"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
Sự hình thành của phong trào dân chủ - xã hội ở Thuỵ Điển
Phần III
Đảng Dân chủ - Xã hội
(SAP) và chế độ đại nghị ở Thuỵ Điển
Vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, Thuỵ Điển vẫn còn là một trong những
nước chậm phát triển ở châu Âu, xét cả về mặt kinh tế lẫn về mặt chính
trị. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới diễn ra ở nước
Anh từ 1760 đến 1830. Tại Pháp, công
nghiệp hoá bắt đầu từ ngành dệt dưới thời Đế chế I (1804-1814) và thực
hiện bước quyết định trong thời gian 1840-1860. Còn ở Thuỵ Điển, mãi đến
thập niên 1870 quá trình công nghiệp hoá mới bắt đầu. Về mặt chính trị,
mặc dù Nghị viện ở Thuỵ Điển có một lịch sử lâu đời nhưng cho đến năm
1865, nó vẫn còn là Nghị viện của bốn đẳng cấp, mà quyền lực thật sự nằm
trong tay nhà vua và giới quý tộc. Chế độ nông nô chưa hề tồn tại ở Thuỵ
Điển, do đó nền quân chủ ở đây tìm được sự ủng hộ mạnh mẽ của nông dân,
nhất là dưới những vương triều của các “minh quân”. Điều này đã làm cản
trở sự hình thành của các đảng chính trị theo kiểu hiện đại. Các “đảng”
như
Mũ cứng và Mũ mềm thực chất chỉ là các xu hướng chính trị
khác nhau trong nội bộ giới thượng lưu, xa cách và nằm ngoài tầm tay của
quần chúng.
Cuộc cải cách chính trị năm 1866 đã thay Nghị viện Đẳng
cấp bằng một Nghị viện kiểu mới gồm
hai viện, tạo điều kiện cho sự hình thành chế độ đại nghị theo kiểu hiện
đại. Tuy vậy, trong thời kỳ đầu sau cuộc cải cách, nền dân chủ ở Thuỵ
Điển cũng chỉ hạn chế ở mức độ mà các nhà mác-xít thường phê phán là
“dân chủ tư sản”. Mặc dù một vài tầng lớp xã hội bị suy giảm quyền lực
(trong đó có giới tăng lữ), cuộc cải cách vẫn tiếp tục bảo tồn sức mạnh
của các lực lượng bảo thủ trong xã hội và trì hoãn sự phát triển của một
phong trào dân chủ - tự do có tổ chức. Do áp dụng quy chế bầu cử dựa
trên mức thuế (census suffrage), chỉ có khoảng 5% số dân được tham gia
bầu cử Hạ viện, toàn bộ nữ giới và những người nghèo bị loại ra khỏi sân
chơi chính trị.
Trong thực tế, mặc dù Louis De Geer được coi như một nhà tự do
(liberal), cuộc cải cách của
ông chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho một liên minh quyền
lực giữa giới thư lại (viên chức Nhà nước), các đại điền chủ và các nhà
tư sản công nghiệp.
Mặc dù vậy, sự ra đời của Nghị viện mới ở Thuỵ Điển cũng
tạo ra môi trường
chính trị thuận lợi hơn cho sự hình thành các đảng phái chính trị kiểu
hiện đại. Năm 1867, một đảng chính trị được hình thành ở Hạ viện có tên
là Đảng Lantmanna (Lantmannaparti, Ruralist Party, Đảng
Nông thôn) - một tập hợp của các đại điền chủ và tiểu điền chủ, nhưng
không có một hệ tư tưởng rõ rệt. Đảng này khống chế chính trường Thuỵ
Điển cho đến cuối thế kỷ. Năm 1888, đảng này bị chia rẽ thành hai phe:
Đảng Lantmanna cũ (Old
Lantmanna Party)
chủ trương tự do thương mại và Đảng Lantmanna mới
(New Lantmanna Party) chủ trương bảo hộ mậu dịch. Mãi đến năm
1895, hai đảng này mới tái hợp nhất với tên cũ và sau đó, gia nhập vào
phái bảo thủ.
Song song với Đảng Lantmanna, chủ nghĩa tự do cũng
từng bước phát triển ở Thuỵ Điển, thông qua các nhà tự do độc lập (không
đảng phái). Năm 1900, những dân biểu theo chủ nghĩa tự do trong Hạ viện
thành lập
Đảng Liên minh Tự do
(Liberala Samlingspartiet, The Liberal Coalition Party). Hai năm
sau (1902), một tổ chức có quy mô toàn quốc hợp tác với đảng Tự do được
thành lập có
tên là Frisinnade
Landsföreningen.
Phái bảo thủ có một lịch sử lâu đời ở Thuỵ Điển, nhưng
lại không có tổ chức thống nhất. Mãi đến năm 1904 mới ra đời tổ chức
chính trị quan trọng đầu tiên của phái bảo thủ, có tên là
Tổng Liên
đoàn Tuyển cử (Allmänna
valmansförbundet,
General Electoral League).
Đây là một liên minh của các nhóm và các tổ chức chính trị có xu hướng
bảo thủ trong Nghị viện, nhằm đối phó với sự lớn mạnh của phái tự do và
phái dân chủ - xã hội.
Như vậy, sự thành lập của đảng SAP vào năm 1889 chính là
yếu tố kích thích sự tập hợp của các phái chính trị quan trọng nhất ở
Thuỵ Điển. Ba phái dân chủ - xã hội, bảo thủ và tự do là
ba xu hướng chính trị chủ yếu chi phối chính trường Thuỵ Điển mãi cho
đến thập niên 1980.
Ngoài ra, do giai cấp nông dân ở Thuỵ Điển chưa từng bị
nô dịch bởi chế độ nông nô và sớm được tham gia “Nghị viện của các Đẳng
cấp”, cho nên họ có một tổ chức chính trị riêng, mặc dù xuất hiện muộn
hơn một chút. Trên đây chúng ta đã thấy sự xuất hiện của Đảng Lantmanna.
Nhưng mặc dù có tên là Đảng Nông thôn, đảng này trong thực chất không
phải là một đảng của nông dân (agrarian party). Tổ chức chính trị đầu
tiên đại diện thật sự cho quyền lợi của nông dân xuất hiện vào năm 1913,
có tên là Liên hiệp Nông dân (Bondeförbundet, Farmer’s
Union), chủ yếu thu hút giới tiểu điền chủ.
Năm
1915, xuất hiện một tổ chức khác của nông dân có tên là Hiệp hội Nông
dân toàn quốc (Jordbrukarnas Riksförbundet, National
Association of Farmers). Năm 1922, hai tổ chức này hợp nhất với nhau,
vẫn lấy tên là Liên hiệp Nông dân (Bondeförbundet,
Farmer’s Union), thường gọi là
Đảng
Nông dân
(Farmer’s Party).
Vấn đề đặt ra cho đảng SAP là: có chọn dân chủ như
một mục tiêu song song với mục tiêu chủ nghĩa xã hội hay không?
Đây là một vấn đề nan giải đối với tất cả các đảng xã hội chủ nghĩa ở
châu Âu lúc đó, và là đề tài tranh cãi trong lòng Quốc tế II.
Như chúng ta đã biết, ngay từ cuối thế kỷ 19, trong lòng Quốc tế II đã
phát sinh mâu thuẫn
giữa hai xu hướng “cải cách” và “cách mạng”.
Mâu thuẫn này
được thể hiện trên hai vấn đề: lý luận và sách luợc đấu tranh.
Trong nội bộ Đảng SPD (Đức), vấn đề nảy sinh xung quanh các luận điểm
của Eduard Bernstein, thường được gọi là chủ nghĩa xét lại
(revisionism, révisionnisme). Mặt khác, trong lòng phong trào xã hội
chủ nghĩa ở Pháp, cuộc tranh cãi lại diễn ra trên bình diện thực tiễn
xung quanh một vấn đề cụ thể hơn: những người xã hội chủ nghĩa có thể
cộng tác với một chính phủ tiểu tư sản đến mức độ nào? Ở Pháp, vào
tháng 6 năm 1899, sự kiện Alexandre Millerand - một nhà lãnh đạo của
phái xã hội chủ nghĩa tham gia vào chính phủ Waldeck-Rousseau đã gây ra
tranh cãi dữ dội trong lòng cánh tả nước Pháp. Phái của Jean Jaurès ủng
hộ việc Millerand tham gia vào chính phủ này trong
khi phái
của Jules Guesde kiên quyết phản đối. Cả hai vấn đề nêu trên của đảng Đức và đảng Pháp đã trở thành đề
tài tranh cãi trong lòng phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, đặc biệt
là tại Đại hội Paris (23 - 27.9.1900) và
Đại hội Amsterdam (14 - 20.8.1904) của Quốc tế II.
Tại
Đại hội Paris (năm 1900), cuộc đấu tranh bất phân thắng bại giữa quan
điểm chính thống của phái đoàn Đức - đứng đầu là Karl Kautsky, với quan
điểm cải cách của phái đoàn Pháp mà đại diện là Jean Jaurès sau cùng đã
dẫn đến một nghị quyết mang tính thoả hiệp (thường được gọi là nghị
quyết “cao-su”). Một mặt, nghị quyết xác định việc một nhà xã hội chủ
nghĩa tham gia vào một chính phủ tư sản chỉ là một giải pháp mang tính
“chiến thuật” chứ không phải là vấn đề “nguyên tắc”, và tỏ ý không tán
thành “kinh nghiệm nguy hiểm” này. Thế nhưng, nghị quyết không bác bỏ
hoàn toàn, mà chỉ khuyến cáo rằng: chỉ có thể áp dụng kinh nghiệm đó
“nếu như đại đa số thành viên của đảng xã hội chủ nghĩa tán thành hành
động đó, và nếu vị bộ trưởng xã hội chủ nghĩa còn nhận được sự uỷ nhiệm
của đảng ấy.”
Vào
năm 1903, tại Đại hội toàn quốc của Đảng SPD (Đức) họp ở Dresden, phái
chính thống đã thành công trong việc thông qua một nghị quyết “cứng
rắn”, thể hiện lập trường chống chủ nghĩa xét lại. Tại Đại hội Amsterdam
của Quốc tế II (năm 1904), vấn đề lại nổ bùng ra một lần nữa. Phái đoàn
Đức - đứng đầu là August Bebel, muốn đại hội biểu quyết tán thành nghị
quyết Dresden. Nổ ra cuộc tranh luận giữa Jean Jaurès (Pháp) và August
Bebel (Đức). Mặc dù bài phát biểu của Jaurès tỏ ra rất thuyết phục trong
khi phát biểu của Bebel bộc lộ nhiều yếu kém, đa số đại biểu dự Đại hội
lại biểu quyết chấp thuận nghị quyết Dresden. Như vậy là tại kỳ đại hội
này, đường lối cứng rắn của phái chính thống đã thắng đường lối cải
cách.
