạo đức riêng), chính là những đức hạnh thông thường mà mọi người trong mọi xã hội đều phải theo.

Để tránh sự hiểu lầm, trong lời khuyến cáo viết ở đầu tác phẩm nói trên, Montesquieu còn giải thích thêm :

“Để hiểu rõ bốn quyển đầu của tác phẩm này, cần phải thấy rằng cái mà tôi gọi là đức hạnh (la vertu) trong một nước cộng hoà chính là tình yêu đối với tổ quốc, nghĩa là tình yêu đối với sự bình đẳng. Đó không phải là một đức hạnh về mặt đạo đức (vertu morale), cũng không phải là một đức hạnh của người ki-tô-giáo (vertu chrétienne), mà là đức hạnh chính trị (vertu politique); và chính nó là động cơ làm chuyển động chính quyền cộng hoà, cũng như danh dự (honneur) là động cơ vận hành chế độ quân chủ. Do đó tôi gọi  tình yêu tố quốc và tình yêu sự bình đẳng là  đức hạnh chính trị. Tôi đã có những ý tưởng mới; do vậy cần phải tìm ra những từ ngữ mới, hoặc đem lại cho những từ ngữ cũ những ý nghĩa mới. Những người không hiểu điều này cho rằng tôi nói những điều vô lý, và là những điều gây công phẫn ở tất cả các nước trên thế giới, bởi vì ở tất cả mọi nước, người ta đều mong muốn đạo đức.” [24]

Trong công đức, Phan Châu Trinh đặc biệt nhấn mạnh đến lòng yêu nước (mà ông gọi là lòng thương nước). Đây chính là giá trị đạo đức cần thiết cho người Việt Nam trong mối quan hệ giữa cá nhân với quốc gia, là giá trị chủ yếu làm nên tinh thần quốc gia, chủ nghĩa quốc gia. Giá trị này vắng bóng trong suốt lịch sử của nước ta, khiến cho nước ta không có luân lý quốc gia. Lý do là vì dưới chế độ quân chủ, quan hệ giữa người dân với quốc gia bị thu hẹp trong mối quan hệ vua-tôi, cho nên dân không biết đến lòng yêu nước mà chỉ biết đến lòng trung quân (trung thành với vua) :

“Vì thế cho nên dân chỉ biết nghĩa tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc, gặp vua tử tế, làm nhiều sự công bình thì dân thương, dám liều chết ra đánh giặc giúp vua; gặp vua tàn bạo, làm nhiều điều độc ác thì dân ghét, muốn rửa hờn, mở cửa thành cho giặc vào. Thí dụ như hồi nước Pháp đánh Bắc kỳ chỉ có 90 tên lính mà trong 24 giờ đã hạ được bốn thành, mà lính Nam không ai ra bắn trả lại một phát súng. Hồi ông Nguyễn Huệ kéo quân ở Huế ra Thăng Long, Nguyễn Chỉnh [25] có quân đóng ở đó, song chưa đánh đã thua, khiến vua Chiêu Thống phải chạy đi đường, bị dân bóc lột [26]. Ông Mạnh có nói rằng : ”Vua coi dân như cỏ rác, thì dân coi vua như người đi đường”, đã coi như người qua đường thì còn luân lý gì. Việc gì mà chẳng bóc lột.” (NQT, tr. 488; NVD, tr. 938-939)

Lòng yêu nước của nhân dân ta đã bị “cái độc chuyên chế” giết chết, vì người dân không được bàn chuyện chính trị, không được lo việc nước :

“Không phải là cái độc chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong óc người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương nước đã có luật Gia Long cấm. Những kẻ học trò và dân gian không được nói đến việc nước, lo đến việc nước.” (NQT, tr. 489; NVD, tr. 940)

Đáng lẽ là một giá trị đạo đức được vinh danh, trong một xã hội chuyên chế lòng yêu nước lại trở thành một nỗi tủi nhục; người yêu nước bị khinh như kẻ tội phạm :

