Để xây dựng một chế độ chính trị-xã hội mới trên một đất nước
có nền văn hoá lâu đời như ở nước ta, không thể bắt đầu
từ con số không, cũng không thể khởi đầu bằng sự đập
phá, đạp đổ di sản của cha ông để lại. Khác hẳn với
những người cộng sản, và cũng khác với những người
mác-xít có xu hướng cách mạng, Phan Châu Trinh là một
nhà dân chủ - xã hội, nghĩa là một nhà xã hội chủ
nghĩa có xu hướng cải cách. Mà muốn thực hiện cải
cách thì trước tiên phải đánh giá lại một cách công bằng
nền văn hoá cũ, phân biệt được một cách khách quan
cái được và cái không được, cái hay và
cái dở, để từ đó xây dựng nên nền văn hoá mới phù
hợp với truyền thống và bản sắc của dân tộc, đồng thời
theo kịp với đà tiến bộ của văn minh nhân loại.
Nhà cải cách Phan Châu Trinh đã bắt đầu công việc đó bằng
cách đánh giá lại nền đạo đức truyền thống của nước ta.
Tại sao lại bắt đầu bằng đạo đức ? Ông giải thích như
sau :
Tôi chọn lấy
vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ
dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng,
dầu yếu, dầu mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các
dân tộc trên thế giới thì chẳng những thuần nhờ cái sức
mạnh mà thôi, mà phải nhờ có đạo đức làm gốc nữa; nhất
là dân tộc nào đã bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên
khỏi bị người đè lên thì lại cần phải có một cái nền đạo
đức vững chắc hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình. (NQT,
tr. 476; NVD, tr. 928)
Như vậy, trong cuộc chạy đua trong thời đại mới, sức mạnh
hàng đầu của một dân tộc nhược tiểu không phải là sức
mạnh vật chất hay sức mạnh quân sự, mà chính là sức mạnh
tinh thần, sức mạnh đạo đức. Một “nền đạo đức vững chắc”
chính là cái gốc, là nền tảng cho dân tộc ta có thể “hội
nhập” vào thế giới hiện đại mà không sợ thua thiệt, mà
vẫn có thể cạnh tranh với các dân tộc khác. Chính con
người làm ra của cải vật chất, chính con người cầm vũ
khí để bảo vệ Tổ quốc của mình; nhưng cái làm cho con
người thật sự trở thành con người lại chính là đạo đức.
Những điều cần gìn giữ trong di sản của Nho giáo
Để đánh giá lại di sản của Nho giáo, Phan Châu Trinh đã sử
dụng hai khái niệm “đạo đức” và “luân lý”.
Theo ông, “đạo đức” bao gồm những nguyên lý căn bản
của “đạo làm người” :
“Đã gọi là
người thì phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm.
Nhân là có lòng thương người, nghĩa là làm
việc phải, lễ là ăn ở cho có lễ độ, trí để
làm việc cho đúng, tín là nói với ai cũng giữ lời
cho người ta tin mình mới làm được việc, cần là
làm việc phải siêng năng, kiệm là ăn ở dành dụm
trong lúc no để phòng lúc đói, lúc có để phòng lúc
không,v.v…Người có đạo đức tức là người đã ở trong đạo
làm người vậy.” (NQT, tr. 478; NVD, tr. 930)
Ông cho rằng đạo đức là cái gì không thay đổi theo thời gian
và không gian, và có giá trị phổ biến :
“Đạo đức đã như
thế thì không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa,
nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng phải giữ đạo
đức ấy mới là người trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra
học thuyết nào khác nữa, dầu các chính thể khác nhau
hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hoặc cộng sản nữa, cũng
không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức, nghĩa
là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.” (NQT, tr.
478-479; NVD, tr. 930)
Nhưng đạo đức không chỉ là những giá trị tinh thần, những
nguyên lý triết học để người ta chiêm ngưỡng hay tranh
luận thuần tuý về mặt lý thuyết mà còn thể hiện trong
thực hành qua một tập hợp bao gồm những quy tắc ứng xử,
những mối quan hệ xã hội được gọi là “luân lý”.
Theo Phan Châu Trinh, đạo đức không thay đổi trong khi
luân lý lại thay đổi tuỳ theo văn hoá, tín ngưỡng, những
điều kiện sống và những nhu cầu của xã hội :
“Luân lý thì
không thế. Luân lý có thể thay đổi được luôn. Luân lý
tuỳ mỗi thời mà khác, tuỳ mỗi nơi mà khác.” (NQT, tr.
479; NVD, tr.930)
Hiện tượng luân lý thay đổi tuỳ theo thời đại, tuỳ theo hoàn
cảnh chính trị hay môi trường kinh tế-xã hội là hiện
tượng rất dễ nhận thấy. Cùng là chữ hiếu nhưng
vào thời xa xưa có bộ tộc sau khi cha mẹ chết, người ta
ăn thịt cha mẹ để tỏ lòng hiếu thảo, trong khi ở nơi
khác, làm như vậy là vô luân. Ngay như ở nước ta, cha mẹ
qua đời phải chôn cất, xây mộ chứ không hoả táng như ở
Ấn Độ; nhưng đến nay, hoả táng ngày càng được áp dụng
rộng rãi và có thể trong tương lai sẽ thay thế dần cho
phương pháp chôn cất. Ngày xưa, việc vua kết hôn là việc
trọng đại, nhưng vào đời nhà Đinh, vua có đến năm bà
hoàng hậu; trong khi các đời sau dù vua có bao nhiêu vợ
cũng chỉ có một bà được phong làm hoàng hậu mà thôi. Đời
nhà Trần, để bảo vệ ngai vàng, người trong họ được lấy
nhau, trong khi đối với các đời sau, đó lại là chuyện
loạn luân.
Từ những hiện tượng đó, ông đi đến kết luận
Người ta có thể
thay đổi được luân lý mà không thể thay đổi được đạo
đức.
Ấy luân lý và đạo đức khác nhau là thế. Nói cho rõ hơn
thì luân lý như cái áo tuỳ người lớn nhỏ mà thay đổi,
nhưng cũng không mất hình cái áo đi, chí như đạo đức thì
như cơm, như nước, như đồ bổ dưỡng, cần cho mọi người,
dẫu muốn thay đổi cũng không thay đổi được; thay đổi
được thì là đạo đức giả. (NQT, tr. 479; NVD, tr. 931)
Người ta có thể không đồng ý với Phan Châu Trinh về sự phân
biệt hai khái niệm “đạo đức” và “luân lý” hoặc không tán
thành quan niệm của ông về giá trị vĩnh cữu, phổ quát
của các giá trị đạo đức. Nhưng bởi vì ông không phải là
một nhà đạo đức học hoặc một triết gia, chúng ta có thể
tạm gác lại việc tranh luận lý thuyết xung quanh những
vấn đề này. Ở đây, chúng ta chỉ cần xem xét chủ ý của
ông khi đưa ra hai khái niệm đó.
Như chúng ta đã biết, kể từ khi phát động phong trào Duy Tân,
Phan Châu Trinh nuôi một hoài bão rất lớn : làm thay đổi
toàn bộ nền văn hoá cổ truyền để đưa dân tộc ta đến với
những giá trị mới mang tính nhân loại, giúp đất nước ta
hội nhập vào thế giới văn minh hiện đại. Do đó, điều
quan trọng trước hết là phải phân biệt cái cần bảo
tồn, phát huy và cái cần xoá bỏ triệt để
trong di sản văn hoá truyền thống. Khi đưa ra hai khái
niệm “đạo đức” và “luân lý”, ông muốn phân biệt “đạo
đức” là cái cần gìn giữ, phát huy với
“luân lý “ là cái có thể thay đổi và cần thiết
phải thay đổi để phù hợp với thời đại mới.
