"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
Sự hình thành của phong trào dân chủ - xã hội ở Thuỵ Điển
Mai Thái Lĩnh
Thông
thường, khi nói đến mô hình Thuỵ Điển, có người xem đó là chủ
nghĩa xã hội dân chủ (democratic socialism), nghĩa là một hình thức
của chủ nghĩa xã hội được thực hiện bằng con đường dân chủ. Cũng có
người đánh giá đó là một con đường thứ ba, đứng giữa chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội, được gọi tên là con đường dân chủ - xã hội
(social democracy).
Nhưng dù đánh giá bằng cách
nào, người ta cũng phải thừa nhận là con đường đó đã thành công trong
việc đưa Thuỵ Điển từ chỗ là một quốc gia nhỏ bé, kém phát triển ở châu
Âu bước vào con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vươn lên thành một
quốc gia có mức sống cao vào bậc nhất trên thế giới. Đặc biệt đáng ca
ngợi là con đường đó diễn ra trong hoà bình, tránh được nội chiến và
những biến động lớn trong xã hội, giữa lúc cả thế giới sống trong lò lửa
chiến tranh hoặc ngập chìm trong bầu khí đầy hận thù của cuộc đấu tranh
giai cấp. Mặc dù phạm phải sai lầm kể từ thập niên 1970, do đó không
thích ứng được với giai đoạn “toàn cầu hoá” vào cuối thế kỷ 20 - đầu thế
kỷ 21, mô hình dân chủ - xã hội Thuỵ Điển cũng là một bài học đáng cho
chúng ta quan tâm nghiên cứu. Rất tiếc là từ trước đến nay, ở nước ta
chưa có công trình nghiên cứu nào trình bày một cách đầy đủ về mô hình
này. Bài tiểu luận này là một nỗ lực nhỏ để bổ sung cho sự thiếu sót đó.
*
Phần I
Nghị viện trong lịch sử chính trị của Thuỵ Điển
Có thể
nói toàn bộ công cuộc cải cách về chính trị ở Thuỵ Điển trong vài thế kỷ
qua được thể hiện một cách tập trung nơi một thiết chế chính trị mà
chúng ta thường gọi là Quốc hội hay Nghị viện. Trong tiếng
Thuỵ Điển, thiết chế ấy được gọi là Riksdag (xét về
mặt ngữ nguyên, danh từ này có nghĩa là “Ngày của Vương quốc” hay “Hội
nghị của Vương quốc”).
Mầm mống
của chế độ nghị viện đã có ở Thuỵ Điển ngay từ thời xa xưa. Vào thời đại
văn hoá bộ lạc của vùng Scandinavia (mà các nhà sử học thường gọi là
thời đại Viking), các thành viên của một thị tộc (clan) có nghĩa vụ
phải trả thù khi người thân của họ bị giết hay bị gây thương tích. Do
đó, cần thiết phải có một cơ cấu làm trọng tài để giảm thiểu các hận thù
trong bộ lạc, tránh tình trạng hỗn loạn vô chính phủ trong cộng đồng xã
hội. Cơ cấu đó được gọi là “hội nghị” (thing hay ting,
assembly), tức là cuộc họp bao gồm tất cả những người dân tự do
trong một địa phương, từ cấp làng xã (härad, hundred)
cho đến cấp tỉnh (land, province). Như vậy là có cả một hệ thống
các hội nghị, hội nghị cấp dưới có đại diện ở hội nghị cấp trên. Mọi
tranh chấp được giải quyết tại hội nghị, mọi quyết định chính trị cũng
diễn ra ở các hội nghị. Nơi tiến hành hội nghị thường là địa điểm công
cộng dành cho việc thực hành các nghi lễ tôn giáo và trao đổi hàng hoá.
Hội nghị họp định kỳ để ban hành luật, bầu các tù trưởng (hoặc vua) hoặc
để xét xử dựa theo luật pháp. Đó là một thứ luật pháp bất thành văn được
ghi nhớ và kể lại bởi một nhân vật được gọi là “người diễn giải luật
pháp“ hay “người phát ngôn của luật pháp” (law speaker), đóng vai trò
của một quan toà. Người phát ngôn này thường cùng với tù trưởng (hay nhà
vua) chủ trì những cuộc thương lượng của hội nghị. Trong thực tế, hội
nghị thường chịu ảnh hưởng chế ngự của những thành viên có thế lực nhất
trong cộng đồng; nhưng xét về mặt lý thuyết, quy tắc chung là “mỗi người
một phiếu”. Những tập quán của nền dân chủ nguyên thuỷ, dân chủ trực
tiếp đó có ảnh hưởng sâu xa đến nền chính trị của Thuỵ Điển sau này.
Kể từ thế
kỷ 12, cuộc đấu tranh giữa các vương triều đối địch nhau cũng như những
xung đột nội bộ bên trong các triều đại đó đã tạo điều kiện thuận lợi
cho sự ra đời của một đẳng cấp quý tộc quân sự theo kiểu Âu châu. Trong
cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa đẳng cấp này với nhà vua, cả nhà vua
lẫn đẳng cấp quý tộc đều muốn lợi dụng danh nghĩa của cả cộng đồng và
tìm cách lôi kéo quần chúng về phía mình. Chính trong quá trình đấu
tranh giằng co đó mà Nghị viện ra đời, với tư cách là một công cụ chính
trị để tạo ra chính nghĩa, đồng thời cũng là một cơ cấu để cân bằng
quyền lực giữa nhà vua với giới quý tộc.
Các nhà
sử học thường cho rằng Nghị viện đầu tiên ở Thuỵ Điển ra đời vào thế kỷ
15, trong thời kỳ của Liên hiệp Kalmar (Kalmar Union, Union de Kalmar).
Sự hình thành của Liên hiệp diễn ra vào cuối thế kỷ 14, vào lúc Đan Mạch
trở thành vương quốc giàu mạnh nhất ở Bắc Âu. Người đóng vai trò chủ
chốt trong việc hợp nhất vùng Bắc Âu trong một Liên hiệp Vương quốc là
Nữ hoàng Margaret của Đan Mạch.
Có nhiều
lý do khiến cho Margaret có đủ tư cách đóng vai trò thống nhất các vương
quốc ở Bắc Âu. Là con gái của Vua Đan Mạch Valdemar Atterdag (Valdemar
IV), vào năm 6 tuổi (1359) Margaret đính hôn với con trai thứ của Vua
Thuỵ Điển Magnus Eriksson tên là Haakon. Cuộc hôn nhân này được dàn xếp
vì Magnus muốn nhờ vả sự giúp đỡ của Đan Mạch nhằm đối phó với giới quý
tộc trong nước đang chống lại ông. Haakon là người được chọn thừa kế
ngôi vua ở Na Uy và đến năm 1362 được bầu làm Vua Thuỵ Điển (cùng nắm
giữ vương quyền, vì lúc này Magnus vẫn còn nắm quyền ở Thuỵ Điển). Đám
cưới diễn ra vào năm 1363, lúc này Margaret mới lên 10 tuổi.
Năm 1363,
giới quý tộc Thuỵ Điển do bất mãn với Magnus Eriksson đã đến cầu viện
Quận công Albert của Mecklenburg (Albert II of Mecklenburg). Abert đánh
bại Magnus, được bầu làm Vua Thuỵ Điển, chấm dứt triều đại Folkung
(Folkungar) ở Thuỵ Điển. Magnus phải chạy sang lánh nạn ở Na Uy và qua
đời tại đó vào năm 1374. Con trai ông là Haakon vẫn giữ vững được Vương
quốc Na Uy và đến năm 1370, hoàng hậu Margaret sinh hạ một con trai,
đặt tên là Olaf.