“Thương nước thì phải tội tù (!) cho nên những người nhà thế phiệt giữ mình cho đến nỗi uốn nắn con từ trong nhà, lấy sự lo việc đời, sự thương nước làm sợ. Sợ quá! Hình như nói đến sự đó thì phải bị khinh, bị nhục như kẻ cắp kẻ trộm vậy.” (NQT, tr. 489; NVD, tr. 940)

Phan Châu Trinh cho rằng cần phải khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân ta thì nguyện vọng tự do, độc lập của dân tộc ta mới thành tựu được :

“Từ nay người dân Việt Nam ta phải biết thương nước là tính tự nhiên trời đã phú cho, không thù nghịch gì với người Pháp. Phải có quốc gia luân lý in sâu vào óc thì ước ao tự do độc lập của dân tộc ta sau này mới thành tựu được.” (NQT, tr. 491-492; NVD, tr. 942)

Phan Châu Trinh coi lòng yêu nước là cốt lõi của chủ nghĩa quốc gia, của chế độ dân chủ là bởi vì cũng như Montesquieu, ông tin rằng lòng yêu nước mới chính là động cơ làm chuyển động chế độ dân chủ (chế độ cộng hoà) :

Ông Montesquieu có nói : “Dân sống dưới quyền chuyên chế của nhà vua thì chẳng biết gì là đạo đức cả, chỉ lấy vị thế làm lớn nhỏ, làm danh dự mà thôi [27], duy dân chủ mới thật còn có đạo đức.” (NQT, tr. 497; NVD, tr, 947)

Chữ “đạo đức” nói ở đây tức là “đức hạnh chính trị” (vertu politique), “tình yêu tổ quốc” (l'amour de la patrie) trong quan niệm của Montesquieu, cũng chính là cái mà Phan Châu Trinh gọi là lòng thương nước, thuộc về phạm trù công đức (đạo đức chung) hay đạo đức lớn.

Mặt khác, ông nhấn mạnh lòng yêu nước bởi vì ông tin rằng nó sẵn có mầm mống trong bản chất của người dân Việt :

Nay mình trả lời như thế này thì họ cấm sao được : “Một nòi dân cùng một giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong miếng đất [28] mà ông cha nó đã đổ máu, đổ mồ hôi, đổ nước mắt để vỡ vạc ra, thành ra một nước lưu truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì được hưởng quyền lợi trong miếng đất ấy, được sống ở đó, chết chôn ở đó, giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm không ai cấm đoán được. Loài dân ấy không như đám Do Thái ở Âu châu, đi đâu cũng bị ngược đãi, không như bọn Hắc nô ở Mỹ châu đi tới đâu cũng bị giết chóc, thì cũng không khi nào chịu quên ơn miếng đất mà chúng nó thường gọi là “Tổ quốc” của chúng nó bao giờ. Một loài dân như thế nay bảo nó đừng thương “Tổ quốc” thì bảo nó thương ai?” Nếu ta trả lời hẳn hoi như thế thì dầu gặp kẻ tàn bạo nào cũng không thể bỏ ta được. Thế thì sao [29] ta không dám nói thương nước ? (NQT, tr. 490; NVD, tr. 940-941)

Điều cần nhấn mạnh là lòng yêu nước trong quan niệm của Phan Châu Trinh không đi kèm với lòng hận thù đối với dân tộc khác, không đi kèm với tiếng đao kiếm hoặc tiếng súng :

“Cái “thương nước” tôi nói đây không phải là xúi dân “tay không” nổi lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác về phá loạn trong nước đâu ! Tôi xin thưa : Nước ta đã hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, thì bây giờ ta phải đem lòng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau. Hễ người ta làm việc gì bất công thì mình phải hiệp sức nhau lại mà chống, còn làm việc gì phải chăng thì mình cũng phải nhìn nhận, chớ có thấy chính quyền mình mất rồi mà đem lòng căm tức không kể đến việc hay của người ta. Thế thì lòng thương nước của dân Việt nam có hại gì đến quyền lợi người Pháp không ? Tôi xin thưa rằng : không. Dân Việt nam thấy người nào làm hại cho nước nó thì nó ghét, đó là lẽ tự nhiên.[30]” (NQT, tr. 490-491; NVD, tr. 941)