Đối với Phan Châu Trinh, những nguyên lý đạo đức, những giá
trị đạo đức như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần,
kiệm,… chính là những tinh hoa của Nho giáo
đã làm thành “cái tính chất của dân tộc”. Trải qua quá
trình lịch sử tiến hoá, những tinh hoa đó đã trải qua
thử thách, kết tinh thành viên ngọc mài không mòn,
thành sắt nguội đánh không vỡ, bền vững với thời
gian, và ông tin rằng trong tương lai, khi hội nhập với
thế giới, các giá trị đạo đức ấy vẫn cần thiết cho dân
tộc ta :
“Đạo đức đây
chỉ rằng : “Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn
vũ, đã có một cái lịch sử chính đáng, thì phải gìn giữ
những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình”,
nghĩa là gìn giữ lấy những đức hay tính tốt mấy trăm
nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nước nào, dân tộc
nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại,
là một cái tính chất của một dân tộc đã trải lâu năm kết
tinh lại như hòn ngọc mài không mòn, như sắt nguội đánh
không bể thì mới gọi là đạo đức được.” (NQT, tr. 476;
NVD, tr. 928)
Chính vì vậy, ông chủ trương “giữ gìn đạo đức Nho giáo” để
tạo ra nền tảng cho công cuộc đổi mới; đồng thời “thay
đổi luân lý Nho giáo” nhằm đưa nước Việt Nam trở thành
một quốc gia dân chủ, chuẩn bị điều kiện để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, hội nhập vào thế giới văn
minh, hiện đại.
Theo quan niệm của Nho giáo, đạo đức được thể hiện thành luân
lý thông qua năm mối quan hệ của người đời là : vua
tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn; thường được
gọi là ngũ luân. Luân lý cũng được thể
hiện trong ba lĩnh vực từ hẹp đến rộng bao gồm :
gia đình, quốc gia và xã hội, mà
nhà Nho tổng kết bằng câu : “tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”
.
Phan Châu Trinh đánh giá rằng tinh hoa của đạo đức Nho giáo
được tập trung trong lĩnh vực luân lý gia đình :
“Trên tôi đã
nói luân lý của ta có năm mà thuộc về gia đình
hết ba, nghĩa là cha con, anh em, vợ chồng. Nếu
nói theo đúng trí tưởng luân lý từ xưa để lại mà làm cho
đúng thì tưởng cũng không còn chỗ nào chỉ trích được.”
(NQT, tr. 484; NVD, tr. 934-935)
Do đó, muốn khôi phục lại nền đạo đức cũ, trước hết phải khôi
phục lại luân lý gia đình để làm nền tảng cho việc xây
dựng một xã hội mới. Nhưng tại sao phải khôi phục lại
luân lý gia đình trước khi tiếp thu đạo đức luân lý của
Âu Tây ? Về vấn đề này, ông phát biểu như sau :
Có người hỏi
luân lý ta mất thì ta đem luân lý của Âu châu về ta dùng
hẳn có được không ? Tôi xin trả lời rằng : không.
Một nước luân lý cũ đã mất là nước không có cơ sở, nay
bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu ?
Vẫn biết phép
chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một
cây rất tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây
kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở
nước Việt Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh hoa
tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt
đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai
bên sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt
ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta,
rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy.
(NQT, tr. 505-506; NVD, tr. 954-955)
Nói “cứu chữa cây luân lý cũ” hay “khôi phục lại nền đạo đức
cũ” của ta không có nghĩa là khôi phục lại luân lý gia
đình y nguyên như xưa. Ngược lại, chúng ta phải biết gạn
lọc, rút tỉa những gì cần gìn giữ, phát huy và những gì
là cái cần phải loại bỏ. Bởi lẽ, trải qua chế độ quân
chủ, luân lý gia đình của các nước Á Đông đã phần nào bị
hư hỏng, không còn theo đúng tinh thần của đạo Khổng
Mạnh nữa.
Có một số nguyên nhân làm cho luân lý Nho giáo thoái hoá,
không còn theo đúng tinh thần của đạo Khổng Mạnh.
Nguyên nhân thứ nhất là do chế độ quân chủ chuyên chế lợi
dụng luân lý gia đình để củng cố quyền lực của vua, qua
đó làm hỏng luân lý gia đình. Để tăng cường quyền lực
quân chủ, vua và tầng lớp quan lại đã đồng thời tăng
cường vai trò của người cha, người chồng
trong gia đình; nói cách khác là ách áp bức của triều
đình được tăng cường thêm bởi ách áp bức của người cha,
người chồng trong gia đình :
“Chẳng những
vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lại lập mưu kéo cả
kẻ làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm bẫy độc ác ấy nữa
để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ.” ((NQT, tr. 484;
NVD, tr. 935)
Hậu quả là gia đình trở thành nơi tập rèn tính nô lệ cho
người dân Việt ngay từ nhỏ :
“Ta thử xem gia
đình của ta bây giờ thì cha mẹ coi con như của, nói rằng
của mình đã sinh ra
, mình muốn thế nào thì phải thế.
Đại khái cha mẹ không muốn lo việc đời, thì cũng không
cho con lo vệc đời, cha mẹ không muốn đi xa cũng không
muốn cho con đi xa, cha mẹ muốn lòn cúi cửa ông lớn này,
ông lớn nọ để con làm các sở cho vẻ vang thì cũng bắt
con như thế, thật không còn gì là cho con một chút tự
do. Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn như các nhà nghèo
dạy con thì tát, thì chưởi, thì đánh, rồi nói rằng
thương con cho roi cho vọt, mà không biết rằng làm
như thế là nuôi cho con một cái tính phục tùng nô lệ.
Khi còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên
chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không
khí chuyên chế trong trường học (tính người mình hay
thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi
bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn
cúi người . Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính
là mang từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.”
(NQT, tr. 485-486; NVD, tr. 936-937)
Nguyên nhân thứ hai là trong khi thực hành luân lý Nho giáo,
giới “thượng lưu” và “trung lưu” ở nước ta đã chú trọng
hình thức mà xem nhẹ nội dung, biến lễ nghĩa trở thành
một thứ hình thức trang trí, thậm chí trở thành “đạo đức
giả” :
“Trong luật ta
cho cha mẹ và chồng có quyền nhiều. Đạo cha con xem ra
thì chỉ còn thấy những kẻ tay lấm chân bùn còn biết cắm
cúi lo làm để nuôi cha nuôi mẹ, chí như bọn thượng lưu
trung lưu thì ta không còn thấy đến chữ hiếu nữa.
Bọn ấy phần
nhiều mượn những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho
mang vào để che miệng thế gian, chớ không có chút gì gọi
là hiếu là thuận cả. Nào là nằm đường, nào là chống gậy,
nào là khóc mả, nào là ở dơ, nhưng kỳ trung có thương
xót, có yêu dấu gì đâu
, chỉ đem một trò giả dối diễn ra
trước mặt mọi người mà thôi vậy. Chẳng những bọn ấy giả
dối trong khi cha mẹ họ tử hậu mà trong lúc sinh tiền họ
cũng không ăn ở thật lòng.” (NQT.,tr. 486; NVD, tr. 937)
Nhưng Phan Châu Trinh cũng nhận xét rất xác đáng rằng những
thứ “luân thường đạo lý” mà bọn “tà nho” ở Trung Quốc và
Việt Nam đặt ra một cách trái tự nhiên thì khi đem ra
thực hành, người dân cũng đã tự mình sửa chữa một phần
nào :
“Về đạo vợ
chồng thì ta vẫn nói là “phu xướng phụ tuỳ”
, là “thiếp phụ dĩ thuận vi chính”
, hoặc “xuất giá tùng phu”
, song ta coi thì rút cục lại nhà
nào thuận hoà tức là vợ chồng nhà ấy có đạo đức, có tính
cách ngang nhau mới được thế. Nếu nhà nào vợ khôn hơn
chồng thì vợ làm chủ. Xem đó thì cũng đủ biết rằng sự gì
gầy dựng ra không theo tính tự nhiên của loài người thì
dẫu có quyền chuyên chế mạnh đến đâu cũng không buộc
người ta theo được.” (NQT.,tr. 486; NVD, tr. 937)
Tóm lại, theo ông, ưu điểm lớn nhất của đạo đức Nho giáo được
thể hiện trong luân lý gia đình. Nhưng không thể giữ y
nguyên luân lý gia đình như trước, mà phải gạn lọc lại
hoặc thay đổi cho phù hợp với thời đại; và nhất là phải
thuận theo “tính tự nhiên của loài người”. Ông tin rằng
cái gì không hợp với lẽ tự nhiên, với nhân tính thì
không sớm thì muộn cũng bị đào thải, dù áp chế đến đâu
cũng không buộc người ta theo được.