Sau khi
vua cha là Valdemar IV qua đời (1375), Margaret thành công trong việc
vận động để con trai bà được thừa kế ngai vàng ở Đan Mạch. Haakon mất
vào năm 40 tuổi (1380), trong khi hoài bão khôi phục lại vương quyền ở
Thuỵ Điển vẫn chưa thực hiện được. Như vậy là Olaf thừa kế ngôi vua ở cả
hai nước Đan Mạch và Na Uy. Lúc này Olaf chỉ mới được 10 tuổi, do đó
quyền nhiếp chính vẫn nằm trong tay Margaret. Khi Olaf đủ tuổi trưởng
thành (15 tuổi), Margaret cùng con trai dự định tiến hành chiến tranh để
đòi lại ngôi vua Thuỵ Điển từ tay Albert; nhưng chưa kịp thực hiện thì
Olaf đột ngột qua đời vào năm 17 tuổi (1387). Margaret nắm quyền nhiếp
chính của cả hai nước Đan Mạch và Na Uy. Do không có người nối dõi, bà
nhận đứa cháu trai 6 tuổi là Erik của Poremania (Erik of Pomerania) làm
người thừa kế. Về danh nghĩa, Margaret vẫn là hoàng hậu của Thuỵ Điển bị
soán ngôi, do đó bà tìm cách liên kết lực lượng với giới quý tộc Thuỵ
Điển đang bất mãn với Albert để đòi lại ngôi vua. Năm 1388, quý tộc Thuỵ
Điển thừa nhận Margaret là người trị vì chính đáng của Thuỵ Điển và năm
sau, lực lượng của Margaret đánh bại quân của Albert, bắt sống được ông
này. Cuộc chiến vẫn tiếp tục kéo dài, mãi đến 1398 quân của Margaret mới
chiếm được Stockholm.
Sau khi
Thuỵ Điển trở thành một vương quốc độc lập, Gustav Vasa lên ngôi vào năm
1523, mở đầu cho triều đại Vasa, với danh hiệu Gustav I. Mục tiêu của
ông là thiết lập một nước Thuỵ Điển có chủ quyền. Công việc đầu tiên của
Gustav là củng cố uy quyền đối với những lực lượng đã giúp ông lên ngôi.
Ông đã đánh bại nhiều âm mưu của giới quý tộc và đè bẹp các cuộc nổi
dậy của nông dân. Năm 1527, để giải quyết khó khăn về tài chính, ông
triệu tập Hội nghị các đẳng cấp tại Västerås và thành công trong
việc thuyết phục Hội nghị này ra nghị quyết tịch thu tài sản của Giáo
hội Công giáo La Mã. Song song với việc này, ông khuyến khích hoạt động
của các nhà cải cách tôn giáo thuộc phái Luther, dẫn đến việc đoạn tuyệt
với Giáo hội La Mã. Giáo hội Luther ở Thuỵ Điển được công nhận là giáo
hội của nhà nước (state church) - một địa vị vẫn còn được duy trì đến
tận năm 2000. Sau khi thành công trong việc củng cố quyền lực và phục
hồi kinh tế, Gustav lại triệu tập Hội nghị các đẳng cấp vào năm 1544
để công nhận quyền thừa kế ngôi vua của dòng họ Vasa.
Việc
Gustav Vasa lợi dụng Hội nghị của các đẳng cấp để gây áp lực đối
với giới quý tộc đã dẫn đến kết quả là: Nghị viện từ chỗ là một tổ chức
không chính thức đã từng bước trở thành một tổ chức chính thức
đại diện cho cả bốn đẳng cấp lớn trong xã hội Thuỵ Điển (quý tộc,
tăng lữ, thị dân và nông dân). Trong thập niên 1540, danh từ
“riksdag” được sử dụng để gọi tên thiết chế này và kể từ
đó cho đến giữa thế kỷ 19, Nghị viện ở Thuỵ Điển được gọi là Nghị
viện của các Đẳng cấp (Ståndsriksdagen, Riksdag of the
Estates, Riksdag des états).
Trong số
bốn đẳng cấp thì nông dân là lực lượng đông đảo nhất. Không giống
với các nước châu Âu khác, chế độ nông nô không bao giờ du nhập được vào
Thuỵ Điển; do đó nông dân ở Thuỵ Điển (bao gồm cả Phần Lan) là nông dân
tự do. Điều này khiến cho nông dân trở thành một lực lượng chính trị,
mặc dù không đóng vai trò quyết định nhưng lại có thể làm thay đổi cán
cân quyền lực trong xã hội.
Dưới thời
cai trị của Gustav Vasa, chính quyền được tổ chức lại với sự giúp đỡ của
các nhà hành chính người Đức. Bộ máy hành chính mới với tính chất tập
trung cao độ đã đạt tới một mức độ hiệu quả chưa từng có.
Sau khi
Gustav I qua đời (1560), người con trưởng của ông lên ngôi với danh hiệu
là Erik IV. Em trai kế (cùng cha khác mẹ) của ông là quận công John ở
Phần Lan muốn thi hành một chính sách ngoại giao độc lập. Erik muốn hạn
chế uy quyền của John nên bắt giam ông vào năm 1561. Sau khi được trả tự
do, John câu kết cùng em trai út là Charles tiến hành lật đổ Erik vào
năm 1568. Năm sau, Nghị viện công nhận John là Vua Thuỵ Điển với danh
hiệu là John III (Jean III); để đổi lại, nhà vua phải có những nhượng bộ
đáng kể đối với giới quý tộc. Như vậy là nguyên tắc thừa kế ngôi vua mà
Gustav Vasa đã buộc Nghị viện thừa nhận trên lý thuyết, đã bị bác bỏ
trong thực tế. Nền quân chủ Thuỵ Điển từ nay về sau tuy vẫn là một nền
quân chủ thừa kế (hereditary monarchy) nhưng không thể bỏ qua sự
phê chuẩn của Nghị viện mà các đẳng cấp (nhất là giới quý tộc) có ảnh
hưởng đáng kể.
Về chính sách tôn giáo, John có
thiện cảm với Công giáo La Mã, vì hoàng hậu Catherine vốn là một công
chúa người Ba Lan theo Công giáo. Ý định cải thiện mối quan hệ với La Mã
đã gây ra sự bất bình trong giới tăng lữ của Thuỵ Điển. Sự chống đối này
càng tăng sau khi John mất (1592), người con trai trưởng của John là
Sigismund Vasa trở thành người thừa kế ngôi vua. Là một tín đồ Công giáo
thuần thành, Sigismund thừa kế ngai vàng của người cậu để trở thành Vua
Ba Lan vào năm 1587. Nỗi lo ngại về khả năng Sigismund có thể đưa Thuỵ
Điển trở lại với Công giáo La Mã đã khiến cho đại đa số dân Thuỵ Điển
chống lại Sigismund. Chú của Sigismund là Charles (quận công của
Södermanland, người trước đây ủng hộ John chống lại Erik IV) trở thành
người lãnh đạo cuộc vận động nhằm bảo vệ đạo Tin Lành ở Thuỵ Điển. Năm
1583, ông tìm cách triệu tập một hội nghị tôn giáo ở Uppsala, tại đó
giới tăng lữ đã thông qua một bản tuyên bố xác định dứt khoát Thuỵ Điển
là một quốc gia theo đạo Tin Lành Luther. Năm 1594, Sigismund được tấn
phong là Vua Thụy Điển với điều kiện hứa bảo vệ đạo Luther ở Thuỵ Điển.
Nhưng sau khi Sigismund trở lại Ba Lan thì vào năm 1595, Nghị viện họp
tại Söderköping bầu Charles làm nhiếp chính. Mâu thuẫn nổ ra giữa
Charles với một bộ phận quý tộc trung thành với Sigismund, và Charles
thẳng tay đàn áp những người này. Sigismund đem quân tiến đánh Thụy Điển
nhưng không thành công. Sau khi đánh bại đạo quân của Sigismund tại
Stångebro vào năm 1598, Charles vận động Nghị viện phế truất ông này vào
năm 1599. Năm 1604, Charles lên ngôi với vương hiệu là Charles IX.
Điều đáng
lưu ý là trong cuộc vận động để chống lại Sigismund, càng về sau Charles
càng không thể trông cậy vào giới quý tộc; do đó ông phải dựa vào tăng
lữ và các đẳng cấp bên dưới, và như vậy, một cách không ý thức, ông đã
làm cho Nghị viện có được tầm quan trọng mà nó chưa từng có trước đó
trong lịch sử Thuỵ Điển.
Là người
nắm quyền thật sự ở Thuỵ Điển kể từ 1599 và làm vua trong thời gian 7
năm (1604-1611), Charles IX đã biến Thuỵ Điển thành một nước quân chủ
thiên về quân sự. Chính sách đối ngoại dựa trên chiến tranh mà ông là
người mở đường đã để lại dấu ấn trên đường lối ngoại giao của Thuỵ Điển
trong hơn một thế kỷ sau đó. Qua đời vào năm 1611 giữa lúc cuộc chiến
tranh Kalmar với Đan Mạch mới bùng nổ, Charles IX đã để lại cho con trai
ông – Gustav Adolf, một gánh nặng chiến tranh và một cuộc khủng hoảng
thể chế nghiêm trọng.
Gustav
Adolf lên ngôi vua vào năm 16 tuổi (1611), lấy hiệu là Gustav II Adolf
(Gustave Adolphe).
