Nhóm ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh
Mặc dù Phan Châu Trinh tự nhận mình là một “nhà hoạt động chính trị ở
vương quốc An Nam”[1],
nhưng trong số các trước tác của ông, người ta lại chưa tìm thấy một tác
phẩm nào trình bày một cách thật rõ ràng mục tiêu và phương hướng chính
trị của ông. Chính chỗ thiếu sót đó đã khiến cho một số nhà nghiên cứu
hiện nay tìm cách giải thích tư tưởng của ông theo chiều hướng “cải
lương”: chỉ đánh giá cao ông như một nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn (thậm
chí một nhà cách mạng văn hóa) mà vô tình hay cố ý bỏ quên vai trò của
ông với tư cách là một nhà hoạt động chính trị.
Tuy nhiên, nếu xem xét thật kỹ lưỡng các tác phẩm của ông để lại, chúng
ta có thể tìm thấy những nét phác họa của một cương lĩnh chính trị được
ẩn giấu trong bản thảo của một bài thơ.
Bài thơ dài 500 câu có tên là “Tỉnh quốc hồn ca II”, được sáng tác vào
khoảng năm 1922, nhưng mãi đến đầu thập niên 1980 mới được công bố.[2]
Ở phần cuối của bài thơ, có một đoạn được đặt trong dấu ngoặc kép gồm 16
câu thơ, qua đó tác giả vạch ra một “dự án chính trị” hoàn toàn gắn kết
một cách logic với những điều ông đã trình bày qua nhiều tác phẩm văn
thơ hay bài phát biểu khác.[3]
Bằng cách đối chiếu ngôn ngữ của Phan Châu Trinh với những khái niệm
chính trị của ngày nay, tôi sẽ cố gắng giải mã bản cương lĩnh chính trị
vắn tắt ấy, nhằm làm sáng tỏ mục tiêu, phương hướng chính trị mà nhà dân
chủ hàng đầu của nước ta đã vạch ra vào đầu thế kỷ 20 - dựa trên kinh
nghiệm của bản thân và thực tế của nền dân chủ Pháp.
Có thể điểm qua những nét lớn của dự án chính trị ấy như sau:
Mục tiêu trước mắt là đòi tự trị:
“Chánh tự trị bắt đầu hứa trước,
Định hạn kỳ phỏng ước mấy năm.
Chủ trương đã có chỉ nam,
Trăm điều tự khỏi lỗi lầm sai ngoa.
Để có thể hiểu “chánh tự trị” là gì, chúng ta phải đọc lại một tác phẩm
có tên là Pháp-Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam (Nước Việt
Nam mới sau khi Pháp-Việt đã liên hiệp, có thể gọi tắt là Tân
Việt Nam). Đây là một bản thảo chưa hoàn tất được sáng tác trong
quãng thời gian 1910-1911 nhưng chưa hề được công bố trước thập niên
1990. Một trong những lý do khiến Phan Châu Trinh không hoàn tất và công
bố tác phẩm này có thể là do tác giả không muốn làm sứt mẻ uy tín của
nhà yêu nước Phan Bội Châu – biểu tượng của cuộc đấu tranh giành độc lập
của nhân dân Việt Nam vào thời đó.
Trong tác phẩm này, Phan Châu Trinh viết: “Nay đem trong cả nước giả
chia làm hai đảng: một là đảng cách mệnh, hai là đảng tự trị. Người
phát khởi đảng cách mệnh là Phan Bội Châu, người phát khởi đảng tự trị
là Phan Châu Trinh.”[4]
Ở một chỗ khác, ông viết: “Nay thử đem trong nước giả chia làm hai
đảng: một là đảng chủ trương chủ nghĩa bài Pháp độc lập, hai là đảng chủ
trương chủ nghĩa cậy Pháp tự trị; nhưng tóm lại lúc bấy giờ thật
chưa thành hình thức đảng phái.”[5]
Căn cứ vào các đoạn văn trên, chúng ta thấy rõ điểm khác biệt căn bản về
mục tiêu chính trị và phương pháp đấu tranh giữa hai nhà yêu nước lớn
của nước ta hồi đầu thế kỷ 20. Trong khi Phan Bội Châu chủ trương “bài
Pháp” (đuổi Pháp) để giành độc lập thì Phan Châu Trinh lại chủ trương “ỷ
Pháp” (dựa vào Pháp) để đòi tự trị. Nói cách khác, Phan Bội Châu coi
giành độc lập, đánh đuổi thực dân Pháp là mục tiêu tiên quyết, phải
giải quyết rốt ráo mục tiêu này trước khi giải quyết các vấn đề khác;
còn Phan Châu Trinh lại chủ trương giành độc lập bằng hai giai đoạn:
trước tiên đòi thiết lập chế độ tự trị, giai đoạn sau mới tính
đến việc giành độc lập hoàn toàn. Có thể tóm tắt chủ trương của
Phan Châu Trinh là “ỷ Pháp cầu tự trị” (dựa vào Pháp để đòi tự trị).