Ông còn nhấn mạnh : khôi phục lại nền đạo đức cũ không phải
là khôi phục những luân lý mang tính chất chuyên chế, mà
là khôi phục lại những mối quan hệ trong gia đình phù
hợp với “đạo đức trung dung” của Khổng Mạnh :
“Tôi cũng đã
biết rằng muốn khôi phục lại nền đạo đức của một nước mà
trăm việc đều đổ nát như thế này, không phải là việc dễ.
Nhưng nay ta bảo rằng khó, không khôi phục lại nền đạo
đức cũ thì biết bao giờ mới mở mặt được với người. Tôi
nói đạo đức cũ không phải là con phải làm tôi mọi cho
cha, vợ phải làm tôi mọi cho chồng, tôi phải làm tôi mọi
cho vua đâu, mà chính là cái đạo đức trung dung của
Khổng Mạnh, đem dùng vào đời nào cùng nước nào cũng
được, không cổ, không kim, không Đông, không Tây như tôi
đã nói đó vậy. Đạo ấy ở trong những câu : “Sĩ khả
sát, bất khả nhục” (Giết người học trò được, mà làm
nhục họ thì không được). “Phú quý bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại
trượng phu” (Giàu sang không mê được lòng mình,
nghèo hèn không đổi được chí mình, sức mạnh không buộc
mình cúi đầu, được thế mới gọi là đại trượng
phu),v.v…(NQT., tr. 507-508; NVD, tr. 956-957)
Đạo Khổng
Mạnh và ý thức hệ Nho giáo
Theo Phan Châu Trinh, Nho giáo chân chính nằm ở đạo Khổng
Mạnh nguyên thuỷ chứ không phải là thứ Nho giáo bị
chuyên chế hoá đã được đem vào áp dụng ở nước ta từ thế
kỷ 15. Bởi vì từ Nho giáo du nhập vào nước ta là thứ Nho
giáo ở Trung Quốc đã bị biến dạng, thoái hoá kể từ sau
đời nhà Tần.
Là một nhà hiền triết sống vào thời cổ đại, Khổng Tử chủ
trương “quân dân tịnh trọng” (vua và dân đều trọng như
nhau). Vua và dân đều cần có đạo đức luân lý, nghĩa là
dân phải kính trọng vua như cha mẹ mà vua cũng phải suy
từ lòng đó yêu thương dân như con đỏ vậy. Từ vua đến dân
đều phải lấy việc “tu thân” (sửa mình, rèn luyện bản
thân) làm gốc, điều đó thể hiện tinh thần bình đẳng giữa
vua và dân. Theo Phan Châu Trinh, nếu áp dụng quan niệm
đó một cách đúng đắn, người ta có thể tiến đến một thể
chế “quân dân cộng trị” (vua và dân cùng nhau cai trị),
tức là chế độ quân chủ lập hiến (monarchie
constitutionnelle, constitutional monarchy) :
Hiện nay có
nước Anh, nước Bỉ và nước Nhật đang theo chính thể ấy.
Dân trí hai nước trên đã tiến tới nhiều, cho nên quyền
vua cũng đã giảm bớt nhưng dân vẫn thương vua mà vua
cũng vẫn yêu dân. Nước Nhật thì có kém thua nhưng đã
theo chính thể lập hiến thì trước sau rồi cũng tới nơi
vậy. (NQT, tr. 499-500; NVD, tr. 949)
Phan Châu Trinh đặc biệt đề cao Mạnh Tử, với quan niệm :
“dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân quý
hơn hết, đất cát thứ nhì, vua là nhẹ hơn cả). Ông gọi đó
là chủ nghĩa dân chủ
.
Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy chỗ hạn chế của tư tưởng Khổng
Mạnh:
Đức Khổng đã
nói rằng : Vua phải thương dân, dân phải thương vua,
song nếu vua không thương dân thì dân phải làm sao ?
Tiếc thay ! Ngài không dạy đến. Ông Mạnh cũng nói rằng :
Dân quý mà vua khinh, nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua
bảo rằng vua quý mà dân khinh thì dân phải làm sao ? Ông
cũng không hề nói đến. Vậy cho nên từ khi Khổng Mạnh đã
qua rồi thì dân Tàu cũng thế mà dân ta cũng thế, hễ họ
vua nào hơn thì lấy được nước, họ vua nào thua thì mất
nước; vua công minh
thì dân theo, vua tàn bạo thì dân
giết, thành ra đời nào bền lắm là mấy chục năm, thay đổi
tranh giành gây ra lắm cuộc trị, loạn làm cho giết hại
lẫn nhau; cha giết con, con giết cha, anh giết em, em
giết anh, vua giết tôi, tôi giết vua, không còn gì là
đạo lý luân thường nữa. (NQT, tr. 500; NVD, tr. 949-950)
Nói cách khác, Nho giáo tuy có mầm mống của tư tưởng dân chủ
nhưng lại không sáng tạo ra được một cơ chế nào để hạn
chế được sự chuyên quyền cũng như bảo đảm việc chuyển
giao quyền lực từ đời này sang đời khác một cách công
bằng, hợp lý; vì vậy hết trị lại tới loạn, từ triều đại
này sang triều đại khác chủ yếu cũng dựa trên sức mạnh
chứ không phải dựa trên lòng dân. Ngay cả những triều
đại dựa vào dân để chống ngoại xâm thắng lợi thì ngay
khi nắm được chính quyền cũng nhanh chóng rời xa dân,
coi việc bảo vệ ngai vàng là trên hết. Đó chính là nguồn
gốc sâu xa của những bi kịch như vụ án “Lệ Chi Viên” đã
đem lại cái chết thảm khốc của nhà nho vĩ đại Nguyễn
Trãi vào năm 1442.
Ở Trung Quốc, sau khi nhà Tần thất bại trong việc đàn áp Nho
giáo, vương triều nhà Hán và các triều đại sau đó thay
đổi chính sách, công kênh Khổng Mạnh lên và tìm cách lợi
dụng Nho giáo. Kể từ khi trở thành hệ tư tưởng chính
thống, Nho giáo đánh mất tinh thần “vì dân” của Khổng
Tử, xa rời “chủ nghĩa thân dân” của Mạnh Tử, thoái hoá
thành một thứ ý thức hệ bảo vệ ngôi vua, bảo vệ
quyền quân chủ.
Trong bài nói chuyện “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ
nghĩa”, Phan Châu Trinh có nhận xét về thủ đoạn khôn
khéo này của các vương triều Á Đông. Theo ông, chế độ
quân chủ ở châu Âu bộc lộ sự chuyên chế một cách rõ ràng
hơn, do đó không lừa dối được dân một cách lâu dài :
“Vua Âu châu ở
xứ thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng
mà ngay thực, cho đến sự độc ác cũng vậy. Lúc
trước
muốn đè nén dân thì phải thông
đồng với Giáo hội, bày đặt ra nói ông vua là ông Thần
Trời, thay mặt cho Thần Trời, hay là Thần Trời hoá thành
ra, nghĩa là ông vua không phải một loài với dân thì dân
phải tôn kính ông vua. Nhưng mà những cái lẽ đó là cạn
cùng giả dối
, chỉ có phỉnh dân ngu được một
lúc mà thôi, cho nên sau rồi ở Âu châu cái dân quyền
càng mạnh chừng nào thì quân quyền càng xếp lại chừng
nấy.” (NQT, tr. 457-458; NVD, tr. 971-972)
Như chúng ta đã biết, ở châu Âu, lý thuyết “quyền của thần
linh” (droit divin, divine
right) giải thích rằng quyền lực
của nhà vua bắt nguồn từ Thiên
Chúa (Chúa Trời). Từ thế kỷ 17, Thomas Hobbes và sau đó
là John Locke đã bác bỏ lý thuyết này. Cuộc tranh luận
xung quanh vấn đề nguồn gốc của quyền lực chính trị vào
các thế kỷ 17, 18 đã mở đường cho các lý thuyết chính
trị mới đưa các nước Tây Âu và Bắc Mỹ vào thời đại dân
chủ.