Trong thực
tế, những
cuộc tranh cãi ấy vẫn không được giải quyết một cách triệt để:
mâu thuẫn giữa hai đường lối cách mạng và cải cách vẫn tiếp tục âm ỉ
trong lòng Quốc tế II cũng như trong lòng mỗi đảng xã hội chủ nghĩa,
tiếp
tục gây rạn nứt trong lòng phong trào cánh tả thế giới.
Riêng tại Thuỵ
Điển, việc phái cải cách nắm được ưu thế trong phong trào dân chủ - xã
hội đã giúp cho phong trào cánh tả ở đây giải quyết được những vấn đề
nêu trên một cách dễ dàng hơn. Hjalmar Branting vốn là một nhà hoạt động
chính trị xuất thân từ phái tự do. Về mặt tư tưởng, ông tiếp thu chủ
nghĩa tự do (liberalism) trước khi đến với chủ nghĩa xã hội
(socialism). Vì vậy, ông đã nhanh chóng tán thành các quan điểm xét lại
của Bernstein trong khi ở một số nước khác, các nhà xã hội chủ nghĩa còn
lao vào các cuộc tranh cãi lý luận ồn ào xung quanh những luận điểm này.
Mặt khác, về sách lược, ngay từ khi còn là một nhà tự do, ông đã luôn
luôn mong muốn cộng tác với phái xã hội chủ nghĩa; vì vậy khi đã trở
thành một nhà xã hội chủ nghĩa, ông luôn tìm cách liên minh với phái tự
do. Sự hợp tác là rất cần thiết, vì mỗi bên có ưu thế riêng. Trong khi
sức mạnh của phái dân chủ - xã hội là các tổ chức quần chúng - nhất là
các công đoàn, thì thế mạnh của phái tự do là ảnh hưởng của các nhân vật
trí thức có quan hệ với giới thượng lưu và có uy tín trong xã hội.
Kể
từ đầu thế kỷ 20, ảnh hưởng của phái Tự do ngày càng mở rộng, mở ra khả
năng cạnh tranh với phái Bảo thủ trong việc thành lập chính phủ. Vào năm
1905, cuộc khủng hoảng của Liên hiệp Thuỵ Điển – Na Uy đã tạo điều kiện
cho Đảng Tự do lần đầu tiên đứng ra thành lập chính phủ.
Vấn
đề Na Uy vốn có một lịch sử lâu dài. Mặc dù bị ép buộc phải gia nhập vào
Liên hiệp Thuỵ Điển – Na Uy từ năm 1814, nhân dân Na Uy vẫn mong muốn
được độc lập. Do sự nhượng bộ của Thuỵ Điển, ngay từ khi mới gia nhập Na
Uy đã có hiến pháp riêng, Nghị viện riêng (Storting) và chính phủ
riêng, chỉ có Vua và chính sách ngoại giao là của chung hai nước. Nói
cách khác, Vương quốc Na Uy mặc dù chưa được độc lập, nhưng đã được
hưởng chế độ tự trị. Lịch sử của Na Uy trong suốt thế kỷ 19 được ghi dấu
bởi cuộc đấu tranh nhằm khẳng định tính độc lập của vương quốc này đối
với Thuỵ Điển bên trong Liên hiệp, cũng như để phát triển một nền văn
hoá Na Uy mang tính hiện đại. Kể từ thập niên 1880, cuộc đấu tranh giành
độc lập tập trung vào đòi hỏi thành lập một cơ quan ngoại giao riêng của
Na Uy để tham gia vào các vấn đề đối ngoại. Vào khoảng cuối thế kỷ 19 -
đầu thế kỷ 20, cuộc xung đột này càng trở nên gay gắt. Thuỵ Điển đòi hỏi
bộ trưởng ngoại giao của Liên hiệp phải là người Thuỵ Điển, trong khi
phía Na Uy lại yêu cầu có cơ quan lãnh sự riêng. Sự bất đồng ngày càng
tăng, quân đội Thuỵ Điển được triển khai; và đế đáp lại, người Na Uy
cũng tăng cường lực lượng quốc phòng của họ.
Cuối
cùng thì vấn đề lãnh sự đã kích hoạt sự xung đột giữa hai nước. Trong
khi quá trình đàm phán gặp bế tắc thì phía Na Uy quyết định hành động
đơn phương: Nghị viện Na Uy thông qua một đạo luật thành lập một cơ quan
lãnh sự riêng của Na Uy. Khi nhà vua (tức Vua Thuỵ Điển, đồng thời là
Vua của cả Liên hiệp) phủ quyết đạo luật này, chính phủ của Christian
Michelsen từ chức. Vào ngày 7.6.1905, trong tình thế nhà vua không thể
thành lập một chính phủ mới, Nghị viện Na Uy đã tuyên bố “Liên hiệp với
Thuỵ Điển bị giải tán bởi vì Nhà vua đã chấm dứt nhiệm vụ với tư cách là
Vua của Na Uy.” Nghị viện Thuỵ Điển từ chối thông qua quyết định đơn
phương này. Dưới áp lực về quân sự, Na Uy đồng ý tiến hành đàm phán.
Thuỵ Điển đòi hỏi thương thuyết với điều kiện chỉ giải tán Liên hiệp nếu
một cuộc trưng cầu dân ý chứng tỏ cả vương quốc đều đồng ý với quyết
định đó. Cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 8 năm 1905. Với
368.392 phiếu thuận, 184 phiếu chống, nhân dân Na Uy thể hiện nguyện
vọng giải tán Liên hiệp để đạt được nền độc lập. Một thoả thuận đã đạt
được tại Karlstad vào tháng 9 năm 1905 với sự nhượng bộ của cả hai bên.
Liên hiệp Thuỵ Điển – Na Uy chính thức giải tán trong hoà bình, và Na Uy
trở thành một Vuơng quốc độc lập dưới một chế độ quân chủ lập hiến.
Điều
đáng nói là ảnh hưởng của “vấn đề Na Uy” đối với chính trường của Thuỵ
Điển. Chủ trương của cánh hữu ở Thuỵ Điển là tìm cách duy trì Na Uy
trong lòng Liên hiệp Vương quốc, kể cả bằng biện pháp quân sự. Cả hai
phái tự do và dân chủ - xã hội đều ủng hộ mạnh mẽ việc Na Uy được tách
ra khỏi Liên hiệp một cách hoà bình. Thậm chí Đảng SAP còn tổ chức một
cuộc phản kháng chống lại việc động viên quân trừ bị và tổ chức tổng
đình công để phản đối chiến tranh. Thái độ của nhà vua tương đối mềm
dẻo, muốn giải quyết vấn đề bằng đàm phán hơn là dùng biện pháp quân sự.
Khi
vấn đề “lãnh sự riêng của Na Uy” được đặt ra, Thủ tướng của chính phủ
đương nhiệm là Erik Gustaf Boström, một nhà chính trị xuất thân là một
điền chủ thuộc Đảng Lantmanna. Tháng 3 năm 1905, để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc đàm phán với phía Na Uy, Boström từ chức, nhường chức Thủ
tướng cho bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ của ông là Johan
Ramstedt. Nhiệm vụ cấp bách trước mắt của Ramstedt là giải quyết cuộc
khủng hoảng của Liên hiệp Vương quốc. Cùng với Thái tử lúc đó là Gustav,
ông đã vạch một kế hoạch cho phép Na Uy được rời khỏi Liên hiệp với điều
kiện không có sự can thiệp của Nghị viện Na Uy. Tuy nhiên, kế hoạch
không đạt kết quả mong muốn vì Nghị viện Na Uy đã đơn phương giải tán
Liên hiệp vào ngày 7.6.1905. Ramsted đề nghị với Nghị viện Thuỵ Điển
giao quyền cho Chính phủ của ông để điều đình với phía Na Uy về các điều
khoản nhằm giải tán Liên hiệp. Thế nhưng một uỷ ban mật của Thượng viện
dưới sự điều khiển của Christian Lundeberg đã bác bỏ đề nghị của Chính
phủ, dẫn đến việc Ramsted và toàn bộ Nội các phải từ chức – một điều
chưa từng xảy ra kể từ khi ban hành Hiến pháp 1809.
Sau
khi Ramsted từ chức, Christian Lundeberg được Vua Oscar II chỉ định
thành lập chính phủ mới. Lundeberg vốn là lãnh tụ của một đảng bảo thủ ở
Thượng viện có tên là Đảng Đa số Bảo hộ Mậu dịch (Protectionist Majority
Party). Chính phủ do ông thành lập vào tháng 8 năm 1905 là một chính
phủ “đoàn kết dân tộc” (national coalition government) có nhiệm vụ giải
quyết cuộc khủng hoảng của Liên hiệp Vương quốc. Trong số các thành viên
của chính phủ liên minh này, có mặt Karl Staaff, đại diện cho Đảng Tự
do. Vào tháng 9 năm 1905, Chính phủ của Lundeberg đạt được thoả thuận
với phía Na Uy về việc giải tán Liên hiệp. Sau khi giải quyết xong cuộc
khủng hoảng về Liên hiệp, Lundeberg tìm cách duy trì chính phủ liên minh
để giải quyết một nhiệm vụ mới: vấn đề phổ thông đầu phiếu. Không tìm
được sự ủng hộ của Nghị viện, Lundeberg từ chức Thủ tướng vào tháng 11
năm 1905. Người được nhà vua chỉ định thành lập chính phủ mới chính là
Karl Staaff.
Karl Staaff (1860 – 1915) là người đầu tiên của Đảng Tự do
đứng ra thành lập chính phủ kể từ khi đảng này thành lập vào đầu thế kỷ
20. Xuất thân là một luật sư, ông tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
đòi quyền phổ thông đầu phiếu. Năm 1905, ông trở thành lãnh tụ của Đảng
Tự do (lúc đó có tên là Đảng Liên minh Tự do, Liberala
Samlingspartiet, The Liberal Coalition Party). Là Thủ tướng của Thuỵ
Điển trong hai nhiệm kỳ (1905-06 và 1911-14), ông đã thực hiện một số
chính sách xã hội như: cải thiện điều kiện sinh hoạt của nhà giáo, thông
qua một đạo luật về giải quyết các tranh chấp lao động, trợ cấp của
chính phủ cho các trung tâm tìm việc làm, thực hiện trợ cấp cho người
già, phúc lợi xã hội trong công nghiệp và tăng cường hỗ trợ cho các quỹ
bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm y tế.
Từ
trước khi Đảng Tự do thành lập chính phủ, giữa hai phái tự do và dân chủ
- xã hội đã liên minh trong các cuộc vận động bầu cử và phối hợp hoạt
động tại quốc hội. Về phía phái dân chủ - xã hội, người đóng vai trò
quan trọng để nối kết liên minh chính là Hjalmar Branting. Nhờ sự hỗ trợ
của phái tự do, bảy năm sau khi thành lập Đảng SAP (năm 1896), Branting
đã đắc cử vào Hạ viện
và trở thành đại biểu quốc hội đầu tiên
thuộc phái dân chủ - xã hội. Năm 1906 ông trở thành người lãnh đạo của
đảng đoàn tại nghị viện (party’s parliament group) của SAP và đến năm
1908, ông được đại hội đảng bầu vào chức vụ chủ tịch đảng.
Trong nhiệm kỳ Thủ tướng đầu tiên của Karl Staaf (1905-1906), sự hợp tác
giữa hai phái Dân chủ - xã hội và Tự do không được thuận buồm xuôi gió.
Dưới áp lực của đòi hỏi cải cách chính trị, đã xảy ra sự va chạm giữa
hai bên do sự khác biệt về lập trường chính trị và phương pháp đấu
tranh. Staaff đặc biệt khó chịu vì các hoạt động bên ngoài nghị trường
của SAP và các hoạt động phản chiến quá mạnh của họ. Vào năm 1906, ông
đưa ra một đạo luật nhằm trừng phạt những hành vi kích động biểu tình và
tuyên truyền phản chiến, dẫn đến kết quả một số đảng viên dân chủ - xã
hội phải vào tù. Điều này làm cho nhiều đảng viên SAP tức giận, nhất là
cánh tả trong đảng – là những người chịu ảnh hưởng của phái Spartacus ở
Đức và phái Bolshevik ở Nga. Tuy nhiên, mặc dù giữ một lập trường ôn hoà
hơn so với phái dân chủ-xã hội, Staaff vẫn không thể tranh thủ được sự
ủng hộ của phái trung-hữu (center-right) đang chiếm đa số tại Quốc hội,
do đó dự án về quyền phổ thông đầu phiếu của ông bị Thượng viện bác bỏ.
Sau khi đề nghị bầu cử lại Hạ viện bị nhà vua (Oscar II) từ chối, Staaff
từ chức. Arvid Lindman, một nhà lãnh đạo của phái bảo thủ có lập trường
ôn hoà, đứng ra thành lập chính phủ.
Arvid Lindman (1862–1936) xuất thân là một sĩ quan hải quân.
Rời quân ngũ sau mười năm phục vụ (1882-1892), ông được phong cấp Đề đốc
(Rear Admiral, tương đương tướng hai sao) trong lực lượng dự bị của hải
quân vào năm 1907. Là một trong những nhà công nghiệp nổi tiếng đương
thời, ông đã từng lãnh đạo Televerket (Tổng cục viễn thông của
Thuỵ Điển). Bắt đầu sự nghiệp chính trị với chức vụ bộ trưởng hải quân
và thượng nghị sĩ vào năm 1905, về sau ông trở thành lãnh tụ của phái
Bảo thủ tại Hạ viện.
Là
một nhà bảo thủ có lập trường ôn hoà, vào năm 1907, Lindman đề xuất một
giải pháp thoả hiệp. Dự án của ông ban hành quyền phổ thông đầu phiếu
cho tất cả nam giới trên 24 tuổi trong các cuộc bầu cử ở hạ viện, ngoài
ra cũng có sự thay đổi trong quy chế bầu cử Thượng viện. Branting phản
đối dự án này vì không đem lại quyền bỏ phiếu cho phụ nữ và những thay
đổi trong thủ tục bầu cử Thượng viện vẫn còn giành nhiều lợi thế cho các
doanh nhân giàu có. Mặc dù bị phái dân chủ-xã hội và một thiểu số thuộc
cánh tả của Đảng Tự do phản đối, khối đa số của Đảng Tự do đã ủng hộ cho
dự luật. Và như vậy, một bước quan trọng của quá trình dân chủ hoá nền
chính trị Thuỵ Điển đã được thực hiện do chính phái Bảo thủ, bởi vì phái
này hy vọng cuộc cải cách sẽ giúp họ ngăn chặn được những đòi hỏi cấp
tiến hơn của cánh tả. Đạo luật này (có hiệu lực từ 1909), cho phép tất
cả nam công dân đủ 24 tuổi được quyền tham gia bầu cử Hạ viện. Mặc dù
còn hạn chế do các quy định về thu nhập,
cuộc cải cách cho phép khoảng 19 % dân số tham gia bầu cử Hạ viện. Như
chúng ta sẽ thấy, cuộc cải cách tuy chưa trọn vẹn, nhưng sẽ tác động rất
lớn lên tình hình chính trị của Thuỵ Điển về sau.
Cho
đến cuối thập niên 1900, quan hệ giữa hai phái dân chủ - xã hội và tự do
vẫn còn chưa được cải thiện. Tháng 8 năm 1909, nổ ra xung đột giữa chủ
doanh nghiệp và công nhân. Sau một loạt các cuộc tranh chấp và đình
công, giới chủ doanh nghiệp ra lệnh đóng cửa (lock-out) một loạt nhà
máy; phía Liên hiệp Công đoàn (LO) phản ứng bằng cách ra lệnh tổng đình
công, lôi kéo khoảng 300 ngàn công nhân tham gia. Cuộc tổng đình công
này (được coi là dài ngày nhất tính cho đến lúc đó) cuối cùng dẫn đến
thất bại, công nhân phải chấp nhận nhiều điều kiện của giới chủ. Cuộc
tổng đình công gây thêm căng thẳng giữa hai phái, hai nhà lãnh đạo là
Staaff và Branting công khai phê bình lẫn nhau. Tình hình tiếp tục trì
trệ mãi cho đến năm 1911, khi cuộc bầu cử thúc đẩy hai phái trở lại cộng
tác với nhau. Hậu quả của cuộc cải cách về quyền bầu cử của Lindman vào
lúc này bắt đầu phát huy tác dụng: Đảng Tự do giành thắng lợi lớn trong
cuộc bầu cử năm 1911. Vua Gustav V (lên ngôi vào tháng 12 năm 1907) mặc
dù không muốn nhưng vẫn phải yêu cầu Staaff thành lập một chính phủ mới
vào tháng 10 năm 1911. Về phía Đảng SAP, họ công khai tuyên bố ủng hộ
chính phủ của Đảng Tự do, chừng nào đảng này còn theo đuổi một chương
trình cải cách về chính trị.
Trong nhiệm kỳ thứ hai (1911-1914), mặc dù đi theo một đường lối tế nhị
hơn để tránh làm gay gắt thêm những bất đồng trong Đảng Tự do, Staaff
vẫn không tránh khỏi sự xung đột với giới thống trị đương thời ở Thuỵ
Điển, vốn còn nặng xu hướng bảo thủ, bảo hoàng và phản - dân chủ. Ngay
sau khi nhậm chức, vào tháng 12 năm 1911 chính phủ của Staaff từ chối
cấp ngân sách cho một dự án chế tạo một chiến hạm tuần duyên kiểu mới -
trị giá 12 triệu đồng kronor, đã được chính phủ tiền nhiệm thông qua.
Điều này đã làm bùng lên ra một phản ứng mạnh mẽ chưa từng thấy ở Thuỵ
Điển – do phái bảo thủ phát động với sự hỗ trợ của nhà vua. Cánh hữu đã
thực hiện được một cuộc quyên góp lớn chưa từng có trong lịch sử Thuỵ
Điển tính cho đến lúc đó: chỉ trong hơn ba tháng, cuộc quyên góp đã thu
được 15 triệu đồng kronor, và chính phủ Staaff đành phải “ngậm bồ hòn
làm ngọt”, đồng ý nhận tiền và đặt hàng đóng chiếc tàu nói trên, mang
tên là Sverige (hạ thuỷ vào tháng 5 năm 1915).
Đầu
năm 1914, một sự kiện thứ hai xảy ra khiến Staaff phải từ chức Thủ
tướng. Vào lúc này, vấn đề ngân sách quân sự trở thành nóng bỏng, vì
cuộc Chiến tranh Thế giới I đang đến gần. Ngày 6.2.1914, phe bảo thủ đối
lập huy động một cuộc biểu tình hơn 30 ngàn nông dân đòi hỏi tăng cường
ngân sách chiến tranh. Vua Gustav V, vốn thường xuyên xung đột với chính
phủ theo đường lối chủ hoà của Đảng Tự do, đã tuyên bố ủng hộ lập trường
của những người biểu tình khi họ kéo đến sân của Dinh Stockholm. Khi Thủ
tướng Staaff đề nghị nhà vua ngừng phát biểu và ngừng khuyến khích các
cuộc biểu tình chống chính phủ, nhà vua trả lời rằng ông “không muốn tự
tước bỏ quyền tự do bày tỏ ý kiến đối với nhân dân Thuỵ Điển.” Chính phủ
Staaff từ chức và toàn bộ nghị sĩ của Đảng Tự do ở cả hai viện của Quốc
hội đã phát hành một bản tuyên bố báo động rằng hệ thống chính quyền
đang lâm nguy và kêu gọi nhân dân Thuỵ Điển bảo vệ quyền làm chủ của họ.
Phái bảo thủ và Hội Liên hiệp Nông dân lên án phái Tự do đã đặt chế độ
nghị viện lên trên an ninh quốc gia, và kêu gọi nhân dân dồn nỗ lực để
giải quyết vấn đề quốc phòng. Nhà vua chỉ định Hjalmar Hammarskjold
thuộc phái Bảo thủ thành lập chính phủ mới, nhưng căng thẳng vẫn tiếp
tục khi thảo luận vấn đề chi phí quốc phòng. Hạ viện bị giải tán để tổ
chức bầu cử lại.
Đúng
vào ngày Karl Staaff từ chức, Branting viết bài trên tờ
Social-Demokraten ca ngợi thái độ dũng cảm của ông. Nhưng về phía
phái bảo thủ, trong cuộc bầu cử mùa xuân năm 1914, họ đã phát động một
chiến dịch bôi nhọ quy mô nhằm vào cá nhân Staaff, mô tả ông như một kẻ
phá huỷ truyền thống của xã hội Thuỵ Điển. Giới nhà giàu ở thủ đô
Stockholm thậm chí còn mua các gạt tàn thuốc lá tạo hình giống khuôn mặt
của ông để có thể dụi điếu thuốc lá vào hai mắt. Cuộc bầu cử năm 1914
đem lại thất bại lớn cho Đảng Tự do.
Vào
tháng 6, cuộc tranh chấp đột ngột dừng lại do chiến tranh bùng nố ở châu
Âu, dẫn đến việc ngân sách quốc phòng được thông qua với một vài điều
chỉnh để làm yên lòng phái Tự do. Cuối cùng thì chỉ có phái Dân chủ - xã
hội kiên quyết bỏ phiếu chống, về phía phái Tự do chỉ có 24 nghị sĩ từ
chối bỏ phiếu để phản đối. Cuộc khủng hoảng này (thường gọi là Cuộc
khủng hoảng ở Sân Hoàng cung, The Courtyard Crisis) là lần cuối cùng
một vị vua Thuỵ Điển can thiệp trực tiếp vào hoạt động chính trị của
Nghị viện.
Cùng
với cuộc đấu tranh để mở rộng quyền bầu cử, số đại biểu dân chủ - xã hội
trong Nghị viện tăng lên. Nếu từ năm 1896 đến năm 1902, Branting là đại
biểu dân chủ - xã hội duy nhất trong Hạ viện thì từ năm 1902, số lượng
của đảng viên SAP trong Hạ viện ngày càng tăng dần theo thời gian. Năm
1902, SAP có 4 dân biểu trên tổng số 230 ghế tại Hạ viện; năm 1903: 13
ghế; 1908: 34 ghế; 1911: 64 ghế. Trong cuộc bầu cử năm 1914, mặc dù Đảng
Tự do bị thất bại nặng nề, nhưng Đảng SAP lại giành được thêm một số ghế
tại Hạ viện. Vào tháng 11 năm 1914, Branting thuyết phục được đại hội
Đảng SAP chấp nhận về nguyên tắc sự hợp tác với các đảng phái chính trị
khác trong việc thành lập chính phủ, và như vậy đã phá bỏ được một rào
cản quan trọng trên con đường đấu tranh giành quyền lực trong khuôn khổ
của chế độ đại nghị.
Cuộc
đấu tranh cho quyền phổ thông đầu phiếu vẫn được phái tự do tiếp tục
dưới sự lãnh đạo của Nils Edén (1871-1945). Là một tiến sĩ sử học
giảng dạy tại Đại học Uppsala từ năm 1899, Edén được bầu vào Hạ viện từ
năm 1908. Năm 1912, khi Staaff giữ chức Thủ tướng, Edén trở thành thủ
lãnh của nhóm dân biểu Đảng Tự do tại Hạ viện. Sau khi Staaff mất
(1915), Edén trở thành lãnh tụ của Đảng Tự do. Trong đảng, Edén thuộc về
cánh hữu; ông có lập trường gần với phái hữu trên các vấn đề quốc phòng.
Nhưng Edén lại không tán thành quan điểm của nhiều nhà tự do xuất thân
từ phong trào “kiêng rượu” và phong trào ”giáo hội tự do”, tập hợp xung
quanh Carl Gustaf Ekman.
Cả
hai Đảng Tự do và Dân chủ - Xã hội giành được thắng lợi lớn trong cuộc
bầu cử vào tháng 9 năm 1917. Sau khi Johan Widén - một nhân vật có xu
hướng ôn hoà trong phái bảo thủ, không thành công trong việc lập chính
phủ, Nils Edén được nhà vua đề nghị đứng ra thành lập chính phủ. Edén đã
thành lập một chính phủ liên minh giữa hai Đảng Tự do và Dân chủ - Xã
hội, Đảng SAP giữ bốn ghế bộ trưởng với Hjalmar Branting trong chức vụ
bộ trưởng tài chính. Như vậy là Đảng SAP lần đầu tiên tham gia chính
quyền, mặc dù chỉ mới giữ vai trò thứ yếu, phụ thuộc.
Chính phủ Edén nhậm chức vào tháng 10 năm 1917. Tình hình thế giới, đặc
biệt là các nước xung quanh, diễn biến nhanh chóng. Tháng 11, Đảng
Bolshevik cướp chính quyền ở Nga. Tháng 12, Phần Lan tuyên bố độc lập và
sang đầu năm 1918 nội chiến nổ ra ở nước này. Cuối tháng 10 – đầu tháng
11 năm 1918, khi cuộc Chiến tranh Thế giới I bước vào những ngày cuối
cùng, cuộc binh biến của Hải quân Đức nổ ra tại quân cảng Kiel và một
tuần sau, Hoàng đế William II (Wilhelm II) buộc phải thoái vị;
nước Cộng hoà Weimar thành lập. Riêng tại Thuỵ Điển, những tin đồn về
“khởi nghĩa”, “cách mạng” khiến nhà vua phải áp dụng các biện pháp kiểm
soát để phòng ngừa binh lính nổi dậy làm binh biến. Chính trong tình
hình đó, các thế lực bảo thủ đã nhượng bộ trước yêu cầu dân chủ hoá,
đồng ý thông qua dự án cải cách quy chế bầu cử của Thủ tướng Edén. Chế
độ phổ thông đầu phiếu (universal suffrage) được chính thức ban hành vào
giữa năm 1919
và bắt đầu áp dụng vào năm 1921. Tuổi đi bầu là 23 tuổi, và nữ giới được
hưởng quyền bầu cử như nam giới. Quy định này sẽ cho phép khoảng 54 %
dân số được hưởng quyền bầu cử.
Sau
khi giải quyết xong vấn đề quyền phổ thông đầu phiếu thì sự cộng tác
giữa hai đảng trong liên minh bắt đầu gặp khó khăn trong việc hoạch định
các chính sách về kinh tế. Bị tác động bởi sự hình thành của một đảng
cộng sản do những người dân chủ - xã hội ly khai (tháng 5 năm 1917),
đảng SAP không dám bỏ rơi chủ trương quốc hữu hoá và một số biện pháp
cấp tiến khác, trong khi đó đảng Tự do lại chia sẻ chủ trương của phái
Bảo thủ về một hệ thống kinh tế tự do.
Khi
Thủ tướng Edén từ chức vào tháng 3 năm 1920, Hjalmar Branting đứng ra
thành lập chính phủ mới. Đây là chính phủ đầu tiên mà toàn bộ thành viên
đều thuộc phái dân chủ - xã hội, mặc dù vẫn còn là một chính phủ thiểu
số (minority government). Do chương trình về kinh tế bị phe đối lập tấn
công mạnh mẽ, trong cuộc bầu cử tháng 9 năm 1920, Đảng SAP bị mất 10 ghế
tại Hạ viện, Branting phải từ chức. Tuy vậy, việc lập một chính phủ của
cánh hữu vẫn gặp khó khăn. Vua Gustav V chỉ định Gerhard
Louis De Geer
thành lập một chính
phủ để tạm thời chấp chính trong khi chờ đợi cuộc bầu cử quốc hội tháng
10 năm 1921. Nhưng chính
phủ này không được sự ủng hộ của cả phái tả lẫn phái hữu, cho nên cũng
chỉ tồn tại được 121 ngày (27.10.1920 – 23.2.1921) để nhường chỗ cho một
chính phủ lâm thời khác (từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1921) của Oscar von
Sydow, một chính trị gia bảo thủ không đảng phái.
Vào tháng
10 năm 1921, lần đầu tiên một cuộc tổng tuyển cử thật sự dân chủ được
tiến hành, do việc áp dụng quy chế phổ thông đầu phiếu. Đảng Dân chủ -
Xã hội giành thắng lợi lớn với 39,4 % số phiếu, chiếm 93 trên tổng số
230 ghế ở Quốc hội. Branting trở lại lập chính phủ mới, và trở thành vị
Thủ tướng đầu tiên trong lịch sử Thuỵ Điển được bầu cử một cách thật
sự dân chủ. Là Thủ tướng ba nhiệm kỳ (tháng 3.1920 – tháng 10.1920,
tháng 10.1921 – tháng 4.1923, tháng 10.1924 – tháng 1.1925), ông đã đưa
Thuỵ Điển gia nhập vào Hội Quốc Liên vào năm 1921. Cũng trong năm này
(1921), Branting đoạt giải Nobel Hoà bình do những công lao đóng góp cho
Hội Quốc Liên. Tháng 1 năm 1925, ông từ chức vì lý do sức khoẻ, chức vụ
Thủ tướng được giao lại cho Rickard Sandler – cũng thuộc Đảng SAP. Qua
đời vào lúc 65 tuổi (tháng 2 năm 1925), Hjalmar Branting được coi là
người mở đường cho đảng
dân chủ - xã hội Thuỵ Điển đạt được quyền lực chính trị
hoàn toàn bằng con đường dân chủ.
Sự kiện Đảng SAP tham
gia chính phủ liên minh và tiến đến tự mình thành lập chính phủ diễn ra
song song với sự phân hoá trong hàng ngũ những người dân chủ - xã hội.
Sự phân hoá này có liên quan đến sự phát triển của xu hướng cách mạng
trong lòng Quốc tế II - dưới sự lãnh đạo của nhóm Spartacus của Karl
Liebknecht và Rosa Luxemburg ở Đức và phái Bolshevik của Lenin ở Nga.
Thành phần chủ yếu
của cánh tả trong Đảng SAP là những nhà dân chủ - xã hội thuộc thế hệ
trẻ, mà nhân vật trung tâm là Zeth Höglund (1884 – 1956). Tham
gia Đảng SAP từ năm 1904, Höglund là người lãnh đạo Liên đoàn Thanh niên
Dân chủ - Xã hội Thuỵ Điển (Socialdemokratiska
Ungdomsförbundet,
Social Democratic Youth League) và nổi tiếng là một nhà hoạt động phản
chiến. Cùng với
một số đảng viên SAP cùng thế hệ như Fredrik Ström (1880-1948), Ture
Nerman (1886-1969), Karl Kilbom (1885 – 1961),
Höglund đã tập hợp thành phái cách mạng trong
lòng Đảng SAP. Ngoài ra, họ cũng lôi kéo được một số nhân vật có tiếng
tăm thuộc thế hệ lớn tuổi như
Carl
Lindhagen
(1860–1946), một luật sư giữ chức thị trưởng của Stockholm và
Kata
Dalström
(1858–1923),
một nhà văn nữ xuất thân từ giới thượng lưu và là người phụ nữ đầu tiên
được bầu vào ban chấp hành trung ương Đảng SAP từ 1900.
Năm 1915, Zeth Höglund và Ture
Nerman đã được Đảng SAP cử tham dự Hội nghị của những người xã
hội chủ nghĩa chống chiến tranh ở Zimmerwald (Thuỵ Sĩ) và sau khi dự hội
nghị,
Höglund đã gặp riêng Lenin trong một quán rượu ở Bern
(Thuỵ Sĩ). Tháng 4 năm 1917, sau cuộc Cách mạng Tháng Hai ở Nga, trên
đường từ Thuỵ Sĩ trở về nước Nga, Lenin ghé ngang Stockholm; vào lúc đó
Höglund đang bị tù vì các hoạt động chống chiến tranh. Lenin được Ture
Nerman, Fredrik Ström and Carl Lindhagen đón tiếp nồng hậu. Các nhà dân
chủ - xã hội cánh tả Thuỵ Điển còn dẫn Lenin vào một siêu thị và mua
tặng nhà lãnh tụ Bolshevik một bộ quần áo mới để mặc cho tươm tất khi
trở về nước Nga. Mặc dù dự định viếng thăm Höglund tại nhà tù không thực
hiện được, Lenin đã gửi một bức điện thăm hỏi sức khoẻ của Höglund. Ngày
6.5.1917, Höglund được trả tự do sau 13 tháng giam giữ; đích thân Lenin
và Zinoviev thay mặt Trung ương Đảng Bolshevik ký tên trên một bức điện
tín để chúc mừng “người chiến sĩ kiên cường chống chiến tranh đế quốc và
người toàn tâm toàn ý ủng hộ Quốc tế Thứ Ba”.
Lập trường của Hjalmar Branting và Đảng SAP hoàn toàn
trái ngược với lập trường của nhóm dân chủ - xã hội cánh tả. Branting
hoàn toàn ủng hộ cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga, nhưng ông ủng
hộ phái Menshevik và chủ trương bảo vệ chính quyền hợp pháp của
Kerensky. Do đó khi Cách mạng Tháng Mười nổ ra, ông công khai lên án
việc phái Bolshevik cướp chính quyền. Ngược lại, việc Đảng SAP tham gia
vào chính phủ của Nils Edén cũng bị cánh tả trong đảng coi là một hành
động “phản bội giai cấp”, thoả hiệp với “giai cấp tư sản”.
Do sự đối lập về lập trường, đầu năm 1917 nhóm cánh tả
trong Đảng SAP ly khai khỏi đảng. Đến tháng 5 năm 1917, nhóm Höglund
thành lập Đảng Dân chủ - Xã hội Cánh tả (Sverges Socialdemokratiska Vänsterparti,
Swedish Social Democratic Left Party, viết tắt là
SSV)
với lập trường ủng hộ phái Bolshevik ở Nga và chủ trương tiến hành một
cuộc cách mạng cộng sản ở Thuỵ Điển. Đảng này có khoảng 20 ngàn đảng
viên, có một tờ báo tên là Politiken (Chính trị). Gia nhập vào
SSV còn có cả
Liên đoàn Thanh niên Dân chủ - Xã hội, về sau đổi tên thành
Liên đoàn Thanh niên Cộng sản Thuỵ Điển (Sveriges Kommunistiska
Ungdomförbund, Young Communist League of Sweden), tiền thân của tổ
chức Cánh tả Trẻ (Ung Vänster, Young Left)
ngày nay. Đảng SAP phải lập một tổ chức thanh niên dân
chủ - xã hội khác để thay thế.
Hjalmar Branting (trái) và Zeth Höglund (phải)
(nguồn : Wikipedia)
Từ tháng 12 năm 1917 đến mùa xuân năm 1918, Höglund cùng
với Karl Kilbom (và sau đó là Carl Lindhagen) đến Petrograd để gặp gỡ
những người Bolshevik nhằm bày tỏ lập trường ủng hộ Cách mạng Tháng Mười
Nga. Höglund được hội kiến với Lenin tại điện Smolny, phát biểu trước
một cử toạ 10 ngàn người tại Petrograd và được viếng thăm nhiều nơi trên
nước Nga (những người cộng sản Thuỵ Điển là một trong những nhóm quốc tế
đầu tiên viếng thăm nước Nga Xô-viết). Mùa hè năm 1921, Höglund cùng với
Fredrik Ström tham dự Đại hội lần thứ ba của Quốc tế Cộng sản
(Comintern) ở Moscow. Do sự thuyết phục của ông, Đảng Dân chủ - xã hội
Cánh tả Thuỵ Điển chấp nhận 21 điều kiện của Lenin để gia nhập Quốc tế
Cộng sản (tức Quốc tế III), đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Thuỵ
Điển (Swedish Communist Party, Sveriges
Kommunistiska Parti,
SKP). Một số đảng viên không chấp nhận 21 điều kiện đã rời bỏ đảng hoặc
bị khai trừ khỏi đảng, trong đó có Carl Lindhagen - thị trưởng của
Stockhom.
Höglund được bầu vào Uỷ ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản vào năm 1922.
Tuy nhiên, từ sau khi Lenin chết (tháng 1 năm 1924), quan
hệ giữa những người cộng sản Thuỵ Điển thuộc thế hệ đầu tiên đối với
Quốc tế Cộng sản ngày càng xấu đi. Tháng 8 năm 1924, do bất đồng về các
chính sách của Quốc tế Cộng sản và cho rằng tổ chức này bị chi phối quá
nhiều bởi Moscow, Höglund và một số đảng viên theo ông rời bỏ Đảng Cộng
sản Thuỵ Điển (SKP) để thành lập một đảng cộng sản độc lập với Quốc tế
Cộng sản. Đảng này tập hợp được khoảng 5 ngàn đảng viên, đến năm 1926
gia nhập trở lại Đảng SAP. Việc Höglund rời bỏ đảng cộng sản, chỉ trích
Stalin và sau đó trở lại với SAP đã khiến Stalin không hài lòng. Mặc dù
thành phố Leningrad (tức
Saint Petersburg)
đã từng có một con đường đặt tên Zeth Höglund, nhưng sau khi chủ nghĩa
Stalin đăng quang ở Nga, tên đường đã bị thay đổi. Trong khi đó, đảng
viên “ly khai” Höglund trở về vẫn được đối xử bình đẳng (từ 1940 đến
1950, ông giữ chức Thị trưởng của Thủ đô Stockholm).
Tương tự như Höglund, hầu hết những người cộng sản Thuỵ
Điển thuộc thế hệ đầu tiên đã từng tham gia thành lập đảng cộng sản, sau
khi “vỡ mộng” vì chủ nghĩa Stalin, đều trở về với Đảng Dân chủ -xã hội
(SAP). Trước hết là Fredrik Ström, người bạn thân thiết của Höglund từ
thời sinh viên. Là người đứng đầu Cơ quan liên lạc với Tây Âu của Quốc
tế Cộng sản đặt tại Stockholm trong những năm 1919-20, Ström thường
xuyên đến Liên Xô để họp hành. Năm 1921, ông tham dự Đại hội lần thứ ba
của Quốc tế Cộng sản họp tại Moscow. Nhưng đến năm 1926, do bất đồng ý
kiến với chủ nghĩa Stalin, Ström quay trở lại với Đảng SAP.
Một số người vẫn còn vương vấn với đảng cộng sản, nên trở
về muộn hơn. Khi Zeth Höglund ly khai vào năm 1924, Ture Nerman và Karl
Kilbom vẫn ở lại với Đảng SKP. Ban lãnh đạo lúc này bao gồm Karl Kilbom
và Nils Flyg. Nhưng những bất đồng nảy sinh giữa Kilbom và Stalin, càng
về sau càng trở nên gay gắt. Năm 1927, Karl Kilbom đề ra chủ trương
thành lập một “mặt trận bình dân” (popular front) nhằm hợp tác với những
người dân chủ - xã hội cấp tiến chống lại chủ nghĩa phát–xít. Chủ trương
này được sự ủng hộ của Togliatti, lãnh tụ cộng sản Ý. Nhưng Stalin bác
bỏ ý kiến của Kilbom và ủng hộ ý kiến của lãnh tụ cộng sản Đức Ernst
Thälmann - người vốn coi Kilbom như kẻ thù. Ngược với quan niệm của
Kilbom và Togliatti, Stalin phát triển quan niệm về “chủ nghĩa phát-xít
xã hội” (Social fascism), nghĩa là coi những người dân chủ - xã hội cũng
là một loại phát-xít, cũng tồi tệ chẳng kém gì bọn phát-xít!
Mùa thu năm 1929, dưới sự chỉ đạo của Stalin, một bộ phận
thiểu số theo Stalin trong Đảng Cộng sản Thuỵ Điển - đứng đầu là Hugo
Sillén, đã làm “đảo chính”, khai trừ khối đa số (tức là những không theo
Stalin) ra khỏi đảng. Trong số những người bị khai trừ có cả Karl
Kilbom, Nils Flyg và Ture Nerman. Khối thiểu số theo Sillén (thường được
gọi là Sillénare) chiếm trụ sở và kho lưu trữ của đảng, nhưng
khối đa số theo Kilbom (thường được gọi là Kilbommare) vẫn còn
giữ được tờ báo Politiken (lúc này đổi tên là Folkets Dagblad
Politiken).
Dưới sự lãnh đạo của Karl Kilbom, khối đa số ly khai hình thành một đảng
cộng sản độc lập với Quốc tế III; đến năm 1934 đảng này lấy tên là
Đảng Xã hội chủ nghĩa (Socialistiska partiet, Socialist
Party). Như vậy là hình thành hai đảng cộng sản - đảng ly khai và đảng
chính thống, nhưng đảng ly khai lại đông đảo hơn đảng chính thống! Năm
1937, Nils Flyg làm “đảo chính”, trục xuất lãnh tụ đảng Karl Kilbom ra
khỏi Đảng Xã hội chủ nghĩa; sang năm sau (1938), Karl Kilbom trở về với
Đảng Dân chủ - Xã hội (SAP).
Cũng vào năm 1937, Ture Nerman từ Tây Ban Nha trở về, sau
khi đã chứng kiến cảnh hỗn loạn ở Barcelona, nơi mà các phe phái trong
cánh tả (phái đệ tam theo Stalin, phái đệ tứ theo Trotsky và phái “vô
chính phủ”,…) bắn giết lẫn nhau bất chấp kẻ thù chung trước mắt là phe
phát-xít. Nils Flyg mời mọc Nerman ở lại Đảng Xã hội chủ nghĩa, nhưng
ông này cảm thấy chán ngán, nên tự nguyện rời bỏ đảng. Sau hai năm bơ vơ
không có đảng cộng sản nào để theo, lại mất ghế trong Quốc hội, vào năm
1939, chọn đúng ngày Quốc tế Lao động 1.5, Ture Nerman trở lại với Đảng
SAP.
Số phận của Đảng Xã hội chủ nghĩa sau khi Kilbom ra đi
(tức là đảng của Nils Flyg) là một số phận kỳ lạ. Trong Chiến tranh Thế
giới lần II, do đường lối chống Liên Xô, Nils Flyg ngả dần về phía thân
phát-xít. Sau khi Nils Flyg chết (1943), đảng này chỉ tồn tại thêm một
vài năm rồi sau cùng cũng tan rã (1948).
Như vậy là những người cộng sản đầu tiên ở Thuỵ Điển, sau
khi đã “vỡ mộng” vì chủ nghĩa cộng sản trong hiện thực, đã lần lượt kẻ
trước người sau trở về dưới mái nhà dân chủ - xã hội (SAP) của mình.
Điều lạ lùng là cho đến cuối đời, họ vẫn tự nhận là người cộng sản, vẫn
còn mang trong tâm khảm những hình ảnh đẹp về Cách mạng Tháng Mười Nga,
về Lenin và Đảng Bolshevik. Zeth Höglund sau khi trở về với SAP vẫn tự
nhận mình là người cộng sản cho đến khi mất vào năm 1956. Ông luôn luôn
bảo vệ các quan điểm của Lenin trong khi chỉ trích kịch liệt chủ nghĩa
Stalin. Trường hợp của Ture Nerman cũng vậy. Kể từ năm 1953 (67 tuổi),
ông rút lui khỏi chính trường, sống ẩn dật với gia đình cho đến khi mất
(1969). Ông có một căn nhà ở Blidö, một hòn đảo nhỏ ở gần Stockholm, và
phía trước nhà ông vẫn cắm một lá cờ Xô-viết với hình búa liềm trên nền
đỏ, mặc dù về mặt nhận thức, ông đã có nhiều thay đổi trong cách nhìn
đối với Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và khối NATO. Một trường hợp đáng nhắc
đến là Otto Grimlund (1893–1969), người đã cùng với nhà xã hội chủ nghĩa
người Thuỵ Sĩ Fritz Platten tổ chức chuyến đi của Lenin từ Thuỵ Sĩ trở
về nước Nga (băng qua Đức và Thuỵ Điển) vào năm 1917 và cũng là đại diện
của nhóm cánh tả Thuỵ Điển tại Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản vào
năm 1919. Trở về với Đảng SAP vào khoảng 1930, trong khi cực kỳ lên án
chủ nghĩa Stalin, Grimlund vẫn tự nhận mình là một người cộng sản suốt
đời. Trong phòng làm việc của ông, vẫn treo trên tường một tấm ảnh có
chữ ký của Lenin.
Sự phản kháng của những người cộng sản Thuỵ Điển thuộc
thế hệ đầu tiên đối với chủ nghĩa Stalin có thể là một nguyên nhân quan
trọng khiến cho vai trò của đảng cộng sản chính thống ở Thuỵ Điển (tức
SKP, Sveriges
Kommunistiska Parti,
Swedish
Communist Party) bị suy yếu.
Kể từ thời Hugo Sillén nắm quyền lãnh đạo, Đảng Cộng sản
Thuỵ Điển (SKP) tăng cường đường lối “đấu tranh giai cấp”,
kiên quyết không cộng tác với Đảng SAP. Chủ trương thân Liên Xô của Đảng
SKP kéo dài cho đến giữa thập niên 1960. Khi Stalin qua đời (1953), đảng
này vẫn chính thức tổ chức tưởng niệm vị “bạo chúa cộng sản” này. Khi
cuộc nổi dậy Hungary nổ ra vào năm 1956, mặc dù có sự tranh cãi trong
đảng nhưng sau cùng lãnh đạo đảng vẫn chọn lập trường ủng hộ Liên Xô.
Năm 1964, C.H. Hermansson được bầu làm chủ tịch đảng. Là
một người có nền tảng văn hoá hàn lâm, Hermansson tìm cách chuyển hướng
tư tưởng của đảng về phía chủ nghĩa cộng sản châu Âu
(Eurocommunism)
và chủ nghĩa xã hội nhân dân kiểu Scandinavia (Scandinavian
Popular Socialism.) Tại Đại hội năm 1967, mặc dù đã có đề xuất đổi tên
đảng thành Đảng Cánh Tả, dứt bỏ chủ nghĩa cộng sản nhưng do phái thân
Liên Xô còn mạnh, cuối cùng đảng chọn giải pháp thoả hiệp: đổi tên là
đảng Cánh Tả-Cộng sản (Vänsterpartiet Kommunisterna, VPK, Left
Party-the Communists).
Năm
1968, khi Liên Xô can thiệp vào Tiệp Khắc, VPK là đảng đầu tiên ở Thuỵ
Điển lên án Liên Xô. Đảng tổ chức một cuộc biểu tình bên ngoài Toà đại
sứ Xô-viết ở Stockholm, với sự tham dự và phát biểu của Hermansson. Hành
động phản đối cuộc xâm lăng của Liên Xô này quả là hiếm thấy nơi các
đảng cộng sản ở phương Tây.
Năm 1990,
sau khi hệ thống cộng sản sụp đổ, đảng VKP đổi tên là Đảng Cánh Tả
(Vänsterpartiet,
Left Party) và thôi không còn là đảng cộng sản. Năm 1998, đảng Cánh Tả
đạt kết quả bầu cử cao nhất trong lịch sử (12% tổng số phiếu trên toàn
quốc), nhưng trong những kỳ bầu cử sau đó, kết quả bị giảm dần (2002:
8,3 %, 2006: 5,85%).
Như
vậy, sự phân hoá của phong trào dân chủ - xã hội ở Thuỵ Điển vào năm
1917 không trầm trọng như nhiều nơi khác ở châu Âu (như Nga, Đức và
Pháp). Ưu thế vượt trội của phái cải cách so với phái cách mạng đã giúp
những người dân chủ - xã hội Thuỵ Điển vượt qua được thử thách đó, và
tiếp tục lớn mạnh để về sau trở thành đảng chính trị lớn nhất ở Thuỵ
Điển.
Trở lại tình hình Thuỵ Điển vào những năm đầu thập niên 1920 : sau chính
phủ liên minh đầu tiên, sự cộng tác
giữa hai phái dân chủ - xã hội và tự do bị đổ vỡ, một phần do mục tiêu
chung giữa hai bên (đấu tranh cho quyền phổ thông đầu phiếu) đã đạt
được, phần khác do sự khác biệt về đường lối giữa hai bên khiến cho họ
không thể tìm ra mục tiêu chung cho giai đoạn kế tiếp. Hơn thế nữa,
trong nội bộ của phái Tự do bắt đầu có sự phân hoá. Do ảnh hưởng của
những đảng viên xuất thân từ phong trào “Kiêng rượu” và phong trào “Các
Giáo hội Tự do”, chủ trương cấm rượu bằng pháp luật dần dần trở thành
một chủ trương lớn, mặc dù trong đảng vẫn có một số người không tán
thành. Năm 1923, phái thiểu số (không tán thành cấm rượu) tách ra,
thành lập Đảng Tự do Thuỵ Điển (Sveriges Liberala Parti, The
Liberal Party of Sweden), do Eliel Löfgren lãnh đạo. Phe đa số còn lại
vẫn nắm được tổ chức Frisinnade Landsföreningen, đến năm 1924 đổi
tên thành Đảng Nhân dân Tự do
(Frisinnade
folkpartiet, Freeminded People's Party), Carl G. Ekman
trở thành người lãnh đạo của tổ chức này. Mối quan hệ giữa Ekman và phái
Dân chủ - Xã hội không tốt đẹp như những lãnh tụ của phái Tự do trước
đây, càng làm cho sự cộng tác giữa hai bên trở nên khó khăn. Kể từ khi
Carl Gustaf Ekamn từ chức vì tai tiếng xung quanh vụ phá sản của tập
đoàn Kreuger (Kreuger Crash) vào tháng 8 năm 1932, vai trò của phái Tự
do bị suy giảm. Mặc dù hai đảng tái hợp thành đảng Nhân dân (Folkpartiet,
People's
Party) vào năm 1934,
phái Tự do không còn tìm lại được giai đoạn hoàng kim của thập niên
1920. Ngày nay, Đảng Nhân dân (còn gọi là Đảng Nhân dân - Tự do,
Folkpartiet liberalerna,
People's Party - Liberals ) đứng vào hàng thứ tư trong số các đảng chính
trị ở Thuỵ Điển.
Sau
khi liên minh với Đảng Tự do bị tan vỡ, đảng SAP đã đi tìm một đồng minh
khác. Từ đầu thập niên 1930, họ tìm cách liên minh với đảng Nông dân -
tức Liên
hiệp Nông dân (Bondeförbundet,
Farmers'
Union).
Khối “liên minh công nông” này (nhất là trong các giai đoạn 1936-1945 và
1951-1957) đã tạo điều kiện cho Đảng SAP giữ được vai trò lãnh đạo ở
Thuỵ Điển trong một thời gian khá dài. Nếu tính từ tháng 9 năm 1932 đến
tháng 10 năm 2006, Đảng SPD cầm quyền 65 năm trên tống số 74 năm. Nếu
chỉ tính riêng thời gian từ tháng 9 năm 1932 cho đến tháng 10 năm 1976,
Đảng SAP cầm quyền liên tục suốt 44 năm, chỉ trừ một thời gian
ngắn 3 tháng (19.6.1936 - 28.9.1936). Đó là những kỷ lục độc nhất vô nhị
trong các nền chính trị dân chủ đa đảng.
*
Nhìn
lại toàn bộ quá trình hình thành của phong trào dân chủ - xã hội Thuỵ
Điển, chúng ta thấy chế độ dân chủ không phải là sản phẩm của một lực
lượng chính trị duy nhất mà là thành quả của nhiều lực lượng, nhiều phe
phái chính trị khác nhau, thậm chí có lập trường chính trị khác biệt với
nhau. Nếu chế độ “dân chủ tư sản” hình thành vào giữa thế kỷ 19 là thành
quả của giai cấp tư sản và những thành phần cấp tiến trong đẳng cấp quý
tộc thì việc mở rộng nền dân chủ đó thành nền dân chủ của toàn dân là
thành quả chung của hai phái Tự do và Dân chủ - Xã hội.
Có thể nói, Thuỵ Điển là một trong những trường hợp độc
đáo trên thế giới, nơi mà sự hình thành về mặt tổ chức của phong trào tự
do
và phong trào dân chủ - xã hội diễn ra gần như đồng thời. Sự phối hợp
giữa hai trào lưu này đã chi phối chính trường Thuỵ Điển từ cuối thế kỷ
19 cho đến đầu thập niên 1920, với mục tiêu chung là mở rộng nền dân
chủ tư sản thành nền dân chủ của toàn dân, biến chế độ đại nghị từ
chỗ còn là hình thức, thiểu số trị thành một chế độ dân chủ chân chính,
tạo điều kiện cho tất cả
các
giai cấp, các tầng lớp xã hội đều có thể làm chủ về mặt chính trị.
Ngoài ra, cũng phải kể đến sự đóng góp của phái nông dân, bởi vì nếu
không có sự ủng hộ của họ thì nền dân chủ ở Thuỵ Điển không thể thoát
khỏi nguy cơ từ phía tả (cộng sản) hay phía hữu (phát-xít). Đó là chưa
kể đến những nhân vật thức thời, có tư tưởng cởi mở trong phái bảo thủ,
mà tiêu biểu là Arvid Lindman, lãnh tụ của phái bảo thủ có xu hướng ôn
hoà. Đó là một nhân vật được đánh giá là một nhà lãnh đạo chính trị kiểu
mới. Là một chính khách xông xáo, dám tiếp xúc trực tiếp với cử tri,
hoạt động năng động trong nhiều lĩnh vực của công nghiệp và thương mại,
ông cũng là một nhà hoà giải, biết tìm kiếm một chính sách thoả hiệp với
các đối thủ chính trị của mình. Lindman chính là người tiến hành cuộc
cải cách về quyền phổ thông đầu phiếu lần thứ nhất vào năm 1907. Là một
nhà chính trị thuộc phái bảo thủ, nhưng ông kiên quyết bảo vệ các nguyên
tắc của chế độ dân chủ và cực kỳ lên án chủ nghĩa Quốc xã (Nazi)
và chủ nghĩa phát-xít. Chính nhờ những người như ông mà
phái hữu ở Thuỵ Điển không ngả theo xu hướng phát–xít.
Mặt khác,
chúng
ta cũng thấy nổi bật lên sự khác biệt căn bản giữa những người dân chủ -
xã hội với những người cộng sản. Mặc dù có chung nguồn gốc, nhưng do sự
chọn lựa khác nhau, hai phái này đã dần dần tách ra, đi theo hai hướng
khác nhau. Phái dân chủ - xã hội tìm cách gắn liền mục tiêu xã
hội (chủ nghĩa xã hội) với mục tiêu dân chủ, thậm chí coi
trọng dân chủ hơn chủ nghĩa xã hội. Do coi trọng dân chủ, do đấu tranh
trong khuôn khổ của chế độ đại nghị, họ buộc phải xem xét lại nội dung
của chủ nghĩa xã hội. Thay vì quốc hữu hoá, các nhà dân chủ - xã hội
Thuỵ Điển đã cho phép sở hữu tư nhân tồn tại; từ rất sớm, họ đã điều
hành một nền kinh tế hỗn hợp (mixte economy), không xoá bỏ kinh tế thị
trường mà chỉ tác động vào thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô.
Thay vì quốc hữu hoá, tấn công vào quyền sở hữu tư nhân, Đảng SAP chọn
phương pháp sử dụng thuế để xây dựng “Nhà nước Phúc lợi” (Welfare
State), làm giảm bớt sự bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội. Quan
trọng hơn là việc Đảng SAP từ chỗ là đảng của giai cấp dần dần
trở thành đảng của dân tộc. Họ quan tâm đến nhân dân và quốc gia
Thuỵ Điển nhiều hơn là “nghĩa vụ quốc tế”. Với một số lượng kiều dân
đông đảo tại Hoa Kỳ và một địa thế sát nách Liên Xô, Thuỵ Điển giữ một
lập trường “đứng giữa” hai cường quốc, và điều này đã ảnh hưởng đến toàn
vùng Bắc Âu khiến cho vùng này trở thành một địa bàn không bị tác động
nhiều bởi cuộc chiến tranh lạnh.
Như
vậy, bí quyết thành công của Đảng Dân chủ - Xã hội Thuỵ Điển chính là ở
chỗ ngay từ đầu, họ đã chấp nhận con đường đấu tranh cho chế độ đại
nghị. Thay cho đấu tranh giai cấp là sự hoà giải, thoả hiệp giữa các
giai cấp. Thay cho đấu tranh một mất một còn, không khoan nhượng là đấu
tranh dựa trên sự tôn trọng các nguyên tắc dân chủ. Thực chất của con
đường dân chủ - xã hội ở Thuỵ Điển chính là sự nhân nhượng, hoà giải
giữa các giai cấp, các phe phái chính trị khác nhau. Kinh nghiệm của
Thuỵ Điển chứng minh một quốc gia nhỏ bé dựa trên chế độ dân chủ vẫn có
thể phát triển một cách ổn định, theo đuổi một đường lối độc lập, không
lệ thuộc vào bất cứ cường quốc nào. Đó chính là một sự ổn định thật sự
tạo điều kiện cho sự phát triển chứ không phải một sự ổn định giả tạo
chỉ nhằm che đậy cho sự chuyên quyền, tham nhũng. Đó là sự đoàn kết thật
sự dựa trên sự chấp nhận các ý kiến khác nhau chứ không phải là sự đoàn
kết giả dối, che đậy sự thống trị của một đẳng cấp sống dựa vào đặc
quyền đặc lợi nhưng lại nấp dưới chiêu bài “của dân, do dân và vì dân”.
Nhiều nhà nghiên cứu, do ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx, đã đặt nặng lĩnh
vực kinh tế - vật chất, cho rằng sự khác nhau giữa cộng sản và dân chủ -
xã hội là trên lĩnh vực kinh tế. Điều đó không sai, nhưng không giải
thích được bản chất của vấn đề. Thực ra, sự khác nhau giữa dân chủ - xã
hội và cộng sản chính là ở chỗ: người dân chủ - xã hội đã đưa thêm một
mục tiêu khác bên cạnh mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Đối với họ
chủ nghĩa xã hội và dân chủ là hai mục tiêu song song, gắn bó
với nhau, và khi cần thiết phải chọn lựa, phải đặt mục tiêu dân chủ,
tự do lên trên mục tiêu bình đẳng. Chính vì tôn trọng tự do,
dân chủ mà Đảng SAP phải thay đổi nội dung của chủ nghĩa xã hội. Trong
khi đó, những người cộng sản lại đặt chủ nghĩa xã hội (mà đỉnh cao là
chủ nghĩa cộng sản) thành mục tiêu cao nhất, tất cả các mục tiêu khác
đều phải phụ thuộc vào đó. Đối với người cộng sản, dân chủ chỉ là một
phương tiện, một phương pháp để đạt đến chủ nghĩa xã hội,
ngoài phương tiện đó còn có phương tiện khác: chuyên chính vô sản
(mà cốt lõi là bạo lực cách mạng). Ở những nước có thể áp dụng
chuyên chính vô sản, người cộng sản sử dụng bạo lực cách mạng để nắm và
giữ chính quyền, bắt ép nhân dân phải “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc” lên chủ nghĩa xã hội (hoặc chủ nghĩa cộng sản) dựa vào một mô hình
mà họ đã dày công tưởng tượng ra. Một khi không tiến lên chủ nghĩa xã
hội được, vấp phải thất bại, thì họ quay lại kinh tế hỗn hợp, thậm chí
sẽ quay lại chủ nghĩa tư bản không kiểm soát nhưng vẫn khư khư ôm
lấy chuyên chính vô sản (độc quyền chính trị), không chịu buông quyền
lực ra, mà điển hình là trường hợp Trung Quốc và Việt Nam. Ở những nước
dân chủ phương Tây, những người cộng sản không thực hiện được chuyên
chính vô sản nên đành phải đấu tranh trong khuôn khổ hợp pháp, nhưng họ
vẫn không coi dân chủ là mục tiêu mà chỉ coi đó như phương pháp, phương
tiện. Họ không quan tâm đến việc cải tiến chế độ dân chủ (dù là thể chế
tổng thống hay thể chế đại nghị), bởi lẽ họ cho đó là chế độ chính trị
giả dối của giai cấp tư sản nhằm che đậy sự bóc lột quần chúng lao động.
Nhưng về mặt chiến thuật, họ cũng tham gia vào các cuộc đấu tranh giành
các quyền dân sinh, dân chủ nhằm lôi kéo quần chúng, do đó tạo ra sự ngộ
nhận cho rằng họ là người dân chủ.
Là
một đảng coi dân chủ, tự do là mục tiêu, Đảng SAP không thể lợi dụng
thời gian nắm quyền lâu dài để tăng cường ảnh hưởng trong quân đội hay
xây dựng bộ máy công an nhằm sửa đổi hiến pháp, duy trì độc quyền chính
trị của mình. Đầu thập niên 1970, dưới thời của Thủ tướng Olof Palme,
Đảng SAP đã thực hiện một cuộc cải cách hiến pháp, biến Nghị viện Thuỵ
Điển thành Quốc hội một viện (unicameral parliament). Năm 1974,
một bản “Công cụ điều hành Chính quyền” (Regeringsformen,
Instrument of Government) mới được ban hành, thay cho
bản năm 1809. Văn bản này, cùng với “Luật Thừa kế Ngai vàng”
(Successionsordningen,
The Act of Succession) năm 1810, Luật Tự do Báo chí (Tryckfrihetsförordningen,
The Freedom of the Press Act)
năm 1766 và Luật cơ
bản về Tự do Ngôn luận (Yttrandefrihetsgrundlagen,
The Fundamental Law on Freedom of Expression) mới được
thông qua năm 1991, là bốn đạo luật cơ bản (grundlagarl,
fundamental laws) làm thành Hiến pháp Thuỵ Điển hiện hành.
Căn cứ
vào bản “Công cụ điều hành chính quyền” mới, Vua Thuỵ Điển vẫn còn là
nguyên thủ quốc gia (The Head of State), nhưng một số quyền hành trước
đây thuộc về nhà vua nay được trao lại cho Chủ tịch (Talman, The
Speaker) của Quốc hội. Đặc biệt quan trọng là vai trò trung tâm trong
việc hình thành chính phủ mới sau mỗi kỳ bầu cử.
Trong
cuộc bầu cử đầu tiên sau khi có Hiến pháp mới (năm 1976), lần đầu tiên
sau gần nửa thế kỷ, đảng SAP đã thất cử. Đảng Trung tâm (tức Đảng Nông
dân trước kia, đã từng là đồng minh thân cận của Đảng SAP) đứng ra thành
lập một chính phủ liên minh, cùng với Đảng Ôn hoà (tức Đảng Bảo thủ) và
Đảng Nhân dân (tức Đảng Tự do). Kể từ đó đến nay, mặc dù vẫn là đảng lớn
nhất ở Thuỵ Điển, SAP không còn gặp thuận lợi như trước kia nữa. Một
mặt, Đảng Ôn hoà (Moderate Party) lột xác, từ chủ nghĩa bảo thủ ngả dần
sang chủ nghĩa tự do để trở thành một đảng theo đường lối bảo
thủ - tự do (liberal conservatism) và giành được vai trò lãnh đạo
của phái đối lập. Mặt khác, ngoài các đảng phái có nguồn gốc lâu đời, đã
xuất hiện thêm hai đảng mới là Đảng Dân chủ - Kitô giáo (Kristdemokraterna,
Christian
Democrats;
thành lập
năm 1964 và vào được Nghị viện từ 1985) và Đảng Xanh (Miljöpartiet de
Gröna, The Green Party; thành lập vào năm 1981 và vào được Nghị viện
từ 1988). Hiện nay ở Thuỵ Điển có đến 26 đảng chính trị đăng ký hoạt
động trên quy mô toàn quốc, nhưng do quy định về số phiếu tối thiểu (4%)
cho nên chỉ 7 đảng có mặt tại Nghị viện.