Thiết lập chế độ đại nghị:
Đòi tự trị đồng nghĩa với việc đòi quyền điều hành việc nước. Vấn đề cốt
lõi của quy chế tự trị là thiết lập một chế độ đại nghị mà thiết chế
trung tâm là một Nghị viện:
Có Viện thay mặt quốc dân,
Có quan trách nhậm đại thần phụng công.
“Viện thay mặt quốc dân” chính là Nghị viện hay Quốc hội do nhân dân bầu
ra. Đây là cơ quan quyền lực cao nhất trong một quốc gia theo chế độ đại
nghị (parliamentary system, régime parlementaire).
Nhưng nói “quan trách nhậm đại thần” (quan trách nhiệm đại thần) là có ý
nghĩa gì?
Trong lá thư ngỏ gửi Vua Khải Định ngày 14.7.1922 (“Thư thất điều”), có
một đoạn văn có thể giúp ta hiểu thêm về điểm này. Giải thích về vai trò
của các ông vua trong các chế độ quân chủ lập hiến hoặc Tổng thống (Giám
quốc) trong các chế độ cộng hòa ở châu Âu thời đó, Phan Châu Trinh viết:
“Còn
theo các học thuyết Âu châu mà nói, sao gọi là nước? là hiệp dân lại mà
thành nước; sao gọi là triều đình? là những người được uỷ quyền cho,
phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc lợi dân ích quốc.
Ông vua hay là ông Giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước,
cũng như một người tổng lý thay mặt cho một hiệu công ty mà thôi.
Ai đã chịu cái trách nhậm (trách nhiệm) ấy, đã được hưởng cái lợi quyền,
thì phải làm cho hết cái bổn phận mình đối với dân, đối với nước; nếu
không thế, thì cũng phải bị phạt, bị tội như mọi người vậy.
Ấy, tự do, bình đẳng là nghĩa thế, mà các nước văn minh thì nay phải đặt
quan Nội các tổng trưởng (tức là Tể tướng) để thay quyền vua hay Giám
quốc để chịu lỗi với dân là thế.”[6]
Qua đoạn văn này, ta có thể hiểu: ở các nước Âu châu thời đó, Vua hay
Giám quốc (tức Tổng thống) tuy là nguyên thủ quốc gia, nhưng chỉ giữ vai
trò tượng trưng cho chủ quyền quốc gia, chứ không có quyền hành lớn như
Tổng thống ở Hoa Kỳ. Để giữ cho Vua hay Tổng thống khỏi dính líu đến
công việc điều hành cụ thể và như thế có thể dễ dàng phạm sai lầm và bị
bãi chức, người ta giao việc điều hành Chính phủ cho một người khác,
nhằm “thay quyền vua hay Giám quốc để chịu lỗi với dân”. Nhân vật đó
chính là “quan Nội các tổng trưởng”, tức là Thủ tướng.[7]
Trong câu thơ nói trên, “quan trách nhiệm đại thần” chính là để chỉ chức
vụ Thủ tướng.
Từ điển Đào Duy Anh giải thích “phụng công” là “chuyên lấy việc công làm
trọng”. Hai câu thơ trên hàm ý: Nghị viện hay Quốc hội (Viện) thay mặt
nhân dân cả nước (quốc dân), còn Thủ tướng (quan trách nhiệm đại thần)
là người chịu trách nhiệm trước Nghị viện, và cho dù là người thuộc đảng
phái nào, khi được cử nắm trọng trách đứng đầu cơ quan hành pháp, người
này cũng phải lấy cái chung làm trọng (phụng công), không thể chỉ phục
vụ cho lợi ích riêng của cá nhân, dòng họ, phe phái hay đảng chính trị
của mình.
Mô hình của một chính phủ dân chủ trong đó Thủ tướng (người đứng đầu bộ
máy hành pháp) do Nghị viện bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nghị viện
chính là mô hình được gọi tên là chính phủ chịu trách nhiệm
(responsible government): chính phủ phải được sự tín nhiệm của Nghị
viện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Trong trường hợp bị Nghị viện
bất tín nhiệm thông qua một cuộc biểu quyết bất tín nhiệm (vote of
non-confidence) hoặc Thủ tướng không giành được đủ số phiếu trong một
cuộc biểu quyết tín nhiệm (vote of confidence), chỉ có hai giải pháp:
hoặc Thủ tướng từ chức, hoặc Thủ tướng giải tán Nghị viện để tiến hành
bầu lại một Nghị viện khác.