Nhà vua trẻ này chứng tỏ những tài năng khác thường trong vai trò của
một chính khách cũng như trong vai trò của một thủ lĩnh quân sự. Ông
được đánh giá là nhà vua được lòng dân nhất trong lịch sử Thuỵ Điển. Từ
lúc khởi đầu triều đại của ông cho đến năm 1718, Thuỵ Điển vươn lên như
một quốc gia hùng mạnh, trở thành một trong những cường quốc ở châu Âu.
Đó là giai đoạn được gọi là Đế quốc Thụy Điển (Swedish Empire),
hay còn gọi là Thời kỳ Vĩ đại (The Age of Greatness).
Khi
Gustav II Adolf lên ngôi, đất nước đã bị lôi kéo vào những cuộc chiến
tranh với Đan Mạch, Nga và Ba Lan. Ông tìm cách kết thúc chiến tranh với
Đan Mạch và Ba Lan, và tập trung vào cuộc xung đột với Nga. Năm 1617,
sau những thắng lợi trên chiến trường, ông đạt được hoà ước Stolbova,
qua đó khống chế con đường vào biển Baltic của nước Nga.
Năm 1621,
Gustav Adolf tấn công quân Ba Lan ở Livonia và giành được thắng lợi vào
năm 1629. Với Thoả ước Ngừng bắn Almark, Thuỵ Điển nhận được Livonia và
quyền đánh thuế nhập khẩu ở các bến cảng chính của Baltic. Năm 1630,
Gustav chỉ huy đạo quân đáng sợ nhất của thời đó đổ bộ lên miền bắc nước
Đức, tham gia vào cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm (Thirty Year’s War) dưới
danh nghĩa bảo vệ đạo Tin Lành nhưng thực chất là để chặn đứng sự bành
trướng của dòng họ Habsburg về phía biển Baltic. Vào năm 1631, tại
Breitenfeld, quân Thuỵ Điển đã đánh bại các đạo quân của Bá tước von
Tilly, vị tướng lừng danh của Bavaria. Nhưng sau một loạt trận đánh ở
miền Nam nước Đức, Gustav Adolf tử trận tại Lützen (Saxony) vào ngày
6.11.1632.
Vế mặt
đối nội, vào lúc mới lên ngôi, ngoài việc phải đối phó với ba cuộc chiến
tranh, Gustav Adolf còn phải giải quyết một cuộc khủng hoảng nghiêm
trọng về thể chế chính trị. Trong giai đoạn đầu, nhà vua buộc phải có
những nhượng bộ quan trọng đối với giới quý tộc mà lãnh tụ là quan tể
tướng (chancellor, chancelier) Axel Oxenstierna. Tuy nhiên, vốn là một
người có khả năng hoà giải, ông đã biết tổ chức một sự cộng tác có hiệu
quả giữa hoàng gia, quan tể tướng và đẳng cấp quý tộc, nhờ đó nhiều cải
cách về quân sự, hành chính và kinh tế được tiến hành.
Về danh
nghĩa Hội đồng Cơ mật (Riksråd, Privy Council)
vẫn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; nhưng dần dần thực quyền
được chuyển giao cho nhà vua. Từ chỗ là một tổ chức đại diện của đẳng
cấp quý tộc, Hội đồng Cơ mật dần dần trở thành một bộ máy thư lại
(bureaucracy) điều khiển các cơ quan chính quyền quan trọng nhất, dựa
theo sở thích của nhà vua. Nhưng thay vì giải tán Nghị viện các đẳng cấp
như phần lớn các nước châu Âu, Gustav Adolf đã thể chế hoá Nghị viện
thành một thiết chế chính thức. Sắc lệnh về Nghị viện năm 1617 đã biến
Nghị viện từ một tổ chức lộn xộn và thay đổi thất thường thành một
nghị viện có giá trị, hội họp và quyết định công việc dựa theo luật
pháp. Nhà vua bảo đảm quyền của các đẳng cấp được tham gia vào quá trình
làm luật và được tham khảo ý kiến đối với mọi vấn đề đối ngoại. Nhà vua
là người đưa ra sáng kiến, nhưng các đẳng cấp có quyền phản bác các biện
pháp của chính quyền. Bản thân nhà vua đã chủ trì 11 kỳ họp của Nghị
viện, tập trung vào việc tìm ra các phương án hỗ trợ cho gánh nặng ngày
càng tăng của chiến tranh.
Sau khi
Gustav Adolf tử trận, người thừa kế duy nhất là công chúa Christina -
lúc đó chưa đầy 6 tuổi. Một hội đồng nhiếp chính của giới quý tộc cao
cấp dưới sự lãnh đạo của Tể tướng Axel Oxenstierna nắm quyền cho đến năm
1644, tức là lúc công chúa đủ tuổi trưởng thành. Nhờ tài tổ chức cũng
như khả năng ngoại giao khôn khéo, Oxenstierna đã đạt được hai mục tiêu
quan trọng mà Gustav Adolf nhắm tới lúc sinh thời: tập hợp những tín đồ
Tin lành ở Đức dưới sự bảo hộ của Thuỵ Điển, đồng thời biến vùng bờ biển
của nước Đức cạnh biển Baltic thành một đầu cầu quân sự.
Năm 1643,
quân Thuỵ Điển đang trú đóng ở Đức đã tấn công Đan Mạch. Cuộc chiến ngắn
ngủi này kết thúc bằng hoà ước Brömsebro ký vào năm 1645, theo đó Đan
Mạch phải nhường lại cho Thuỵ Điển các đảo trên biển Baltic như Gotland
và Ösel (Saaremaa), cũng như các tỉnh Jämtland và Härjedalen ở biên giới
Na Uy. Hoà ước Westphalia kết thúc cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm vào năm
1648 đã đem lại cho Thuỵ Điển vùng Tây Pomerania, cảng Wismar, các giáo
khu Bremen và Verden. Những lãnh thổ mới đó cho phép Thuỵ Điển kiểm soát
được ba dòng sông chính ở miền bắc nước Đức - sông Oder, sông Elbe và
sông Weser, đồng thời đe doạ Đan Mạch từ phía lục địa. Vào giữa thế kỷ
17, Thuỵ Điển vuơn lên thành một cường quốc quân sự khống chế vùng biển
Baltic và là một trong
những quốc gia rộng lớn nhất châu Âu, với một lãnh thổ rộng gấp đôi lãnh
thổ của Thuỵ Điển hiện nay.
Sự cân
bằng về quyền lực giữa hoàng gia, Hội đồng Cơ mật (giới quý tộc) và các
đẳng cấp đã được thể chế hoá trong hiến pháp được ban hành vào năm 1634,
hai năm sau khi Gustav Adolf qua đời. Sự cân bằng này vẫn được duy trì
trong thời gian Nữ hoàng Christina chấp chính (1644-1654) cũng như dưới
thời của Vua Charles X Gustav (1654-1660).
Tuy nhiên, thế cân bằng này đã bị thay đổi vào cuối thế kỷ 17, dưới
triều của Vua Charles XI (1660-1697).
Charles
XI lên ngôi lúc mới 5 tuổi, sau khi vua cha là Charles X Gustav đột ngột
qua đời trong một chiến dịch ở Đan Mạch. Trong thời gian hội đồng nhiếp
chính đứng đầu là tể tướng Magnus Gabriel De la Gardie nắm quyền, giới
quý tộc cao cấp chi phối đời sống chính trị của đất nước. Khi Charles XI
được 17 tuổi (năm 1672), nghĩa là đủ tuổi để nắm quyền, hội đồng nhiếp
chính vẫn tiếp tục kiểm soát chính sách ngoại giao. Chính họ đã lôi kéo
đất nước vào cuộc chiến tranh Hà Lan (1672-1678) bằng chính sách liên
minh với Vua Louis XIV của Pháp. Mãi đến khi quân Thuỵ Điển bị đánh bại
tại Fehrbellin vào năm 1675, nhà vua mới toàn quyền kiểm soát quân đội
và chính quyền. Sau khi Thuỵ Điển đánh bại được quân Đan Mạch vào năm
1678 khiến nước này từ bỏ ý đồ chiếm tỉnh Skåne và ký hoà ước Lund
(1679), cuộc chiến tranh Hà Lan cũng kết thúc bằng các hiệp ước Nijmegen
(1678–79), qua đó Thuỵ Điển giữ được gần như toàn bộ các vùng đất chiếm
hữu ở Đức.
Với sự
giúp đỡ của các cố vấn mới, Charles XI củng cố quyền lực của hoàng gia.