Trong
khoảng một thập niên trở lại đây, dần dần hình thành hai liên minh chính
trị. Liên minh cánh tả là một liên minh lỏng lẻo bao gồm: Đảng
Dân chủ - Xã hội SAP, Đảng Xanh và Đảng Cánh Tả. Trong
thời gian 1998-2006, để có thể thành lập được chính phủ, Đảng SAP phải
tìm sự hỗ trợ của Đảng Cánh Tả và Đảng Xanh. Về phía phái hữu, một liên
minh trung - hữu (center-right) hình thành vào năm 2004, có tên là
Liên minh vì Thuỵ Điển (Allians
för Sverige,
Alliance
for Sweden) bao gồm 4 đảng: Ôn hoà (tức Đảng Bảo thủ trước đây),
Trung tâm (tức Đảng Nông dân), Nhân dân (tức Đảng Tự do)
và Dân chủ Ki-tô-giáo. Mặc dù cương lĩnh của họ vẫn còn nhiểu
điểm khác biệt nhau, cả bốn đảng cùng thoả thuận một cương lĩnh tranh cử
chung. Vào tháng 10 năm 2006, liên minh này đã thắng cử và hiện đang cầm
quyền tại Thuỵ Điển. Như vậy chế độ đại nghị ở Thuỵ Điển từ một hệ thống
đa đảng (multi-party system) trong đó đảng SAP giữ địa vị ưu thế đang
chuyển biến dần theo chiều hướng của một hệ thống liên minh tả - hữu,
tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái, tạo điều kiện cho
người dân có quyền lựa chọn, đồng thời tiếp tục bảo đảm được sự ổn định
chính trị cho quốc gia này. Sự chuyển hoá này sẽ làm lành mạnh một nền
chính trị ít nhiều bị thoái hoá do tình trạng nắm quyền quá lâu của một
đảng cánh tả.
Một số
người đánh giá sự sa sút của Đảng SAP như một sự thất bại của con đường
thứ ba, hoặc như một sự thất bại của chủ nghĩa xã hội và là một thắng
lợi của chủ nghĩa tư bản. Trong thực tế, sự cạnh tranh giữa phái hữu và
phái tả ở Thuỵ Điển không dẫn đến sự xoá bỏ mô hình “Nhà nước Phúc lợi”
như người ta tưởng, mà là một sự điều chỉnh mô hình này nhằm biến “Nhà
nước Phúc lợi” (Welfare State) thành một “Xã hội Phúc lợi” (Welfare
Society). Việc Đảng SAP mất độc quyền chính trị xét về góc độ của chế độ
dân chủ đại nghị chưa hẳn đã là điều xấu mà có thể là một điều tốt.
Thay lời kết
Trong khi tìm hiểu về phong trào dân chủ - xã hội tại Thuỵ Điển, liên hệ
đến tình hình Việt Nam, người viết không thể không nghĩ đến những ý kiến
của Phan Châu Trinh, nhà dân chủ - xã hội đầu tiên của nước ta
vào cuối năm 1925, không bao lâu trước khi ông qua đời:
Là
một người đứng về phía cánh tả, luôn luôn mong muốn xây dựng một phong
trào cánh tả mạnh mẽ ở nước ta, Phan Châu Trinh lại thừa nhận sự cần
thiết của cánh hữu. Như ông nhấn mạnh, một chế độ dân chủ cần phải có cả
hai đảng - tả và hữu, bởi vì “… nếu cái đảng tả chiếm số nhiều mà cầm
quyền trong nước, thì đảng hữu xem xét chỉ trích, cho nên có muốn làm
bậy cũng khó lắm.” Một người đấu tranh cho cánh tả mà lại thừa nhận
sự cần thiết của một đảng cánh hữu nhằm ngăn ngừa đảng cánh tả “làm
bậy”, đó quả là một trường hợp “xưa nay hiếm”. Cuộc khủng hoảng của mô
hình Thuỵ Điển hiện nay – một mô hình đã từng được xem là mẫu mực của
chủ nghĩa xã hội dân chủ (democratic socialism), cho thấy ý kiến của
Phan Châu Trinh là hoàn toàn chính xác. Không có mô hình kinh tế - xã
hội nào có thể là đúng mọi thời, mọi lúc, vì vậy sự hiện diện của một
đảng đối lập cánh hữu trong một chế độ mà cánh tả chiếm ưu thế là điều
hoàn toàn cần thiết, chẳng khác nào sự cần thiết của một đảng đối lập
cánh tả trong một thể chế bị phái hữu chế ngự.
Điều
đáng thán phục hơn hết là ngay từ thời đó, Phan Châu Trinh đã nhận định
rằng nước Việt Nam ta không nên nóng vội xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà
phải xây dựng chế độ dân chủ cho vững mạnh trước đã. Theo ông: “Một
người dân trong nước cũng như bọn học trò trong trường học, phải có thứ
lớp, phải tuần tự mà tiến tới, phải qua lớp dưới mới lên lớp trên, không
bao giờ nhảy lớp được”. Do đó, nước ta phải từ gia đình luân lý
(tức chế độ quân chủ - chủ nghĩa gia trưởng) tiến lên quốc gia luân
lý (tức chế độ dân chủ - chủ nghĩa quốc gia), rồi từ quốc gia luân
lý mới tiến lên xã hội luân lý (tức chủ nghĩa xã hội)
được.
Ông
kết luận như sau: “Thế thì chúng ta cũng phải bước qua cái nền quốc
gia luân lý trong đôi ba mươi năm đã, rồi mới có thể mong tiến lên xã
hội luân lý được.”
Tại
sao phải “đôi ba mươi năm”? Đấy chính là thời gian cần thiết để một chế
độ dân chủ đa nguyên đi vào nền nếp ổn định. Chưa có dân chủ thật sự,
không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được.
Bởi
vì chỉ có chế độ dân chủ mới tạo điều kiện cho người dân sử dụng lá
phiếu của mình để đánh giá tính hiệu quả, tính ưu việt của một mô hình
kinh tế - xã hội. Và cũng chỉ có chế độ dân chủ mới tạo ra được cái “cơ
chế” cho phép sữa chữa, điều chỉnh hay thậm chí thay đổi mô hình ấy cho
phù hợp với tình hình tiến hoá của nhân loại.
Gần
một thế kỷ đã trôi qua kể từ khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga làm rung
chuyển thế giới. Quãng thời gian đó tưởng cũng đủ để chúng ta thấy rõ
giữa “lời khuyên” của Phan Châu Trinh và “lời dạy” của Lenin, đâu mới là
con đường mà những người Việt Nam yêu nước cần phải noi theo?
Nhân kỷ niệm
90 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7.11.1917 – 7.11.2007)
Đà Lạt tháng 11 năm 2007
Mai Thái Lĩnh
Tài liệu tham khảo
-
"Sweden", Encyclopædia Britannica Library from Encyclopaedia
Britannica 2005 Deluxe Edition CD-ROM. Copyright © 1994-2003
Encyclopædia Britannica, Inc. (phần lịch sử “History of Sweden” do các
tác giả Lennart T. Norman, Henrik Enander, Gudmund Sandvik và Jörgen
Weibull viết).
-
Histoire de la Suède (bản tiếng Pháp, dựa vào Encyclopédie Hachette)
đăng trên website “Memo, Voyager à travers l’histoire”, URL:
http://www.memo.fr/
- Các tư
liệu về Thuỵ Điển và lịch sử Thuỵ Điển trong Đại bách khoa toàn thư mở
Wikipedia (Wikipedia,
the free encyclopedia) -
bản tiếng
Anh và tiếng Pháp,
URL:
http://www.wikipedia.org/
- Các tư
liệu của Quốc hội Thuỵ Điển trên website “Sveriges Riksdag”,
URL:
http://www.riksdagen.se/
- Hal
Smith, The Early Swedish Socialists: Utopianism, Lassalleanism,
Marxism, Revolutionism, Reformism (Early SAP Final Copy),
URL:
http://rakovsky.freehomepage.com/custom2_1.html
(Cần lưu
ý là tài liệu này được đăng trên một website của vùng Đông Âu, vì vậy
nhiều địa danh có khác so với các ngôn ngữ gốc la-tinh; vd: Erebru thay
vì Örebro, Vesteros thay vì Västerås, v.v…)
- Håkan
Blomqvist, Den röda tråden.
Arbetarrörelsens historia - en alternativ översikt,
Stockholm: Roda Rummet, 1989;
bản dịch tiếng Anh
của Daniell Brandell có nhan đề:
The Red Thread
(Sợi chỉ đỏ),
URL:
http://www.marxists.org/history/international/social-democracy/sweden/red-thread.htm
- Các tư
liệu khác về phong trào dân chủ - xã hội Thuỵ Điển (Swedish Social
Democracy) đăng trên website “Kho Lưu trữ Mác-xít trên Internet”
(Marxists Internet Archive),
URL:
http://www.marxists.org
- Tiểu sử
của Hjalmar Branting (giải Nobel Hoà bình năm 1921) trên website chính
thức của Quỹ Nobel (The Official Web Site of the Nobel Foundation),
URL:
http://nobelprize.org/nobel_prizes/peace/laureates/1921/branting-bio.html
-
Histoire de la IIe Internationale
URL:
http://www.minkoff-ditions.com/histoire/pages/histoire de la iie
internationale.htm
- A. T.
Lane, Biographical Dictionary of European Labor Leaders,
Greenwood Press, 1995 (mục tiểu sử của Hjalmar Branting)
-
Sheri
Berman, The Social Democratic Moment: Ideas and Politics in the
Making of Interwar Europe, Harvard University Press, 1998
- Ken
Polsson, Chronology of Sweden,
Last
updated: 2007 November 3
URL:
http://www.islandnet.com/~kpolsson/swedhis/
Sau cuộc cải cách năm 1866, do những quy định về tài sản hay mức
thuế phải đóng hàng năm, chỉ có 21 % số nam công dân trên 21
tuổi được tham gia bầu Hạ viện (tuổi có quyền bầu cử là 25). Xem
“The History of Riksdag”,
http://www.riksdagen.se/templates/R_Page 798.aspx
Năm 1912, Đảng Lantmanna sáp nhập với Đảng Tiến bộ Quốc gia để
trở thành Đảng Nông dân và Tư sản (Lantmanna- och
borgarepartie, Farmer and Bourgeoisie Party ), tổ chức này
về sau lại sáp nhập vào Tổng Liên đoàn Tuyển cử (General
Electoral League) - tiền thân của Đảng Ôn hoà (tức Đảng Bảo thủ)
hiện nay.
Đảng Nông dân lúc đầu đi theo phái bảo thủ, nhưng về sau trở
thành đồng minh của Đảng SAP (nhất là trong thời gian 1936-1945
và 1951-1957). Từ năm 1957, đổi tên là Đảng Trung tâm (Centerpartiet,
Center Party) và ngả dần sang phía hữu.
Arvid Lindman trở thành lãnh đạo của Tổng liên đoàn Tuyển cử
(tổ chức lớn nhất của phái Bảo thủ) trong thời gian 1912-1935.
Hai lần làm Thủ tướng (1906-1911 và 1928-1930), ông mất vào ngày
9.12.1936 tại Anh trong một tai nạn máy bay.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|