Nhưng vua ở Á Đông thì “khéo” hơn (xảo quyệt hơn). Các triều
đại quân chủ tìm cách lợi dụng Nho giáo để lừa mị dân,
củng cố cho quân quyền :
“Vua Á Đông thì
họ không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông
Khổng, ông Mạnh, hoặc ở trong các sách cổ những câu nói
có nhiều nghĩa để họ dựa vào đó; họ lập ra pháp luật để
bó buộc cai trị dân
; cái ngôi vua thì gọi là con
Trời, nhưng họ cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ
không đứng ra ngoài cái hàng bà con của dân mà họ lại
đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói
“quân, sư, phụ”, lại thường nói “vua, cha, chồng”.
Dù ở chốn hương thôn dốt nát không biết ông vua thế nào,
nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng, thì họ
cũng cho đứng vào đám thân thiết. Dân ngu thì họ cứ
kính, cứ yêu,
chớ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết
cả ba họ người ta .” (NQT, tr. 458; NVD, tr. 972)
Bên cạnh việc biến Nho giáo thành một ý thức hệ để bảo
vệ quyền quân chủ, các triều đình Á Đông còn tạo ra một
tầng lớp quý tộc dựa vào quan văn là chính, còn
quan võ thì chủ yếu là những kẻ dốt nát :
“Dân bên Âu
châu thượng võ, cho nên dòng quý tộc chư hầu phải có võ
công mới lên được, mà đã lên được thì khó mất lắm. Còn
bên Á Đông này, cái cánh
quý tộc lại chuộng thi văn, mà
trong thi văn đó ai đậu mới được làm quan, ai không đậu
thì thôi, bên quan võ thì chỉ hồi có giặc hay là hồi
khai quốc mới có người tài thật, kỳ dư thi võ chức chỉ
là để thưởng cho những người dốt nát
. Thí dụ như một người đi lính từ
20 tuổi đến 50 tuổi, thì thế nào cũng lên được chức lãnh
binh, đề đốc, hưởng được cái mùi phú quý
ít năm, nghĩa là mình ăn ở miễn
cho người ta đừng ghét là được. Ấy là cái mưu quân chủ
rèn tập cái trí dân ở Á Đông làm cho khờ khỉnh. “ (NQT,
tr. 458-459; NVD, tr. 972-973)
Nhưng chế độ quân chủ chỉ làm cho dân ngu chứ không thể làm
cho nước ngoài ngu, do đó tạo ra được một chính quyền
mạnh đối vối dân, nhưng lại yếu hèn, nhu nhược
đối với nước ngoài :
“Có
hay đâu giữ khéo thì dân trong nước không động đến ngôi
vua của con cháu thật, nhưng mà ngoại quốc lấy thì dễ
như chơi, bởi vì dân nó ngu! Nó không biết nước là cái
gì cả .
Ta thử xem cái gương nhà Tống trước thì mất với Liêu rồi
sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông cổ, còn nhà Minh
thì lại mất với Mãn châu, Cao Ly thì mất với Nhật, Việt
Nam thì mất với Tây.
Thương hại thay
trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó chi đến cái
lợi hại dân tộc, chỉ lo tính toán mà đè nén cái trí dân,
để mà giữ chặt cái chìa khoá tủ sắt ngôi Thiên tử cho
con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu thì nước
phải yếu, vua quan lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như
thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. Nếu dân ngu quá,
yếu quá, không đủ dấy loạn được, thì các nước khác nó
tràn vào, ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng
không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái ngôi vua thay đổi
luôn, cũng như cái ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.” (NQT,
tr. 460; NVD, tr. 973-974)
Do nhận định như vậy, cho nên Phan Châu Trinh công kích Nho
giáo đời sau mà không công kích đạo Khổng Mạnh, tức Nho
giáo chân chính. Theo ông, từ đời Tần Thuỷ Hoàng, đạo
nho chân chính không còn nữa :
“Xét cái lịch
sử quân chủ ở Á Đông này thì chúng ta biết rằng từ Tần
Thỉ Hoàng về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật
trong nước không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ
còn sót lại một hai điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư
là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để
đè nén dân.” (NQT, tr. 457; NVD, tr. 971)
Đối với lịch sử của chế độ quân chủ ở nước ta, ông ca ngợi
nhà Trần là một triều đại còn giữ được mối quan hệ tốt
đối với dân :
Trừ ra đời nhà
Trần thì vua với dân gần nhau lắm. Con vua cũng đi chơi
với con dân, những kẻ phụ lão đều được dự bàn việc nước,
và những khi vua đã truyền ngôi cho hoàng thái tử rồi
thì thường đi khắp dân gian xem xét phong tục, chính
trị, để sửa sang lại cho hiệp với lòng ước vọng của dân;
cho nên dân mến đức mà cảm phục, mấy lần tử chiến với
giặc Mông Cổ, mấy phen hiệp sức để giúp nhà vua mới được
thắng trận một cách vẻ vang như thế. (NQT, tr. 488; NVD,
tr. 939)
Trở lại với tinh thần “vì dân”, với “chủ nghĩa thân dân” của
Khổng Mạnh chính là tạo tiền đề tiến đến chế độ dân chủ,
bởi lẽ “đạo Khổng Mạnh”, tức Nho giáo chân chính, không
đối lập với dân chủ hoặc với văn minh Âu châu :
“Chủ nghĩa dân
chủ chính là một vị thuốc rất thần hiệu để chữa bệnh
chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu châu về tức
là đem đạo Khổng Mạnh về. Đạo Khổng Mạnh là đạo trung
dung thường dùng như cơm nước thường ngày; như kính
trọng cha mẹ, như thương người đồng loại, chớ không phải
mê tín như các đạo khác. Thế thì đem văn minh Âu châu về
đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng
thêm đạo Khổng Mạnh ra.” (NQT,
tr. 500-501; NVD, tr. 950)
Chính vì những lẽ đó, Phan Châu Trinh cho rằng đạo đức Nho
giáo chân chính vẫn là cái gốc để dân tộc ta bước vào
thế giới văn minh, vẫn là nền tảng để xây dựng chế độ
dân chủ, sau đó tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội :
Nếu ta giữ được
một ít đạo đức của ta, thâu thái một ít đạo đức của Âu
châu đem về hoà lại
, rồi khuếch trương luân lý ta ra
cho có quốc gia luân lý, nghĩa là khiến dân Việt nam ai
ai cũng đều biết nghĩa vụ đối với nước Việt Nam. Được
như thế thì chẳng những nước Việt Nam sau này giàu mạnh,
mà trong thế giới này bất kỳ dân nào muốn đến ăn chung ở
đậu trên miếng đất này cũng không dám đem lòng khinh dể
ta như ngày nay nữa.” (NQT, tr. 508; NVD, tr. 957)
Những
điều cần học hỏi nơi văn minh Âu Tây :
Đạo đức Nho giáo chỉ phát huy trong phạm vi gia đình, nhưng
lại thất bại khi bước sang lĩnh vực quốc gia. Dưới thời
quân chủ, ở nước ta không có luân lý quốc gia :
Bàn đến quốc
gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên
không có. Tôi xin nói tạm rằng quốc gia luân lý của ta
từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp hai chữ vua và
tôi. Không nói đến “dân và nước” vì dân không được bàn
việc nước !” (NQT, tr. 487; NVD, tr. 937-938)
Nói cách khác, “luân lý quốc gia” dưới chế độ quân chủ thực
chất cũng chỉ là một thứ “luân lý gia đình” mở rộng. Vua
quan coi dân như con, cư xử với dân như con cái, nhưng
tệ hơn so với quan hệ cha-con bởi vì vua không có trách
nhiệm gì với dân nhưng một khi nổi giận lại có thể “giết
cả ba họ” (tru di tam tộc)
.