Ông đã lợi dụng sự bất mãn của dân chúng đối với sự yếu kém của giới quý
tộc trong thời gian nhiếp chính để lôi kéo giới tăng lữ và các đẳng cấp
bên dưới về phía mình. Nghị viện họp vào tháng 10 năm 1680 đã quyết định
tập trung quyền lực cho nhà vua. Kể từ nay, nhà vua không còn bị ràng
buộc bởi hiến pháp mà chỉ dựa vào luật pháp và quy chế, và không bị bắt
buộc phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Cơ mật (Privy Council) trước khi
quyết định. Hội đồng Cơ mật đổi tên từ Hội đồng của Vương quốc (Riksråd,
Council of the Realm) thành Hội đồng của Hoàng gia (Kungligt
råd, Royal Council). Các thành viên hội đồng không còn là
người cộng sự mà trở thành bầy tôi trung thành của nhà vua.
Mặt khác,
Charles XI cũng thành công trong việc thu hồi các đất đai của triều đình
đã bị mất vào tay đẳng cấp quý tộc, một điều mà cả Nữ hoàng Christina
lẫn Vua Charles X chưa làm được. Khoảng cuối triều đại của Charles XI,
tài sản của triều đình đã được nâng từ 1% lên đến 30% tổng số quỹ đất ở
Thuỵ Điển và Phần Lan. Nguồn thu nhập tăng thêm đã cho phép thiết lập
một ngân quỹ ổn định đủ để trả lương cho một đội quân đánh thuê 25.000
người, một bộ máy hành chính có khả năng kiểm soát cả giáo hội lẫn các
trường học, một quân đội chính quy 40.000 người và một hạm đội có khả
năng đương đầu với Đan Mạch.
Có thể
nói dưới thời trị vì của Charles XI, chế độ quân chủ ở Thuỵ Điển đã trở
thành nền quân chủ tuyệt đối (absolute monarchy). Mặc dù nhà vua
vẫn thừa nhận quyền của nhân dân Thuỵ Điển thông qua Nghị viện - thể
hiện ở việc tham khảo ý kiến của Nghị viện đối với những vấn đề quan
trọng, nhưng trong thực tế vai trò của Nghị viện hoàn toàn bị chi phối
bởi nhà vua. Nghị viện hầu như chỉ làm công việc chuẩn y các sắc lệnh
của nhà vua. Quyền lực của giới quý tộc bị hạn chế đến mức tối đa.
Mặt khác,
việc củng cố bộ máy thư lại (bureaucracy) dưới chế độ quân chủ tuyệt đối
cũng có tác dụng tích cực đối với Nghị viện. Chính trong giai đoạn này
đã hình thành nên các uỷ ban (committee) của Nghị viện và các hoạt động
của Nghị viện cũng được thể chế hoá qua các quy chế thành văn. Điều này
đã tạo điều kiện cho Nghị viện trong các giai đọan sau này hoạt động một
cách có hiệu quả hơn.
Vào lúc
Charles XI qua đời (tháng 4.1697), Charles XII mới được 15 tuổi. Có thể
nói ông là nhà vua đầu tiên và cũng là duy nhất của Thuỵ Điển sinh ra
dưới chế độ quân chủ tuyệt đối. Mặc dù Charles XI đã chuẩn bị sẵn
một hội đồng nhiếp chính để giúp cho con trai trị quốc, nhưng các uỷ
viên của hội đồng đều lo ngại, không muốn cạnh tranh quyền lực với nhà
vua trẻ; do đó họ triệu tập Nghị viện vào tháng 11 năm 1697 để tuyên bố
nhà vua đủ tuổi chấp chính.
Thấy nhà
vua còn quá trẻ, và hy vọng vào sự bất mãn của giới quý tộc Thuỵ Điển
đối với chế độ quân chủ tuyệt đối, một số đối thủ như Augustus II , vua
Ba Lan (đồng thời là tuyển hầu
vùng Saxony), Sa hoàng Peter I của nước Nga và Frederick IV, vua Đan
Mạch - Na Uy, đã liên minh với nhau để tấn công Thuỵ Điển vào mùa xuân
năm 1700, khởi đầu cuộc Đại chiến Bắc Âu (Great Northern War,
1700-1721).
Charles
XII là một ông vua từ nhỏ đã được huấn luyện rất kỹ và có tài về quân
sự. Lúc đầu, Charles XII còn nhờ sự giúp đỡ của các tướng lãnh và các cố
vấn lão thành do vua cha để lại, nhưng từ năm 1702, ông trở thành cấp
trên của hầu hết các sĩ quan trong quân đội Thuỵ Điển và bắt đầu nắm
quyền quyết định về chính trị. Trong vòng vài năm, ông đã trở thành một
tướng lãnh và nhà chính khách có bản lĩnh. Nhưng mặc dù là một người
giàu khả năng về chiến thuật, Charles lại thiếu tầm nhìn chiến lược và
sự khôn ngoan về chính trị. Ông đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đàm phán trong thế
mạnh để đạt được các hoà ước có lợi cho Thuỵ Điển, và thường bị chi phối
bởi quan điểm cá nhân, nhiều khi chỉ nhằm trả mối hận đối với kẻ thù.
Những
chiến dịch đầu tiên đã đem lại thắng lợi cho Thuỵ Điển. Sau khi đánh bại
quân Đan Mạch, buộc Vua Frederick phải rút khỏi liên minh chống Thuỵ
Điển và ký hoà ước Traventhal vào tháng 8 năm 1700, Charles chuyển sang
tấn công Nga và Ba Lan. Quân Thuỵ Điển đánh bại quân Nga tại Narva vào
tháng 11 năm 1700. Nhưng thay vì tiếp tục truy đuổi quân Nga và chấp
nhận lời đề nghị thương lượng của Ba Lan, Charles lại tấn công quân của
Augustus II (tuyển hầu của Saxony đồng thời là Vua Ba Lan), nhằm mục
đích thay ngôi vua Ba Lan bằng một người thân cận với Thuỵ Điển. Năm
1704, Nghị viện Ba lan dưới áp lực của Thuỵ Điển đã truất ngôi của
Agustus và tuyên chiến với Nga; Augustus phải chạy trốn về Saxony. Năm
1706, Charles tấn công Saxony, buộc Augustus phải ký hoà ước
Altranstädt, chính thức từ bỏ ngôi vua Ba Lan và thừa nhận Stanisław
Leszczyński là Vua Ba Lan. Việc Charles XII chậm tấn công quân Nga đã
giúp cho Peter I có đủ thời gian củng cố lực lượng, nhất là xây dựng cứ
điểm Saint Petersburg (Sankt Petersburg) và hạm đội Baltic.
Năm 1707,
Charles mới bắt đầu quay sang tấn công nước Nga. Vào năm 1708, cuộc hành
quân đến Moscow (Moskva) đã không đạt kết quả như mong muốn.
Chiến thuật “tiêu thổ kháng chiến” của Peter I (Peter Đại đế) làm cho
quân Thuỵ Điển mệt mỏi và để tránh mùa đông khắc nghiệt sắp đến, Charles
phải chuyển hướng sang Ukraina. Mùa xuân 1709, quân đội Thuỵ Điển bị
tiêu hao sức lực đã bị đánh bại thảm hại tại Poltava (tháng 8 năm 1709).
Charles đem tàn quân chạy trốn sang Bender (Bendery, nay thuộc Moldova,
lúc đó thuộc lãnh thổ của đế quốc Ottoman). Tại đây, ông lập một doanh
trại và lãnh đạo đất nước “từ xa”.
Charles
XII tìm cách thuyết phục Vua Thổ Ahmed III khai chiến với nước Nga.
Vương quốc này cũng đã vài lần khai chiến với Nga. Nhưng sau khi quân
Nga thất bại tại sông Prut vào năm 1711, Sa hoàng chịu ký hoà ước, trả
lại pháo đài Azov cho Thổ và huỷ bỏ một số căn cứ sát biên giới. Vua
Ahmed cảm thấy bớt lo ngại về hiểm hoạ từ Nga, trở nên lơ là với
Charles, thậm chí khó chịu về sự có mặt của ông trên lãnh thổ Ottoman.
Trong khi đó, các kẻ thù cũ của nhà vua lợi dụng sự vắng mặt của ông để
chiếm lại các lãnh thổ đã mất: Hanover chiếm Bremen và Verden, Đan Mạch
chiếm Holstein-Gottorp, Phổ dòm ngó vùng Pomerania, Augustus II chiếm
lại ngôi vua ở Ba Lan, còn nước Nga thì sau khi chiếm được các vùng
chiếm đóng của Thuỵ Điển trên bờ biển Baltic đã tiến hành xâm lược Phần
Lan.