Mô hình đó chính là thể chế chính trị của nước Anh quân chủ lập hiến, và
cũng là thế chế chính trị của nước Pháp dưới thời Đệ tam Cộng hòa
(Troisième République) – thời mà Phan Châu Trinh sống lưu vong tại Pháp.
Vào thời đó, Tổng thống Pháp do Nghị viện bầu (chứ không phải do toàn
dân bầu) và không trực tiếp tham gia vào bộ máy hành pháp như dưới thời
Đệ ngũ Cộng hòa (Cinquième République).[8]
Xây dựng chế độ pháp trị:
Phan Châu Trinh chủ trương áp dụng luật của nước Pháp thay cho
luật pháp cũ (mô phỏng theo luật pháp của Trung Quốc) :
Pháp luật dựa Lang sa làm chủ,
Lợi quyền cùng nghĩa vụ cho cân.
Tại sao pháp luật phải dựa vào Lang sa (tức nước Pháp)?[9]
Trong bản kiến nghị đề ngày 4.6.1911 nói “về các điều luật và về việc
thành lập toà án bổ sung”, ông viết: “Ở Đông Dương, cái tổn hại tồi tệ
nhất là ở chỗ quyền hành chính và quyền tư pháp ở trong cùng một tay; vì
vậy dù quan có làm hại dân, dân cũng không dám nói gì; nếu có ai dám
chống lại thì tội vạ sẽ đến ngay: nhẹ thì phạt tiền hoặc khổ sai, nặng
thì bị đi đày hay bị chém; đó là nguyên do sự ta thán của dân.” Do đó,
ông đề nghị: “cho cải tổ lại luật pháp, lập các toà án bổ sung và phân
quyền: các quan chức ngạch hành chính lo việc cai trị, quan chức ngạch
tư pháp coi xử việc pháp luật. Làm như vậy, những thiệt hại mà dân chúng
phải gánh chịu sẽ ngày càng bớt đi.”[10].
Trong bài trả lời phỏng vấn dành cho nhà báo E. Dejean de la Bâtie vào
hạ tuần tháng 6 năm 1925, so sánh luật pháp của nước Pháp với luật pháp
của Nam triều (nhà Nguyễn), ông nhận xét như sau: “Luật pháp của Pháp
cho tất cả mọi người, bởi vì với nó, người ta biết phải làm gì. Nó giống
như một đường xe lửa, chỉ cần đi tránh ra ngoài đường ray thì sẽ khỏi bị
tàu cán phải. Nhưng ở Trung Kỳ thì chính quyền Pháp nấp đằng sau một thứ
chính quyền An Nam giả hiệu. Nó hành động không trách nhiệm. Tôi lấy lại
ví dụ của tôi: thay vì một đường sắt, thì người ta đã cho chúng ta một
chiếc ô tô, có thể không cần biết luật lệ đi đường, đuổi theo và cán
chết chúng ta tuỳ thích.”[11]
Như vậy, sở dĩ ông muốn dựa vào luật pháp của nước Pháp để xây dựng luật
pháp của nước ta là nhằm để xác định một cách cân phân giữa nghĩa vụ
và quyền lợi, tạo ra một hành lang pháp lý minh bạch, khiến cho
người dân yên tâm, không còn phải chịu đựng một thứ luật pháp co giãn
một cách tùy tiện, tùy hứng và tùy ý thích của những kẻ nắm quyền lực.
Trong một bài nói chuyện tại Sài Gòn vào năm 1925, Phan Châu Trinh đã
công khai tán dương chế độ pháp trị - mà ông gọi là dân trị, và nói rõ
sự khác biệt giữa pháp trị với nhân trị như sau:
“Nhân trị nghĩa là cái phép luật (pháp luật) thi hành rộng rãi hay là
nghiêm nhặt tuỳ theo cái lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua
mà thôi, còn phép luật (pháp luật) tuy có cũng như không.”[12]
Trong khi đó: “dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi
người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay là người thường,
đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch
sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới bao nhiêu cũng được,
không ai ngăn trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn của người
khác thì không được mà thôi.”
[13]
Nói tóm lại, chủ trương của Phan Châu Trinh là xây dựng một chế độ pháp
trị, cai trị dựa trên luật pháp minh bạch chứ không dựa trên ý chí tùy
tiện của cá nhân, phe nhóm hay đảng phái chính trị nào.