Ông cho rằng yêu nước cũng phải yêu cho đúng cách :

“Thương nước cho phải đường mới là thương nước, nếu thương không phải đường thì đã không ích gì cho ai mà còn làm hại sinh linh nữa. Nay ta nói rằng thương nước, nhưng chỉ thương bằng lỗ miệng, nằm ỳ ra đó kêu người đến thì có khác gì đem đầu đi ở đầy tớ người này xong lại đem đầu đi ở đầy tớ với anh khác.” (NQT, tr. 491; NVD, tr. 940)

Một mặt ông chủ trương kêu gọi phát huy lòng yêu nước trong nhân dân, mặt khác ông lại kêu gọi “Pháp-Việt đề huề”, không hận thù với nước Pháp. Nhiều người cho ông là ngây thơ, là “quá tin tưởng vào thực dân Pháp”. Thực ra Phan Châu Trinh không hề là người ngây thơ. Ông không hề tin vào thiện chí của cánh hữu hoặc giới thực dân ở Pháp, cũng không trông chờ vào sự ban ơn của họ. Nhưng ông tin tưởng vào chế độ dân chủ ở Pháp, vào thế mạnh ngày càng lên cao của phong trào cánh tả. Ông không hề ỷ lại vào bên ngoài, mà trước sau vẫn chủ trương tự lực cánh sinh, và nếu còn sống chắc chắn ông sẽ tiếp tục công việc xây dựng một phong trào chính trị cánh tả ở Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Đảng Cấp tiến và Đảng Xã hội Pháp. Đó sẽ là một phong trào đấu tranh công khai, bất bạo động dựa vào sức mạnh của quần chúng. Ý định đó không thành công vì ông mất sớm, vì không có người kế tục, chứ không hẳn đã là một ý tưởng không có cơ sở thực tế.

Nhưng đạo đức chung (công đức) không chỉ bao gồm luân lý quốc gia; nó còn bao gồm cả phần luân lý xã hội. Theo Phan Châu Trinh, cái chủ ý hướng đến toàn thế giới, toàn thể loài người thực ra đã có từ trong đạo Nho chân chính :

Tuy trong sách nho có câu : “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ.” (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Hai chữ “thiên hạ” đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi. (NQY, tr. 492; NVD, tr. 942)

Ở các nước Á Đông, luân lý không nâng lên được tầm mức quốc gia thì làm sao nâng lên được tầm mức toàn thế giới ? Muốn bình thiên hạ, tức là lo đến việc của nhân quần xã hội, của thế giới, trước hết phải củng cố chủ nghĩa quốc gia, xây dựng chế độ dân chủ, sau đó mới có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, lo cho thế giới.

Do chỗ nước ta phải bước sang chủ nghĩa quốc gia trước khi tiến đến chủ nghĩa xã hội, Phan Châu Trinh chưa bàn nhiều đến những giá trị khác của đạo đức chung liên quan đến chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, ông cũng đã nêu ra một số giá trị mà ông nhận thấy trong xã hội Pháp. Đó là những nghĩa vụ của người trong nước đối với nhau như : nghĩa vụ bảo vệ người yếu, nghĩa vụ giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, còn có nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người , tức là tình nhân loại, hay là cái mà các nhà xã hội chủ nghĩa thường gọi là tinh thần quốc tế (internationalisme). Ông nhận xét về người dân các nước Âu châu như sau :

“Chẳng những họ lo ở nước họ[31] mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.” (NQT, tr. 483; NVD, tr. 934)

Điều làm chúng ta ngạc nhiên là khi nói về luân lý xã hội, Phan Châu Trinh ít nhấn mạnh đến vai trò của Nhà nước, mà lại chú ý đến đoàn thểcông đức, đến lợi ích chung (công ích). Có thể giải thích thái độ này bằng hai lý do.