Tháng 11
năm 1714, Charles rời bỏ lãnh thổ Ottoman để về nước. Bằng cách giả
trang làm một sĩ quan cấp thấp của Đức, ông bí mật băng ngang qua châu
Âu trên lưng ngựa. Trải qua một cuộc hành trình thần tốc 14 ngày đêm,
Charles đến được cảng Stralsund ở vùng Poremania thuộc Thuỵ Điển (ngày
nay thuộc lãnh thổ của nước Đức). Tại đây, trong hơn một năm trời, ông
chỉ huy cuộc phòng thủ chống lại liên quân Đan Mạch, Phổ và Saxony, và
chỉ chịu rời bỏ nơi đây vài ngày trước khi thành phố này thất thủ. Ông
đặt chân đến Lund trên bờ biển nam Thuỵ Điển vào tháng 12 năm 1715,
nghĩa là 15 năm sau khi rời đất nước lên đường chinh chiến. Charles tiếp
tục chuẩn bị cho một giai đoạn tiếp của cuộc chiến. Ông vừa mở các cuộc
đàm phán, đồng thời huy động một đạo quân 60.000 người để tìm cách giành
thắng lợi trên chiến trường. Tháng 9 năm 1718, ông chỉ huy chiến dịch
xâm lược miền đông-nam Na Uy, nhưng bị trúng đạn và tử trận trong khi
công kích Pháo đài Fredriksten
ở gần Christiana (Oslo) vào ngày 30.11.1718.
Charles
XII chết đi không có người thừa kế trực tiếp. Ngôi vua trở thành đối
tượng tranh chấp giữa người em gái của ông là quận chúa Ulrika Eleonora
và người cháu trai là Charles Frederick, quận công của Holstein-Gottorp.
Giới quý tộc, đứng đầu là bá tước Arvid Horn, đã lợi dụng điều này để
nắm lại quyền lực. Sau khi Ulrika đồng ý từ bỏ chế độ quân chủ tuyệt đối
(được ban hành từ năm 1680), Nghị viện công bố bà là Nữ hoàng Thuỵ Điển
vào năm 1718 và đến năm 1720, bà nhường ngôi cho chồng là Frederick I.
Chính quyền mới đã thành công trong việc chấm dứt chiến tranh, nhưng với
một cái giá rất đắt. Nước Phổ chiếm một phần Pomerania, Hanover chiếm
Bremen và Verden. Với hoà ước Nystad (1721), Thuỵ Điển phải nhường lại
Ingria, Estonia, Livonia và một phần bán đảo Karelia của Phần Lan cho
nước Nga. Từ đó về sau, nước Nga trở thành cường quốc khống chế vùng
Baltic, trong khi Thuỵ Điển nhanh chóng rơi xuống vị trí hàng thứ hai.
Có thể
nói thời đại của chế độ quân chủ tuyệt đối đã dọn đường cho giai đoạn
thường được gọi là “Thời đại Tự do” (Age of Liberty). Trước hết,
sự thất bại của đường lối dùng chiến tranh để đi tìm sự vĩ đại
(greatness, grandeur) dưới hai triều vua Charles XI và Charles XII đã
dẫn đến tâm lý chán ngán chiến tranh trong nhân dân. Mặt khác, dưới thời
Charles XII, nhà vua đi chinh chiến xa đất nước quá lâu (15 năm), giao
quyền nhiếp chính cho em gái là Ulrika; chính điều này đã giúp cho giới
quý tộc dần dần chi phối được đời sống chính trị của đất nước. Vì vậy
dưới thời của Ulrika (1718-1720) và Frederick I (1720-1750), cán cân
quyền lực lại dao động một lần nữa, nghiêng về phía bốn đẳng cấp lớn
trong xã hội.
Theo các
luật lập hiến ban hành trong những năm 1720-1723, quyền lực giờ đây nằm
trong tay các đẳng cấp (estates). Các đẳng cấp nhóm họp thường xuyên
trong Nghị viện (Riksdag), và cơ quan này chỉ định ra Hội đồng
của Vương quốc (tức Hội đồng Cơ mật) – hành xử như một cơ quan hành
pháp. Tại Hội đồng, nhà vua được dành cho hai phiếu nhưng không có quyền
quyết định. Tại Nghị viện, các quyết định được thực hiện trong một “Uỷ
ban Mật” (Secret Committee) mà nông dân (đẳng cấp thứ tư) không được
quyền tham gia. Các phiên họp công khai của các đẳng cấp trong Nghị viện
được dành cho các bài phát biểu và các cuộc tranh luận.
Có thể
nói trong Thời đại Tự do, Thuỵ Điển đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Mặc dù bị xáo trộn thường xuyên, giai đoạn này được đánh dấu bằng những
tiến bộ về xã hội và văn hoá. Nhiều danh nhân trong khoa học cũng xuất
hiện trong thời kỳ này như Anders Celsius (nhà thiên văn học, tác giả
của hệ thống đo nhiệt độ bách phân), Carl Linnaeus (Carolus Linnaeus,
còn được gọi là Carl von Linné, nhà thực vật học, tác giả của hệ
thống phân loại thực vật và động vật mang tên ông) hay Emmanuel
Swedenborg (nhà khoa học, triết học, đồng thời cũng là nhà thần học
Ki-tô-giáo) ,v.v…
Về mặt
chính trị, trong giai đoạn này, một hệ thống lưỡng đảng được phát triển
với hai đảng được biết dưới những biệt danh “Mũ mềm” (“Caps”) và “Mũ
cứng” (Hats).
Cả hai đảng đều theo chủ nghĩa trọng thương (mercantilism),
nhưng đảng Mũ mềm có đường lối ôn hoà, thận trọng hơn.
Đảng “Mũ
mềm”, mà nhân vật tiêu biểu là Arvid Horn (hai lần được bầu làm Chủ tịch
Hội đồng Cơ mật) nắm quyền lực cho đến năm 1738. Họ tiến hành một chính
sách ngoại giao thận trọng, tách khỏi nước Pháp, thân với nước Anh và
không gây hấn với nước Nga. Từ 1738 đến 1765, quyền lực lọt vào tay đảng
“Mũ cứng”, đảng này liên kết với Pháp để chống lại nước Nga. Chiến tranh
với Nga (1741-1743) và với Phổ (1757-62) không đem lại thành công. Đảng
Mũ cứng dự định biến Thuỵ Điển thành một cường quốc kinh tế lớn, nhưng
chính sách kinh tế và chi phí chiến tranh đã dẫn đến lạm phát và sụp đổ
tài chính. Tại Nghị viện triệu tập vào năm 1765, đảng Mũ cứng bị thất
bại, chỉ chiếm được 10 ghế trên 100 ghế của Uỷ ban Mật (Secret
Committee), số ghế còn lại đều lọt vào tay đảng Mũ mềm. Đảng Mũ mềm tiến
hành rà soát lại ngân sách, giảm bớt chi tiêu, làm giảm được công nợ của
quốc gia và tăng cường được kho bạc của nhà nước. Ngoài ra họ cũng thực
hiện được một số cải cách, trong đó có việc ban hành đạo luật đầu
tiên về tự do báo chí vào năm 1766.
Về đối ngoại, đảng Mũ mềm tăng cường quan hệ với Nga để tạo ra một đối
trọng với Pháp.
Trong 31
năm trị vì (1720-1751), Frederick I thật sự là một ông vua không có
quyền lực; phần lớn thời giờ của ông được dành cho chuyện săn bắn và
chuyện yêu đương. Mặc dù có con với tình nhân, Frederick lại không có
con với hoàng hậu Ulrika. Sau khi Ulrika qua đời (1741), vào năm 1743
Nghị viện đã chọn Adolf Frederick làm người thừa kế ngôi vua. Việc chọn
lựa này có động cơ riêng. Adolf Frederik là người thuộc dòng họ
Holstein-Gottorp, đã từng là người quản lý của Holstein-Kiel trong thời
gian 1739-1745. Holstein-Kiel cũng là nơi sinh và nơi cư trú suốt thời
niên thiếu của quận công Charles Peter Ulrich (cháu ngoại của Peter Đại
đế của nước Nga). Tháng 11 năm 1742, vào lúc 14 tuổi, Peter được người
dì ruột là Nữ hoàng Elizabeth của nước Nga chọn làm thái tử kế vị. Peter
được đưa sang Nga, đổi tên là Pyotr Fyodorovich, và cải đạo theo
Chính thống giáo. Đảng Mũ cứng (Hats) – lúc này đang khống chế chính
trường Thuỵ Điển, hy vọng việc lựa chọn Adolf Frederik sẽ giúp cải thiện
các điều kiện để ký hoà ước với nữ hoàng Elizabeth của nước Nga nhằm
chấm dứt cuộc chiến giữa hai nước.