Thực hiện các quyền tự do căn bản:
Mục đích của chế độ tự trị là để nhân dân được làm chủ về mặt chính trị
(được vào vòng chánh trị), tức là thực hiện các quyền tự do của công
dân, trong đó đáng chú ý nhất là ba quyền tự do căn bản: tự
do hội họp và lập hội (hội hè), tự do tư tưởng (suy nghĩ), tự do ngôn
luận và báo chí (nói năng):
Để ta được vào vòng chánh trị,
Từ hội hè, suy nghĩ, nói năng.
Nói cách khác, song song với việc quyền lực chính trị được trao lại cho
dân (nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan quyền lực cao nhất) là một quá
trình hình thành một xã hội dân sự trong đó người dân được thực thi các
quyền tự do căn bản nhất – những quyền tự do làm đầu mối dẫn đến tất cả
các quyền tự do khác, mà ngày nay ta thường gọi chung là quyền con
người (nhân quyền). Trong tư duy chính trị của Phan Châu Trinh,
chúng ta thấy dân chủ luôn gắn liền với tự do, không hề có chút manh mối
nào của thứ tư duy ngụy biện một mặt thì nói đến dân chủ nhưng mặt khác
lại cố phủ nhận các giá trị chung của nhân quyền.
Từ chế độ quân chủ đi đến chế độ dân chủ là cả một bước nhảy vọt về
chất, là một sự thay đổi đối với tập quán đã ăn sâu cả ngàn năm, là đi
từ thân phận nô lệ của thần dân đến địa vị của công dân – người làm chủ
xã hội. Cho nên dân ta phải đi từng bước, tiệm tiến và phải nhờ
đến kinh nghiệm dân chủ của nước Pháp:
Cũng nên hạn chế có ngằn,
Dắt tay ta để lần lần cho theo.
Vào thời điểm Phan Châu Trinh viết những dòng thơ này (năm 1922), hầu
hết các nước châu Á – kể cả Nhật Bản, vẫn chưa có được một nền dân chủ
đúng nghĩa, và ngay cả ở các nước Âu-Mỹ, chế độ dân chủ cũng chưa phát
triển thành thục và xác lập được vị trí vững chắc như ngày nay. Trong
khi đó, hầu hết các lãnh tụ chính trị và các nhà tư tưởng của các quốc
gia Á, Phi, Mỹ la-tinh lại chỉ chú ý đến chủ nghĩa dân tộc, cao lắm cũng
chỉ nói đến chế độ dân chủ, rất ít người thật sự quan tâm đến các quyền
tự do căn bản của người dân. Điều đáng ngạc nhiên là nhà yêu nước đất
Quảng Nam mặc dù xuất thân là một nhà Nho, lại có thể tiếp thu một cách
sâu sắc chủ nghĩa tự do (liberalism, libéralisme), không chỉ nhấn
mạnh đến thể chế dân chủ (Nghị viện đại diện cho dân, Thủ tướng chịu
trách nhiệm trước Nghị viện), lại còn quan tâm đến các quyền tự do căn
bản của người dân. Nhưng nếu nhìn lại toàn bộ quá trình hoạt động và
phương pháp đấu tranh của ông (khai dân trí, chấn dân khí, tổ chức các
hiệp hội, vận động quần chúng đấu tranh bằng phương pháp bất bạo động),
thì chúng ta thấy điều này hoàn toàn hợp logic.
Mặc dù không phải là một nhà lý luận chính trị, không có điều kiện
nghiên cứu sâu về các khái niệm chính trị học, nhưng qua hoạt động thực
tiễn, Phan Châu Trinh đã tìm ra một đường lối xây dựng dân chủ từ bên
dưới, xây dựng cái mà ngày nay chúng ta gọi là xã hội dân sự,
để từng bước nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, nhằm đạt được mục tiêu
cao nhất là chuyển quyền làm chủ chính trị từ nhà vua sang tay nhân
dân.
Xã hội dân sự chính là nền tảng vững chắc của một chế độ đại nghị; ngược
lại thiết lập chế độ đại nghị chính là tạo ra những thiết chế dân chủ
nhằm bảo đảm một cách đầy đủ các quyền tự do căn bản của nhân dân. Dân
chủ gắn liền với mở rộng tự do và mở rộng tự do là để củng cố chế độ dân
chủ. Đó chính là điều kiện bảo đảm cho một nền dân chủ có thực chất,
không chỉ là dân chủ hình thức và không chỉ thu hẹp trong phạm vi của
một thiểu số có đặc quyền, đặc lợi.