Phan Châu Trinh so sánh quan hệ vua-tôi với quan hệ
cha-con :
"Mà còn ông
cha, ông thầy, ông chồng thì có làm ích cho ta, chớ có
khi nào làm hại làm ác như thế. Còn khi cha mẹ ta đẻ ta
ra, thì đói, no, sống, chết thế nào cũng ở trong tay cha
mẹ ta, nào ông vua có biết đến đâu. Thế mà đến hồi tuổi
ta lồng lộng
lớn lên thì đánh một tiếng là “tôi
trời con vua ”. Ông vua muốn cho sống thì được sống,
ông vua muốn cho chết thì phải chết, ta không có thể
chối được, là nghĩa lý gì ?” (NQT, tr. 458; NVD, tr.
972)
Vì chế độ quân chủ hạn chế đạo đức Nho giáo trong phạm vi
luân lý gia đình, cho nên muốn tiến lên luân lý quốc
gia, cần phải học hỏi ở văn minh Âu Tây. Nói cách khác,
muốn xây dựng đạo đức luân lý phù hợp với chế độ dân
chủ, phải học hỏi nơi các nước phương Tây.
Để phân biệt luân lý gia đình với luân lý quốc gia, luân lý
xã hội, Phan Châu Trinh sử dụng các khái niệm tư đức
và công đức. Những giá trị đạo đức truyền
thống (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần kiệm,…) mà
Nho giáo đã đem lại cho dân tộc Việt Nam trong phạm vi
luân lý gia đình được gọi là tư đức (đạo đức riêng)
hay đạo đức nhỏ . Khi bước sang lĩnh vực luân lý
quốc gia và luân lý xã hội, cần có những giá trị đạo đức
mới gọi chung là công đức (đạo đức chung) hay
đạo đức lớn. Đạo đức lớn tạo điều kiện cho đạo đức
nhỏ phát triển; ngược lại, nếu đạo đức lớn không có thì
đạo đức nhỏ cũng không còn :
Đạo đức lớn ta
không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của
mỗi người, ta có hay không ? Thưa rằng : Không !
Một xứ đã bị chuyên chế thì tính chất gì thuộc về đạo
đức cũng không thể nào sinh sản được. (NQT, tr. 498;
NVD, tr. 947)
Để có thể hiểu rõ hai khái niệm tư đức và công đức,
chúng ta cần tìm hiểu thêm quan niệm đạo đức học của
Montesquieu - một trong hai nhà tư tưởng đã có ảnh hưởng
lớn lao đến quan niệm chính trị của nhà chí sĩ họ Phan.
Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần của pháp luật” (De l’esprit des
lois) xuất bản vào năm 1748, Montesquieu có sử dụng
khái niệm “đức hạnh chính trị ” (vertu politique). Ông
giải thích về khái niệm này như sau :
Người ta có thể định nghĩa
đức hạnh đó là tình yêu đối với luật pháp và tổ quốc.
Tình yêu đó đòi hỏi một sự ưu ái liên tục đối với lợi
ích chung hơn là lợi ích của riêng mình, tình yêu đó đem
lại tất cả những đức hạnh riêng bởi vì những đức hạnh
riêng không là gì khác hơn chính sự ưu ái đó.
Tình yêu đó đặc biệt gắn liền
với các nền dân chủ. Chỉ trong các nền dân chủ, chính
quyền được giao phó cho mỗi công dân. Giờ đây, chính
quyền cũng giống như mọi thứ khác trên đời : để giữ gìn
nó, phải yêu nó.”
Khái niệm “đức hạnh chính trị” (vertu politique),
được định nghĩa như “sự ưu ái liên tục đối với lợi
ích chung hơn là lợi ích riêng” (une préférence
continuelle de l'intérêt public au sien propre), là khái
niệm tương đương với khái niệm “công đức” (đạo đức
chung) của Phan Châu Trinh. Còn “những đức hạnh riêng”
(vertus morales particulières) tương đương với khái niệm
“tư đức” (đạo đức riêng), chính là những đức hạnh thông
thường mà mọi người trong mọi xã hội đều phải theo.
Để tránh sự hiểu lầm, trong lời khuyến cáo viết ở
đầu tác phẩm nói trên, Montesquieu còn giải thích thêm :
“Để hiểu rõ bốn quyển đầu của tác phẩm này, cần phải
thấy rằng cái mà tôi gọi là đức hạnh (la vertu)
trong một nước cộng hoà chính là tình yêu đối với tổ
quốc, nghĩa là tình yêu đối với sự bình đẳng. Đó không
phải là một đức hạnh về mặt đạo đức (vertu morale), cũng
không phải là một đức hạnh của người ki-tô-giáo (vertu
chrétienne), mà là đức hạnh chính trị (vertu politique);
và chính nó là động cơ làm chuyển động chính quyền cộng
hoà, cũng như danh dự (honneur) là động cơ vận
hành chế độ quân chủ. Do đó tôi gọi tình yêu tố quốc và
tình yêu sự bình đẳng là đức hạnh chính trị. Tôi
đã có những ý tưởng mới; do vậy cần phải tìm ra những từ
ngữ mới, hoặc đem lại cho những từ ngữ cũ những ý nghĩa
mới. Những người không hiểu điều này cho rằng tôi nói
những điều vô lý, và là những điều gây công phẫn ở tất
cả các nước trên thế giới, bởi vì ở tất cả mọi nước,
người ta đều mong muốn đạo đức.”
Trong công đức, Phan Châu Trinh đặc biệt nhấn mạnh đến
lòng yêu nước (mà ông gọi là lòng thương nước).
Đây chính là giá trị đạo đức cần thiết cho người Việt
Nam trong mối quan hệ giữa cá nhân với quốc gia, là giá
trị chủ yếu làm nên tinh thần quốc gia, chủ nghĩa quốc
gia. Giá trị này vắng bóng trong suốt lịch sử của nước
ta, khiến cho nước ta không có luân lý quốc gia. Lý do
là vì dưới chế độ quân chủ, quan hệ giữa người dân với
quốc gia bị thu hẹp trong mối quan hệ vua-tôi, cho nên
dân không biết đến lòng yêu nước mà chỉ biết đến
lòng trung quân (trung thành với vua) :
“Vì thế cho nên
dân chỉ biết nghĩa tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc,
gặp vua tử tế, làm nhiều sự công bình thì dân thương,
dám liều chết ra đánh giặc giúp vua; gặp vua tàn bạo,
làm nhiều điều độc ác thì dân ghét, muốn rửa hờn, mở cửa
thành cho giặc vào. Thí dụ như hồi nước Pháp đánh Bắc kỳ
chỉ có 90 tên lính mà trong 24 giờ đã hạ được bốn thành,
mà lính Nam không ai ra bắn trả lại một phát súng. Hồi
ông Nguyễn Huệ kéo quân ở Huế ra Thăng Long, Nguyễn
Chỉnh
có quân đóng ở đó, song chưa đánh
đã thua, khiến vua Chiêu Thống phải chạy đi đường, bị
dân bóc lột
. Ông Mạnh có nói rằng : ”Vua
coi dân như cỏ rác, thì dân coi vua như người đi đường”,
đã coi như người qua đường thì còn luân lý gì. Việc gì
mà chẳng bóc lột.” (NQT, tr. 488; NVD, tr. 938-939)
Lòng yêu nước của nhân dân ta đã bị “cái độc chuyên chế” giết
chết, vì người dân không được bàn chuyện chính trị,
không được lo việc nước :
“Không phải là
cái độc chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong óc
người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương nước đã có luật
Gia Long cấm. Những kẻ học trò và dân gian không được
nói đến việc nước, lo đến việc nước.” (NQT, tr. 489;
NVD, tr. 940)
Đáng lẽ là một giá trị đạo đức được vinh danh, trong một xã
hội chuyên chế lòng yêu nước lại trở thành một nỗi tủi
nhục; người yêu nước bị khinh như kẻ tội phạm :
“Thương nước
thì phải tội tù (!) cho nên những người nhà thế phiệt
giữ mình cho đến nỗi uốn nắn con từ trong nhà, lấy sự lo
việc đời, sự thương nước làm sợ. Sợ quá! Hình như nói
đến sự đó thì phải bị khinh, bị nhục như kẻ cắp kẻ trộm
vậy.” (NQT, tr. 489; NVD, tr. 940)
Phan Châu Trinh cho rằng cần phải khơi dậy lòng yêu nước
trong nhân dân ta thì nguyện vọng tự do, độc lập của dân
tộc ta mới thành tựu được :
“Từ nay người
dân Việt Nam ta phải biết thương nước là tính tự nhiên
trời đã phú cho, không thù nghịch gì với người Pháp.