Năm 1751,
sau khi Frederick I qua đời, Adolf Frederick lên ngôi, khởi đầu triều
đại của dòng họ Holstein-Gortorp, kéo dài 67 năm với bốn đời vua. Trong
phần lớn thời gian trị vì của ông (1751-1771), quyền lực nằm trong tay
của Nghị viện. Ông đã hai lần toan tính thoát ra khỏi sự kiểm soát của
Nghị viện nhưng không thành công. Trong lần “đảo chính” thứ hai,
(1768-1771), với sự hỗ trợ của thái tử Gustav, ông đã lật đổ được đảng
Mũ mềm (chủ trương thân-Nga và thân-Phổ) trong Nghị viện, nhưng đảng Mũ
cứng sau khi chiến thắng đã bội ước, không chịu tăng cường quyền lực của
nhà vua như đã hứa.
Trong ba
thập niên cuối thế kỷ XVIII, do các cuộc khủng hoảng kinh tế cũng như
do sự đối kháng giữa các đẳng cấp với nhau, cộng vào đó là nạn tham
nhũng, ưu thế của các đẳng cấp dần dần yếu đi, tạo điều kiện cho việc
thay đổi cán cân quyền lực, và lần này ưu thế lại nghiêng về phía vương
quyền.
Thái tử
Gustav lên ngôi vào năm 1771 với vương hiệu là Gustav III. Lúc đầu, ông
tìm cách làm trung gian để hoá giải các xung đột giữa các phe phái trong
Nghị viện nhưng không thành công. Đảng Mũ mềm (Cats) lúc đó đang nắm
quyền lực tại Nghị viện âm mưu biến ông thành một ông vua bù nhìn. Tháng
8 năm 1772, Gustav thành công trong việc thực hiện một cuộc đảo chính
“không đổ máu”. Nghị viện họp vào ngày 21.8.1772 đã thông qua hiến pháp
mới nằm thay thế cho hiến pháp năm 1720, qua đó tăng cường quyền hành
cho nhà vua và giảm bớt quyền lực của Nghị viện. Trong những năm sau đó,
Gustav III thực hiện nhiều cải cách theo chiều hướng tiến bộ như : bãi
bỏ biện pháp tra tấn trong khi điều tra, tu chỉnh Luật về Người nghèo
,
khoan dung tôn giáo đối với người Do Thái và người theo Công giáo La Mã,
tự do thương mại, củng cố hải quân, cải cách tiền tệ, tôn trọng tự do
báo chí, v.v…
Nhưng
những cải cách của Gustav III lại gây ra bất mãn trong giới quý tộc.
Nghị viện được triệu tập vào năm 1786 đã bác bỏ hầu hết các chính sách
cải cách của Gustav. Tính cách hoà nhã và cách cai trị hiệu lực của nhà
vua cũng không đủ để làm thoả mãn các phái chỉ trích ông, vì vậy ông tìm
cách xoa dịu những bất mãn trong các vấn đề nội địa bằng một chính sách
ngoại giao hiếu chiến. Lợi dụng việc Nga đang sa lầy trong cuộc chiến
với Thổ Nhĩ Kỳ, ông tuyên chiến với Nga vào năm 1788 nhằm chiếm lại các
tỉnh ở Phần Lan. Cuộc chiến gặp khó khăn, một phần vì sự tham chiến của
Đan Mạch để hỗ trợ cho Nga, phần khác do sự phản bội của một nhóm sĩ
quan thuộc giới quý tộc Thuỵ Điển. Trong thời gian chiến tranh, nhóm này
(có tên là Liên đoàn Anjala, Anjala League) đã gửi một lá thư cho
Nữ hoàng Catherine II của Nga để đề nghị thương lượng.
Gustav
lợi dụng sự phản bội này để kích thích lòng yêu nước ở Thuỵ Điển. Ông
triệu tập Nghị viện vào năm 1789, qua đó kêu gọi sự ủng hộ của ba đẳng
cấp bên dưới (tăng lữ, thị dân và nông dân) để chống lại đẳng cấp quý
tộc. Với sự hỗ trợ của ba đẳng cấp này, Gustav cải cách hiến pháp nhằm
tăng cường quyền lực của nhà vua. Quyền lực của Hội đồng Cơ mật bị tước
đoạt để giao lại cho nhà vua. Tuy nhiên, cùng lúc đó, ba đẳng cấp bên
dưới lại thực hiện một điều vượt ra ngoài ý muốn của nhà vua; đó là việc
huỷ bỏ trong thực tế tất cả các đặc quyền của giai cấp quý tộc (nghĩa là
giới quý tộc không còn có những đặc quyền nắm giữ bất cứ chức vụ nào
trong bộ máy hành chính cũng như đặc quyền chiếm hữu đất đai). Nhà vua
cũng giải quyết được cuộc chiến tranh với nước Nga, tránh được sự thảm
bại hoàn toàn. Sau chiến thắng vang dội của hải quân tại Svensksund
(tháng 7 năm 1790), Gustav chấm dứt cuộc chiến bằng một hoà ước được ký
kết vào tháng 8 năm đó.
Vào
khoảng năm 1791, Gustav III dự định thành lập một liên minh của các nước
quân chủ ở châu Âu nhằm chống lại cuộc cách mạng Pháp đang phát triển
như vũ bão ở lục địa này. Nhưng giới quý tộc Thuỵ Điển vẫn tiếp tục
chống đối quyết liệt với nhà vua, và một âm mưu của quý tộc đã được nhen
nhóm. Vào ngày 16.3.1792, nhà vua bị một nhà quý tộc là đại uý Jacob
Johan Anckarström (cựu sĩ quan trong đội vệ binh hoàng gia) bắn trọng
thương khi ông đến dự một buổi dạ vũ hoá trang tại Nhà hát Nhạc kịch
Hoàng gia. Hai tuần sau, nhà vua qua đời, để lại ngai vàng cho con trai
là Gustav IV.
Là một
người duyên dáng và có trí tưởng tượng phong phú, Gustav III nổi tiếng
là một mạnh thường quân của giới nghệ sĩ đương thời. Ông là người thành
lập Hàn lâm viện Thuỵ Điển vào năm 1786 và đã hỗ trợ mạnh mẽ cho giới
sân khấu ở Thuỵ Điển. Vở nhạc kịch opera đầu tiên được trình diễn bằng
tiếng Thuỵ Điển đã diễn ra vào năm 1773 và Nhà hát Nhạc kịch Hoàng gia
được mở cửa vào năm 1782. Bản thân Gustav cũng là một nhà soạn kịch. Do
những hoạt động về văn hoá cũng như những thành tựu về chính trị, triều
đại của ông thường được gọi là Thời đại Khai sáng của Thuỵ Điển
(Swedish Enlightment), hay Thời đại Khai sáng của Gustav
(Gustavian Enlightenment). Đường lối cai trị của ông được gọi là
đường lối độc tài sáng suốt (enlighted despotism).
Gustav IV
lên ngôi vào năm 1792 sau khi vua cha bị ám sát. Lúc này ông mới 13
tuổi, nên quyền nhiếp chính thuộc về người chú là Charles, quận công của
Södermanland. Mặc dù thời gian nhiếp chính chấm dứt vào năm 1796, nhưng
do bị ám ảnh bởi cao trào khủng bố cách mạng của phái Jacobins ở Pháp,
Gustav IV trì hoãn việc lên ngôi. Mãi đến năm 1800, khi các cuộc khủng
hoảng trong lĩnh vực tài chính và nông nghiệp đòi hỏi phải triệu tập
Nghị viện, Gustav IV mới chịu đăng quang. Không giống như cha ông,
Gustav IV là một người sùng đạo và mê tín. Ông coi các biến cố ở Pháp là
sự xúc phạm đến trật tự đạo đức. Ác cảm sâu xa đối với các nhà cách mạng
và đối với Napoleon được thể hiện qua chính sách ngoại giao của ông.