Về thời hạn thực hiện chế độ tự trị
Theo Phan Châu Trinh, không cần đòi hỏi nhanh hay chậm, mục tiêu chính
là để người dân nước ta có thể tập dần dân chủ cho đến khi đạt được chế
độ dân chủ thật sự, thay thế chế độ quân chủ bằng chế độ dân chủ:
Niên hạn chẳng kì kèo lâu chóng,
Cốt cho ta hiệu phỏng tinh thần.
Quyền vua đổi lấy quyền dân,
Chánh cang trước phải vài phần khai minh.
Việc mô phỏng (hiệu phỏng) tinh thần dân chủ của nước Pháp là nhằm đạt
được sự thay đổi về quyền lực tối cao: quyền tối cao từ chỗ thuộc về nhà
vua hay hoàng tộc sẽ chuyển sang tay nhân dân. Và để đạt cho được mục
đích này, trước tiên cần phải làm sáng tỏ (khai minh) vài phần của chính
cương (chánh cang). Theo Từ điển Đào Duy Anh, “chính cương” là “mối
giềng về chính trị”. Đó là một từ thường được dùng ở nước ta vào thời
đó, tương đương với cụm từ programme politique trong tiếng Pháp
hay political platform trong tiếng Anh, thường được dịch là
cương lĩnh chính trị.
Điều đáng lưu ý là trong bản cương lĩnh chính trị này, Phan Châu Trinh
vẫn không đặt vấn đề vai trò của nguyên thủ quốc gia (nhà vua hay Tổng
thống).
Có thể giải thích bằng hai giả thuyết:
Một là: Phan Châu Trinh vẫn mở ngỏ cho con đường quân chủ lập hiến: nếu
vương triều nhà Nguyễn đồng ý đi theo con đường lập hiến thì Vua sẽ đóng
vai trò nguyên thủ quốc gia. Nhà vua lập hiến hay Tổng thống theo kiểu
nước Pháp thời đó tuy là nguyên thủ quốc gia nhưng vẫn chỉ giữ vai trò
tượng trưng, quyền hành rất hạn chế; quyền lập pháp phải được giao cho
Nghị viện, và quyền hành pháp được giao cho một Thủ tướng chịu trách
nhiệm trước Nghị viện.
Giả thuyết thứ hai liên quan đến đề nghị tiếp theo của ông về một liên
minh chính trị mà ông gọi là Liên hiệp Pháp-Việt. Trong khuôn khổ của
một chế độ tự trị (dominion), nguyên thủ quốc gia có thể chính là nguyên
thủ của chính quốc – tức là Tổng thống Pháp, như trường hợp Vua hay Nữ
hoàng Anh đóng vai trò nguyên thủ quốc gia của một số nước như Canada,
Úc hay New Zealand, v.v…
Xây dựng liên minh chính trị giữa hai nước Pháp và Việt Nam:
Phan Châu Trinh có ý định thay mặt cho nhân dân Việt Nam để đề nghị với
nước Pháp dự án chính trị này. Do đó, ở phần trước của đoạn thơ 16 câu
nói trên[14],
ông thay mặt cho nhân dân Việt Nam bày tỏ đề nghị với nhân dân Pháp:
Nay trộm phép tỏ tình đại biểu,
Cả tiếng kêu mấy triệu Lang sa;
Hỡi xin mở lượng hải hà,
Ra tay tế độ con nhà An nam.
Nhưng để thực hiện đúng theo trình tự pháp lý, dự án chính trị này phải
được chính thức thông qua hai “sam”[15]
(tức hai Viện của Nghị viện Pháp) và chuyển lên cho Giám quốc (Tổng
thống Pháp) phê chuẩn:
Xin trên dưới hai “sam” hiệp mặt,
Định phương châm cho chắc một bề.
Dâng lên Giám quốc thủ phê,
Hỡi xin kể thử vấn đề như sau:
Có thể coi bản cương lĩnh này là một dự án chính trị mà ông định đề nghị
với nhân dân và Nhà nước Pháp. Tất nhiên, để có thể trở thành một dự án
có khả năng thực thi, ông phải tìm cách truyền bá trong nhân dân để được
mọi người chấp nhận, và nhất là phải thuyết phục được phái bạo động – mà
người đứng đầu là Phan Bội Châu.