Phải có quốc gia luân lý in sâu vào óc thì ước ao tự do
độc lập của dân tộc ta sau này mới thành tựu được.”
(NQT, tr. 491-492; NVD, tr. 942)
Phan Châu Trinh coi lòng yêu nước là cốt lõi của chủ nghĩa
quốc gia, của chế độ dân chủ là bởi vì cũng như
Montesquieu, ông tin rằng lòng yêu nước mới chính
là động cơ làm chuyển động chế độ dân chủ (chế độ
cộng hoà) :
Ông Montesquieu
có nói : “Dân sống dưới quyền chuyên chế của nhà vua
thì chẳng biết gì là đạo đức cả, chỉ lấy vị thế làm lớn
nhỏ, làm danh dự mà thôi
, duy dân chủ mới thật còn có
đạo đức.” (NQT, tr. 497; NVD, tr, 947)
Chữ “đạo đức” nói ở đây tức là “đức hạnh chính trị” (vertu
politique), “tình yêu tổ quốc” (l'amour de la patrie)
trong quan niệm của Montesquieu, cũng chính là cái mà
Phan Châu Trinh gọi là lòng thương nước, thuộc về
phạm trù công đức (đạo đức chung) hay đạo đức
lớn.
Mặt khác, ông nhấn mạnh lòng yêu nước bởi vì ông tin rằng nó
sẵn có mầm mống trong bản chất của người dân Việt :
Nay mình trả
lời như thế này thì họ cấm sao được : “Một nòi dân
cùng một giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong
miếng đất
mà ông cha nó đã đổ máu, đổ
mồ hôi, đổ nước mắt để vỡ vạc ra, thành ra một nước lưu
truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì được hưởng quyền
lợi trong miếng đất ấy, được sống ở đó, chết chôn ở đó,
giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm không ai cấm
đoán được. Loài dân ấy không như đám Do Thái ở Âu châu,
đi đâu cũng bị ngược đãi, không như bọn Hắc nô ở Mỹ châu
đi tới đâu cũng bị giết chóc, thì cũng không khi nào
chịu quên ơn miếng đất mà chúng nó thường gọi là “Tổ
quốc” của chúng nó bao giờ. Một loài dân như thế nay bảo
nó đừng thương “Tổ quốc” thì bảo nó thương ai?” Nếu
ta trả lời hẳn hoi như thế thì dầu gặp kẻ tàn bạo nào
cũng không thể bỏ ta được. Thế thì sao
ta không dám nói thương nước ?
(NQT, tr. 490; NVD, tr. 940-941)
Điều cần nhấn mạnh là lòng yêu nước trong quan niệm của Phan
Châu Trinh không đi kèm với lòng hận thù đối với dân tộc
khác, không đi kèm với tiếng đao kiếm hoặc tiếng súng :
“Cái “thương
nước” tôi nói đây không phải là xúi dân “tay không” nổi
lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác về phá loạn
trong nước đâu ! Tôi xin thưa : Nước ta đã hư hèn bị mắc
trong tay người ta rồi, thì bây giờ ta phải đem lòng
thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu
chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau. Hễ
người ta làm việc gì bất công thì mình phải hiệp sức
nhau lại mà chống, còn làm việc gì phải chăng thì mình
cũng phải nhìn nhận, chớ có thấy chính quyền mình mất
rồi mà đem lòng căm tức không kể đến việc hay của người
ta. Thế thì lòng thương nước của dân Việt nam có hại gì
đến quyền lợi người Pháp không ? Tôi xin thưa rằng :
không. Dân Việt nam thấy người nào làm hại cho nước
nó thì nó ghét, đó là lẽ tự nhiên.”
(NQT, tr. 490-491; NVD, tr. 941)
Ông cho rằng yêu nước cũng phải yêu cho đúng cách :
“Thương nước
cho phải đường mới là thương nước, nếu thương không phải
đường thì đã không ích gì cho ai mà còn làm hại sinh
linh nữa. Nay ta nói rằng thương nước, nhưng chỉ thương
bằng lỗ miệng, nằm ỳ ra đó kêu người đến thì có khác gì
đem đầu đi ở đầy tớ người này xong lại đem đầu đi ở đầy
tớ với anh khác.” (NQT, tr. 491; NVD, tr. 940)
Một mặt ông chủ trương kêu gọi phát huy lòng yêu nước trong
nhân dân, mặt khác ông lại kêu gọi “Pháp-Việt đề huề”,
không hận thù với nước Pháp. Nhiều người cho ông là ngây
thơ, là “quá tin tưởng vào thực dân Pháp”. Thực ra Phan
Châu Trinh không hề là người ngây thơ. Ông không hề tin
vào thiện chí của cánh hữu hoặc giới thực dân ở Pháp,
cũng không trông chờ vào sự ban ơn của họ. Nhưng ông tin
tưởng vào chế độ dân chủ ở Pháp, vào thế mạnh ngày càng
lên cao của phong trào cánh tả. Ông không hề ỷ lại vào
bên ngoài, mà trước sau vẫn chủ trương tự lực cánh sinh,
và nếu còn sống chắc chắn ông sẽ tiếp tục công việc xây
dựng một phong trào chính trị cánh tả ở Việt Nam dựa
trên kinh nghiệm của Đảng Cấp tiến và Đảng Xã hội Pháp.
Đó sẽ là một phong trào đấu tranh công khai, bất bạo
động dựa vào sức mạnh của quần chúng. Ý định đó không
thành công vì ông mất sớm, vì không có người kế tục, chứ
không hẳn đã là một ý tưởng không có cơ sở thực tế.
Nhưng đạo đức chung (công đức) không chỉ bao gồm luân
lý quốc gia; nó còn bao gồm cả phần luân lý xã hội. Theo
Phan Châu Trinh, cái chủ ý hướng đến toàn thế giới, toàn
thể loài người thực ra đã có từ trong đạo Nho chân chính
:
Tuy trong sách
nho có câu : “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ.”
(tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Hai chữ
“thiên hạ” đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra
làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm
trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên
hạ mất đi đã từ lâu rồi. (NQY, tr. 492; NVD, tr. 942)
Ở các nước Á Đông, luân lý không nâng lên được tầm mức quốc
gia thì làm sao nâng lên được tầm mức toàn thế giới ?
Muốn bình thiên hạ, tức là lo đến việc của nhân quần xã
hội, của thế giới, trước hết phải củng cố chủ nghĩa quốc
gia, xây dựng chế độ dân chủ, sau đó mới có điều kiện
xây dựng chủ nghĩa xã hội, lo cho thế giới.
Do chỗ nước ta phải bước sang chủ nghĩa quốc gia trước khi
tiến đến chủ nghĩa xã hội, Phan Châu Trinh chưa bàn
nhiều đến những giá trị khác của đạo đức chung liên quan
đến chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, ông cũng đã nêu ra một số
giá trị mà ông nhận thấy trong xã hội Pháp. Đó là những
nghĩa vụ của người trong nước đối với nhau như :
nghĩa vụ bảo vệ người yếu, nghĩa vụ giúp đỡ người nghèo.