Trước hết, Phan Châu Trinh cho rằng một xã hội tốt đẹp là một xã hội dựa trên đạo đức luân lý chứ không dựa trên quyền lực. Khi người dân chỉ chăm chăm chạy theo quyền lực tất đạo đức luân lý sẽ hao mòn :

Thương ôi ! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức, là luân lý cả. (NQT, tr. 495; NVD, tr. 944)

Muốn có chủ nghĩa xã hội, nghĩa là muốn làm giảm nhẹ bất công, áp bức trong xã hội, thì “người có giúp cho người không”, “người mạnh giúp cho người yếu”. Nếu chỉ lấy “sức mạnh” làm tiêu chuẩn đạo đức thì ai ai cũng “phù thịnh”, có ai dại gì mà “phù suy” ? Mặt khác,  bất cứ quyền lực chính trị nào, dù là dân chủ nhất, cũng vẫn có xu hướng dựa trên sức mạnh. Do đó, để bênh vực người yếu, giúp đỡ người nghèo, các đoàn thể của quần chúng [32] chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với các cơ quan Nhà nước. Ta nên nghe lại lời phát biểu này của Phan Châu Trinh :

“Vì sinh kế, vì lợi quyền, người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi, chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ. Tôi nói như thế chắc anh em nghĩ cho tôi ở bên Tây lâu rồi nên tán tụng như thế chăng. Xin thưa rằng dân bên Âu châu họ cũng xấu chán, dân đức của họ cũng chưa đến nỗi [33] hoàn toàn, song dân nào họ có 30 hoặc 50 phần trăm biết giữ luân lý thì tưởng cũng đủ gọi họ là có rồi. Phong tục họ có chỗ xấu mặc lòng, nhưng trong nước họ còn có đảng thượng lưu, trung lưu biết lo đời, như mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại văn hào, đại giáo dục đứng lên hô hào, nào làm sách, nào soạn kịch [34], nào diễn thuyết, cốt phá bỏ những tính hư tật xấu của người đời; rồi bọn thiếu niên xã hội, bọn thiếu niên dân chủ cũng tán thành ó ré theo để lo cứu chữa những đồi phong ác tục trong nước. Chẳng những họ lo ở nước họ mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.

Lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống là nói đến việc xã hội nhân quần! Họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?” (NQT, tr. 483; NVD, tr. 934)

Hơn thế nữa, những người có quyền lực chính trị và ngay cả chính phủ vẫn có thể là nguồn gốc của áp bức, bất công :

“Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc Chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ cho đến được công bình mới nghe. Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi chung vậy.” (NQT, tr. 493; NVD, tr. 943)

Do chỗ cá nhân không thể tự mình đấu tranh một cách lẻ loi, nhất là khi phải đối mặt với cường quyền, cá nhân phải liên kết với nhau thành đoàn thể. Đó là lý do Phan Châu Trinh nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của đoàn thể :

Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt nam phải có đoàn thể. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này. (NQT, tr. 495; NVD, tr. 945)

Xét về mặt ngôn ngữ, chữ “xã hội” mà Phan Châu Trinh sử dụng có hai nghĩa. Trước hết, xã hội  là thế giới, là nhân loại, rộng lớn hơn từng quốc gia, từng dân tộc; do đó ông xếp theo thứ tự từ nhỏ hẹp đến rộng lớn : luân lý gia đình, luân lý quốc gia, luân lý xã hội. Mặt khác, xã hội là sự liên kết giữa người này đối với người kia, đồng nghĩa với cộng đồng, tương tự như khái niệm “xã hội dân sự” (société civile, còn được dịch là xã hội công dân). Đọc những gì ông trình bày về luân lý xã hội và chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy rõ ông nhận thức được ưu thế của “xã hội dân sự” (société civile) so với “Nhà nước” (Etat) trong việc bảo vệ công ích, trong việc tạo ra một xã hội công bằng cũng như trong việc xây dựng và hoàn thiện một nền đạo đức luân lý phù hợp với từng quốc gia, dân tộc. Điều đó có thể cũng xuất phát từ chính kinh nghiệm của bản thân ông khi quan sát hoạt động của các tổ chức quần chúng của cánh tả Pháp như Liên minh Nhân quyền (Ligue des droits de l’homme), Liên minh Giáo dục (Ligue française de l'enseignement), v.v...

Tóm lại, Phan Châu Trinh chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở của chủ nghĩa quốc gia - gắn liền với một chế độ dân chủ. Nhưng để xây dựng chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa xã hội, trước hết phải khôi phục lại nền đạo đức cũ của Nho giáo để làm nền tảng tinh thần, sức mạnh ban đầu của dân tộc. Xây dựng chế độ dân chủ và chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng đạo đức của Nho giáo; đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường dân chủ-xã hội mà Phan Châu Trinh đã vạch ra cho dân tộc ta từ giữa thập niên 20 của thế kỷ trước.

Ngày nay, nhìn lại lịch sử phát triển của các quốc gia Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ thời trung cổ, chúng ta thấy có hai hướng đi khác nhau. Một số nước phát triển theo con đường được mệnh danh là “tư bản chủ nghĩa” đã trở thành quốc gia giàu mạnh hàng đầu thế giới (Nhật Bản) hoặc trong vài thập niên qua vươn lên như những “con rồng châu Á” như : Hàn Quốc (Nam Triều Tiên), Đài Loan, Singapore,… Những quốc gia này, tuy phát triển thành các nước văn minh, hiện đại, nhưng phong cách sống, phong tục tập quán, tâm lý cộng đồng,… vẫn còn mang nặng tính chất Á Đông. Lịch sử của họ cho thấy mặc dù trải qua thăng trầm, nhưng di sản Nho giáo để lại vẫn còn phát huy tác dụng tích cực. Điều đó cho thấy cái nhìn của Phan Châu Trinh quả là “viễn kiến”. Ngoại trừ Singapore vẫn còn là một quốc gia độc đảng (tuy là độc đảng “sáng suốt”), tất cả các nước kia đều dần dần chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng.

Bên cạnh đó là các quốc gia chọn con đường Marx-Lenin, như : Trung Quốc (đại lục), Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên), và Việt Nam. Ngay khi nắm quyền ở các nước này, những người cộng sản do mù quáng về ý thức hệ, đã ra sức đánh phá tan nát các giá trị đạo đức Nho giáo truyền thống bằng “cải cách ruộng đất”, bằng “cách mạng văn hoá”,v.v... Nhưng những căn bệnh tệ hại nhất mà Phan Châu Trinh đã từng mong muốn xoá bỏ cho bằng được (tức là cái “độc chuyên chế” của chế độ quân chủ) thì vẫn còn đó, và được “thăng hoa” bằng một ý thức hệ mới đầy chữ nghĩa và “nguỵ biện” hơn, đồng thời được bảo vệ một cách chặt chẽ hơn bằng sức mạnh của hệ thống chuyên chính vô sản. Như vậy là cái cần giữ lại thì bị phá bỏ, còn cái cần xoá bỏ lại được bảo tồn và nâng cấp.

Nếu xem xét một cách tinh tế, chúng ta thấy trong các quốc gia cộng sản nói trên, “luân lý quốc gia” vẫn vắng bóng vì tình yêu Tổ quốc bị ngộ nhận thành tình yêu Đảng. Lòng “trung quân” biến thành lòng “trung với Đảng”, cho nên quốc gia vẫn không thể hình thành. Nhà nước mặc dù được trang điểm bằng các loại mỹ phẩm từ “dân chủ cộng hoà” cho đến “của dân, do dân, vì dân” rốt cuộc cũng vẫn không phải là Nhà nước của toàn dân mà chỉ là cái bóng của Đảng. “Tử viết” (Thầy nói, tức Khổng Tử nói) trở thành “Marx nói” hoặc “Lenin nói”. Ý thức hệ Nho giáo được thay thế bằng ý thức hệ Marx-Lenin. Đất nước được độc lập, nhưng nhân dân không được tự do; ách thống trị vẫn còn đó, chỉ có màu da của kẻ thống trị thay đổi. Điều đau khổ nhất là người dân bị áp bức, bóc lột mà không được phép đấu tranh, không được phép lên tiếng, bởi vì đấu tranh hay lên tiếng phê bình đều dễ dàng bị diễn giải thành “âm mưu của kẻ địch” hoặc bị kết tội “gián điệp”, “phản bội Tổ quốc”,v.v...

Kể từ khi đổi mới theo hướng kinh tế thị trường, Đảng cộng sản Việt Nam nhìn sang các nước láng giềng và bất chợt nhận ra rằng họ vẫn dựa vào văn hoá truyền thống, vào đạo đức Nho giáo trong khi tiến hành công cuộc hiện đại hoá. Sách báo (vốn sẵn tinh thần “vọng ngoại”) bắt đầu ca ngợi các “con rồng” Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, và dĩ nhiên là không thể thiếu Nhật Bản. Nhưng ít có người Việt biết được rằng hơn 80 trước, một nhà cải cách hàng đầu của Việt Nam đã từng đề ra chủ trương canh tân, hiện đại hoá đất nước khởi đầu từ đạo đức Nho giáo. Nếu chủ trương của nhà cải cách đó được thực hiện, có lẽ ngày nay Việt Nam đã là nước đầu tiên ở châu Á đi theo con đường dân chủ -xã hội dựa trên nền tảng Nho giáo. Và có lẽ giới lãnh đạo và trí thức của nhiều nước Á Châu phải chạy sang học tập chúng ta thay vì chúng ta phải chạy sang học hỏi họ.

Có một câu hỏi vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời sự : tại sao nước người ta thì cứ tiến lên mà nước chúng ta lại cứ dậm chân tại chỗ, hoặc có chạy theo thì cũng lẹt đẹt chạy đằng sau người khác, không khi nào giữ được vị trí tiên phong ?

 

Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời qua một số ý kiến mà Phan Châu Trinh đã từng nêu ra và ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.

So sánh giữa đạo đức luân lý của Á Đông và của Âu Tây, sau khi đã vạch ra những “cái dở” của luân lý Âu châu như “nam nữ tự do thái quá”, “giàu nghèo cách biệt thái quá”, “mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời Trung cổ thái quá”, “trọng trí dục hơn đức dục”, “chuộng ngoại giao hơn thành thật”, v.v…ông nhận xét :

“Bệnh họ tuy nhiều nhưng họ đã có thầy thuốc để chữa ngay, nghĩa là có những nhà triết học, những nhà giáo dục lo ra trừ tệ, canh cải sửa sang cho nền đạo đức luân lý mỗi ngày mỗi cao lớn, tốt đẹp thêm, chớ không phải như ở nước ta tốt khoe xấu che làm cho một ngày thêm một xấu. (NQT, tr. 507; NVD, tr. 955-956)

Mặt khác, lý giải việc tại sao ở nước ta không có được những nhà “đạo đức” như những nhà tư tưởng tự do của Âu châu, ông giải đáp :