Theo tác giả của dự án chính trị, nếu Nhà nước Pháp chấp nhận dự án này
thì phía Việt Nam sẵn sàng chấp nhận một Liên hiệp Pháp-Việt,
trong đó Việt Nam coi nước Pháp là “thầy” và Liên hiệp này sẽ là một
liên hiệp bền vững giữa hai quốc gia Á và Âu:
Được như thế thỏa tình ao ước,
Nghĩa thầy trò sau trước yếm âu.
Lợi quyền chung chạ dài lâu,
Trắng vàng một họ, Á Âu một nhà.[16]
Như Phan Châu Trinh đã nhấn mạnh trong một lá thư gửi cho một du học
sinh, khái niệm “thầy-trò” mà ông sử dụng có nghĩa là thầy dạy và học
trò, hoàn toàn không có nghĩa là “thầy-tớ” (chủ-tớ). Ông hoàn toàn không
chấp nhận quan hệ chủ-nô. Trong khi coi nước Pháp là quốc gia dân chủ đi
trước cần học hỏi kinh nghiệm, ông hoàn toàn bác bỏ chế độ thực dân coi
thuộc địa như một thân phận nô lệ.
Một liên hiệp chính trị như vậy sẽ giúp cho cả hai nước vượt qua được
hận thù trong quá khứ để xây dựng hòa bình:
Một tung hô Lang sa vạn tuế,
Hai tung hô vạn tuế Việt nam.
Sao cho hai nước đồng tâm,
Bỏ ca trường hận chép ngâm thái bình.
Sở dĩ Phan Châu Trinh tin vào con đường này là vì ông tin vào chế độ dân
chủ ở Pháp, vào những người Pháp có tư tưởng cởi mở ở Đông Dương và ngay
tại chính quốc, chứ ông không tin vào “giặc Pháp” (tức thực dân Pháp,
colonialistes) như một số người thường xuyên tạc. Trong thâm tâm,
ông vẫn tin tưởng vào phong trào cánh tả ở Pháp – chủ yếu là cánh tả ôn
hòa, mà tiêu biểu là Đảng Cấp tiến (Parti radical) và nhất là Đảng
S.F.I.O. – tiền thân của Đảng Xã hội (Parti socialiste) ngày nay.
Mặc dù là một nhà nho, là người dân của một nước bị đô hộ, Phan Châu
Trinh không hề có tư tưởng bài ngoại. Ông phân biệt rất rõ: nhân dân
Pháp tại chính quốc hoàn toàn khác với thực dân Pháp mà người ta thường
thấy ở thuộc địa:
Nghĩa đồng bào, tự do bác ái,
Lòng Lang sa rộng rãi biết bao;
Các anh thuộc địa lòng nào?
Làm hùm làm hổ khác nhau lạ lùng![17]
Lòng tin đó không chỉ là kết quả suy ra từ lý luận, mà còn là bài học
được rút ra từ thực tế. Chính là nhờ những người Pháp có đầu óc cấp tiến
tại Đông Dương như ký giả Babut, đại úy Roux, hoặc các chính khách cánh
tả tại Pháp như Francis Pressensé, Marius Moutet, v.v… mà ông đã hai lần
thoát khỏi cảnh tù ngục. Lòng tin đó hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm thực
tiễn của một nhà hoạt động chính trị đã từng bị tù tội chứ không phải
chỉ là lòng tin ngây thơ hay xốc nổi.
Như thế, ta thấy Liên hiệp Pháp-Việt mà Phan Châu Trinh đề ra là một
giải pháp “giành độc lập bằng con đường bất bạo động”, một giải pháp đấu
tranh chính trị dựa vào sức dân là chính, chứ không phải là đường lối
xin xỏ dân chủ, cầu xin độc lập hay “xin giặc Pháp rủ lòng thương”,
như nhận định sai lầm và xuyên tạc của một số người có ác ý.
*
* *
Mặc dù bản cương lĩnh chính trị này đã bị bỏ quên trong một thời gian
dài, nhưng ngày nay khi đọc lại, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì tính
chất thời sự của nó. Tạm gác vấn đề “Liên hiệp Pháp - Việt” để dành lại
cho một dịp khác, trong bài viết này tôi tập trung chủ yếu vào những mục
tiêu thuộc lĩnh vực “nội trị”. Đối chiếu với tình hình thực tế hiện
nay, chúng ta dễ dàng nhận thấy một điều: mặc dù đã bước sang thế kỷ 21,
chưa có mục tiêu nào trở thành hiện thực trên đất nước của chúng ta.