Ngoài ra, còn có nghĩa vụ loài người ăn ở với loài
người , tức là tình nhân loại, hay là cái mà các nhà
xã hội chủ nghĩa thường gọi là tinh thần quốc tế
(internationalisme). Ông nhận xét về người dân các nước
Âu châu như sau :
“Chẳng những họ
lo ở nước họ
mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.” (NQT, tr. 483;
NVD, tr. 934)
Điều làm chúng ta ngạc nhiên là khi nói về luân lý xã hội,
Phan Châu Trinh ít nhấn mạnh đến vai trò của Nhà nước,
mà lại chú ý đến đoàn thể và công đức, đến
lợi ích chung (công ích).
Có thể
giải thích thái độ này bằng hai lý do.
Trước hết, Phan Châu Trinh cho rằng một xã hội tốt đẹp là một
xã hội dựa trên đạo đức luân lý chứ không dựa
trên quyền lực. Khi người dân chỉ chăm chăm chạy
theo quyền lực tất đạo đức luân lý sẽ hao mòn :
Thương ôi !
Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó
theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức, là
luân lý cả. (NQT, tr. 495; NVD, tr. 944)
Muốn có chủ nghĩa xã hội, nghĩa là muốn làm giảm nhẹ bất
công, áp bức trong xã hội, thì “người có giúp cho người
không”, “người mạnh giúp cho người yếu”. Nếu chỉ lấy
“sức mạnh” làm tiêu chuẩn đạo đức thì ai ai cũng “phù
thịnh”, có ai dại gì mà “phù suy” ? Mặt khác, bất cứ
quyền lực chính trị nào, dù là dân chủ nhất, cũng vẫn có
xu hướng dựa trên sức mạnh. Do đó, để bênh vực người
yếu, giúp đỡ người nghèo, các đoàn thể của quần chúng
chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với các cơ
quan Nhà nước. Ta nên nghe lại lời phát biểu này của
Phan Châu Trinh :
“Vì sinh kế, vì
lợi quyền, người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ
dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà
thôi, chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng
quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ. Tôi nói như thế
chắc anh em nghĩ cho tôi ở bên Tây lâu rồi nên tán tụng
như thế chăng. Xin thưa rằng dân bên Âu châu họ cũng xấu
chán, dân đức của họ cũng chưa đến nỗi
hoàn toàn, song dân nào họ có 30
hoặc 50 phần trăm biết giữ luân lý thì tưởng cũng đủ gọi
họ là có rồi. Phong tục họ có chỗ xấu mặc lòng, nhưng
trong nước họ còn có đảng thượng lưu, trung lưu biết lo
đời, như mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại văn
hào, đại giáo dục đứng lên hô hào, nào làm sách, nào
soạn kịch
, nào diễn thuyết, cốt phá bỏ
những tính hư tật xấu của người đời; rồi bọn thiếu niên
xã hội, bọn thiếu niên dân chủ cũng tán thành ó ré theo
để lo cứu chữa những đồi phong ác tục trong nước. Chẳng
những họ lo ở nước họ mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới
nữa.
Lấy một việc đó
mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái
xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu
hổ rồi; huống là nói đến việc xã hội nhân quần! Họ hơn
ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho
được?” (NQT, tr. 483; NVD, tr. 934)
Hơn thế nữa, những người có quyền lực chính trị và ngay cả
chính phủ vẫn có thể là nguồn gốc của áp bức, bất công :
“Bên Pháp, mỗi
khi người có quyền thế, hoặc Chính phủ, lấy sức mạnh mà
đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội
nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị
oai, vận động kỳ cho đến được công bình mới nghe. Vì sao
mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn
thể, có công đức biết giữ lợi chung vậy.” (NQT, tr. 493;
NVD, tr. 943)
Do chỗ cá nhân không thể tự mình đấu tranh một cách lẻ loi,
nhất là khi phải đối mặt với cường quyền, cá nhân phải
liên kết với nhau thành đoàn thể. Đó là lý do
Phan Châu Trinh nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của
đoàn thể :
Nay muốn một
ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết
dân Việt nam phải có đoàn thể. Mà muốn có đoàn thể thì
có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân
Việt Nam này. (NQT, tr. 495; NVD, tr. 945)
Xét về mặt ngôn ngữ, chữ “xã hội” mà Phan Châu Trinh sử dụng
có hai nghĩa. Trước hết, xã hội là thế giới,
là nhân loại, rộng lớn hơn từng quốc gia,
từng dân tộc; do đó ông xếp theo thứ tự từ nhỏ
hẹp đến rộng lớn : luân lý gia đình, luân lý
quốc gia, luân lý xã hội. Mặt khác, xã hội
là sự liên kết giữa người này đối với người kia,
đồng nghĩa với cộng đồng, tương tự như khái niệm
“xã hội dân sự” (société civile, còn được dịch là
xã hội công dân). Đọc những gì ông trình bày về
luân lý xã hội và chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy rõ ông
nhận thức được ưu thế của “xã hội dân sự” (société
civile) so với “Nhà nước” (Etat) trong việc bảo vệ công
ích, trong việc tạo ra một xã hội công bằng cũng như
trong việc xây dựng và hoàn thiện một nền đạo đức luân
lý phù hợp với từng quốc gia, dân tộc. Điều đó có thể
cũng xuất phát từ chính kinh nghiệm của bản thân ông khi
quan sát hoạt động của các tổ chức quần chúng của cánh
tả Pháp như Liên minh Nhân quyền (Ligue des
droits de l’homme), Liên minh Giáo dục (Ligue
française de l'enseignement), v.v...
Tóm lại, Phan Châu Trinh chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội
dựa trên cơ sở của chủ nghĩa quốc gia - gắn liền với một
chế độ dân chủ. Nhưng để xây dựng chủ nghĩa quốc gia và
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải khôi phục lại nền đạo
đức cũ của Nho giáo để làm nền tảng tinh thần, sức mạnh
ban đầu của dân tộc. Xây dựng chế độ dân chủ và chủ
nghĩa xã hội dựa trên nền tảng đạo đức của Nho giáo;
đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường dân
chủ-xã hội mà Phan Châu Trinh đã vạch ra cho dân tộc
ta từ giữa thập niên 20 của thế kỷ trước.
Ngày nay, nhìn lại lịch sử phát triển của các quốc gia Á Đông
chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ thời trung cổ, chúng ta
thấy có hai hướng đi khác nhau. Một số nước phát triển
theo con đường được mệnh danh là “tư bản chủ nghĩa” đã
trở thành quốc gia giàu mạnh hàng đầu thế giới (Nhật
Bản) hoặc trong vài thập niên qua vươn lên như những
“con rồng châu Á” như : Hàn Quốc (Nam Triều Tiên), Đài
Loan, Singapore,… Những quốc gia này, tuy phát triển
thành các nước văn minh, hiện đại, nhưng phong cách
sống, phong tục tập quán, tâm lý cộng đồng,… vẫn còn
mang nặng tính chất Á Đông. Lịch sử của họ cho thấy mặc
dù trải qua thăng trầm, nhưng di sản Nho giáo để lại vẫn
còn phát huy tác dụng tích cực. Điều đó cho thấy cái
nhìn của Phan Châu Trinh quả là “viễn kiến”. Ngoại trừ
Singapore vẫn còn là một quốc gia độc đảng (tuy là độc
đảng “sáng suốt”), tất cả các nước kia đều dần dần
chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng.
Bên cạnh đó là các quốc gia chọn con đường Marx-Lenin, như :
Trung Quốc (đại lục), Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên (Bắc Triều Tiên), và Việt Nam. Ngay khi nắm quyền ở
các nước này, những người cộng sản do mù quáng về ý thức
hệ, đã ra sức đánh phá tan nát các giá trị đạo đức Nho
giáo truyền thống bằng “cải cách ruộng đất”, bằng “cách
mạng văn hoá”,v.v... Nhưng những căn bệnh tệ hại nhất mà
Phan Châu Trinh đã từng mong muốn xoá bỏ cho bằng được
(tức là cái “độc chuyên chế” của chế độ quân chủ) thì
vẫn còn đó, và được “thăng hoa” bằng một ý thức hệ mới
đầy chữ nghĩa và “nguỵ biện” hơn, đồng thời được bảo vệ
một cách chặt chẽ hơn bằng sức mạnh của hệ thống chuyên
chính vô sản. Như vậy là cái cần giữ lại thì bị phá
bỏ, còn cái cần xoá bỏ lại được bảo tồn và nâng cấp.
Nếu xem xét một cách tinh tế, chúng ta thấy trong các quốc
gia cộng sản nói trên, “luân lý quốc gia” vẫn vắng bóng
vì tình yêu Tổ quốc bị ngộ nhận thành tình yêu
Đảng. Lòng “trung quân” biến thành lòng “trung
với Đảng”, cho nên quốc gia vẫn không thể hình
thành. Nhà nước mặc dù được trang điểm bằng các
loại mỹ phẩm từ “dân chủ cộng hoà” cho đến “của dân, do
dân, vì dân” rốt cuộc cũng vẫn không phải là Nhà nước
của toàn dân mà chỉ là cái bóng của Đảng.
“Tử viết” (Thầy nói, tức Khổng Tử nói) trở thành
“Marx nói” hoặc “Lenin nói”. Ý thức hệ Nho
giáo được thay thế bằng ý thức hệ Marx-Lenin. Đất nước
được độc lập, nhưng nhân dân không được tự do; ách thống
trị vẫn còn đó, chỉ có màu da của kẻ thống trị thay đổi.
Điều đau khổ nhất là người dân bị áp bức, bóc lột mà
không được phép đấu tranh, không được phép lên tiếng,
bởi vì đấu tranh hay lên tiếng phê bình đều dễ dàng bị
diễn giải thành “âm mưu của kẻ địch” hoặc bị kết tội
“gián điệp”, “phản bội Tổ quốc”,v.v...
Kể từ khi đổi mới theo hướng kinh tế thị trường, Đảng cộng
sản Việt Nam nhìn sang các nước láng giềng và bất chợt
nhận ra rằng họ vẫn dựa vào văn hoá truyền thống, vào
đạo đức Nho giáo trong khi tiến hành công cuộc hiện đại
hoá. Sách báo (vốn sẵn tinh thần “vọng ngoại”) bắt đầu
ca ngợi các “con rồng” Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, và
dĩ nhiên là không thể thiếu Nhật Bản. Nhưng ít có người
Việt biết được rằng hơn 80 trước, một nhà cải cách hàng
đầu của Việt Nam đã từng đề ra chủ trương canh tân, hiện
đại hoá đất nước khởi đầu từ đạo đức Nho giáo. Nếu chủ
trương của nhà cải cách đó được thực hiện, có lẽ ngày
nay Việt Nam đã là nước đầu tiên ở châu Á đi theo con
đường dân chủ -xã hội dựa trên nền tảng Nho giáo. Và có
lẽ giới lãnh đạo và trí thức của nhiều nước Á Châu phải
chạy sang học tập chúng ta thay vì chúng ta phải chạy
sang học hỏi họ.
Có một câu hỏi vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời sự :
tại sao nước người ta thì cứ tiến lên mà nước chúng
ta lại cứ dậm chân tại chỗ, hoặc có chạy theo thì cũng
lẹt đẹt chạy đằng sau người khác, không khi nào giữ được
vị trí tiên phong ?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời qua một số ý kiến mà
Phan Châu Trinh đã từng nêu ra và ngày nay vẫn còn giữ
nguyên giá trị.
So sánh giữa đạo đức luân lý của Á Đông và của Âu Tây, sau
khi đã vạch ra những “cái dở” của luân lý Âu châu như
“nam nữ tự do thái quá”, “giàu nghèo cách biệt thái
quá”, “mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời Trung cổ thái
quá”, “trọng trí dục hơn đức dục”, “chuộng ngoại giao
hơn thành thật”, v.v…ông nhận xét :
“Bệnh họ tuy
nhiều nhưng họ đã có thầy thuốc để chữa ngay, nghĩa là
có những nhà triết học, những nhà giáo dục lo ra trừ tệ,
canh cải sửa sang cho nền đạo đức luân lý mỗi ngày mỗi
cao lớn, tốt đẹp thêm, chớ không phải như ở nước ta tốt
khoe xấu che làm cho một ngày thêm một xấu. (NQT, tr.
507; NVD, tr. 955-956)
Mặt khác, lý giải việc tại sao ở nước ta không có được những
nhà “đạo đức” như những nhà tư tưởng tự do của Âu châu,
ông giải đáp :
“Rút lại, những
tôi tớ nhà vua đã tôn lên thì không ai dám đè xuống, mà
những kẻ vua đã đè xuống thì không ai được tôn lên. Làm
như thế thì trách nào những nhà đạo đức của nước ta
không chóng mất sao được ? Người có tư tưởng tự do chẳng
những ai cũng cho làm lạ, mà như vua thấy thế cũng sợ
hại đến quyền chuyên chế của mình nên tự lập mưu đập
chết
đi. Ở trong một dân tộc như thế
thì những đứa nịnh hót không càng ngày càng nhiều làm
sao được? “ (NQT, tr. 497; NVD, tr. 946-947)
Từ đó chúng ta có thể tạm rút ra kết luận : chỉ khi nào người
Việt Nam (nhất là giới lãnh đạo và giới trí thức) từ bỏ
cái thói quen “tốt khoe, xấu che”; chỉ khi nào
nhà cầm quyền thôi đàn áp những người có tư tưởng tự
do, còn giới trí thức thì quyết một lòng bảo vệ
những người có tư tưởng tự do, chừng đó đất nước
chúng ta mới có hy vọng mở mày mở mặt với thiên hạ.
Nhưng nếu những người có tư tưởng tự do vẫn tiếp tục bị đàn
áp thì sao ? Chúng ta có thể suy ra từ lời giải đáp của
nhà chí sĩ họ Phan : một khi những người có tư tưởng tự
do tiếp tục bị “đập chết” hay “đè xuống” thì đương nhiên
“những đứa nịnh hót” sẽ ngày càng sinh sôi nẩy nở. Mà số
phận của những triều đại làm sinh sôi nẩy nở những kẻ
nịnh thần thì …chúng ta chỉ cần mở lại những trang lịch
sử của các nước Á Đông, hoặc xem các phim truyện lịch sử
của Trung Quốc đang chiếu nhan nhãn trên các kênh truyền
hình của nước ta hẳn cũng có thể thấy được hồi kết cuộc.
Đà Lạt 8.3.2007
MAI THÁI LĨNH
Tài
liệu tham khảo chính:
-
Nguyễn Q. Thắng,
Phan Châu Trinh - cuộc đời và tác phẩm, Nxb Văn
học, 2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung);
-
TS. Nguyễn Văn Dương,
Tuyển tập Phan Châu Trinh, In lần thứ hai,
Nxb Văn hoá Thông tin, 2006;
-
Phan Châu Trinh –
Toàn tập (I, II và III),
Nxb Đà Nẵng, 2005;
-
Montesquieu, Œuvres complètes, Editions du
Seuil, Paris 1964.
-
Montesquieu,
De l'esprit des lois (1748), bản điện tử của giáo sư Jean-Marie Tremblay,
Collection “Les classiques des sciences sociales”,
Quebec, Canada, 2002.
http://www.uqac.uquebec.ca/zone30/Classiques_des_sciences_sociales/index.html
http://classiques.uqac.ca/classiques/index.php
Vì các tác phẩm của Phan
Châu Trinh hiện nay vẫn chưa được các nhà nghiên cứu xử
lý một cách dứt khoát về mặt văn bản học, trong khi chờ
đợi một bộ Toàn tập được thực hiện một cách thật sự
nghiêm túc và khoa học, tôi tạm thời sử dụng bản của
Nguyễn Q. Thắng (sđd), có tham khảo bản của TS Nguyễn
Văn Dương (sđd) để chỉnh lý.
De l’esprit des lois,
Avertissement de
l‘auteur; Œuvres complètes, sđd, tr. 528.
LÝ LUẬNN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