Mai Thái Lĩnh
Ngày 10.7.2009 là thời điểm tôi bắt đầu chuyến du hành đi Hoa
Kỳ và Canada để thăm thân nhân. Đây là chuyến đi đầu tiên của
tôi đến các nước phương Tây và là một chuyến đi có ý nghĩa đặc
biệt vì cách đây gần bốn mươi năm, tôi đã từng từ chối một học
bổng cao học tại Hoa Kỳ để ở lại tham gia đấu tranh “chống Mỹ”.
Chuyến du hành này lại càng có ý nghĩa nhiều hơn sau hơn hai
thập niên tôi bị xếp vào hàng ngũ những người bất đồng chính
kiến, kể từ khi có vụ “tạp chí Lang Bian bị đình bản
sau 3 số”. Rất nhiều người Việt trong và ngoài nước coi đây là
một dấu hiệu cởi mở, một điểm mốc mở ra niềm hy vọng.
Vì chuyến bay số BR 392 của hãng hàng không EVA Air của Đài
Loan cất cánh vào lúc 12 giờ 55, theo lời khuyên của nhiều
người, tôi phải lên đường ra sân bay Tân Sơn Nhất ngay từ 9 giờ
sáng. Anh tài xế taxi luôn mồm than phiền về chuyện đường sá và
trật tự giao thông, ngày càng trở thành nỗi cơ cực thường ngày
của người dân thành phố. Nhiều con đường lớn trong thành phố lúc
này đầy dẫy các lô-cốt. Nghe nói đường Cách Mạng Tháng Tám gần
như tắc nghẽn vì các lô-cốt, sau khi lô-cốt đã mọc đầy trên các
con đường lớn như Võ Thị Sáu và Hai Bà Trưng.
Anh tài xế quyết định tìm lối rẽ vào đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa
để ra sân bay. May thay, đường này đã thông thoáng so với trước
đây độ mươi ngày, vì được “tạm thời giải phóng” nhân mùa thi vào
đại học và cao đẳng để tránh nạn kẹt xe. Điều làm tôi ngạc nhiên
là con đường nhỏ chạy vào phi trường cũng bắt đầu bị che chắn
bởi bức tường làm bằng tôn kẽm màu xanh lục.
Dù sao thì tôi cũng đến nhà ga quốc tế kịp trước giờ hẹn. Lúc
này còn khá sớm nên tôi phải ngồi chờ làm thủ tục. Vào hồi 10
giờ sáng, quầy của hãng EVA bắt đầu làm thủ tục check-in và cân
hành lý. Thủ tục rất nhanh chóng, chỉ mất có độ hơn 10 phút. Sau
khi cân và gửi hành lý, tôi lấy vé lên máy bay, kể cả vé đi từ
Taipei đến Los Angeles. Vì không có ai đưa tiễn nên tôi không
lang thang ở vòng ngoài nữa và quyết định bước vào vòng trong.
Kiểm tra xong hành lý xách tay, tôi bước sang cửa kiểm tra hộ
chiếu của công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất. Sau khi kiểm tra tên
tôi trên máy tính, anh công an bịt khẩu trang (chắc là để ngừa
cúm?) mời tôi sang phòng của cơ quan công an cửa khẩu để “làm
việc”. Cuộc “làm việc” này diễn ra chậm chạp, lề mề theo đúng
tác phong cố hữu của ngành công an, và sau đó ông Phó Trưởng đồn
cho biết tôi không được phép xuất cảnh.
Khi tôi cho biết ý định sẽ “kiện” lên Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết, công an cửa khẩu thay biên bản ban đầu bằng một biên
bản khác, có chữ ký của người quyết định là ông Lê Văn Lữu, Phó
trưởng đồn Công an Cửa khẩu Tân Sơn Nhất, ông Tuấn Nguyên Anh,
cán bộ tham mưu (người lập biên bản) và bà Vũ Dương Khánh Nhi
(đại diện của hãng hàng không EVA, người chứng kiến). Nội dung
chủ yếu là:
• Lập biên bản tạm hoãn xuất cảnh đối với ông Mai Thái Lĩnh,
• Tạm giữ hộ chiếu Việt Nam số B3037780 mang tên Mai Thái Lĩnh,
chuyển Cục Quản lý Xuất Nhập cảnh (số 254 Nguyễn Trãi, Q.1, TP.
HCM) và yêu cầu đương sự liên hệ để giải quyết.
Như vậy là họ không cho tôi xuất cảnh với lý do “ông Mai Thái
Lĩnh là người chưa được phép xuất cảnh” căn cứ vào “khoản 6,
điều 21, Chương IV Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/08/2007
của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam”. Không những thế, họ tịch
thu luôn hộ chiếu (passport) của tôi – trong đó có thị thực nhập
cảnh (visa) của hai nước Hoa Kỳ và Canada.
Mãi đến 12 giờ trưa tôi mới lên taxi về nhà một người bạn. Khí
hậu Sài Gòn lúc này rất nóng nực, oi bức. Vừa mệt vừa buồn, buồn
vì biết chắc những người thân đang mong đợi sẽ kém vui, và càng
buồn hơn cho tình hình chung của cả đất nước!
Buổi chiều, tôi xem lại các bản sao giấy tờ và thấy hộ chiếu
của tôi do Cục Quản lý Xuất Nhập cảnh ký vào ngày 1.4.2009, ba
ngày trước khi vợ chồng anh Bảo Cự lên đường “Mỹ du”, và nếu tôi
nhớ không nhầm thì thời điểm tôi nhận được hộ chiếu tại Đà Lạt
cũng chỉ sau khi hai người bạn đặt chân đến đất Hoa Kỳ có vài
ngày. Như vậy, “người chưa được phép xuất cảnh” lại được cơ quan
công an cấp hộ chiếu và sau khi làm xong mọi thủ tục pháp lý lại
bị chặn ở sân bay và tịch thu hộ chiếu.
Đúng là nhân quyền theo kiểu Việt Nam!
Tôi không biết nói sao để giải thích cho bạn bè và người thân
hiểu, nhất là những người chưa từng trải nghiệm thực tế của nền
luật pháp kiểu cao su, thường co giãn tùy ý và tùy hứng của các
nhà lãnh đạo.
Đọc kỹ lại “Biên bản tạm hoãn xuất cảnh đối với ông Mai Thái
Lĩnh”, tôi thấy có nói đến căn cứ pháp lý: khoản 6, điều 21,
Chương IV tại Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/08/2007 của
Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Tôi tò mò tìm hiểu điều 21 của
Nghị định này và thấy nội dung như sau:
“Điều 21. Công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh
nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến
công tác điều tra tội phạm.
2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự.
3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ
để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế.
4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ
trường hợp có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm
khác để thực hiện nghĩa vụ đó.
5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan.
6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
7.. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh theo quy
định của Chính phủ.”
Như vậy, căn cứ vào khoản 6, có thể hiểu nguyên nhân khiến
tôi không được xuất cảnh là “vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội”. Xét về mặt trật tự an toàn xã hội, suốt
đời tôi chỉ là một nhà giáo, một người nghiên cứu, một người cầm
bút, sống mẫu mực, chẳng những không gây rối cho trật tự an toàn
xã hội mà còn luôn quan tâm đến việc xây dựng một xã hội thật sự
trật tự và an toàn (dĩ nhiên là trật tự, an toàn dành cho mọi
người chứ không dành riêng cho một thiểu số tham nhũng, lạm
quyền). Vậy chỉ còn lại lý do “bảo vệ an ninh quốc gia”.
Xem xét những việc gần đây,
việc làm có ý nghĩa nhất của tôi là ký tên vào một số bản kiến
nghị, trong đó có bản “Kiến nghị bauxite” do Giáo sư Nguyễn Huệ
Chi, nhà văn Phạm Toàn và Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng chủ
xướng. Không lẽ việc làm này lại có phương hại đến an ninh quốc
gia?
Những kiến nghị mà tôi ký
tên trong thời gian gần đây là sự thể hiện trách nhiệm của một
người trí thức khi quyền lợi và an ninh của quốc gia, dân tộc bị
đe dọa. Nếu những việc làm để bảo vệ quốc gia ấy được xem như
“có phương hại đến an ninh của quốc gia” thì phải đặt câu hỏi:
quốc gia ấy là “quốc gia” Việt Nam hay quốc gia nào khác?
Một số bạn bè hỏi tôi có kiện việc này không. Tôi nghĩ đến
trường hợp của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, người đang kiện Thủ
tướng về việc ký quy hoạch bauxite, người được mệnh danh là “con
kiến mà kiện củ khoai”. Tôi cũng chợt nhớ đến trường hợp của một
vị ni sư theo đuổi một vụ kiện về đất đai nổi tiếng là dai dẳng
nhất ở Lâm Đồng và có thể cũng được xếp nhất nhì trong phạm vi
cả nước. Giấy tờ thì được nhiều cấp thẩm quyền coi là đúng,
nhưng rồi cũng không ai giải quyết, cố tình kéo dài ngày này
sang tháng nọ, như muốn làm cho người đi kiện phải bỏ cuộc vì
mệt mỏi.
Nếu muốn kiện, phải có luật
pháp công minh và sự tôn trọng luật pháp. Luật pháp như thế, ở
nước ta chưa có. Ngoài ra còn phải có cơ quan xử kiện có tính
độc lập, có đủ quyền lực và được nhân dân tin tưởng là công
bằng, khách quan. Cơ quan ấy hiện nay ở nước ta cũng chưa có.
Vì vậy, tôi đành dừng lại ở việc công bố câu chuyện này, để
cho mọi người Việt trong và ngoài nước biết thêm về cái gọi là
“quyền tự do đi lại” ở Việt Nam hiện nay.
Bao giờ thì quyền tự do đi
lại – một quyền dân sự căn bản của người dân trong một quốc gia
văn minh, được thật sự tôn trọng chứ không phải là một thứ ân
huệ để ban phát cho người này và tùy tiện cắt bỏ đối với người
khác?
Sài Gòn, 10.7.2009
MTL
HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Nguồn: Bài viết do tác giả trực tiếp gửi cho Bauxite Việt Nam
đêm 10-7-2009
Bài
này được đăng lúc 08:28 ngày Thứ Bảy, 11/07/2009 trong mục
Tin tức.