Chỉ nói riêng về ba quyền tự do căn bản (tự do tư tưởng, tự do ngôn luận
và báo chí, tự do hội họp và lập hội), cho đến nay Đảng Cộng sản vẫn
bằng cách này hay cách khác tìm cách hạn chế đến mức tối đa, không cho
phép người dân thực thi. Mặc dù về mặt hình thức, Việt Nam đã có Quốc
hội và Thủ tướng, nhưng Quốc hội không do dân bầu ra mà do Đảng cử
trước, dân bầu sau. Trong thực tế, người dân chỉ được bầu phiếu tín
nhiệm hay chọn lựa trong số những người mà Đảng đã chọn lựa trước -
thông qua một hình thức phản dân chủ được mệnh danh là hiệp thương.
Quá trình hiệp thương này được điều hành bởi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc -
một tổ chức không do dân bầu ra nhưng lại được trao quyền chọn lựa, sàng
lọc danh sách ứng cử viên. Kết quả của quá trình đó là một Quốc hội
không đại diện cho dân mà chỉ nhân danh nhân dân để đại
diện cho Đảng. Thủ tướng đáng lẽ là người do Quốc hội bầu ra và chịu
trách nhiệm trước Quốc hội, trong thực tế lại do Đảng cử ra và chịu
trách nhiệm trước Đảng.
Bộ Chính trị - cơ quan quyền lực cao nhất trong nước, hành xử hoàn toàn
ngoài phạm vi của pháp luật, bởi lẽ cho đến nay không có bộ luật nào tại
Việt Nam quy định quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Chính trị của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Và cũng vì thế, không một người dân nào, không một tổ chức
chính trị hay xã hội nào có quyền kiện Bộ Chính trị.
Quyền uy của Bộ Chính trị chẳng khác nào quyền uy của một Thiên tử dựa
trên Thiên Mệnh (Mạng Trời), nhân dân không được quyền bàn đến. Điều trớ
trêu là mỗi khi bị chất vấn trước Quốc hội, Thủ tướng hay Phó Thủ tướng
chỉ cần nêu lý do “đây là đường lối của Đảng, là chủ trương của Bộ Chính
trị”, lập tức tất cả các đại biểu Quốc hội đều im tiếng, chẳng khác nào
các quan lại của thời Trung cổ phải chắp tay bái lạy trước phán quyết
sau cùng của đấng quân vương – cho dù đó là phán quyết tùy tiện, bốc
đồng.
Gần đây, một số cán bộ hưu trí (trong đó có ông cựu Bộ trưởng Tư pháp
Nguyễn Đình Lộc) do bức xúc trước tình hình các cấp lãnh đạo của Đảng
chà đạp lên luật pháp, đã đề xuất việc hình thành luật về Đảng.
Mặc dù những người đề xuất giải pháp này tỏ ra có thiện chí, nhưng xem
ra về phía người dân, không mấy ai tin tưởng vào tính khả thi và hiệu
quả của nó. Thử hỏi cơ quan nào sẽ soạn luật về Đảng và sau đó, cơ quan
nào có đủ khả năng kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm? Do đó, có
thể coi đây là một sáng kiến mang tính lãng mạn và không tưởng. Ý nghĩa
của giải pháp này thực ra là “Đảng tự đặt ra luật cho chính mình, tự
kiểm tra và tự xử lý chính mình”. Và cũng tựa như lời thề trước Trời Đất
của các đấng “thiên tử” đời xưa, một khi họ nuốt lời, người dân chẳng
còn cách nào khác hơn là ngửa mặt lên trời mà thốt lên hai tiếng: “Trời
ơi!”.
Có thể nói sau khi đã lật đổ chế độ quân chủ của nhà Nguyễn, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã lén lút tái lập một cơ quan quyền lực tương tự như Hội
đồng Cơ mật (Privy Council) của thời quân chủ - một cơ quan quyền lực
không do dân bầu ra và hoạt động hoàn toàn bí mật, vượt khỏi tầm kiểm
soát của nhân dân. Chính cơ quan này (Bộ Chính trị) đã vô hiệu hóa cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất (tức là Quốc hội) và đôi khi biến Thủ
tướng và Chính phủ trở thành hữu danh vô thực. Trong tình hình “người có
trách nhiệm lại không có quyền, người có quyền lại không có trách nhiệm”
thì nói đến “Nhà nước pháp quyền” chẳng qua cũng chỉ là dùng lời lẽ
đường mật để lừa gạt một đứa trẻ con. Hiến pháp hay luật pháp còn có ý
nghĩa gì khi một số người nắm quyền lực trong thực tế lại lọt ra ngoài
vòng luật pháp, đứng trên pháp luật?