Quan trọng nhất là quyết định tham gia vào một liên minh chống lại
Napoleon vào năm 1805. Khi Nga liên minh với Pháp vào năm 1807, Gustav
vẫn cố chấp giữ vững lập trường, mặc dù điều đó có nghĩa là Nga sẽ tấn
công vào Phần Lan. Tình hình càng nghiêm trọng khi Đan Mạch đứng về phía
nước Pháp, tuyên bố chiến tranh với Thuỵ Điển vào năm 1808. Vương quốc
này bị đẩy vào thế cô lập, với những kẻ thù ở phía đông, phía nam và
phía tây. Quân đội Thuỵ Điển không bảo vệ được đất nước, quân Nga tiến
tới tận Umeå ở miền bắc Thuỵ Điển.
Trong
hoàn cảnh ấy, một số quan chức và sĩ quan có xu hướng tự do thuộc đạo
quân ở phía tây đã thực hiện một cuộc đảo chính lật đổ nhà vua vào ngày
13.3.1809. Phe đảo chính tuyên bố bác bỏ quyền thừa kế của gia đình
Gustav IV; họ buộc nhà vua và cả gia đình phải rời Thuỵ Điển để sống lưu
vong. Ngày 5.6.1809, quận công nhiếp chính là Charles (chú của nhà vua)
lên ngôi với danh hiệu là Charles XIII, sau khi đã thừa nhận một hiến
pháp mới với xu hướng tự do, được phê chuẩn bởi Nghị viện trong cùng
ngày.
Là một
người kém tài năng và thiếu kiên quyết, ngay từ lúc nắm quyền nhiếp
chính, Charles XIII đã để quyền hành lọt vào tay các cố vấn, do đó sau
khi được bầu làm vua, ông thật sự chỉ đóng vai trò của một người thay
thế tạm thời và không có cách nào can thiệp vào quá trình dân chủ hoá đã
đặt ông lên ngai vàng. Nhóm đảo chính muốn có một nền hoà bình nhanh
chóng và trả giá ít nhất, nhưng họ không thể cứu được Phần Lan. Vào
tháng 9 năm 1809, một hoà ước đã được ký kết: Thuỵ Điển đầu hàng, nhường
Phần Lan và đảo Åland (ở đông-bắc Stockholm) cho nước Nga.
Luật Công
cụ điều hành Chính quyền
(Instrument of Government) năm 1809 chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguyên
tắc chia tách các quyền lực (separation of powers), mà tư tưởng
chủ đạo là việc phân lập giữa các quyền lực lập pháp, tư pháp và hành
pháp. Sự
phân chia quyền lực giữa Nghị viện và Nhà Vua được quy định rõ, đồng
thời toà án và các cơ quan công quyền (public authorities) được ban bố
quy chế độc lập. Luật Nghị viện
(Riksdag Act) đầu tiên – quy định các thủ tục hoạt động của Nghị viện,
cũng được ban hành vào năm 1810. Cùng với Luật Thừa kế Ngôi vua
(ban hành năm 1810), các đạo luật nói trên được coi là luật cơ bản
(grundlagar, fundamental laws), hợp thành Hiến pháp của
Thuỵ Điển (thường được gọi là Hiến pháp 1809) được áp dụng mãi cho đến
năm 1974, mặc dù được tu chỉnh nhiều lần theo
thời gian.
Thuỵ Điển
là nước đầu tiên trên thế giới thành lập Cơ quan Thanh tra của Quốc hội
(Justitieombudsmannen, viết tắt
là JO).
Từ chỗ là một cơ quan giúp Nghị viện kiểm tra,
giám sát các hoạt động của bộ máy hành pháp, JO đã nhanh chóng trở thành
nơi mà các công dân có quyền gửi đơn khiếu nại về các hành vi sai trái
của bộ máy hành chính hay các viên chức nhà nước. Kinh nghiệm này về sau
được nhiều nước áp dụng và danh từ “ombudsman” trong tiếng Thuỵ
Điển trở thành một danh từ chung có mặt trong từ điển của nhiều
thứ tiếng trên thế giới.
Vua
Charles XIII trị vì từ 1809 đến 1818. Vì Charles XIII không có con, nên
vấn đề thừa kế được đặt ra. Với sự thoả thuận của Đan Mạch, Hoàng thân
Christian August của Augustenborg (lúc đó đang là phó vương của Na Uy)
được bầu làm thái tử và lấy vương hiệu là Charles August (Carl
August). Charles August nguyên là chỉ huy trưởng của quân đội Na Uy
trong chiến dịch kháng cự chống lại cuộc xâm lược của Thuỵ Điển trong
những năm 1808-1809. Uy tín rất lớn của ông ở Na Uy được coi như một yếu
tố thuận lợi giúp cho Thuỵ Điển nắm được vùng đất này. Đằng sau quyết
định chọn Charles August là những ý đồ về một liên bang Scandinavia;
giải pháp này được Đan Mạch ấp ủ, và được cả Napoléon ủng hộ.
Thế
nhưng Charles August mất đột ngột vào năm 1810, và vấn đề thừa kế ngai
vàng lại được đặt ra một lần nữa. Vị vua già Charles XIII và phần lớn
hội đồng muốn bầu anh trai của người vừa mất là Hoàng thân của Đan Mạch:
Frederick Christian II, quận công của Augustenborg. Nhưng các sĩ quan
trẻ và các công chức, vốn là những người ái mộ Napoleon và muốn Thuỵ
Điển liên minh với nước Pháp, lại chọn nguyên soái Jean-Baptiste
Bernadotte, một vị tướng trong quân đội của Napoleon. Tháng 8 năm 1810,
Nghị viện bầu Bernadotte làm thái tử của Thuỵ Điển.
Bernadotte đặt chân đến Thuỵ Điển vào tháng 10 năm 1810, đổi tên là
Charles John, nhanh chóng trở thành người lãnh đạo thật sự của nền chính
trị Thuỵ Điển. Sau khi Charles XIII mất vào năm 1818, Charles John lên
ngôi vua với vương hiệu Charles XIV John. Xuất thân là một thành viên
của phái Jacobins trong cách mạng Pháp, nhưng khi lên làm vua Thuỵ Điển
ông lại theo đuổi một chính sách hoàn toàn bảo thủ. Quyền lực của vua,
mà hiến pháp giao cho ông, được khai thác hết giới hạn; và các bộ trưởng
được tuyển chọn trong số tay chân của ông, bất chấp ý kiến của nghị
viện.
Phái đối
lập lúc này là phái tự do (liberals). Trong thập niên 1820, phái
này thường xuyên gia tăng những đòi hỏi cải cách, và 1830 là năm mà
quan điểm của phái tự do tạo ra một bước đột phá. Ở Thuỵ Điển, điều này
được thể hiện bằng việc thành lập một tờ nhật báo. Aftonbladet
(Evening Press, Báo Buổi chiều) trở thành tờ báo hàng đầu của phái tự do
đối lập, với Lars Johan Hierta là chủ bút (tổng biên tập). Đồng thời,
chính sách cai trị độc đoán của nhà vua, được thực hiện thông qua Magnus
Brahe - người cận thần đầy quyền lực, trở nên ngày càng dứt khoát hơn.
Cuộc đấu tranh của phái bảo thủ chống lại phái tự do đang lớn mạnh đạt
đến cực điểm vào cuối thập niên 1830, được đánh dấu bởi những hành động
chống lại tự do báo chí và những bản án kết tội phản bội. Những hành
động đàn áp này đã vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của phái tự do cũng như
những cuộc xuống đường biểu tình của quần chúng.
Tuy
nhiên, cuối cùng thì áp lực của phe đối lập cũng buộc nhà vua phải
nhượng bộ. Vào năm 1840, Nghị viện – mà đa số thuộc phe đối lập, đã tiến
hành cuộc “cải cách ở các bộ”, nghĩa là giờ đây các bộ trưởng trở thành
người đứng đầu của bộ liên quan, chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Một
cải cách có ý nghĩa quan trọng khác là việc ban hành một nền giáo dục
cưỡng bách vào năm 1842. Khi Charles XIV John mất vào năm 1844 và được
thay thế bởi con trai ông là Oscar I (trị vì 1844-59), giai đoạn cải
cách theo chiều hướng tự do hoá đã đạt được sức mạnh của nó.
Cải cách
quan trọng nhất là việc ban hành quyền tự do kinh doanh (free
entreprise) vào năm 1846, có nghĩa là xoá bỏ các phường hội; thay thế
vào đó là các công ty thương mại và công nghiệp hoạt động tự do. Đồng
thời, độc quyền về thương mại mà các thành phố đã nắm giữ từ thời Trung
Cổ cũng bị bãi bỏ. Cuối cùng, với việc ban hành một quy chế vào năm
1864, tự do kinh doanh hoàn toàn trở thành hiện thực. Một số cải cách
khác theo chiều hướng tự do hoá cũng được ban hành: quyền bình đẳng về
thừa kế giữa nam và nữ (1845), quyền của những người phụ nữ không lập
gia đình (1858), một bộ luật hình sự nhân đạo hơn (1855-64), quyền tự do
tôn giáo (1860), và chính quyền tự quản của địa phương (1862). Một bước
có ý nghĩa khác là quyết định vào năm 1854 buộc nhà nước phải có trách
nhiệm trong việc xây dựng và quản lý các đường sắt chính. Cuộc cách mạng
năm 1848 đã có ảnh hưởng trên toàn châu Âu. Tại Thuỵ Điển, đã có những
rối loạn xảy ra ở Stockholm. Điều này khiến cho Vua Oscar I - một người
có sáng kiến trong nhiều cải cách nêu trên, trở nên bảo thủ hơn.
Tuy nhiên
sau khi Oscar I được thay thế bởi người con trai là Charles XV (trị vì
1859-72), thì quyền lực trong thực tế dần dần chuyển sang tay của Hội
đồng Cơ mật (Privy Council), được đặt dưới sự lãnh đạo của bộ trưởng tài
chính - Nam tước Johan August Gripenstedt và bộ trưởng tư pháp - Nam
tước Louis De Geer.
Louis De
Geer (1818-1896) xuất thân là một luật sư. Từ 1858 đến 1870, ông là quốc
vụ khanh phụ trách ngành tư pháp. Là đại diện của giới quý tộc, ông tham
gia vào Nghị viện các Đẳng cấp từ năm 1851. Cuộc cải cách hệ thống đại
diện do ông tiến hành đã được Nghị viện thông qua vào tháng 12.1865 và
được hoàng gia phê chuẩn vào ngày 22.6.1866. Nghị viện của các đẳng
cấp, đại diện cho bốn đẳng cấp lớn trong xã hội (quý tộc, tăng lữ,
thị dân và nông dân) bị giải tán và thay bằng một nghị viện mới: Nghị
viện Thuỵ Điển (Sveriges Riksdag, The Swedish Riksdag), với
một hệ thống lưỡng viện gồm hai viện có quyền ngang nhau.
Các thành
viên của Viện thứ nhất được bầu cử gián tiếp bởi các hội đồng quản hạt
(hội đồng tỉnh, county councils) và hội đồng đô thị ở các thành phố và
thị trấn lớn. Chỉ có những người đủ tư cách mới được tham gia ứng cử,
dựa trên tiêu chuẩn về tuổi tác, thu nhập và tài sản. Tiêu chuẩn ứng cử
khiến cho Viện thứ nhất mang dáng dấp của một Thượng viện (Upper
Chamber) đại diện cho các đại địa chủ và các nhà doanh nghiệp trong công
nghiệp và thương mại.
Các thành
viên của viện thứ hai (Hạ viện) được chọn lựa bằng bầu cử trực tiếp từ
nhân dân. Tuy nhiên, để được quyền bỏ phiếu, cần phải hội đủ một tiêu
chuẩn kinh tế nào đó như sở hữu một bất động sản (tài sản cố định) hay
đóng một khoản thuế dựa trên thu nhập được đánh thuế hàng năm. Chỉ có
những nam công dân đủ 25 tuổi được quyền tham gia bầu cử. Những hạn chế
này khiến cho chỉ có 21 % số đàn ông trên 21 tuổi ở Thuỵ Điển đủ tư cách
để tham gia bầu cử Hạ viện.
Quyền
bầu cử (right to vote) vì vậy trở thành một đề tài tranh cãi. Từ thập
niên 1860, một cuộc tranh cãi sôi động đã diễn ra xung quanh đề tài
“quyền bầu cử”, và những đòi hỏi về quyền phổ thông đầu phiếu (universal
suffrage) ngày càng ầm ĩ.
Về
phía hành pháp, cũng có những cải tiến quan trọng. Hội đồng Cơ mật từng
bước trở thành một Chính phủ thật sự. Do chỗ nhà vua vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa trực tiếp nắm quyền hành pháp, cho nên nội các không có
chức Thủ tướng. Chỉ có hai vị bộ trưởng phụ trách bộ tư pháp và bộ ngoại
giao được gọi là Bộ trưởng của Nhà nước hay Quốc vụ khanh (Statsminister,
Minister of State). Kể từ năm 1876, Quốc vụ khanh phụ trách Tư pháp trở
thành người đứng đầu Nội các và Louis De Geer được coi như vị Thủ tướng
đầu tiên trong lịch sử Thuỵ Điển (1876-1880).
Như
vậy, có thể nói vào khoảng giữa thập niên 1860, ở Thuỵ Điển đã hình
thành nên một nền dân chủ đại nghị do công lao đấu tranh của
những người theo chủ nghĩa tự do (liberalism), do sự thoả hiệp
giữa giới quý tộc với giai cấp tư sản đang lên nhằm đáp ứng nhu cầu tự
do hoá, dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời tạo điều kiện
cho Thuỵ Điển đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo kịp
đà phát triển chung của các nước tiên tiến trên thế giới.
Nhưng
nền dân chủ này vẫn chỉ là một nền dân chủ hạn hẹp, bởi vì quần chúng
rộng rãi chưa được tham gia vào nó. Nói theo ngôn ngữ của những nhà
mác-xít, đó chỉ là một nền “dân chủ tư sản”. Để có thể trở thành một nền
dân chủ thật sự, một chế độ đại nghị thật sự, còn cần phải trải qua một
quá trình đấu tranh không kém phần gian khổ nhằm đem lại quyền lực thật
sự cho Nghị viện Thuỵ Điển.
Các
nhà sử học thường đánh giá rằng một số phong trào quần chúng như: Phong
trào Kiêng rượu (Temperance Movement), phong trào “Các Giáo hội Tự do”
(Free Churches) và các phong trào công đoàn vào những thập niên cuối thế
kỷ 19 đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền dân chủ ở
Thuỵ Điển. Các phong trào này đã giúp cho nhân dân học tập được các
phương pháp hội họp, ghi chép các biên bản hay viết các kiến nghị, biết
biện luận để bảo vệ quan điểm của mình và học cách tiếp xúc với cơ quan
công quyền. Cùng với các đảng phái chính trị, các phong trào này đã giúp
đem lại quyền phổ thông đầu phiếu cho nhân dân Thuỵ Điển và biến quốc
hội trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trong đời sống chính trị ở Thuỵ
Điển.
Như
vậy, mặc dù đã có những mầm mống dân chủ từ lâu đời, quá trình dân chủ
hoá ở Thuỵ Điển chậm hơn so với một số nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Cho đến
cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, nền dân chủ “tư sản” mới hình thành và
chưa được mở rộng thành nền dân chủ của toàn dân. Do đó, mặc dù du nhập
chậm hơn so với chủ nghĩa tự do (liberalism), chủ nghĩa xã hội
(socialism) đã đến với Thuỵ Điển trong khi sự nghiệp dân chủ hoá chưa
hoàn thành. Vấn đề đặt ra đối với những người dân chủ-xã hội Thuỵ Điển
là : có tham gia vào sự nghiệp dân chủ hoá đó hay không? Tham gia với tư
cách nào: trở thành nhân tố chủ yếu hay chỉ đóng vai trò thứ yếu? Có
tiếp tục duy trì và phát triển chế độ đại nghị hay từ bỏ nó để tiến hành
một cuộc cách mạng chính trị, cách mạng xã hội theo hướng lật đổ thể chế
hiện tồn?
*
Tuyển hầu (elector): là một vương công ở Đức có quyền tham gia
bầu cử hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh (The Holy Roman
Empire). Theo quy định vào khoảng năm 1273 (được xác nhận bởi
Sắc lệnh Vàng năm 1356), có 7 người có quyền bầu cử hoàng đế. Về
sau có bổ sung thêm vài người nữa. Trong thực tế, từ khi dòng họ
Habsburg ở Áo giành quyền làm hoàng đế, quyền bầu cử ngày càng
trở nên kém giá trị.
Chủ nghĩa trọng thương
là một lý thuyết kinh tế có từ rất sớm ở châu Âu ủng hộ tích cực
cho việc thiết lập các thuộc địa nhằm cung cấp nguyên liệu và
thị trường và làm giảm bớt sự phụ thuộc của quốc gia mình vào
các nước khác.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|