“Rút lại, những tôi tớ nhà vua đã tôn lên thì không ai dám đè xuống, mà những kẻ vua đã đè xuống thì không ai được tôn lên. Làm như thế thì trách nào những nhà đạo đức của nước ta không chóng mất sao được ? Người có tư tưởng tự do chẳng những ai cũng cho làm lạ, mà như vua thấy thế cũng sợ hại đến quyền chuyên chế của mình nên tự lập mưu đập chết [35] đi. Ở trong một dân tộc như thế thì những đứa nịnh hót không càng ngày càng nhiều làm sao được? “ (NQT, tr. 497; NVD, tr. 946-947)

Từ đó chúng ta có thể tạm rút ra kết luận : chỉ khi nào người Việt Nam (nhất là giới lãnh đạo và giới trí thức) từ bỏ cái thói quen “tốt khoe, xấu che”; chỉ khi nào nhà cầm quyền thôi đàn áp những người có tư tưởng tự do, còn giới trí thức thì quyết một lòng bảo vệ những người có tư tưởng tự do, chừng đó đất nước chúng ta mới có hy vọng mở mày mở mặt với thiên hạ.  

Nhưng nếu những người có tư tưởng tự do vẫn tiếp tục bị đàn áp thì sao ? Chúng ta có thể suy ra từ lời giải đáp của nhà chí sĩ họ Phan : một khi những người có tư tưởng tự do tiếp tục bị “đập chết” hay “đè xuống” thì đương nhiên “những đứa nịnh hót” sẽ ngày càng sinh sôi nẩy nở. Mà số phận của những triều đại làm sinh sôi nẩy nở những kẻ nịnh thần thì …chúng ta chỉ cần mở lại những trang lịch sử của các nước Á Đông, hoặc xem các phim truyện lịch sử của Trung Quốc đang chiếu nhan nhãn trên các kênh truyền hình của nước ta hẳn cũng có thể thấy được hồi kết cuộc.

 

Đà Lạt 8.3.2007

MAI THÁI LĨNH

Tài liệu tham khảo chính:

  • Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh - cuộc đời và tác phẩm, Nxb Văn học, 2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung);
  • TS. Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, In lần thứ hai, Nxb Văn hoá Thông tin, 2006;
  • Phan Châu Trinh – Toàn tập (I, II và III), Nxb Đà Nẵng, 2005;
  • Montesquieu, Œuvres complètes, Editions du Seuil, Paris 1964.
  • Montesquieu, De l'esprit des lois (1748), bản điện tử của giáo sư Jean-Marie Tremblay, Collection “Les classiques des sciences sociales”, Quebec, Canada, 2002.

http://www.uqac.uquebec.ca/zone30/Classiques_des_sciences_sociales/index.html

http://classiques.uqac.ca/classiques/index.php

Vì các tác phẩm của Phan Châu Trinh hiện nay vẫn chưa được các nhà nghiên cứu xử lý một cách dứt khoát về mặt văn bản học, trong khi chờ đợi một bộ Toàn tập được thực hiện một cách thật sự nghiêm túc và khoa học, tôi tạm thời sử dụng bản của Nguyễn Q. Thắng (sđd), có tham khảo bản của TS Nguyễn Văn Dương (sđd) để chỉnh lý.

 

[1] Bản của NQT in sót nửa câu làm cho câu văn tối nghĩa. Đoạn này tôi trích theo bản của NVD.

[2] Rèn luyện bản thân, quản lý tốt gia đình, cai trị vương quốc thành công, và làm cho cả thế giới được yên bình. Câu này tóm lược những nhiệm vụ mà nhà Nho phải thực hiện trong đời người, vốn là những ý tưởng rút ra từ “Đại học”, một trong bốn cuốn sách căn bản (Tứ thư) trình bày lý thuyết Nho giáo..

[3] Đoạn này theo bản của NVD. Bản của NQT ghi : “… nói rằng gia đình đã sinh ra…”.

[4] Đoạn này theo bản của NVD. Bản của NQT ghi “có yếu đuối gì đâu”

[5] Chồng xướng lên vợ nghe theo.

[6] Người vợ lẽ hay vợ chính đều lấy sự thuận theo chồng làm cốt yếu.

[7] Người phụ nữ theo quan niệm xưa luôn luôn phải lệ thuộc vào người khác : tại gia tòng phụ (ở nhà phải theo cha), xuất giá tòng phu (lấy chồng thì phải theo chồng), phu tử tòng tử (chồng chết thì phải theo con). Trong tiếng Hán-Việt, chữ  tòng còn được đọc là tùng.

[8] Gọi là chủ nghĩa dân chủ có lẽ không đúng hẳn. Có lẽ nên gọi là chủ nghĩa thân dân, nhưng quan niệm “thân dân” của Mạnh Tử gần với chế độ dân chủ ngày nay hơn là quan niệm của Khổng Tử.

[9] Bản của NVD ghi là công bình (thay cho công minh)

[10] Bản NVD ghi “hung dữ” (thay cho “hung hăng”)

[11] Bản NVD ghi “Lúc trước những ông vua Âu châu muốn đè nén dân…”

[12] Bản NVD ghi “cạn cùng, giả dối”

[13] Bản NVD ghi “bó buộc cái trí dân”.

[14] Bản của NVD không có đoạn “Dân ngu thì họ cứ kính, cứ yêu...” Đoạn trích này giữa hai bản có nhiều chỗ khác nhau. Ở đây tôi dựa vào bản của NQT là chính.

[15] Bản NQT ghi là “cái cách quý tộc”. Bản NVD ghi “cái cánh quý tộc” có lẽ hợp lý hơn.

[16] Bản NVD ghi : “kì dư thì để thưởng những người lính dốt nát” (không có ba chữ  “thi võ chức”).

[17] Bản NVD ghi “mùi quý tộc”.

[18] Bản NVD ghi “Nhưng có hay đâu giữ khéo quá thì dân trong nước nó ngu không động đến ngôi vua thật , mà các nước ngoài họ tới lấy thì dễ như chơi, nghĩa là dân nó ngu, nó không biết nước là cái gì nữa cả.”

[19] Bản NVD ghi “rõ ràng”.

[20] Bản NVD ghi “đem điều hoà lại”.

[21] “Tru di tam tộc” có thể là nguồn gốc của cái gọi là “lý lịch ba đời” dưới chế độ cộng sản.

[22] Bản NVD ghi “lổng lổng”.

[23] Montesquieu, De l’esprit des lois, IV, 5; Œuvres complètes, sđd, tr. 542.

[24] De l’esprit des lois, Avertissement de l‘auteur; Œuvres complètes, sđd, tr. 528.

[25] tức Nguyễn Hữu Chỉnh.

[26] Bản NVD ghi “…khiến vua Chiêu Thống phải chạy, đi đường bị dân bóc lột.”

[27] Bản NVD ghi “… chỉ lấy thế vị lớn nhỏ làm danh dự mà thôi,...”.

[28] Bản NQT ghi là “miền đất”, ở đây theo bản của NVD cho phù hợp với cả đoạn văn.

[29] Bản NQT không có chữ “sao" khiến cho câu văn tối nghĩa.  Có lẽ do in sót ?

[30] Bản NQT ghi “ấy là tự nhiên”. Ở đây, tôi theo bản của NVD.

[31] Bản NVD ghi “Chẳng những họ lo ở trong nước họ mà thôi,…”

[32] Tất nhiên phải là đoàn thể do quần chúng tự lập ra thật sự chứ không phải là Mặt trận và các đoàn thể quần chúng hiện nay ở nước ta, mà thực chất chỉ là những cánh tay nối dài của Đảng cộng sản.

[33] Bản NVD ghi “chưa đến cõi hoàn toàn”.

[34] Bản của NVD có thêm ba chữ “nào làm báo”.

[35] Bản NQT ghi là “đạp chết đi”. Ở đây theo bản của NVD.

 


LÝ LUẬNN    VĂN HỌC    BÌNH LUẬN    PHỎNG VẤN    VỤ ÁN LIÊN QUAN    NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