Điều đáng nói là toàn bộ nội dung của cương lĩnh chính trị mà Phan Châu
Trinh trình bày qua 16 câu thơ nói trên mặc dù đã được viết cách đây gần
một thế kỷ, nhưng nội dung của nó không hề lỗi thời mà ngược lại, có thể
được coi là quá mới mẻ, quá táo bạo đối với phần lớn các nước Á, Phi và
Mỹ Latinh hiện nay. Lý do căn bản là sự trỗi dậy của phong trào giải
phóng dân tộc và độc lập dân tộc trong suốt thế kỷ 20 đã dẫn đến kết quả
hầu hết các nước thuộc địa và lệ thuộc đều được giải phóng, nhưng độc
lập dân tộc đã không đem lại tự do cho mỗi công dân và cũng không đem
lại được những chế độ dân chủ đích thực. Tại các quốc gia mới hình
thành, sự phấn khởi tự hào do nền độc lập đem lại đã nhanh chóng tan
biến dưới các chế độ độc tài bị che đậy bằng nhiều thủ đoạn cưỡng bức và
đàn áp tinh vi. Các toàn quyền, thống đốc da trắng ra đi nhường chỗ cho
các “toàn quyền, thống đốc người bản địa” luôn miệng nói dân chủ nhưng
quyết tâm giành lấy địa vị ăn trên ngồi trốc, nhân danh dân tộc và dựa
vào thành tích chống thực dân như một lý lẽ biện minh cho việc họ có độc
quyền nắm quyền lực chính trị, chẳng khác gì các triều đại quân chủ ngày
xưa căn cứ vào Mạng Trời hay công lao dựng nước, giữ nước để giành quyền
thừa kế cho dòng họ, con cháu của mình. Thuyết Thiên Mệnh và các nghi
thức cổ truyền bị phá bỏ để nhường chỗ cho những nghi thức mới hiện đại
hơn, nhưng bản chất độc tài, chuyên chế thì không có gì thay đổi, thậm
chí trên một số mặt còn tệ hại hơn so với các chế độ quân chủ truyền
thống.
Chính trong hoàn cảnh đó, bản Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh
trở thành bài học sống động đối với những người còn ưu tư với vận mệnh
của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta nhận thức được tính cấp bách của
công cuộc duy tân cần phải tiến hành trong những thập niên đầu thế kỷ 21
này. Công cuộc duy tân đó phải bắt đầu bằng việc cải cách hệ thống chính
trị theo hướng dân chủ tự do, bởi vì Nhà nước và hệ thống chính trị hiện
nay chính là khâu yếu nhất, là sản phẩm lạc hậu, cổ hủ mà Đảng Cộng sản
đã áp đặt lên xã hội ta, làm trì trệ sự phát triển về mọi mặt. Không
thay đổi được hệ thống chính trị đó thì cho dù có áp dụng những biện
pháp khoa học – kỹ thuật tiên tiến, những phương pháp quản lý kinh tế
hiện đại, đất nước ta cũng không có hy vọng cất cánh hay hóa rồng được.
Không thay đổi được hệ thống chính trị đó thì tất cả những chỉ tiêu phát
triển cho dù có giành được cũng chỉ nhằm phục vụ cho một thiểu số tham
nhũng, thối nát, ăn bám, chứ không phải nhằm để phục vụ cho quảng đại
quần chúng nhân dân. Nói cách khác, một nước Cộng hòa cho dù có độc
lập nhưng không có tự do thì nhân dân không thể có hạnh
phúc. Và hơn thế nữa, như thực tế của những thập niên vừa qua đã
chứng minh: không có tự do, dân chủ thì khả năng bảo vệ độc lập, bảo vệ
chủ quyền của quốc gia cũng trở nên mong manh, yếu ớt.
Suy cho cùng, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí là để đạt đến
tự do, dân chủ. Chỉ có chế độ dân chủ mới đem lại cho dân tộc ta
cái chìa khóa để bước vào thời đại mới một cách vững vàng. Chỉ có chế độ
dân chủ mới có thể huy động được một cách trọn vẹn tài trí và sức lực
của nhân dân vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền dân tộc và
tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa Việt
Nam vào hàng ngũ các quốc gia văn minh trên thế giới.
Đà Lạt, 14.7.2010 – 25.10.2010
MAI THÁI LĨNH
Tài liệu tham khảo chính:
- TS Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, bản in lần thứ
hai, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2006, 1262 trang.
- Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu
mới, tập 1, Nxb Đà Nẵng, 2001.
- Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu
mới,
tập 2, Nxb Đà Nẵng, 2003, 809 trang.
talawas
2.11.2010
http://www.talawas.org/?p=26516
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |