LÝ LUẬN     VĂN HỌC     BÌNH LUẬN     PHỎNG VẤN     VỤ ÁN LIÊN QUAN     NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ

"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988

"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993

"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995

Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự

Hành Trình Mùa Xuân


Bút ký Tiêu Dao Bảo Cự

1.

Đây là chuyến di  mà chúng tôi,  Bạch Yến - vợ tôi và tôi,  đã mơ ước và chờ đợi trong nhiều năm: cuôc hành trình xuyên Việt bằng xe gắn máy.

Gần 15 năm truớc, vào 1988, tôi cũng đã thực hiện một chuyến đi xuyên Việt, nhưng bằng xe ô tô, cùng  với Bùi Minh Quốc  và Hữu Loan, để đấu tranh cho tự do dân chủ và đổi mới  thực sự, đã gây ra biết bao hệ lụy và từ đó, riêng tôi đã phải chôn chân ở mảnh vườn hiu quạnh tại Đà Lạt hơn 10 năm ( nơi tôi gọi là “ Tuyệt tình cốc” hay “ Động hoa vàng” trong “ Thung lũng trầm tư”)

Từ cuối năm 1999, sau khi tôi hết hạn quản chế, chúng tôi muốn đi ngay nhưng không thực hiện được. Tôi vẫn còn bị  theo dõi giám sát khá chặt chẽ, bị triệu tập thẩm vấn trong vụ án gọi là “ phản bội tổ quốc” của Hà Sĩ Phu - Mai Thái Lĩnh năm 2000. Mặt khác vợ tôi vẫn còn dạy học  và mùa hè chưa chuẩn bị kịp để đi. Nấn ná mãi, đầu mùa xuân này ( Qúy Mùi 2003 ), ngay sau Tết, chúng tôi nhất quyết thực hiện điều dự định.

Khác với lần trước là chuyến đi đấu tranh, lần này chúng tôi xác định là “hành trình tình cảm”. Chúng tôi đi để thăm đất nước và bạn bè cũ sau bao nhiêu cách xa dâu biển, để thư giãn tinh thần sau nhiều năm sống trong lo âu và căng thẳng.

Tuy nhiên, riêng việc quyết định chuyến đi cũng không phải là điều dễ dàng. Khi tôi bày tỏ  ý định hầu như tất cả bạn bè và người thân đều khuyên can không nên đi. Tựu trung họ đưa ra ba lý do:          

Nhà nước có cho tôi tự do đi không khi họ vẫn luôn theo dõi giám sát, nghi ngờ tôi đi quan hệ móc nối với người này người khác, thậm chí có thể gây bất lợi  nghiêm trọng cho tôi khi tôi đi trên đường, nhất là lúc qua các tỉnh xa xôi không ai biết.

Tôi và nhất là vợ tôi có đủ sức khỏe  để chịu đựng cuộc hành trình dài 2000 cây số, với thời gian trên dưới một tháng, khi tôi đã 58 tuổi, vợ tôi 55 tuổi và chúng tôi vốn nổi tiếng gầy yếu.

Cuối cùng là vấn đề an toàn và tai nạn giao thông. Mấy năm gần đây tai nạn giao thông đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với nhiều người, hàng năm cướp đi hơn 10.000 sinh mạng và hàng vạn người khác bị thương tật.  Trong thành phố va trên các quốc lộ, các “hung thần” như xe tải, xe buýt, xe đò, xe ben và đủ loại xe khác với những người điều khiển vô ý thức, không bằng lái, ẩu tả … gieo rắc tai họa khắp nơi. Chưa kể nạn cướp giật  xảy ra  nhan nhản, đôi khi chỉ vì vài chỉ vàng, vài triệu đồng, thậm chí vài trăm ngàn cũng có thể đưa đến giết người.

                   Những lời khuyên  này rất có lý, làm BY giao động, thậm chí đôi khi muốn bỏ cuộc hoặc muốn thay đổi  cách đi, không đi xe gắn máy nữa.

                   Tôi vẫn giữ vững quyết tâm, không hề biết sợ và có lý lẽ riêng của mình.

                    Tôi biết rõ sau khi hết quản chế, tôi chưa phải được tự do như những bình thường khác. Tôi vẫn bị giám sát bằng nhiều cách  như xem, nghe lén thư từ, điện thoại, dùng người quen biết tiếp cận, công an địa phương  và các cơ sở chỉ điểm, theo dõi thông tin  qua các hoạt động và báo đài ở nước ngoài…

                    Tuy nhiên tôi hiểu rằng  nếu tôi không có hoạt  động gì hay bài viết được công bố, người ta tạm thời để cho tôi  yên vì gây phiền nhiễu cho tôi tất sẽ có phản ứng  trên dư luận ở nước ngoài cũng chẳng có lợi gì cho họ.

                    Dĩ nhiên vấn đề không chỉ đơn giản như thế. Tôi là kẻ đã có tên trong sổ đen, đã có  “tiền án tiền sự” và chưa bao giờ tỏ ra bị khuất phục hay ăn năn hối cải về những việc mình đã làm. Tôi và nhiều người  khác, như Hồ Hiếu, một người bạn có hoàn cảnh và thái độ gần  giống  tôi, thường nói, chúng tôi sống trong chế độ này như cá  trong rọ hay nằm trên thớt, người ta muốn bắt muốn chặt lúc nào cũng được vì chúng tôi không có khả năng tự vệ. Nếu muốn tạm sống yên ổn, phải giữ một lằn mức, một giới hạn, không nên vượt qua. Giới hạn này rất tế nhị vì ở trên mọi lĩnh vực, từ làm ăn kiếm sống, giao tiếp xã hội cho đến phát ngôn hàng ngày. Tất cả đều có thể  trở thành vấn đề và được cân nhắc, đánh gía để có biện pháp phù hợp.

            Tôi giữ nguyên tắc làm mọi việc đều công khai và không bao giờ từ bỏ những quyền tự do mà  tôi cho đặc biệt quan trọng chính đáng, dù trong hòan cảnh này, nhà nưóc cũng không được can thiệp vào. Tôi  tạm thời im lặng  về chính trị đã là một sự nén lòng, lẽ nào tôi lại còn tự quản chế mình và làm một kẻ hèn nhát?

              Thế là tôi cứ đi.

              Vấn đề sức khỏe dĩ nhiên đáng quan tâm. BY đủ thứ bệnh tật, từ rối loạn tuần hoàn não, rối loạn tiền đình, suy nhược thần kinh, viêm  thấp khớp, viêm xoang sàn sau, viêm bao tử…, chữa đủ  khắp các bệnh viện, bớt rồi lại tái phát bất cứ lúc nào.   Tôi cao 1,73 mét nhưng chỉ nặng có 46 ký. Hôm  Tết chúng tôi có đến thăm Nguyễn Ngọc Lan, thấy ông da bọc xương, nặng  35 ký, nói chuyện một lúc đã thở  dốc vì hụt hơi. Tôi bày tỏ sự ái ngại nhưng ông nhìn tôi và nói tôi chẳng hơn gì ông. Sự thực không phải vậy. Ông chẳng tập luyện gì cả,  rất ít vận động  và đang bị  bệnh phổi nặng , thường xuyên ngồi trước máy vi tính, không chịu uống thuốc vì dã uống quá nhiều nhưng không khỏi, trong khi tôi tập yoga đều đặn trong 10 năm, tập 5 thức Tây Tạng trong 5 năm và thường xuyên lao động chân tay, ít đau vặt và không có bệnh tật gì nghiêm trọng.

            Về việc  đi xe gắn máy đường xa, tôi đã tập dượt và thử sức nhiều lần, trong hai năm qua. Tôi đã đi tuyến đường ĐàLạt – Sàigòn  300 cây số hơn 20 lần, đi đường ĐàLạt – Phan Rang -  Phan Thiết –Sàigòn 500 cây số 2 lần. Một lần khác từ Sàigòn tôi đã  lên ĐàLạt, đi dọc Tây nguyên qua ĐakLak  Pleiku, Kontum và trở về Sài Gòn qua ngả Bình Phươc, Bình Dương gần 1300 cây số trong thời gian chưa tới 1 tuần. Tôi đã lái xe qua các đường đồi núi cao nguyên quanh co, qua các đèo BảoLộc , Prenn và nhất là đèo Ngoạn Mục rất hiểm trở dài 20 cây số nhiều lần nên tôi chẳng  còn sợ đèo dốc nào nữa.

           Thế là tôi cứ đi.

            Còn tai nạn ?  Quả là chuyện đáng sợ và tác động mạnh khi nó diễn ra hàng ngày khắp mọi nơi. Nhưng tôi lại cho rằng  nếu số mình đã tới thì tránh đâu cho khỏi. Đi chậm trên đường phố cũng bị xe buýt mất thắng cán chết. Đứng trên lề đường cũng không thoát. Thậm chí ở trong nhà cũng bị xe tải, xe ben tông vào ủi sập. Vậy ở đâu không nguy hiểm. Lý luận này hơi  “cùn” nhưng rõ ràng cũng giúp cho tôi an tâm. Dĩ nhiên chạy đường dài, nhiều ngày  nhất thiết phải cẩn thận hơn vì nguy cơ sẽ cao hơn. Dù sao tôi cư nói “Trời kêu ai, người nấy dạ”, chạy đâu cho thoát, còn khi trời chưa ngó tới, cứ yên chí.

           Thế là tôi cứ đi.

            Tuy vậy tôi cũng đưa ra giải pháp để trấn an BY: Nếu lúc nào quá mệt hay có sự cố gì, cứ việc bỏ xe gắn máy lên xe đò, xe lửa đi tiếp. Vậy là chấm dứt bàn cãi. Vỉ thực hiện một chuyến đi như vậy mà cuối cùng không quyết đoán thì cũng như “ làm nhà bên đường, ba năm không xong”. Cũng may tôi có hai con làm đồng minh. Chúng cũng có máu  “liều” như tôi và khuyến  khích  “Bố mẹ  muốn đi cứ đi. Không việc gì đâu mà lo “.

              Chúng tôi chuẩn bị hành trang với đồ đạc hết sức thật gọn nhẹ. Hai ba lô vừa, một  ba lô nhỏ để lọt vào khoảng giữa trước yên xe. Một bao ni lông đựng đồ tắm và các thứ linh tinh trước giỏ xe. Hai bên xe có hai móc, một phía treo  túi giày dép, phía kia treo túi thức ăn,  nước uống  và khăn mặt. Kể cũng nhiều nhưng tôi xếp rất gọn, không cồng kềnh ra hai bên, không che chắn tầm nhìn, lên xuống xe dễ dàng và ngồi lái xe không bị vướng. Lại còn hai cái mũ bảo hiểm, nhưng khi chạy xe đường trường đội trên đầu, tới thành phố nghỉ cất đi. BY  rất ghét mang đồ đạc nhiều nhưng không thể ít hơn được. Chúng tôi đi xa nhiều ngày, phải thay, giặt ủi quần áo. Đi chơi trong thành phố không thể mặc như khi đi đường, nhất là đối với phụ nữ. Tôi lại còn hứa sẽ cho BY tắm ở tất cả các bãi biển chúng tôi đi qua để cảm nghiệm và so sánh, mà bãi biển thì vô số trên đường đi.

           Chiếc xe của tôi là xe Wave do hãng Loncin của Trung Quốc sản xuất, mua cách đây hai năm, với giá 12 triệu đồng. Hồi đó xe Trung Quốc bắt đầu tràn ngập nhưng chỉ có người ít tiền mua vì chất lượng không tốt. Người ta đồn nhiều về các sự cố, tai nạn do lọai xe này gây ra, nào gãy tay lái, bể hộp số, mất thắng… Nhưng tôi làm sao mua nổi xe Nhật đắt gấp 3 lần. Rất may chiếc xe tôi mua lại khá tốt, chạy hơn 20.000 cây số  rồi mà chưa có sự cố gì đáng tiếc. Tôi không ưa gì hàng Trung Quốc và các trò thương mại ma giáo của họ trong việc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam nhưng tôi hoan nghênh hãng Loncin và cũng phục dân Trung Quốc. Họ sản xuất được mọi thứ, và bán gía quá rẻ. Nghe nói không những các công ty của trung ương, tỉnh, thành phố mà đến cả các xưởng của huyện,xã cũng sản xuất được xe gắn máy. Hãng Honda Nhật cũng phải chào thua và mất phần lớn thị trường xe máy gần như độc quyền ở Vệt Nam hàng mấy chục năm nay, nơi mà từ “honda” đồng nghĩa với xe gắn máy. Người Trung Quốc thật đáng sợ.

            Xe tôi có đủ hai kính chiếu hậu, giỏ xe phía trước, chỉ việc thay nhớt, kiểm tra thắng, xích là yên chí lên đường.

           

 

 

 

Từ trước  chúng tôi dự định  xuất phát từ Sàigòn đi thẳng ra Phan Thiết rồi cứ tiếp tục giong ruổi  trên quốc lộ 1A nhưng đến ngày đi chúng tôi lại thay đổi lộ trình. Chúng tôi lên ĐàLạt trước rồi sẽ đổ đèo Ngoạn Mục xuống Phan Rang, ra Nha Trang, không qua Phan Thiết nữa. Lý do ngày 14/2 là ngày Hà Sĩ Phu hết hạn quản chế, chúng tôi muốn gặp mừng bạn. Ngoài ra BY cũng có vài thứ giấy tờ liên quan đến chuyện bảo hiểm y tế và nghỉ hưu phải giải quyết ở Đà Lạt.

            Quãng đường từ Sàigòn đến ngã ba Dầu Giây, nơi rẽ sang quốc lộ 20 lên Đà Lạt, khoảng 70 cây số bình thường tôi đi mất hơn một giờ. Lần đi nhanh nhất nhờ đi từ 6g sáng hai năm trước mất  đúng 1 giờ. Hiện nay tình hình đã khác. Trên xa lộ Hà Nội(xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa trước đây), xe cộ dày đặc, và nhiều ngã ba, ngã tư mới xuất hiện vì thành phố mở thêm quận 9 ở khu vực này. Đi khoảng đường này rất căng thẳng và tai nạn xảy ra hàng ngày. Người yếu thần kinh hay không quen khó lòng đi nổi. Cứ thoáng thấy xe ben hay xe đò, xe tải, xe bồn trong kính chiếu hậu , tôi đã phải vội né ra xa vì chúng có thể húc đầu vào đít mình bất cứ lúc nào. Lần này BY ngồi sau cứ nhắc nhở liên tục nên tôi chạy khoảng đường này mất gần 2 giờ.

           Ngã ba Dầu Giây trước đây có rất nhiều hàng quán dưới rừng cao su rất mát mẻ nhưng nay người ta mới phá cao su sâu vào vài trăm mét dọc theo đường nên các hàng quán rất nóng bức. Tôi phải chạy thêm khoảng 1 cây số nữa mới vào nghỉ ở một quán mới mở dưới vườn điều. Dân địa phương ở đây cũng rất nhạy bén. Biết các quán ở ngã ba nắng nóng, khách không muốn vào, họ lập tức mở quán mới trong vườn của mình dọc theo quốc lộ. Chỉ cần vài bộ bàn ghế, vài chiếc võng, mái che bằng tranh tre hay vải bạt là đã thành quán. Ở đây, người ta thường bán nước giải khát với nước ngọt các loại, nước dừa hay nước mía.

               Loại quán này đặc biệt hấp dẫn đối ới khách đường xa đi xe gắn máy như chúng tôi. Thật thú vị và thoải mái khi sau một vài giờ căng thẳng và nóng nực trên đường đi, ghé vào quán, bỏ chiếc mũ bảo hiểm nặng nề gò bó ra, đi vô vườn giải quyết vấn đề vệ sinh, rửa mặt rồi ra võng nằm uống nước thiu thiu thư giãn.

               Thức ăn chúng tôi mang theo khi đi đường rất đơn giản, chỉ có bánh mì, phó mát, trái cây. Kinh nghiệm đi đường dài cho thấy không nên vào ăn ở các quán hay hiệu ăn dọc đường. Thức ăn ở đó vừa đắt vừa mất vệ sinh lại rất ồn ào nóng nực. Vả lại đi đường mệt nên chúng tôi không muốn ăn nhiều, chủ yếu uống nước. Chỉ khi vào thành phố, tắm rửa nghỉ ngơi xong mới đi tìm một hiệu ăn đàng hoàng để ăn lấy sức.

                 Chủ quán nơi chúng tôi ghé vào là một phụ nữ còn trẻ. Hỏi chuyện chị cho biết trước ở ngoài Bắc, gia đình làm ruộng rất vất vả và kinh tế khó khăn nên bán tất cả tài sản ngoài đó vào đây mua mấy sào điều. Theo chị trong Nam làm ăn dễ sống và đỡ cực hơn nên nhiều người tìm vào.

                    Lần trước trong chuyến đi Tây nguyên, chúng tôi gặp một trận mưa lớn phải ghé vào một nhà bên đường trú mưa. Nhà này vách gỗ, lợp tranh giữa đồng không mông quạnh, chỉ có 3 đứa bé ở nhà, bố mẹ đang đi làm rẫy. Chúng cho biết gia đình chúng cũng ở Bắc vào. Một đứa có dấu vết bị bỏng nặng do mấy năm trước nó còn bé, bố mẹ đi vắng, nhà bị hỏa hoạn không chạy ra được. Ba đứa bé  trong căn nhà tuềnh toàng dưới cơn mưa cuồng gío giật trông thật đáng thương. Có lẽ chúng đói nên khi chúng tôi cho chúng nải chuối mang theo, chúng ngốn sạch ngay.

            Việc đưa dân ngoài Bắc vào Nam ngoài chủ trương của nhà nước còn là một xu hướng  tự phát. Miền Nam  hiện nay không đâu không có người Bắc, nhất là vùng cao nguyên đất rộng người thưa và các đô thị lớn. Tuy nhiên sự hòa hợp giữa dân hai miền đòi hỏi nhiều thời gian nữa vì sự khác biệt trong phong tục, tập quán, quan niệm sống và chế độ chính trị trước đây không thể khắc phục sớm. Đây đó vẫn còn có sự kỳ thị hoặc thiếu thân thiện nhất định.

 

       Chuyển sang quốc lộ 20 đi Đà Lạt, cảm giác chạy xe trên đường khác hẳn, nhẹ nhàng và thoải mái hơn, không còn căng thẳng  như trên quốc lộ 1A đoạn đường vừa qua, tuy vẫn còn những chỗ khá nguy hiểm hay xảy ra tai nạn. Hai bên đường nhiều đọan là  rừng cao su, rừng điều và một khoảng đặc biệt có rừng cây bá súng trải dài làm không khí dịu hẳn. Thỉnh thoảng  có thị trấn dọc đường như Gia Kiệm, La Ngà, Định Quán… nhưng không đông đúc lắm. La Ngà có sông La Ngà chảy về sông Đồng Nai, nơi có khu vực dân cư nuôi cá bè trên sông khoảng 10 năm trở lại đây, các xe chở khách du lịch nước ngoài thường dừng  lại trên cầu cho khách xuống ngắm cảnh, chụp hình. Định Quán nổi tiếng  với những tảng đá khổng lồ cheo leo bên đường, làm người yếu bóng vía đi qua rảo bước vì sợ đá rơi sập xuống đầu.

         Những cảnh này đối với  chúng tôi quá quen thuộc nên tôi chạy với tốc độ nhanh nhất có thể, tối đa 70 cây số / giờ những khoảng đường vắng và dừng lại nghỉ tiếp  lần thứ hai ở quán café vườn  cuối thị trấn Tân Phú. Chỗ này chúng tôi và khách đi đường thường dừng nghỉ vì khoảng cách hợp lý, cách Dầu Giây phía dưới  và Bảo Lộc phía trên khoảng 60 cây số, lại có hai  quán café vườn bên đường rất rộng. Vườn rợp bóng cây có tàng lá lớn, được trang trí thêm nhiều hoa và cây kiểng, lối đi lại rộng rãi có thể chạy thẳng xe đến chỗ ngồi. Các xe nhà, xe tải thỉnh thoảng  cũng  dừng  lại đây để nghỉ .

            Đôi khi chúng tôi  cũng hơi bực mình vì nạn bán vé số nơi đây từ lúc bắt đầu có nhiều khách. Tôi rất ghét trò cờ bạc trá hình này và không bao giờ chơi vé số. Tôi  không chắc lắm  nhưng  có lẽ không đất nước nào có xổ số nhiều như ở Việt Nam. Mỗi tỉnh  đều tổ chức và xổ số không phải hàng tháng, hàng tuần mà là hàng ngày. Số tiền do xổ số đóng góp cho ngân sách địa phương chiếm tỉ lệ không nhỏ nên giám đốc các công ty xổ số rất được trọng vọng. Đây là một loại đánh bạc mà nhà  nước bao giờ cũng thắng và tạo ra tâm lý thích cờ bạc trong dân chúng. Đội quân bán vé số có lẽ là đội  ngũ lao động đông đảo nhất so với mọi ngành nghề khác. Gìa tre, lớn be, nam nư, tật nguyền đều có đu, thậm chí có những đứa bé mới 5,6 tuổi và những ông bà gìa 60,70 tuổi. Đó cũng là một cách giải quyết lao động thất nghiệp nhưng chỉ  góp phần đưa đất nước đi xuống. Tôi đã từ chối hàng ngàn người mời mua vé số nhưng không bao giờ thoát khỏi họ quấy rầy. Có người bán không quấy nhiễu, khách lắc đầu thì thôi nhưng đó là số ít. Phần lớn mời chào, năn nỉ, ấn tập vé vào tay khách, lải nhải đến 5,10 phút cả trong lúc người ta đang bận ăn uống. Làm việc không ra làm việc, ăn mày không ra ăn mày. Thật không còn  nhân cách gì và làm thui chột lòng bất nhẫn nơi con người. Có lẽ chỉ có những  đất nước mạt hạng như đất nước chúng ta  mới có thứ nghề nghiệp kỳ quái này.

 

              Nửa giờ sau, chúng tôi tiếp tục lên đường. Qua Phú Lâm, Phương Lâm, Madagouil, ĐạmRi trước khi lên đèo Bảo Lộc. Trước kia ở Madagouil, qua khỏi đèo Chuối, có khu du lịch Suối Tiên nhưng mới đây có lẻ do ít khách và trùng tên với khu du lịch Suối Tiên nổi tiếng gần Sàigòn nên được đổi tên  là “Du lịch rừng Madagouil”. Chúng tôi không bao giờ ghé vào đây vì qua đây chưa mệt và rừng thác đối với chúng tôi đã quá quen thuộc.

                Đèo Bảo Lộc, dài 10 cây số bằng đèo Prenn nhưng âm u và nguy hiểm hơn nhiều vì đường  dốc và ngoằn ngoèo liên tục. Cho đến nay, dù khí hậu thay đổi nhiều, cao nguyên nóng bức hơn trước  nhưng buổi sáng sớm, buổi chiều và sau cơn mưa ở đây vẫn có sương mù. Đi lên đèo dễ hơn đi xuống, chạy với tốc độ  40 cây số / giờ vẫn có cảm giác an toàn. Tuy nhiên khi gặp xe tải rất khó vượt vì đường quanh co liên tục bị che khuất. Xe tải chạy đường  bằng thường phóng như điên nhưng khi lên đèo lại bò như sên, nếu chạy sau sốt ruột không chịu được. Dù BY thường ngăn cản nhắc nhở tôi vẫn tìm cách vượt xe tải nơi nào có thể.

           Giữa đèo Bảo Lộc có hai nơi có thể dừng nghỉ là Đài Đức Mẹ và Miếu Ba Cô, không xa nhau lắm. Đài Đức Mẹ có tượng Đức Mẹ Fatima gần đây mới được tu bổ lại và hầu như lúc nào cũng có khách dừng vào viếng. Phía trước sát đường có bãi đậu xe rộng, tráng nhựa sạch sẽ. Vài hàng quán bán hoa huệ, nước giải khát và cung cấp nhang  miễn phí cho khách ( do giáo xứ Bảo Lộc đài thọ ). Đài xây trên bệ cao sát vách núi, phía trước là khoảng rộng có nhiều ghế đá để khách viếng ngồi nghỉ và cầu nguyện. Dọc theo đài có con suối chảy từ trên cao xuống, nước tươi mát, lòng suối nhiều đá sỏi. Lên cao qua khỏi đài, người ta xây một cây cầu nhỏ bắc ngang suối để đứng ngắm cảnh. Đây là một  thánh tích nhỏ đẹp, thuận tiện cho khách đi đường chiêm bái và nghỉ ngơi.

           BY cũng thường muốn ghé lại đây để cầu nguyện. Tôi không cầu nguyện bao giờ nhưng ngồi nghỉ trên ghế đá giữa rừng, bên dòng suối để hút một điếu thuốc cũng  rất thú vị. Chẳng có gì lấn cấn.

           Dưới đèo Bảo Lộc là Mađagouil, nay gọi là huyện Đạ Oai, đặc biệt nắng nóng ngột ngạt vì đây là một vùng lòng chảo thấp, lên đèo không khí bắt đầu dịu đi và qua khỏi đèo mới thật sự bước vào khí hậu cao nguyên. Trời đã ngả về chiều, se lạnh và chúng tôi phải mặc thêm áo khoác vì chạy xe tốc độ nhanh dễ nhiễm lạnh  rất khó chịu.

             Chúng tôi nghỉ lại Bảo Lộc để thăm con. Tiêu Dao, con trai lớn của chúng tôi đang hợp tác mở một cửa hàng dịch vụ Internet tại đây. Từ trước Dao có cửa hàng mua bán máy vi tính ở Sàigòn nhưng vì ít vốn, cạnh tranh gay gắt nên cháu lên đây tìm thị trường mới. Dao nói mấy tháng gần đây Bảo Lộc bắt đầu bùng nổ dịch vụ Internet. Khoảng vài trăm mét trên đường Trần Phú ( đường quốc lộ 20 chạy xuyên qua thị xã) đã có hơn mười cửa hàng. Tuy nhiên khách hàng phần lớn là học sinh vào chơi game, một số chat và chỉ mới có một số ít người dùng email. Dù sao đây cũng là tín hiệu tốt của một thị trường còn nhiều tiềm năng.

              Bảo Lộc là nơi trước đây chúng tôi ở gần 20 năm, từ khi còn có tên là Blao - Thị trấn Sương mù. Trước đó nữa, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã có thời bắt đầu nghề dạy học ngắn ngủi của mình ở đây và ông đã đưa vào nhạc hình ảnh “ đàn bò vào thành phố, đêm buồn vắng buồn  hơn.” của phố núi hiu quạnh. Nhà thơ Sao Trên Rừng Nguyễn Đức Sơn  vẫn thủy chung  với vùng đất này và ông hiện vẫn ở trên mấy ngọn đồi của Phương Bối Am ngày trước và tự đặt biệt hiệu là “Sơn Núi”. Một số trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng  của Miền Nam trước đây cũng đã từng có  thời lưu lại Blao và dấu ấn của “thị trấn sương mù” xuất hiện trong tác phẩm của họ.

            Bảo Lộc  nay là thị xã đang phát triển với tộc độ nhanh. Bảo Lộc nổi tiếng là xứ trà, café, dâu tằm, nhất là trà. Những danh trà từ mấy chục năm trước như Quốc Thái, Đỗ Hữu bây giờ chìm ngập trong hàng trăm hãng trà mới xuất hiện. Dọc theo quốc lộ 20 chạy qua các xã và thị xã, hiệu trà dày đặc với nhà phố mỗi lúc mỗi lớn và sang trọng, bề thế hơn. Vài hãng trà xây dựng cửa hiệu của mình như một toà lâu đài. Đặc biệt hãng trà Tâm Châu mới xuất hiện, do mấy anh em Việt kiều Mỹ gốc ở đây về làm chủ, nổi lên như một đại gia trong nghề. Họ có vốn lớn, kinh doanh, quảng cáo theo kiểu Mỹ, nhanh chóng lấn chiếm thị trường. Họ sản xuất theo chu  trình khép kín với công nghệ tiên tiến, từ trồng trà cho đến xây dựng nhà máy chế biến, cửa hàng tiêu thụ. Thương hiệu của họ có mặt khắp  nơi trong thị xã và cửa hiệu chính của họ là một nhà hàng hiện đại ngay bên đường quốc lộ, nơi các đoàn xe du lịch chở khách nước ngoài thường ghé qua.

            Các đường trong thị xã đều được  mở rộng. Một công viên mới xây dựng trên quãng trường trước trụ sở UBND thị xã khá đẹp và thoáng mát. Khách sạn Seri hotel 3 sao có từ thời hoàng kim của Tổng Công ty Dâu Tằm,  nhiều tầng, với mặt tiền đồ sộ vẫn sừng sững  bên hồ Bảo Lộc làm hồ như bé lại dù đã được nạo vét. Chung quanh chợ, nhà phố phần lớn mới xây dựng lại, đặc biệt các cửa hàng xe gắn máy lớn không thua gì Sàigòn, có mặt bằng rộng đủ để hàng trăm chiếc. Nhìn qua có thể nói kinh tế ở đây phát triển nhanh nhưng có cái gì đó còn ngổn ngang và trình độ văn hóa còn thấp.

            Hơn mười năm nay, Bảo Lộc có khu du lịch ĐạMri bắt đầu thu hút khách phương xa và cư dân địa phương. Nơi đây, cách thị xã 20 cây số về hướng Bắc, phong cảnh âm u hoang dã, có ngọn thác Đạ Mri hùng vĩ và vườn thú hoang dã. Một thang máy mới được xây dựng để đưa khách xuống lòng suối cho những ai không muốn hay không đủ sức leo mấy  trăm bậc cấp dốc đứng. Vườn thú với một số loại thả tự do như khỉ, hươu nai sán đến bên khách đòi thức ăn cũng  là một cảnh tượng thú vị. Nơi đây cũng đã có nhà hàng và phòng nghỉ cho khách muốn lưu lại qua đêm.

           Ghé Bảo Lộc, lần nào chúng tôi cũng đến thăm Trần Minh Thảo, người bạn cố tri từ thời sinh viên ở Huế. Thảo nổi tiếng là “Thảo tóc bạc” từ hồi còn trẻ nhưng bây giờ anh lại nhuộm tóc đen nhánh. Anh rút lui khỏi bộ máy chính quyền hơn  mười năm nay, bị khai trừ Đảng vì đã dám viết bài góp ý cho Đại hội Đảng, yêu cầu Đảng  từ bỏ độc tài, thực hiện dân chủ hóa và đa nguyên chính trị. Anh nguyên là một giáo sư văn chương, bây giờ lại say mê nghiên cứu  vi tính và chỉ sau  vài năm đã trở thành giáo viên giảng dạy vi tính cho các trung tâm ở đây. Suốt ngày anh miệt mài bên máy để nghiên cứu kỹ thuật và truy cập thông tin trên Internet. Gặp tôi, anh lúc nào cũng nói chuyện thời sự chính trị với những suy niệm thâm trầm của một ẩn giả bất đắc chí.

 

           Nghỉ một đêm ở Bảo Lộc, sáng hôm sau chúng tôi đi tiếp lên Đà Lạt. Khoảng đường 110 cây số này chúng tôi hầu như thuộc nằm lòng. Các xã Lộc Sơn, Lộc Nga, Lộc An của Bảo Lộc trước đây nghèo nàn nay khởi sắc rõ rệt với nhà cửa chợ búa sầm uất. Địa phận huyện Di Linh tiếp nối với con đường quốc lộ 20 mới được làm lại, quanh co uốn lượn theo các sườn đồi, cảm giác chạy xe thật lâng lâng  khinh khoái.

       

           Khu du lịch thác Bobla gần xã Liên Đầm mới khai phá có vẻ ít khách, tuy sát bên đường nhưng ở ngoài nhìn vào chẳng thấy gì cả. Chúng tôi không nghỉ lại đây và thường nghỉ ở quán 4 cây thông sau khi qua khỏi thị trấn Di Linh. Thị trấn này so với những năm xưa không phát triển bao nhiêu, vẫn còn nét “quê mùa” và không có được vẻ lãng mạn như Blao - Thị trấn Sương mù.

 

           Tiếp nối Di Linh là huyện Đức Trọng, nơi có thác Pongour hùng vĩ nhất tỉnh Lâm Đồng nhưng vì đường đi rất khó nên chỉ đông khách vào những ngày lễ hội đầu xuân. Thác Gougha ngay bên đường nhưng ít ai vào vì suối khô cạn và cây cối có vẻ xơ xác.

             Phần đất Đức Trọng gần chân đèo Prenn thay đổi  nhiều nhất so với trước đây. Những mảnh ruộng lúa khô cằn do đồng bào dân tộc ít người  canh tác đã được thay thế bằng những vườn trồng rau, hoa theo công nghệ mới, cho ra sản phẩm không thua gì Đà Lạt. Việc này do các công ty nước ngoài, chủ yếu là Đài Loan, khởi xướng đầu tư và sau đó nông dân địa phương học tập làm theo. Nơi đây  còn có những vườn hồng trái mới, trước đây không có, thích hợp với loại hồng Nhật chín muộn, sang xuân rồi mà vẫn còn trái vàng rực lủng lẳng trên cành những cây đã hoàn toàn trụi lá.

            Đèo Prenn có lẽ là đèo đẹp nhất Việt Nam. Đẹp theo nghĩa hoang dã nhưng không âm u, trái lại dịu dàng, thơ mộng với con đường êm ái uốn lượn giữa các đồi thông mượt mà, quanh năm xanh tươi mát mẻ. Dưới đèo có thác Prenn nổi tiếng từ xưa lúc nào cũng đông đảo du khách và các đoàn xe du lịch. Giữa đèo có thác Datanla với đường xuống hiểm trở chỉ thích hợp với những người thích mạo hiểm. Gần đó là ngã ba có đường dẫn vào khu du lịch Tuyền Lâm mới noi tiếng gần đây với Trúc Lâm thiền viện và khu hồ mênh mông uốn quanh các đồi thông vào sâu phía thượng nguồn.

              Quá trưa chúng tôi về đến nhà. “Động hoa vàng”  của chúng tôi vô cùng tĩnh mịch. Hoa quỳ dại đầu ngõ đã tàn gần hết nhưng những loại hoa vàng khác vẫn còn rải rác. Vườn chúng tôi mới làm cỏ mấy tháng trước, đang mùa khô nên vẫn còn tương đối sạch sẽ, không đến nỗi vạch cỏ tìm đường như mọi lần.

          Từ khi về Sàigòn hơn một năm nay, nhà chúng tôi ở đây bỏ hoang, chỉ gởi hàng xóm trông chừng. Chúng tôi đã mượn tiền để mua nhà ở Sàigòn nên định bán nhà này để trả nợ nhưng các con chúng tôi khuyên nên cố giữ, tiền nợ chúng sẽ làm việc để trả dần. Căn nhà này bằng gỗ lợp tôn, có tuổi thọ gìa hơn tuổi tôi, phía dưới mối mục cả nhưng vẫn còn đứng  vững. Bù lại vườn rất rộng và vô cùng yên tĩnh, đầy nắng gió với thung lũng phía dưới và bầu trời trên cao, suốt ngày nghe tiếng chim nhiều hơn tiếng người. Dù sao đây cũng là “một cõi đi về” thân thuộc, đầy kỷ niệm của chúng tôi và cả con chúng tôi sau này.

            Ở Đà Lạt, chúng tôi đi lo giấy tờ của BY và đi thăm cáp treo . Ở  đây, nơi chúng tôi đã sống hơn 15 năm, thắng cảnh nào chúng tôi cũng đã biết, riêng cáp treo mới được xây dựng và khai trương vào dịp Tết vừa qua là chúng tôi chưa đi.

           Đà Lạt là xứ du lịch “trời cho” với cảnh  quan và khí hậu thuộc loại hấp dẫn nhất Việt Nam nhưng những việc “người làm“ để phục vụ du lịch còn quá ít, đôi khi phản tác dụng mà người dân địa phương và báo chí đã phê phán nhiều. Trụ sở vĩ đại và thô kệch của Đài Truyền hình mới xây dựng án ngữ ngay lối vào của thành phố. “Con chim Lâm cẩu“ xấu xí vẫn còn nặng nề giương cánh ở bùng binh trước chợ Hòa Bình. Đồi Cù  tự do mộc mạc tuyệt đẹp ngày nào  đã trở thành sân golf hiện đại rào kín chỉ dành cho khách lắm tiền, chủ yếu là người nước ngoài. Cả thành phố Đà Lạt  hầu như không còn bãi cỏ tự do nào cho trẻ con đùa chơi và những cặp trai gái tình tự. May ra còn chút rẻo  quanh hồ Xuân Hương nhưng khi làm đường, người ta ủi bừa đất vào lô xô lảm xảm, dù cỏ mọc lên cũng không còn mấy chỗ ngồi êm ái.

            Công bằng mà nói thành phố cũng đã được sửa sang xây dựng nhiều. Các khách sạn ĐàLạt Palace;  ĐàLạt Novotel đã trở thành khách sạn 3 sao nổi tiếng sang trọng. Nhiều khách sạn  khác cũng được nâng cấp hoặc xây dựng mới hiện đại. Các công sở, nhà hàng và nhà các quan chức to đẹp bề thế mọc lên khắp nơi. Đường sá nội thành hầu như  mở rộng và làm mới hoàn toàn, một số công viên mới được xây dựng. Tuy nhiên việc xây dựng không theo quy hoạch, không tôn trọng không gian kiến trúc và cảnh quan môi trường, chặt phá tùy tiện các đồi thông đã làm Đà Lạt mất dần bản sắc ngày xưa, một  cái gì là hồn phố lãng mạn êm ả, trữ tình làm cho Đà Lạt không giống bất cứ thành phố nào khác. Thành phố này muốn vươn cao  cùng thời đại mà vẫn giữ được bản sắc cần  những người lãnh đạo không những có trí tuệ, tầm nhìn cao hơn, mà còn cần phải có ít nhất một chút lãng mạn và trái tim dễ rung động của người nghệ sĩ đam mê cái đẹp chứ không phải là đầu óc thực dụng.

           Riêng về cáp treo, một loại hình  phục vụ du lịch rất phù hợp với địa hình Đà Lạt đã được nói đến và thực hiện trong nhiều năm trước nhưng bất thành. Một công ty nước ngoài nào đó đầu tư, quảng cáo ầm ĩ nhưng không rõ vì sao đã động thổ khởi công rồi bỏ cuộc, nghe nói là không có vốn. Thật kỳ lạ ! Mới đây, người ta âm thầm làm, không dám quảng cáo gì nữa và lúc sắp hoàn thành đưa vào sử dụng  mới dám công bố. Chúng tôi cũng háo hức đi xem thử bộ mặt cáp treo Đà Lạt thế nào.

              Đầu trên của cáp treo được xây dựng trên ngọn đồi đầu đèo Prenn. Theo con đường nhựa mới mở chạy quanh co khoảng vài trăm mét là đến vị trí của đầu cáp trên đỉnh đồi. Đây là một mặt bằng  khá rộng được thiết kế một công trình kiến trúc khá hợp lý với bãi đậu xe, nhà hàng, nhà khách, phòng bán vé và nơi điều khiển cáp treo trên tầng cao nhất. Một  sân rộng hình bán nguyệt với cây cảnh và lan can bao quanh lộng gió. Từ đây có thể nhìn toàn cảnh thành phố bên dưới, một chặng đèo quanh co  phía đông nam và dãy núi với đỉnh Lang Bian cuối trời phía bắc.

           Chúng tôi đến gần trưa nhưng khách vẫn đông. Gía vé khá đắt: 50.000đ cho người lớn một lượt đi về. Nghe nói  chỉ trong mấy ngày Tết đã thu tiền vé được vài tỉ. Cáp treo có 40,50 cabin gì đó, mỗi cabin ngồi được 4 người, thiết kế gọn và xinh xắn, nhiều mầu sắc khác nhau với cửa kính trong suốt tứ phía. Hai dây cáp lớn chuyển động liên tục giữa các ròng rọc  trên các đầu trục đưa các cabin êm ả lướt về hai chiều ngược nhau trên các ngọn thông. Đầu dưới của cáp treo  ngay trên lối vào Trúc Lâm thiền viện cách đầu trên khoảng vài cây số.

            Việc chọn địa điểm cáp treo ở đây khá thích hợp. Cùng với chùa Trúc Lâm và hồ Tuyền Lâm,  đây quả là  một khu du lịch phức hợp lý tưởng. Khách có thể đi cáp treo đến chùa viếng cảnh rồi thuê thuyền đi chơi trên hồ, sinh hoạt dã ngoại  trong rừng và trở về bằng đường cáp treo cho một ngày đi chơi thú vị.

               Cabin chúng tôi đi lúc mới lên có 4 người nhưng ngay sau đó, hai người kia, có lẽ là đôi tình nhân hay vợ chồng trẻ nhảy vội xuống  đi cabin sau, họ nói muốn đi riêng để chụp hình. Những người phụ trách cáp treo không phản đối nên chúng tôi  cũng được đi riêng hai người. BY sợ độ cao nên cứ nắm chặt lấy tay tôi và chúng tôi ở bên nhau, trên cao lồng lộng, trong một cảm giác mới mẻ gội nhớ những  ngày tháng lãng mạn xa xưa thời trẻ. Chúng tôi chụp hình cho nhau  với bối cảnh bên dưới: là rừng thông bát ngát và hàng dọc những cabin khác đang chuyển động trên đường dây.

           Cáp treo là một công trình phục vụ du lịch mới đáng tán thưởng. Tuy nhiên việc trông cây quanh  hồ Xuân Hương và trên các trục đường,  nhất là đối với loại cây  mai anh đào, một đặc trưng của Đà Lạt thật đáng chê trách. Gần 30 năm qua, năm nào cũng hô hào phát động trồng cây ầm ĩ mà đến nay mới chỉ một số ít cây sống được, phần lớn chết, bị chặt phá hay xác xơ còm cõi.

           Năm nay do khí hậu  thời tiết thay đổi tác động, hoa mai anh đào nở muộn. Thường hoa này chỉ nở và tàn khoảng một tuần trước hoặc sau Noel nhưng năm nay đến Tết hoa mới nở. Ngày chúng tôi về đây vẫn có một vài cây còn hoa  bập bùng một màu hồng nhạt quanh hồ Xuân Hương và trên đường dốc lên khu Hòa Bình. Hầu như tất cả đều là những gốc mai gìa còn sót lại từ thời xa xưa. Chúng tôi cũng ghi được mấy tấm hình bên  cảnh tượng hiếm hoi này. Người dân địa phương và báo chí rất tán thưởng hiện tượng này, coi đây như một nét hồi sinh của “thành phố hoa đào” một thời vang bóng. Nghe nói nhân dịp này chính quyền địa phương  đã quyết định đặt tên một con đường là đường “ Mai anh đào” và quyết tâm trồng  lại hàng cây kỳ diệu đặc trưng này của thành phố. Cũng rất mong điều này được thực hiện và người dân Đà Lạt có thể tự hào về một tên gọi lãng mạn của thành phố mình bên cạnh những tên gọi khác như “ thành phố ngàn hoa” , “ thành phố trên cao” …

 

              Thăm cáp treo, thưởng thức mai anh đào chỉ là chuyện phụ. Mục đích của chúng tôi khi lên đây là thăm và mừng Hà Sĩ Phu hết hạn quản chế. Chúng tôi đến thăm vợ chồng Hà Sĩ Phu trước ngày Hà Sĩ Phu hết hạn quản chế. Vợ chồng Hà Sĩ Phu -Thanh Biên tiếp chúng tôi với vẻ lo lắng căng thẳng hiếm thấy. Anh cho biết trước Tết, anh được mời lên làm kiểm điểm về những chuyện vi phạm trong thời gian bị quản chế, đặc biệt về  việc anh ủy quyền cho những người bất đồng chính kiến ngoài Bắc thay anh ký vào những văn bản họ làm gởi cho Nhà nước lên tiếng về những vấn đề dân chủ, nhân quyền. Anh giải thích anh làm thế để chứng tỏ dù trong hoàn cảnh bị quản chế anh luôn giữ vững quan điểm của mình, không vì sợ hãi mà im tiếng. Anh tin tưởng ở những người bất đồng chính kiến ngoài Bắc, đã xác định rõ nội dung anh ủy quyền  và đó cũng là quyền công dân của anh mà quyết định quản chế không ngăn cấm. Tuy nhiên công an cho rằng anh đã vi phạm và bị bọn phản động lợi dụng để chống phá Nhà nước. Trước tình hình đó, chúng tôi phân tích hai khả năng: Hoặc trấn áp, hù dọa, khủng bố tinh thần anh trước khi giải chế. Hoặc lấy cớ  áp đặt một lệnh quản chế mới. Tuy nhiên  Hà Sĩ Phu đặc biệt lo ngại vì những biện pháp mạnh tay của Nhà nước  đối với những người bất đồng chính kiến thời gian gần đây: Đưa ra tòa kết án Lê Chí Quang. Bắt giam Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình rồi Trần Khuê, Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến…  Trong khi đó thế giới đang  tập trung chú ý vào tình hình Trung Đông và chiến tranh  vùng Vịnh sắp nổ ra, không có chính phủ nào trực tiếp can thiệp vào vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Trung quốc lại làm gương trong việc đàn áp những người bất đồng chính kiến…

     Về mặt tâm lý, Hà Sĩ Phu, nhất là chị Thanh Biên cũng đã cảm thấy quá mỏi mệt sau nhiều năm căng thẳng vì bị bao vây phong tỏa và luôn phải đối phó với bộ máy công an hùng hậu. Họ muốn sau hạn quản chế này được nghỉ ngơi, sống thoải mái hơn. Tuy nhiên “cây muốn lặng mà gió chẳng dừng“ Chúng tôi chỉ còn cố đưa ra những nhận định lạc quan để an ủi hai người và hẹn hôm sau sẽ lại thăm vợ  chồng anh  lần nũa.

     14/2/03, đúng ngày hết hạn quản chế của HSP, chúng tôi định rủ thêm mấy bạn khác lại thăm HSP, coi như anh đương nhiên giải chế khi không có quyết định gì mới  nhưng  các bạn ngại cho rằng làm như thế có thể bị Nhà nước  coi là khiêu khích, sẽ gây khó khăn thêm cho HSP. Cũng đúng ngày hôm đó, anh được triệu tập họp tổ dân phố để nghe “đấu tố”. Trong cuộc họp này, những người tham dự được chỉ đạo trước đã tố giác anh và đề nghị Nhà nước kéo dài thêm thời hạn quản chế hoặc đưa ra xử lý theo pháp luật. Trước tình hình đó, anh khuyên chúng  tôi nếu cần  thì cứ tiếp tục đi vì chuyện của anh không thể giải quyết sớm, chúng tôi không cần đợi. Thế là chai rượu Mao Đài chúng tôi kỳ cạch mang từ Sài Gòn lên để mừng HSP chưa thể uống được. Chúng tôi tạm thời cất ở nhà để đợi dịp khác chứ bây giờ không ai lòng dạ đâu để uống rượu. ( Chai rượu này do chú em tặng tôi hồi Tết tôi để dành. Mao Đài được coi là rượu ngon và qúy của Tàu. Chính sách của Nhà nước Tàu khó chơi nhưng rượu ngon là của nhân dân Tàu, ta cứ thưởng thức, tinh hoa văn hóa Tàu ta ngưỡng mộ và học tập. Đó mới là tinh thần quốc tế chân chính ).

   Vì chuyện không vui của HSP, chúng tôi cũng không đến thăm Bùi Minh Quốc, người còn gần một năm nữa mới hết quản chế. Lúc còn ở Đà Lạt sau khi tôi hết quản chế, HSP lại bị khởi tố nhưng sau đó đình chỉ điều tra rồi quản chế, BMQ đi Bắc về, vì chuyện biên giới bị quản chế lần thứ hai, thỉnh thoảng tôi vẫn đến thăm hai người dù có lúc bị gây khó khăn hạch hỏi. Có lần tôi vào thăm lúc chiều tối khi về công an đã điều một xe commanca đến chặn ngang đường để xét hỏi. Sau đó tôi về Sàigòn, cứ vài tháng lên Đà Lạt một lần, bao giờ tôi cũng đến thăm hai anh. Công an cũng đã nhẵn mặt tôi nên không còn ngăn cản nữa. Tôi đã nhiều lần nói với công an về chuyện tình nghĩa bạn bè tôi không từ nan một điều gì.

    Thế là hôm sau chúng tôi tiếp tục lên đường.

 

 

 

 

2.

 

 

                       *Chặng đường Đà Lạt - Nha Trang dài 220 cây số, qua 2 đèo và qua vùng Phan Rang nóng cháy đi trong ngày chắc sẽ là một chặng đi mệt nhọc dối với chúng tôi. Chúng tôi không thể đi sớm vì trước khi đi phải dọn dẹp, đóng ván niêm phong nhà đề phòng kẻ trộm đột nhập lúc chúng tôi đi vắng lâu ngày.

Từ Đà Lạt đi Đơn Dương, huyện tiếp giáp đèo Ngoạn Mục có 2 đường. Đường đi qua đèo Dran ngắn hơn đường kia khoảng 10 cây số, trước kia chúng tôi đã thử 1 lần. Đèo Dran dài hơn 10 cây số, không đẹp bằng nhưng có vẻ hoang sơ hơn đèo Prenn. Từ đỉnh đèo có thể nhìn thấy hồ Đa Nhim phía xa. Đường đèo hẹp, vắng vẻ vì từ lâu không  có tuyến xe khách và chung quanh không có dân cư nên chúng tôi ngại, sợ xe có sự cố không thể xoay xở được. Chúng tôi quyết định đi đường  kia, đổ đèo Prenn, đến ngã ba Finnom rẽ trái đi về Đơn Dương. Đường này hẹp, quanh co, xe nhiều, qua mấy thị trấn nên không thể chạy nhanh được. Tuy hơi mệt, tôi chạy một mạch đến đầu đèo Ngọan Mục mới dừng lại nghỉ để ăn sáng với các thứ mua ở chợ trước khi đi. Nơí đây có một khúc quanh nhô ra vực rất thuận tiện để nhìn toàn cảnh phía dưới của ngọn đèo hùng vĩ này. Con đường quanh co lúc ẩn lúc hiện xuôi dần và biến mất trong ngút ngàn rừng gìa. Người Pháp đặt tên  đèo này là “Belle vue”, ta dịch Ngoạn Mục cũng rất phù hợp. Có người còn gọi là đèo Sông Pha vì dưới chân đèo có thị trấn Sông Pha.

 

   Đường đèo này rất  nguy hiểm, hẹp và quanh co nhiều, có đến 5 khúc cua khuỷu tay với bảng cảnh báo có thể  rơi luôn xuống vực. Chính do đèo nguy hiểm nên khi đi lại ít hiểm nguy vì không xe nào dám chạy ẩu. Vả lại đường này  xe qua lại cũng ít so với các tuyến đường khác. Chúng tôi từ từ đổ đèo. Thỉnh thỏang vẫy tay chào các khách Tây ba lô đồng hành. Họ thường thuê xe ôm từ Đà Lạt đi Nha Trang hay các tỉnh Tây nguyên. Họ, phần lớn là các cặp trai gái, đôi khi các bạn trai hay các bạn gái đi với nhau. Có người chỉ đi một mình. Từ những phương trời xa lạ, họ dám đến đây mạo hiểm đi khắp nơi, lẽ nào chúng tôi lại không đi được.

   Đèo Ngoạn Mục  có hai ống nước khổng lồ do người Nhật thiết kế đưa  nước từ hồ Đa Nhim trên đỉnh núi xuống chạy máy phát điện dưới chân núi ở Sông Pha

  Đây cũng là một công trình ngoạn mục đặc biệt  không đâu có. Những lần  đi trước chúng tôi đã dừng  lại chụp hình nhiều nên lần này không chụp nữa. Lại chạy một mạch hơn 50 cây số đến thị xã Phan Rang.

    Trên đường, tuy có dòng sông cùng chảy  xuôi  nhưng quang cảnh kho cằn, thỉnh thoảng xuất hiện mấy  tháp Chàm cũ kỹ trơ vơ trong nắng. Ở đây dân cư trồng  bông vải và trồng nho nhưng xem ra không được trù phú.

      Thị xã Phan Rang nhiều đường phố cũng có cây xanh nhưng vẫn nóng bức. Chúng tôi vào một tiệm cơm gà ở ngã ba đường, hình như khá nổi tiếng vì khách rất đông để ăn trưa. Chúng tôi muốn ngồi phía ngoài cho thoáng nhưng ông gìa bảo vệ khuyên chúng tôi và mấy người khách mới đến nên vào trong .Ông bảo ngồi ngoài ăn mày đến quấy rối chịu không nổi, cho một người họ sẽ kéo đến hàng chục, đuổi không đi. Nạn ăn mày đúng là một vết nhơ trên bộ mặt các đô thị Việt Nam. Giải quyết nạn nghèo khổ là một vấn đề lớn và khó khăn. Người nghèo khổ đáng thương hại và giúp đỡ nhưng kiểu ăn mày và lạm dụng ăn mày thành nghề, đặc biệt ở các thành phố lớn là một sự xấu hổ cho chính họ, cho nhân dân và cho Nhà nước.

   

  Từ  thị xã Phan Rang, chúng tôi đi thẳng ra quốc lộ 1A, không ghé qua bãi biển Ninh Chữ gần đó, một bãi  tắm sạch và yên tĩnh, nơi chúng tôi đã một lần đến từ nhiều năm trước. Chúng tôi cũng không tiếc đã không đi qua Phan Thiết vì mấy năm gần đây chúng tôi đã qua đó hai lần.

   Từ Sàigòn ra Phan Thiết có hai đường. Đường quốc lộ 1A khoảng 170 cây số nắng nóng và xe cộ đông  đúc. Đường kia ra Bà Rịa, Long Hải theo quốc lộ 55 chạy dọc  bờ biển đến Hàm Tân( Hàm Thuận Nam ) rồi lại ra quốc lộ 1A chỗ gần thị xã Phan Thiết. Đường này vắng ve, cảnh trí  đẹp với các rừng cây và đồng  ruộng nối tiếp. Ai có thời gian tha hồ tắm biển. Bãi biển Long Hải nổi tiếng từ xưa nhưng chật chội bẩn thỉu. Về sau này khách thường đến Phước Hải chỉ cách đó mươi cây số với hàng loạt bãi tắm đẹp, trong đó có bãi Thùy Dương nhiều đá nhưng thơ mộng hơn, nơi có khách sạn lớn và nhiều nhà nghỉ sát biển. Đi tiếp nữa là bãi Hồ Cốc, nhỏ và yên tĩnh, có lối vào đi xuyên qua khu rừng nguyên sinh, một khu rừng nhỏ với hằng hà sa số thân cây thẳng tắp. Đi tiếp nữa sẽ gặp khu du lịch Bình Châu, nơi có nước khoáng nóng chữa bệnh, được đầu tư xây dựng nhiều để phục vụ du lịch. Ở dây bạn có thể ngồi ngâm chân trong dòng  nước nhỏ dẫn từ suối vào bằng một con mương xây xi măng, tắm nước khoáng qua vòi hoa sen hay các bể tắm. Các bể này được thiết kế lớn nhỏ khác nhau để  tắm công cộng hay  tắm riêng cho từng gia đình. Bạn cũng có thể mua trứng, cho vào giỏ thả xuống giếng nước nóng đến 70 độ để luộc ăn chơi.

  

    Trước khi ra Hàm Tân bạn có thể ghé tham quan Dinh Thầy Thím ( Thầy và vợ Thầy là Thím chứ không phải Thầy tên Thím như ban đầu chúng tôi lầm tưởng, hai vợ chồng có phép thuật giúp dân ngày xưa, nay trở thành  nơi hành hương cầu bình an tài lộc của khách thập phương ). Cạnh Dinh Thầy Thím là bãi biển Thùy Dương ít sóng. Đây là một khu du lịch kỳ lạ nhằm phục vụ cho khách hành hương Dinh Thầy Thím với vô số quán cho thuê sạp và hàng ngàn chiếc võng, ngủ qua dêm chỉ mất 10.000đ. Bãi biển Hàm Tân cách đó 30 cây số là bãi biển của thị xã nhưng lại chật chội bẩn thỉu  và không có nhà nghỉ cho khách.

 

     Phan Thiết với bãi biển Mũi Né khoảng  mười năm lại đây nổi lên như một khu du lịch biển còn hấp dẫn hơn cả Vũng Tàu. Ngoài bãi tắm Thùy Dương (lại Thùy Dương, vì dọc Miền Trung bãi biển nào cũng có dương liễu) sát thị xã, khách có thể tha hồ lựa chọn nơi tắm biển dọc theo Mũi Né, cách thị xã 20 cây số. Một con đường nhựa mới mở chạy qua lầu ông Hoàng (công trình nổi tiếng nhờ thơ Hàn Mặc Tử , nay không còn mấy dấu tích ) dọc theo bờ biển giữa hai hàng dừa xanh  ngun ngút gần chục cây số. Ở đây có vô số resort do các công ty nước ngoài hay các công ty du lịch ở Sàigòn ra đầu tư, sang trọng đắt tiền hay  dân dã, Âu Á đều có đủ. Nét mới ở đây là các resort này được nhà nước cho khoanh vùng quản lý bãi biển, chỉ phục vụ tắm cho khách riêng của mình nên không ồn ào và rất sạch sẽ. Dọc bãi biển cát vàng dài hơn 20 cây số, nhiều khu vực còn hoang sơ rất phù hợp với những người thích yên tĩnh. Ngoài ra khách có thể đi tham quan các thắng cảnh trong khu vực như Đồi Cát, Hòn Rơm, Suối Hồng… rất đặc trưng về mặt địa chất của vùng đất này.

   Chúng tôi chỉ tiếc không qua thị xã Phan Thiết để rủ vợ chồng  nhà thơ Nguyễn Như Mây cùng đi. Qua mấy lần gặp trước, chúng tôi biết hai người này rất có máu giang hồ, cũng đã từng thực hiện nhiều chuyến đi xa bằng xe gắn máy. Đúng là đi xa có bạn đồng hành vui và yên tâm hơn. Tuy nhiên đi riêng lại cũng có điều thú vị và thuận tiện. Hy vọng một lần khác chúng tôi sẽ rủ họ cùng đi.

 Từ Phan Rang, chúng tôi bắt đầu chặng đường đã nhiều năm chưa đi. Trên đường điều khác biệt  rõ nhất là đường tốt hơn và các thị xã, thị trấn dọc đường mở rộng và khang trang sầm uất hơn. Phan Rang- Nha Trang 100 cây số, qua Cam Ranh, Diên Khánh, Ngã ba Thành, chúng tôi chỉ nghỉ một lần ở quán nước dừa có võng ven một bìa rừng. Càng đi ra Trung, loại quán này càng hiếm, không như trong Nam ở đâu cũng có.

 

Lối vào thành phố Nha Trang là một con đường hai chiều có dải phân cách dài thăm thẳm. Trước đây  đã từng qua Nha Trang vài lần nên dù không rành đường, tôi không cần hỏi cứ nhắm hướng đông mà chạy, quả nhiên cuối cùng ra tới bãi biển. Tôi chạy dọc theo con đường dài và đẹp nhất thành phố này, với vô số khách sạn cao tầng mới mọc lên, tìm một khoảng tương đối vắng, đưa xe vào bãi cát sát biển nghỉ ngơi trước khi đi tìm chỗ ở.

Buổi chiều muộn không còn mấy người tắm. Làn gió biển mát rượu làm chúng tôi dịu bớt mệt nhọc. Chúng tôi rất thích biển nhưng số phận ( hay  hoàn cảnh ) không cho chúng tôi được sống ở  vùng biển. Đứng trước biển, trước trời nước mênh mông phóng khoáng, tâm hồn mình cũng được mở rộng ra, cao hơn dù thân xác lại như bé nhỏ mong manh hơn. Bãi cát vàng  mịn, nắng ấm, tiếng sóng vỗ ì ầm miên man vẫn là nơi dễ ru hồn ta vào chốn bình yên thanh thản nhất.

Nghỉ mệt xong chúng tôi đi tìm chỗ ở. Với chúng tôi đây là một vấn đề phải tính toán và mất công sức. Số tiền  chúng tôi để dành được  cho chuyến đi chỉ có thể chi tiêu một cách hết sức tiết kiệm. Chúng tôi chủ trương đến đâu cũng không ở nhà người quen mà chỉ ở khách sạn, nhà nghỉ hay phòng trọ vì đi mệt cần nghỉ ngơi và được thoải mái tự do hơn. Tuy nhiên giá tiền phòng không được quá 100.000 đồng một đêm. Nơi nào có biển nên ở gần biển. Nơi nào không có biển, ở khu phố nhỏ ít xe cộ ồn ào. Vời điều kiện như thế, chúng tôi phải chịu khó đi tìm. Kinh nghiệm những lần đi trước cho thấy, ở nhiều thành phố, với gía trên dưới 100.000đ tùy nơi cũng có thể tìm được phòng tương đối  tiện nghi, có toa lét riêng, có máy tắm  nước nóng và cả TV, điện thoại. Do đó đi xe gắn máy quả thật thuận tiện cho việc này.

Ở đây,  dĩ nhiên chúng tôi  không thể vào các khách sạn sang trọng dọc đường bở biển nên chúng tôi “kính nhi viễn chi” chỉ đi qua ngó chơi . Tôi rẽ vào mấy con đường bên trong một chút và nhanh chóng  tìm được chỗ trọ ưng ý, tuy phải leo lên lầu 3. Chẳng sao vì tại Sài Gòn chúng tôi cũng ở  tầng 3 chung cư và Đà Lat là phố núi nên leo trèo là chuyện nhỏ. BY nói chuyện sao mà cô chủ bảo có cảm tình với khách Đà Lạt nên chỉ tính giá 100.000đ dù bình thường giá cao hơn.

   Tắm rửa xong, chúng tôi di  ăn tối và vào một tiệm dịch vụ Internet gần đó để gởi mail. Chuyến đi này chúng tôi có phương tiện thông tin liên lạc hiện đại: một điện thoại di động, một thẻ card phone trong túi. Còn các trụ điện thoại công cộng ngoài đường, các đại lý bưu điện, các tiệm dịch vụ  Internet có rất nhiều ở các thành phố và thị xã, thậm chí các thị trấn nhỏ cũng có tuy ít hơn.

  Sự phát triển có thể nói  là nhảy vọt của công nghệ thông tin ở nước ta là một hiện tượng đáng  phấn khởi. Sự phát triển này là tất yếu nếu muốn hội nhập vào thế giới và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào mọi lãnh vực kinh te, văn hóa, xã hội cũng như quản lý hành chính. Đây là  một công cụ lợi hại của Nhà nước, đồng thời cũng là một con dao hai lưỡi. Người dân có thể truy cập mọi loại thông tin, kể cả nhưng thông tin bị bưng bít và bất cứ việc gì xảy ra trong nước cũng có thể nhanh chóng loan truyền ra khắp thế giới. Đây chính là một phương tiện tự do hóa, tiền đề của dân chủ hóa, tự nó dù muốn  hay  không, cũng hữu hiệu hơn nhiều so với những lời lẽ tuyên truyền của nhà nước hay luận điệu chống nhà nước.

 Sáng hôm sau chúng tôi dậy muộn và lập tức chuẩn bị đi tắm biển. Cô chủ khách sạn cho biết ở đây dân địa phương  đi tắm rất sớm, từ 5g sáng đến trước 7g  đã về nhà chuẩn bị đi học, đi làm. Sau đó ở bãi biển hầu hết là khách tây, nhất là gần trưa. Quả nhiên như vậy. Hơn 9 giớ chúng tôi ra biển, suốt một khoảng bãi cát dài trước các hàng quán, không có ai tắm cả. Càng tốt vì  chúng tôi không thích đông người. Chúng tôi vào một quán gởi xe, mua hai ly café và thuê một ghế nằm dưới dù. Thức ăn  sáng chúng tôi đã mua trong phố mang theo. Thế là đủ cho một buổi tắm thoải mái.

   BY thích tắm biển nhưng lại không biết bơi và sợ sóng nên chỉ dám cùng với tôi lội ra một chút rồi vào nằm chơi bên mép nước. Tôi ngược lại, bơi khá và không hề sợ biển. Bao giờ tôi cũng bơi ra xa một hai trăm mét với đủ kiểu bơi rồi quay vào nhảy sóng. Tôi may mắn trải qua  thời tuổi nhỏ của mình bên ba dòng sông: Sông Thạch Hãn ở Quảng Trị, sông Hương ở Huế và sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi. Tôi biết bơi một cách  hầu như tự nhiên. 12 tuổi tôi đã dám bơi qua sông Hương một mình. Thời sinh viên, trong một chuyến đi tắm biển ở Thuận An, tôi đã một mình bơi ra khơi và ở ngoài đó 4 tiếng đồng hồ. Bây giờ lớn tuổi tôi không thể bơi nhanh được nhưng nếu biển lặng tôi vẫn có thể ở ngoài đó bao lâu cũng được vì tôi có thể nằm trên mặt nước để nghỉ ngơi như nằm trên giường mà chỉ cần động đậy một chút hai bàn chân. Tôi  ngạc nhiên và  buồn vì thấy thanh niên hiện nay ít người biết bơi quá. Qua bao nhiêu bãi biển, tôi thấy phần lớn họ chỉ lẩn quẩn trong bờ đùa dỡn hay lúc nào cũng đeo cứng chiếc phao. Bơi một mình trên biển mới cảm nhận được hết sức mạnh và sự bao dung của biển cả, sự rộng lớn thăm thẳm của bầu trời cũng như năng lực tiềm ẩn vô hạn của con người khi hòa nhập vào vũ trụ. Đó là kinh nghiệm tâm linh quý gía cho một đời người.

Trong thời gian chúng tôi tắm, chỉ lác đác vài cặp khách tây xuống nhúng nước rồi lên nằm ghế đọc sách. Những người khác ngồi trong quán nhâm nhi ăn uống. Khi mặt trời bắt đầu gay gắt, chúng tôi ngưng tắm ra về. Tắm lại nước ngọt và thay quần áo xong, chúng tôi lấy xe chạy dọc theo đường bờ biển lần nữa vì chiều hôm qua mệt nhọc và mới chạy một quãng ngắn.

Con đường này có nhiều thay đổi. Các hàng quán phía bờ biển được xây dựng lại, sạch đẹp hơn. Gần về phía Cầu Đá có những khu trước đây để trống được xây dựng những công trình mới, phần lớn là nhà hàng, nhà nghỉ với hàng rào và hàng cây khép kín, có lẽ là những resort quản lý riêng một khoảng bờ biển. Phía bên kia từ viện Pasteur trở đi là khách sạn. Trước đây Hải Yến là khách sạn lớn và sang trọng nhất nhưng bây giờ trở nên nhỏ bé giữa rất nhiều khách sạn cao tầng hiện đại mới mọc lên. Một nhà biểu diễn nghệ thuật hoành tráng với hai hàng tượng chạy suốt hai mặt tiền nơi một ngã ba. Về phía gần Cầu Đá, nơi trước đây là bãi trống, nay nhà phố san sát, phần lớn 3, 4 tầng, có lẽ của tư nhân, chủ yếu cũng làm khách sạn, nhà nghỉ. Con đường này  có nét gần giống với con đường bờ biển Vũng Tàu, hình như dài đến 4,5 cây số.

   Chúng tôi ghé vào thăm dinh Bảo Đại ở gần cuối đường. Công trình này đã lâu lắm tôi có dịp ghé thăm một lần nhưng không có ấn tượng gì đặc biệt, lần này tôi dẫn BY đi xem kỹ hơn. Đây là một kiến trúc phúc hợp gồm nhiều công trình trên một núi  thấp nhô ra biển với lối vào xẻ dọc những phiến đá lớn. Dựa theo địa hình tự nhiên,các ngôi nhà được xây dựng trên các mỏm cao cách xa nhau, có đường trải nhựa chạy vòng quanh nối liền: gác nghinh phong, nhà ăn, nhà nghỉ, nhà khách, khu bảo vệ, đường xuống đội tàu phía cảng. Cả khu vực xanh  tươi với các loại cây bóng mát, cây cảnh các loai hoa qúy. Đúng là một khu nghỉ dưỡng đế vương.

Các chuyên gia xây dựng  của Bảo Đại quả có trình độ thiết kế cao và óc thẩm mỹ tinh tế khi chọn địa điểm và phong cách kiến trúc để xây dựng các dinh thự này. Dinh ở Đà Lạt mang vẻ  u nhã, sang trọng theo phong cách Pháp thời cổ. Dinh Ban Mê Thuột với các lọai cây gỗ rừng qúy hiếm cao lớn che phủ các nhà sàn phong cách  Tây nguyên. Ở đây cảnh quan rộng thoáng đón gió biển với các kiểu nhà đơn giản nhưng không kém phần thẩm mỹ.

  Dinh Bảo Đại Nha Trang cũng như các nơi khác, dùng làm nơi tham quan du lịch, nhà hàng, khách sạn, tổ chức hội nghị. Khi tôi đi vòng quanh gác nghinh phong, mấy công nhân vệ sinh, cả nam lẫn nữ, đang ngồi  bệt dưới mái hiên uống rượu đế với một đĩa nhắm gì đó. Thấy tôi nhìn, họ vui vẻ mời tôi ngồi xuống chơi. Họ nói ở đây trưa buồn quá không biết làm gì. Tôi cám ơn, từ chối đi tiếp và thầm nghĩ: Thời nào cũng vậy, chỉ có những người lao động nghèo là khổ. Ai ăn chơi hưởng thụ xa hoa còn họ cứ quần quật làm việc. Giờ phút rảnh rỗi hiếm hoi  đối với những công nhân kia có lẽ đã là hạnh phúc.

  Rời Dinh Bảo Đại, chúng tôi chạy tiếp đến Viện Hải Dương học và Cầu Cảng gần đó nhưng không ghé vào xem vì đã quá trưa. Chúng tôi quay lại khách sạn, đi ăn trưa gần đó rồi về nghỉ. Buổi sáng như thế là đủ.

   Buổi chiều chúng tôi chạy xem khu phố xá. Những khu phố cũ không thay đổi bao nhiêu nhưng nhiều khu phố mới ở phía Nam có  đường rộng hơn và nhà cửa hầu hết mới xây dựng. Hình như các tiệm dịch vụ Internet ở đây không nhiều lắm, rải rác đây đó chứ không tập trung. Chúng tôi cứ nghĩ một thành phố du lịch có nhiều khách nước ngoài như Nha Trang hẳn phải có nhiều dịch vụ loại này. Tối hôm qua, chúng tôi đến một tiệm Internet gần khách sạn, cùng với mấy khách nước ngoài, phải đợi đến hơn nửa tiếng mới có máy trống. Chúng tôi cũng đã chạy một vòng quanh đó nhưng không thấy tiệm nào khác mặc dù đây là khu tập trung các khách sạn.

  Chúng tôi cũng vào xem một ngôi nhà thờ đặc biệt, tôi quên hỏi tên, hình như người dân hay gọi là nhà thờ đá. Nhà thờ được xây dựng trên một ngọn đồi  đột xuất nhô lên giữa mặt  bằng thành phố, cạnh một ngã sáu. Lối vào đi từ phía sau chạy vòng quanh lên dốc mới tới cửa chính. Đây là một kiến trúc đồ sộ, nặng nề và cũ kỹ một cách cố ý vì không được sơn phết lại. Bên trong đồ thờ, tượng , bàn ghế kiểu rất cổ, phần lớn bằng gỗ nâu bóng. Không khí trên đây rất tĩnh mịch, trái ngược với phố xá ồn ào phía dưới. Có mấy người khách nước ngoài cũng vào tham quan.

               Khoảng gần 5g chiều, chúng tôi chạy ngang một rạp ciné, thấy đang quảng cáo phim “Gái Nhảy” bèn ghé vào xem luôn. Từ trước Tết, 2 phim “Người Mỹ Trầm Lặng” và “Gái Nhảy” được quảng cáo  rầm rộ ở Sài Gòn với số khán giả và doanh thu kỷ lục, báo chí bình luận nhiều nhưng chúng tôi chưa có dịp đi xem. Nay “Gái Nhảy” đang tấn công ra các tỉnh, thấy bà con đi xem  khá đông. Phim này do Ngụy Ngữ viết kịch bản, Lê Hoàng đạo diễn, hai diễn viên chính là Minh Thư và Mỹ Duyên. Phim mô tả cuộc sống của giới gái nhảy ở Sài Gòn lồng  vào chủ đề tuyên truyền chống Aids. Ngụy Ngữ  là nhà văn lính ở Miền Nam trước 75, nổi tiếng với truyện ngắn “Con thú tật nguyền” được chuyển thể thành phim do một đạo diễn Việt kiều dàn dựng sau 75. Hiện anh chuyên làm công việc viết kịch bản cho hãng phim Giải Phóng. Trước đây có thời gian Ngụy Ngữ cùng với Trần Minh Thảo ở chung với chúng tôi ở Bảo Lộc lúc anh đang là binh nhì đóng quân tại đó và chúng tôi cũng mới về dạy học ở Blao - thị trấn sương mù. Đã lâu lắm chúng tôi không gặp lại anh.

           Cũng đã lâu lắm chúng tôi mới được coi một phim Việt Nam thuộc loại hấp dẫn. Ưu điểm của phim là tiết tấu nhanh, hình ảnh đẹp, diễn viên đẹp, diễn xuất khá tốt, nhiều cảnh sôi động, khác với nhiều phim do các hãng phim nhà nước sản xuất chiếu hàng ngày trên TV, trong đó  đa số diễn viên  nói như đọc bài, chuyển cảnh chậm chạp, những màn đấm đá gỉa tạo đến khôi hài. Quá nhiều phim  lấy bối cảnh nông thôn nghèo nàn  bùn lầy nước đọng hay chuyện chiến tranh súng ống đùng đoàng, ca ngợi  chiến sĩ cách mạng, bôi nhọ Mỹ ngụy theo kiểu tuyên truyền cũ rich. Những phim đó chiếu “chùa” trên TV còn có người coi chứ chiếu rạp có khi chỉ được 3 khán giả ( như có lần báo chí nêu ). Cái cung cách lãnh đạo, chỉ đạo văn học nghệ thuật nặng mùi giáo điều chính trị còn lâu mới sản sinh ra được những tác phẩm xuất sắc. Hình như đã có lần cách đây 15 năm, rồi 5 năm, tôi đã có viết  đâu đó ý tương tự và tình hình đến nay vẫn không thay đổi mấy.

             Nghe khán giả chung quanh vừa xem vừa bình phẩm, thấy có hai ý nổi bật: Được coi nhiều màn hấp dẫn ở các vũ trường Sài Gòn. Được thấy mặt trái xấu xa của xã hội xa hoa phồn vinh giả tạo hiện nay. Theo chúng tôi ngoài những  ưu điểm nói trên, phim còn nhiều hạt sạn trong kịch bản và đạo diễn, nhiều tình tiết vô lý gượng ép trong mạch truyện, nhiều cảnh và cách diễn xuất quá cường điệu. Dù sao đây cũng là một phim đáng xem và tạo được sự thích thú, không đến nỗi xem “uổng mắt” như nhiều phim khác, nhất là lâu lắm chúng tôi mới có lại được cảm giác xem phim rạp.

                Xem phim ra, chúng tôi đến thăm Triệu Phong, một người bạn cũ. Triệu Phong trước 75 là sinh viên tranh đấu, nổi tiếng vì là một trong mười mấy sinh viên bị đưa ra Tòa án quân sự Mặt trận do họat động thân Cộng, sau đó anh “thóat ly tham gia cách mạng”. Anh làm thơ và được nhắc đến nhiều với bài “Bản hợp xướng giờ G”. Sau 75 anh công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Khánh Hòa và mới đây nghe nói chuyển sang Hội Văn nghệ. Đã khá lâu tôi chưa gặp anh.

Hồi trưa tôi gọi điện đến Hội Văn nghệ, người ta trả lời đã từ lâu anh không đến cơ quan và cho tôi số điện thọai ở nhà. Gọi về nhà, tôi kinh ngạc khi nghe anh nói anh bị tai biến mạch máu não, đã phải nằm nhà hơn hai năm nay.Tôi hẹn chiều nay sẽ đến thăm anh.

Anh vẫn ở căn nhà trên một đường phố nhỏ trước đây tôi đã có lần đến. Chúng tôi vẫn nghĩ anh bị tai biến mạch máu não chắc phải nằm trên giường nhưng lại ngạc nhiên lần nữa khi thấy anh đi ra đón chúng tôi tuy đi lại có vẻ khó khăn chậm chạp. Anh cho biết ban đầu anh bị liệt nửa người bên phải, tâp luyện bớt, lại liệt nửa người bên trái, sau đó lại liệt tòan thân một thời gian. Nhờ uống thuốc gia truyền gì đó và vợ anh tích cực chăm sóc xoa bóp, dần dần anh cử động đi lại được, tuy đi ra ngòai phải có người đi kèm. Anh bây giờ trở thành một ông già ốm yếu hom hem.

                Trước đây, Triệu Phong thuộc loại người hào hoa phong nhã, tính tình phóng khoáng, bạn bè nhiều nhưng bây giờ, sau hai năm bệnh tật, bạn bè thưa thớt dần rồi ít ai đến nữa. Anh chán ngán cho tình đời nên khi chúng tôi đến thăm anh rất vui. Vào năm 96, trước khi tôi bị quản chế, một “đồng chí văn nghệ” của tôi viết một bài trên báo Sàigòn Giải Phóng, đích danh tố cáo tôi là “phản bội tổ quốc, chống phá cách mạng, tay sai ngoại bang…” để dẫn đường dư luận cho việc xử lý tôi. Tôi có viết một bài trả lời gởi cho báo Sàigòn Giải Phóng, đồng thời gởi cho một số Hội Văn nghệ, trong đó có Hội Khánh Hòa - Nha Trang. Tôi hỏi Triệu Phong hồi đó anh và các bạn văn nghệ ở đây có đọc không và phản ứng thế nào. Anh cho biết lúc đó anh phụ trách văn phòng  Hội, nhận được anh đọc xong báo cáo cho các đồng chí lãnh đạo Hội, các đồng  chí này hốt hoảng bảo anh phải đốt ngay không được lộ ra ngoài. Đó là các “đồng chí văn nghệ” đã một thời ủng hộ Bùi Minh Quốc  và tôi trong chuyến đi xuyên Việt vận động dân chủ và đổi mới năm 1988.

              Anh cũng nhắc lại một chuyện cũ. Sau thời kỳ đổi mới, lúc anh đang làm ở Sở Văn Hóa Thông Tin, có ký giấy phép xuất bản cho mấy cuốn tiểu thuyết của Phạm Kim Anh, trong đó có cuốn “Đêm mờ sương “. Phạm Kim Anh là hội viên Hội Văn nghệ Lâm Đồng ở Đà Lạt nhưng có người em công tác ở Khánh Hòa lo việc xuất bản và hồi đó các sở Văn Hoá Thông Tin cũng được quyền cấp giấy phép xuất bản. Sau khi văn nghệ sĩ được  Tổng bí thư Đảng “cởi trói”, một số vùng lên viết tự do, thế là Nhà nước vội vàng trói lại. Trong một chiến dịch gọi là bài trừ văn hóa phẩm phản động và đồi trụy, tác phẩm của Phạm Kim Anh bị đưa vào danh sách. Anh bị bắt giam, khai trừ đảng, dù anh lúc đó mang quân hàm thiếu tá công an, hội viên hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Triệu Phong vì vụ đó cũng bị vạ lây, và suýt bị kỷ luật.

               Tác phẩm “Đêm mờ sương“ thực ra chỉ có vài đoạn hơi giật gân một chút, so với các cảnh trong phim “Gái nhảy” thua xa, nhất là trường đoạn hiếp dâm tập thể trên bãi biển Vũng Tàu, trong đó  chiếu rõ cận cảnh nạn nhân bị lột truồng đến tận quần lót và sau đó từng tên nhảy lên hành sự. Bộ phim này đang được hoan nghênh, trình  chiếu rộng rãi, được đánh gía như một bước đột phá, một bước ngoặc mở ra thời kỳ mới cho điện ảnh Việt nam trong việc đưa nghệ thuật đến với công chúng thời kỳ kinh tế thị trường. Tôi nghiệp cho Phạm Kim Anh. Anh đã mất từ mấy năm trước vì bệnh ung thư, không được chứng kiến và hưởng thành  quả đổi mới hôm nay.

               Trong lúc chúng tôi nói chuyện, vợ Triệu Phong bận dạy học trong nhà. Chị là giáo viên Anh văn cấp hai. Ngày nào chị cũng dạy kèm thêm cho học sinh ở nhà, có khi một ngày vài xuất, mỗi xuất chỉ vài em học sinh. Đó là cách duy nhất tăng thêm thu nhập để lo cho chồng bệnh tật và các con còn đang đi học. Dạy xong, chị ra ngồi góp chuyện với chồng.

              Mặc dù trứơc đây chưa biết chúng tôi, thấy chúng tôi nói chuyện với Triệu Phong có vẻ thân tình, chị bắt đầu bộc bạch tâm sự. Câu chuyện của chị thật cảm động. Chị chỉ lo gia đình và dạy học, ít biết về các mối quan hệ của chồng. Lúc còn hoạt động văn nghệ, Triệu Phong đi đây đó, dự  các trại sáng tác, quen biết văn nghệ sĩ khắp nơi. Có một nhà thơ nữ ở miền Bắc  yêu anh. Họ đã gặp nhau nhiều lần và thường xuyên thư từ cho nhau. Thời gian anh bị bệnh, không đến cơ quan được, cơ quan nhắn chị lên lấy thư từ và các vật dụng cá nhân của anh về. Chị phát hiện các  thư từ của nhà thơ nữ kia anh cất giữ ở cơ quan, trong đó các lá thư gần nhất trách móc anh sao không trả lời. Chị đọc xong rất buồn nhưng khi thấy chồng đau yếu và rất bi quan, chị quyết định đem xấp thư về cho anh  đọc và khuyến khích anh trả lời, mong anh sẽ tìm được niềm vui trong việc trao đổi thư từ này. Sau đó, có lần  nhà thơ nữ kia vào tận Nha Trang thăm anh và chị cũng tiếp đón rất bao dung  niềm nở.

            Triệu Phong sống và đi lại được nhờ chị. Sau khi điều trị theo tây y  không mấy hiệu quả, ai giới thiệu thuốc đông y, thuốc nam gia truyền gì hay bày cách xoa bóp bấm huyệt nào chị cũng thử. Cuối cùng chị đã tìm ra cách có hiệu quả và không quản khó nhọc tự mình điều trị cho chồng suốt cả  năm trời, anh mới khá dần và đi lại được như hiện nay.

              Trong khi chị kể chuyện, Triệu Phong lắng nghe đồng tình và tỏ vẻ biết ơn vợ. Anh nói chị là thầy thuốc anh hòan toàn tin tưởng tuyệt đối, chị cho gì anh cũng uống, bảo gì anh cũng làm.

              Từ giã vợ chồng Triệu Phong ra ngoài, BY nói với tôi: “44Đàn ông là vậy. Khỏe mạnh có tiền tha hồ đi chơi bời, không còn biết gì đến vợ. Đến lúc bệnh hoạn hay có chuyện gì chỉ có vợ  lo mà thôi. Số đàn bà thật khổ.” Tôi nói đùa : “ Thế đàn bà mới là vĩ đại. Hoan hô các bà vợ.” Đề tài này chúng tôi đã từng nói với nhau nhiều.              

Buổi tối chúng tôi đi uống café ở quán bên bờ biển. Uống café ở những nơi như thế này thú vị hơn các quán đèn mờ ngột ngạt và cả các quán café vườn ở Sàigòn. Gió mát, tiếng sóng ầm ì ngay dưới chân, biển và trời  mênh mông mơ hồ phía trước. Các quán ở đây phần lớn của các công  ty nhà nước có bãi để xe rộng, vào để tự do không cần gởi. Khác tây cũng nhiều bằng khách ta.

                 Chúng tôi chọn chỗ ngồi sát bờ biển nhất, ngay  bên ngoài là bãi cát. Bên cạnh chúng tôi có hai người đàn ông nước ngoài ngồi uống  bia với nhau. Lát sau một đám thanh thiếu niênViệt Nam ùa đến ngồi bên cạnh đùa dỡn, gạ bán mấy thứ gì đó. Một trong hai người  nước ngoài đứng dậy bỏ đi ra ngoài bãi cát, người kia ngồi tại chỗ lấy chiếc radio nhỏ mang theo  ra nghe nhưng vẫn bị mấy cậu thanh niên chọc phá, chèo kéo. Chúng tôi đoán  hai người đó là một cặp đồng tính luyến ái. Anh chàng kia tỏ ra ghen vì thấy các thanh niên Việt Nam thân mật với bạn mình.

             BY hỏi một cậu thanh niên ngồi cạnh  cậu ta bán gì. Cậu ta quay qua nói chuyện với chúng tôi và tự nhiên kể hết chuyện này đến chuyện kia rất cởi mở.

             Cậu và bọn bạn sống bám vào bãi biển này mười mấy năm rồi. Họ bán các tranh chép, tranh thêu lụa hay các đồ thủ công mỹ nghệ. Thời hoàng kim nhất mỗi ngày họ kiếm được hàng triệu đồng. Kiếm được bao nhiêu họ nướng vào sòng bạc hay vũ trường, không cần biết đến ngày mai. Một dạo công an tảo thanh, bắt nhốt vài ngày rồi phải thả vì không thể nhốt mãi được. Họ cứ bám các quán này và nói nếu công an không cho thì nuôi họ đi. Công an cũng phải chào thua.

         Có bạn của cậu được một bà Việt kiều lớn tuổi để mắt đến, kết hôn và bảo lãnh đi nước ngoài nhưng mỗi lần cậu đó về thăm chỉ đi một mình chứ không dám đi với bà kia vì sợ xấu hổ. Hình như trong số họ có  những người làm nghề bán dâm nam nhưng câu ta né tránh vấn đề đó khi bị gạn hỏi.

             Chúng tôi hỏi cậu nghĩ gì về tương lai, cậu nói mình không cần biết, sướng ngày nào hay ngày ấy, các bạn cậu cũng vậy. Nghe nói sắp tới nhà nước sẽ lấy lại mấy quán cho tư nhân thuê và tổ chức lại việc mua bán ở đây do nhà nước quản lý. Nhưng dù ai quản lý bọn cậu vẫn hành nghề ở đây kiếm sống. “Còn bãi biển này là còn sống được.” Cậu ta nói một câu chắc nịch khi chào từ giã chúng tôi để cùng các bạn kéo nhau đi chỗ khác.

                Cậu thanh niên này khá dễ thương và vui vẻ nhưng câu chuyện của  cậu và  các bạn làm chúng tôi rất buồn. Đất nước này còn bao nhiêu thanh niên sống không cần biết đến ngày mai như những thanh niên này?

                                               

 

 

 

3.

 

Chặng đường kế tiếp chúng tôi định đi từ Nha Trang đến Qui Nhơn, chỉ ghé qua  chứ không nghỉ lại Phú Yên. Chặng này trên bản đồ dài hơn 250 cây số, có nhiều đèo nên chúng tôi dự kiến  đi trong ngày chắc sẽ khá mệt. Do thời gian đầu còn khoẻ nên chúng tôi cứ đi, các chặng sau sẽ rút ngắn dần. Tuy vậy cần xuất phát sớm.

 6 giờ sáng chúng tôi đã trả phòng. Lại chạy thêm một khoảng đường bờ biển để hít thở không khí trong lành của biển lúc rạng đông trước khi rẽ vào khu phố chính qua cầu xóm Bóng, theo đường dẫn ra quốc lộ  1A (  đường này không trở lại Ngã Ba Thành trước khi vào Nha Trang từ trong Nam ra).   Chúng tôi dừng lại bên đường chụp hình Tháp Chàm PoNagar, tháp Chàm nổi tiếng nhất của Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung vì  là tháp lớn nhất và là nơi có lễ hội thờ Thiên Y Thánh Mẫu hàng năm. Nơi đây, hơn 30 năm trước, hồi mới về với nhau, chúng tôi đã đi chơi và chụp hình.

  Trên đường, các đèo Rù Rì, Rọ Tượng không gây ấn tượng gì đặc biệt vì quá ngắn. Từ Ninh Hòa, cách Nha Trang hơn 30 cây số về phía Bắc, đường bắt đầu xấu. Mặt đường ủi lên rồi để đó chưa làm tiếp nên bụi mù mịt, chúng tôi phải chạy rất chậm. Chạy khoảng hơn 50 cây số mới thấy một quán café bên đường tương đối rộng, mát mẻ để nghỉ ngơi và ăn sáng với bánh mì chúng tôi đã mua ở Nha Trang. Chạy tiếp 40 cây số nữa, chúng tôi đến Đại Lãnh một bãi biển nhỏ yên tĩnh bên đường. Đáng lý nghỉ ở đây nhưng vì không muốn vào bãi biển, nơi hình thành khu du lịch, phải qua một chiếc cầu nhỏ, gởi xe, mua vé phiền phức nên chúng tôi chạy thẳng lên đèo Cả để chụp hình và ngắm cảnh luôn.

 Đèo Cả không dài và cao bằng đèo Ngoạn Mục nhưng rất hùng vĩ, đường quanh co sát bờ biển, phía dưới là vực sâu, độ cao cách mặt biển lớn và cây rừng thâm u, gây cảm giác e sợ và choáng ngợp. Từng đoàn xe tải nối đuôi nhau, qua các khúc quanh  gặp xe ngược chiều dồn cứng, tôi phải nép sát vào lề và đứng hẳn lại. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Chỉ cần một xe tải lạc nhẹ tay lái là đủ hất chúng tôi xuống vực sâu. Chúng tôi dừng lại ba, bốn  chỗ trên đèo để chụp hình  nên mất nhiều thời gian, cũng để thay cho nghỉ ngơi luôn.

        Gần trưa chúng tôi đến thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Thị xã bắt đầu từ ven quốc lộ 1A, gần thắng cảnh Núi Nhạn, trải dài về hướng đông đến bờ biển khoảng 3 cây số. Đường phố Tuy Hòa rộng, thẳng và sạch sẽ. Người lái các loại xe chấp hành tín hiệu giao thông rất nghiêm chỉnh dù đường vắng.

       Dọc bờ biển, một con đường mới mở rộng và rất dài, chúng tôi chạy khoảng vài cây số vẫn chưa hết nên quay lại. Cách con đường  một rừng dương liễu hẹp có thể thấy sóng  vỗ ngoài kia chỉ xa khoảng hơn 100 mét. Dưới rừng dương  liễu, các hàng quán thưa thớt có lẽ mới mọc lên, xây dựng còn tạm bợ, phần lớn vách gỗ mái lá, thỉnh thoảng mới có một nhà gạch  đàng hoàng. Chúng tôi chọn một quán có võng dưới hàng dương để vào nghỉ.

   Tôi đi ra bãi cát nhìn dọc theo bờ biển dài ngút mắt. Một bãi biển sạch và tuyệt đẹp không thua gì Nha Trang, Mũi Né hay Vũng Tàu, nếu không nói là sạch đẹp hơn. Tuy nhiên bãi biển này lại ít khách và không nổi tiếng. Nguyên nhân có lẽ do vị trí địa lý. Nha Trang và Vũng Tàu là 2 thành phố du lịch biển lâu đời. Mũi Né mới nổi lên do cảnh biển còn hoang sơ, được đầu tư tốt nhưng cũng còn do vị trí nằm ở giữa khu tam giác du lịch Sàigòn - Nha Trang - Đà Lạt, thuận tiện cho việc tổ chức các tour du lịch, nhất là cho khách nước ngoài.

   Trời nóng, đã chạy hơn 120 cây số, chúng tôi rất muốn tắm nhưng đành chịu vì quán không có phòng thay đồ và tắm  nước ngọt. BY hỏi thăm mấy quán gần đó, có nơi  tắm được nhưng với điều kiện phải “nhậu” mà chúng tôi không muốn nhậu vào lúc này. Ngay cả cơm trưa bình thường cũng không có. Đành phải ăn qua quýt mấy thứ mang theo, uống nước dừa rồi nằm võng nghỉ.

   Đoạn đường tiếp theo  tiếp tục xấu. Cứ một quãng đường nhựa lại đến một quãng đường đất hay đang rải đá, bụi mờ mịt. Phần lớn các cầu đều đang thời kỳ làm lại, phải chạy qua cầu tạm. Đi du lịch  mà cứ gặp đường kiểu này cũng nản. May đến gần Qui Nhơn thì thoát nạn. Ở một ngã ba, một bảng chỉ đường cho thấy một con đường rẽ phải chạy vào thành phố Quy Nhơn cách 30 cây số. Hỏi thăm mấy người lái xe ôm đứng đó, họ bảo đây là con đường mới mở để vào thành phố, khỏi đi qua đèo Cù Mông nguy hiểm trên quốc lộ 1A.

  Sau bao nhiêu dằn xóc, quãng đường trước mắt thật tuyệt vời.  Đường nhựa láng mới tinh thẳng tắp giữa hai bờ cát rộng, ít xe nên có thể phóng tới 70, 80 cây số / giờ. Gần tới thành phố, đường bắt đầu vào đèo. Đèo cao quanh co, đường rộng, ít khúc ngoặt nguy hiểm nên vẫn có thể chạy với tốc độ cao. Chúng tôi dừng lại một nơi giữa đèo có đề bảng “Bãi Bằng”. Một con đường dốc nhỏ dẫn xuống  một bãi biển xinh xắn rợp bóng cây với vài hàng quán không sang trọng nhưng rộng rãi, lịch sự. Chúng tôi đứng ngắm cảnh, nói chuyện với cô chủ quán một lúc rồi tiếp tục đi. Dọc đèo, lại  gặp một “ Bãi Dâu” và một bãi gì đó nữa, là những bãi tắm đã được đầu tư xây dựng, có lẽ cũng tương tự như “ Bãi Bằng”. Sau khi vào Quy Nhơn rồi chúng tôi mới thấy các bãi ở đây đẹp hơn bãi biển ở thành phố nhiều và tiếc là đã không nghỉ đêm ở đây.

Cũng như ở Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang, Phú Yên, các thành phố ở ven bờ biển, Quy Nhơn cũng có một con đường dài dọc bãi biển, tuy không đẹp bằng. Các khách sạn dọc đường này cũng thuộc loại đắt tiền, sang trọng và chúng tôi phải vào trong phố, hỏi thăm tìm mãi mới có một chỗ nghỉ vùa túi tiền của mình, tuy không ưng ý vì căn phòng hơi ẩm mốc.

Tắm rửa, nghỉ ngơi và đi ăn tối xong, chúng tôi về khách sạn gọi điện thoại cho Lê Gành và Lê Văn Ngăn, hai người bạn cũ nhưng không thân lắm. Cả hai đều là nhà thơ và là thành viên của nhóm Việt, nhóm văn nghệ do tôi tham gia sáng lập từ năm 1965 ở Đại học Huế. Lê Gành trước làm Trưởng Đài Phát Thanh nay nghe nói chuyển sang làm tờ báo của tỉnh, không rõ chức vụ gì. Lê  văn Ngăn đang chuẩn bị nghỉ hưu, trước đó là Phó chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Định. Hai người đều là đảng viên cộng sản và đã lâu tôi không gặp họ.

Tuy đã 9giờ đêm, hai người rủ  nhau đến gặp chúng tôi ngay. Họ mời chúng tôi đi uống bia ở một quán gần khách sạn. Chúng tôi hỏi thăm nhau về gia đình và tin tức các bạn bè cũ. Nhắc lại chuyến đi của Bùi Minh Quốc  và tôi năm 1988, Lê Gành nói anh  rất trọng chúng tôi nhưng không tán thành cách làm đó. Tôi trả lời mỗi người có cách nghĩ và lựa chọn của mình, tôi cũng tôn trọng thái độ và quyết định của các bạn. Chúng tôi chỉ nói qua chứ không đi sâu vào việc này. Lê Văn Ngăn nói chuyện vui linh tinh. Hai người còn nhiệt tình lấy điện thoại di động gọi cho các bạn ở Huế để tôi nói chuyện và hẹn gặp khi chúng tôi ra đó. Thật không gì vui khi đến đâu cũng gặp bạn bè. 11 giờ đêm chúng tôi chia tay.

 Sáng hôm sau, chúng tôi ra bờ biển uống café ăn sáng trước khi rời Quy Nhơn. Bãi biển không mấy sạch, cát màu vàng bẩn, dọc về phía Gành Ráng vô số tàu thuyền neo đậu. BY muốn tắm nhưng tôi ngăn cản, sợ mất thời gian vì còn về chuẩn bị đi. Quãng đường kế tiếp  Quy Nhơn- Quảng Ngãi 175 cây số nghe nói là quãng đường tệ hại nhất miền Trung hiện nay. BY đành nghe lời tôi.

          

 

4.

 

 

  Bình Định, Quy Nhơn là nơi thuở bé BY đã cùng gia đình sống vài năm vì theo bố là lính thay đổi đơn vị đóng quân. Tối hôm qua tôi đưa BY đến con đường phố cũ ở Quy Nhơn, BY chỉ còn nhận ra được ngôi  chùa gần nhà còn phố xá đã thay đổi hoàn toàn. Sáng nay trên đường đi, chúng tôi chú ý tìm Phù Cát cũng là nơi BY đã từng ở nhưng chạy qua rồi chúng tôi vẫn không hay vì trên đường không có bảng  ghi tên thị trấn trong khi những  địa danh khác lại ghi rất rõ.

    Chặng  đường này chạy quá mệt. Không hiểu người ta làm đường kiểu gì. Cứ cày lên hay rải  đá sơ sài rồi để đó. Lại cứ làm từng khúc, từng khúc. Vậy mà chúng tôi đọc báo biết quốc lộ 1A đã được sửa chữa từ nhiều năm trước với số tiền rất lớn được viện trợ và vay của nước ngoài. Quả thật đường từ Phú Yên trở vào Sàigòn cũng như các đường Sàigòn - Cần Thơ, Sàigòn- Vũng Tàu rất tốt, chạy vài trăm cây số không hề gặp một ổ gà, nhưng “khúc ruột miền Trung” này sao lại bị bỏ rơi thảm hại thế. Dân miền Trung đã khổ nhiều thứ còn khổ thêm vì nạn bụi mù. Lại  còn điều lạ là dọc đường này rất nhiều vùng trồng dừa, như Tam Quan - xứ dừa nổi tiếng nhưng chúng tôi không tìm ra một quán bán dừa,lại chỉ bán toàn các loại nước ngọt có gaz, những thứ chúng tôi không uống được, đành phải uống nước suối mang theo.

Chạy tới Sa Huỳnh, cách thị xã Quãng Ngãi 60 cây số về phía Nam, chúng tôi dùng lại ăn trưa và nghỉ ngơi. Ở đây ngay bên đường có một bãi tắm và tỉnh đã xây dựng khu du lịch Sa Huỳnh từ lâu.

Trước cổng khu du lịch có một bảng lớn ghi chữ “Sa Huỳnh Hotel & Restaurant” với số điện thoại và số fax, bên dưới có phù điêu hình một chiếc muỗm và một chiếc nĩa chéo nhau. Cũng ngộ! Bên trong cổng, một bảng lớn khác ghi “Bản đồ quy họach chi tiết khu du lịch Sa Huỳnh” với sơ đồ và chú giải mấy chục hạng mục công trình. Chúng tôi chạy xe vào trong: Một bãi biển nhỏ vắng người. Bên trên vài công trình gồm nhà ăn, dãy phòng trọ và mấy nhà chòi sát biển… Chỉ có thế. Nhiều hạng mục công trình khác chưa được thực hiện. Tuy nhiên toàn khu vực phủ bóng dừa và dương liễu xanh mát.

Đã quá mệt, quãng đường còn  lại không xa, nên dù quen tiết kiệm, BY cũng đồng ý thuê phòng nghỉ lại buổi trưa và tắm biển. Có lẽ ít khách nên  các cô tiếp tân đi ngủ, gọi mãi mới có mấy cô chạy ra. Tiền phòng 60.000đ cho một buổi ban ngày. Phòng đơn giản nhưng rộng rãi, hai giường, có quạt máy, phòng tắm có vòi hoa sen. Thế là đạt yêu cầu.

Chúng tôi tắm sơ nước ngọt, ngủ một giấc, rồi mới ra tắm biển. Chỉ có hai chúng tôi tắm. Trên bờ, trong một nhà chòi, một đám thanh niên có lẽ là dân địa phương ngồi nhậu lai rai, cười nói ầm ĩ. Buổi chiều ở đâu biển cũng sóng lớn nhưng BY chỉ được nhúng nước và ngồi trên bãi cũng thích thú rôi. Tôi hơi mệt nên chỉ bơi một đoạn ngắn, nhảy sóng một lúc rồi lên bờ nằm nghỉ.

Buổi tắm và nghỉ ngơi giúp chúng tôi lại sức. Ỷ y quãng đường còn lại không xa, 5giờ chiều chúng tôi mới lên đường, hi vọng sẽ đến thị xã trước trời tối. Chúng tôi đã lầm. Đường tiếp tục rất xấu nên khi trời sụp tối phải bật đèn xe, chúng tôi vẫn còn cách thị xã đến gần 30 cây số. Chúng tôi đã vi phạm nguyên tắc tự mình đề ra là không chạy xe ban đêm. Đúng là nguy hiểm. Các xe tải, xe đò lớn giờ này lại chạy rất nhiều, chói đèn vào mặt làm tôi không thấy gì cả. Tôi phải giảm tốc độ còn 20 cây số / giờ và mãi đến tận 8 giờ tối chúng tôi mới đến thị xã.

 Về Quảng Ngãi chúng tôi không lo chuyện tìm chỗ trọ. Đây là nơi gia đình  thầy mẹ tôi đã sống trước đây, hiện vẫn còn căn nhà và em gái tôi - Cẩm Thạch đang ở. Tôi cũng  đã học 7 năm trung học ở trường Trần Quốc Tuấn nơi đây, trước khi ra Huế học đại học. Vì đã được báo trước, Cẩm Thạch đang sốt ruột chờ chúng tôi với một bữa cơm tối thịnh soạn.

Sáng hôm sau, Cẩm Thạch rủ chúng tôi đi uống café ở quán vườn rồi đi biển Mỹ Khê. Hệ thống quán café vườn ở đây làm chúng tôi kinh ngạc. Đi về hướng tây  nam của thị xã, từ một đường phố lớn rẽ vào con hẻm nhỏ, ngoằn ngoèo, trong đó có rất nhiều quán café. Quán nào cũng rộng từ vài trăm đến cả ngàn mét vuông, cây cối xanh tươi, trang trí đủ kiểu hoa lá cành. Cẩm Thạch giải thích trước đây khu vực này là vườn và ruộng, sau khi thị xã mở rộng, đất lên giá và dân cư tự nhiên giàu có lên. Mở quán café vườn thành phong trào. Người ta thuê cả kiến trúc sư từ Sàigòn ra thiết kế  xây dựng vườn đàng hoàng chứ không phải làm ẩu.

Cẩm Thạch  dẫn chúng tôi vào một quán tiêu biểu. Trong khu vườn rộng rợp bóng mát, có nhà sàn lớn ở giữa  trang trí các tượng gỗ và giò phong lan. Chung quanh rải rác có các lều tranh và các chỗ ngồi bên cạnh bồn hoa, khóm trúc hay hòn non bộ. Tôi uống café phin đen, chiếc tách lịch sự và hương vị đậm đà thơm ngon. Dân Quảng Ngãi kể cũng sành điệu. Khác với hôm ở bãi biển Quy Nhơn, gọi café đen, người ta mang ra lột ly cối pha sẵn loãng phệch. Còn ở công viên Cần Thơ dạo nào, café rẻ nhất nước, chỉ có một ngàn rưỡi một tách, nhưng nhạt thếch và chẳng mùi mẽ gì cả.

Uống café xong, chúng tôi về nhà lấy đồ đi bãi biển. Qua cầu Trà Khúc rẽ phải, đi ngang núi Ấn ( người Quảng Ngãi tự hào gọi là “Thiên Ấn niêm hà”, nơi có ngôi chùa xưa và mộ Huỳnh Thúc Kháng),  theo con đường  nhỏ chạy dọc bờ sông 10 cây số, chúng tôi đến bãi biển Mỹ Khê. Con đường này thời còn đi học tôi và các bạn vẫn đi chơi bằng xe đạp, đường đất, dân cư  nghèo nàn, thưa thớt. Bây giờ đường đã được tráng nhựa , nhà cửa hàng quán bên đường đông đúc. Có lẽ khu vực này được nhà nước chú ý đầu tư vì có khu di tích Mỹ Lai, và cảng biển mới mở.

Bãi biển Mỹ Khê là một vòng cung lặng sóng, phía Bắc chạy dài đến mũi Ba Làng An nhô ra biển. Bãi này dễ tắm cho người không biết bơi  vì thoai thoải ra xa đến trăm mét vẫn còn đứng được. Bãi tương đối sạch, cát vàng khá mịn. Các hàng quán chỉ là những dãy nhà dài cột gỗ, lợp bạt, chia ra thành lô cho từng  chủ quán, đánh số 1,2,3… Thức ăn biển ở đây tươi ngon nhưng khá đắt, không thua gì các nơi khác, tuy chỉ là một bãi nhỏ, ít khách du lịch, phục vụ cho dân địa phương là chính. Tuy vậy, theo chủ quán nơi chúng tôi ngồi, ngày nào cũng  có khách lai rai và đến  những ngày nghỉ, lễ tết, khách từ thị xã về rất đông.

 Chúng tôi ngồi đến gần chiều mới về, trên đường ghé vào tham quan khu  chứng tích Sơn Mỹ, ngay cạnh đường, nơi cách thị xã khoảng 5 cây số. Khu chứng tích này rộng khoảng 1 ha, được xây dựng ngay trên địa điểm năm xưa xảy ra thảm kịch, nơi có 504 người dân bị lính Mỹ giết chỉ trong một trận càn. Sự kiện này do chính những người lính Mỹ tố cáo và góp phần đưa ra công luận đã trở thành một vụ chấn động cả nước Mỹ và toàn thế giới.

Lối vào khu chứng tích trải đá giữa hai hàng dương liễu thấp cắt tỉa đều đặn dẫn đến một tượng đài lớn màu trắng: Một phụ nữ tay bế xác con, tay kia đưa lên trời thét căm hờn, dưới chân một phụ nữ khác đang ôm một cụ gìa hấp hối và một người đàn ông nằm gục dưới chân cụ gìa. Bên trái là dãy nhà trưng bày các chứng tích. Bên phải là con mương nơi hơn 200 người bị dồn xuống bắn chết. Phía sau và rải rác đây đó có các căn nhà tượng trưng ghi dấu  nơi từng là ngôi nhà của người dân trong làng đã bị thảm sát, ghi rõ số lượng và tên họ từng người. Ngoài vài cây cổ thụ còn sót lại, toàn khu được trồng dừa và dương liễu với bãi cỏ xanh bên dưới. Trứơc nhà trưng bày chứng tích là một vườn hoa nhỏ có ghế đá cho khách tham quan ngồi nghỉ. Nhìn chung toàn cảnh có vẻ  xanh mát, êm đềm  nếu không đọc những câu chú giải về tội ác đã xảy ra và nhất là câu khẩu hiệu lớn ghi trên nhà trưng bày: “Mãi mãi khắc sâu lòng căm thù giặc Mỹ xâm lược.”

Trong khi BY, Cẩm Thạch cùng một đoàn khách mới vào đi xem kỹ từng  chứng tích trong nhà trưng bày, tôi chỉ đi lướt qua và ra ngồi trên ghế đá ở vườn bên ngòai suy ngẫm. Những chứng tích đó tôi đã từng thấy, từng biết, từng đọc và bây giờ tôi không muốn xem lại nữa. Tôi kinh sợ và lên án tội ác, nhất là tội ác giết người, lại là giết người hàng loạt, những thường dân không có khả năng tự vệ. Đây là một tội ác điển hình nhưng không phải là tội ác duy nhất trong cuộc chiến đã qua. Vụ tàn sát này xảy ra sau biến cố Mậu Thân 1968. Tôi liên tưởng đến những tội ác giết người khác, từ cả hai phía của chiến tranh, từ những lời cao rao chính nghĩa với những mồ chôn tập thể, những xác người tan nát, què cụt, sâu hoắm vết thương.

Tôi nghĩ khi lịch sử đi qua, các phe tham chiến và những người trong cuộc, những người dân thường không nên mãi mãi ghi khắc lòng căm thù mà nên phản tỉnh, sám hối và cả thao thức, bao dung để xây dựng một tương lai không bao giờ còn có chiến tranh.

Buổi tối, Cẩm Thạch dẫn chúng tôi đi ăn cơm hến, có hương vị gần giống món “ doong” đặc biệt của Quảng Ngãi. Chúng tôi cũng vào một tiệm dịch vụ Internet lớn có khoảng 30 máy, phần  đông  khách hàng là học sinh vào chat, chơi game ầm ĩ. Rải rác một số đường phố có loại tiệm này phản ánh nhu cầu có mức độ của người dân ở đây.

 Ở Quảng Ngãi chúng tôi không đi thăm ai. Người bạn thân duy nhất của tôi ở đây - Huỳnh Châm, bạn từ thời trung học, học chung lớp ở đại học, nổi tiếng học giỏi, đã qua đời mấy năm trước vì bệnh ung thư. Các bạn thân khác thuở nhỏ đã ra đi mỗi người một phương. Tôi cũng  quen một số người trong Hội Văn nghệ tỉnh nhưng không cảm thấy hứng thú đến thăm, vả lại thời gian quá ít.

   Ngày mai chúng tôi sẽ lại tiếp tục lên đường .

                                              

 

                                                  ¨     ¨     ¨

                                             ¨    ¨

                                                              ¨ 

 

 

5.

 

   Từ Quảng Ngãi trở ra, đường tương đối tốt, chỉ trừ một vài vùng trũng bị ngập nước vào mùa mưa lũ làm hư đường, còn lại đường tốt như ở trong nam nhưng có phần hẹp hơn. Tấm bảng “căn cứ Chu Lai” trên chiếc cổng lớn bằng sắt hoen rỉ từ thời trước 75 nơi đóng quân của lính Mỹ ngày xưa là một dấu vết hiếm hoi còn sót lại. Vùng này là trảng cát, còn khá hoang vắng tuy rẽ về phía đông ra bờ biển là khu công nghiệp Dung Quất lớn đang  hình thành nhưng từ ngoài quốc lộ 1A chẳng nhìn thấy gì.

Chặng đường Quảng Ngãi – Đà Nẵng chỉ có 120 cây số nên chúng tôi không có gì phải vội.  Qua Tam Kỳ, ( xưa thuộc tỉnh Quảng Tín, mới đây trở thành thị xã của tỉnh Quảng Nam sau khi Đà Nẵng tách thành thành phố trực thuộc Trung Ương ) tôi chạy chầm chậm  tìm Chùa Tỉnh Độ để ghé vào thăm. Đây là nơi có  một kỷ niệm khó quên trong đời sinh viên của tôi. Năm 1966 tôi làm đoàn trưởng Đoàn 3 Sinh viên Quyết tử của phong trào đấu tranh của sinh viên Đại Học Huế, dẫn hơn 100 sinh viên vào đóng quân ở chùa này để hỗ trợ cho phong trào tranh đấu tại chỗ. Chúng tôi đã ở đây gần một tháng, đã tạo ra một sinh khí mới và có lẽ cũng để  lại một ấn tượng khó quên cho  người dân ở thị xã hiền hòa này.

Thời gian ở  trong chùa, điều làm tôi cảm động nhất  ngoài việc bà con chăm sóc chuyện ăn uống, là những đêm ngủ ở chùa. Mùa hè, trời nóng, sinh viên nằm la liệt trên sàn chính điện. Sáng sớm, các thầy dậy tụng kinh làm lễ trong khi sinh viên vẫn ngủ. Tôi cảm nhận rõ nhất sự từ bi, và phóng khoáng của đạo Phật không phải qua kinh sách hay bài thuyết giảng mà chính là lúc nằm lơ mơ ngủ nghe tiếng chuông mõ và tụng kinh trong chính điện này, một khung cảnh nửa hư nửa thực và bình yên lạ lùng trong thời tao loạn.

Chùa nằm trong hẻm cách đường quốc lộ 1A khoảng 50 mét. Hình như chiếc cổng lớn với ba chữ Hán “Tinh Độ Môn” và  ngôi chính điện với bực thềm cao phía trước vẫn như xưa. Trong sân chùa rộng dưới gốc cổ thụ cao lớn rợp bóng mát, một nhóm người đang làm việc, trộn hồ, bẻ sắt hình như để xây dựng  mấy chiếc tháp và công trình mới gì đó phía bên hông chùa. Tôi chào họ và hỏi thăm, nhắc lại chuyện xưa, mấy người già trong số họ từ lâu ở đây vẫn còn nhớ. Thế mà đã gần 40 năm. Biết bao nhiêu dâu biển. Một thoáng ghé qua đây làm tôi bồi hồi nhớ lại thời trẻ tuổi của mình. Sống như thế mới thật là đáng sống. Tôi đề nghị chụp chung vớo họ một tấm ảnh, họ vui vẻ nhận lời.

Rời Tam Kỳ, chúng tôi quyết định rẽ qua thị xã Hội An trước khi ra Đà Nẵng để sau này khỏi trở lại. Từ quốc lộ 1A rẽ phải chạy khoảng 20 cây số về phía đông đến một ngã ba, có bảng đề “Nội thị Hội An”. Bên trong lề đường, trên một bệ xi măng người ta dựng một công trình điêu khắc bằng gỗ có mái che, hình như là biểu tượng của thị xã với hình một đồng tiền cổ ở giữa.

Vào trung tâm thị xã, chưa biết khu phố cổ ở hướng nào, chúng tôi chạy lòng vòng tìm chỗ nghỉ, ăn trưa trước khi đi tham quan. Chúng tôi ghé vào một quán sạch sẽ yên tĩnh trên con đường phố hẹp gần ngã ba. Quán này mới xây dựng nhưng phần  trước ốp gỗ mầu nâu cho có vẻ cổ. Bàn ghế bên trong và cả mấy bộ đặt ngoài thềm dưới bóng cây đều bằng gỗ, kiểu dáng đơn giản và thanh nhã. Sát tường là một dàn máy vi tính để truy cập Internet. Trước quán treo 7 chiếc lồng đèn kiểu dáng và mầu sắc khác nhau. Quán không có tên riêng, bảng hiệu đề “Quán ăn 62. Café -  Breakfast - Lunch- Dinner”. Chúng tôi hỏi thăm, cô chủ quán nói hiện nay các quán tương tự mở ra rất nhiều. Rõ ràng  loại quán này nhằm phục vụ khách du lịch nước ngoài và dân cư ở đây cũng hiện đại hóa rất nhanh với việc tiếp đón khách du lịch bốn phương từ khi Hội An được Unesco công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

Chúng tôi gọi món cao lầu, một đặc sản của Hội An. Cô chủ giới thiệu sợi bánh của món ăn này do một cơ sở sản xuất làm với nước của một cái giếng đặc biệt duy nhất ở Hội An nên tất ngon. Giếng này hiện nay do nhà nước độc quyền quản lý. Tuy vậy chúng tôi ăn  thấy không có gì đặc biệt lắm. Cô em Cẩm Thạch của tôi ở Quảng Ngãi đã ra đây nhiều lần có dặn chúng tôi phải ăn cao lầu ở mấy quán  bình dân nào đó vừa ngon, vừa rẻ, đúng vị cao lầu truyền thống nhưng chúng tôi không biết quán đó ở đâu. Dù sao chúng tôi cũng đã  đến Hội An, ăn cao lầu tại chỗ, khi về cũng có thể nói dóc với thiên hạ được rồi.

Ngoài đường khách tây lác đác đi qua. Cô chủ thấy ai cũng chạy ra chào mời bằng tiếng Anh. Hai cô gái rất xinh vào ngồi cạnh chúng tôi. Hỏi chuyện xã giao, hai cô cho biết là người Đức, lần đấu tiên đến Việt Nam. Thấy xe chúng tôi chất đồ đặc lỉnh kỉnh, họ hỏi chúng tôi đi từ đâu, khi biết chúng tôi chạy từ Sàigòn ra, và sẽ tiếp tục đi đến Hà Nội, họ có vẻ rất ngạc nhiên và thán phục.

Nghỉ ngơi xong chúng tôi hỏi thăm đường đi đến khu phố cổ, hóa ra ngay gần đó, là mấy con đường nhỏ song song bờ sông. Muốn thấy, hiểu rõ thế nào là nhà cổ ở đây, phải đi bộ và vào xem tận nhà, có nhà phải mua vé tham quan. Chúng tôi chạy xe trên mấy  đường hẹp, nhà thấp, nhiều mái ngói rêu phong và hầu hết các nhà đều có bán đồ lưu niệm hay hàng hóa gì đó. Nhiều nhà đáng vào xem nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian vì phải ra Đà Nẵng trong ngày.

Một trong những điểm tham quan đáng chú ý ở đây là chùa Cầu, một kiến trúc do người Nhật xây dựng cách nay mấy thế kỷ. Chùa xây trên chiếc cầu  chừng mươi mét bắc qua con sông nhỏ nước đục, chảy ra sông Hoài gần đó. Chùa có ba mái ngói hẹp tương ứng với các trụ cầu phía dưới, một phía để trống có  lan can nhìn ra sông. Hai đầu cầu là hai cửa chùa, có bậc chắn không cho xe qua lại dẫn ra hai con đường phố cổ. Chùa thấp và tối, hai đoàn du khách tây đứng dày đặc nghe thuyết minh, một đoàn nghe tiếng Anh, đoàn kia nghe tiếng Pháp. Một đoàn khách Nhật đi xe xích lô chạy hàng một vừa đậu lại bên ngoài.

Chúng tôi chụp hình chùa Cầu rồi chạy ra sông Hoài, nơi có cầu lớn bắc qua sông. Dọc hai bên bờ sông có mấy quán rộng, khách ngồi ăn uống khá đông vì nơi này mát và thoáng đãng. Chúng tôi tiếc đã không biết nơi này trước.

Trên một số đường cổ, đèn lồng đủ kiểu treo thành dãy trước mỗi nhà đem lại một phong cách thi vị riêng. Tuy nhiên  những hàng cờ đỏ và các băng rôn khẩu hiệu vải đỏ cắm dọc đường để cổ động cho một chiến dịch hay ngày lễ gì đó do chính quyền phát động lại rất chỏi với khung cảnh cổ kính, mầu nâu hay đen trầm của các dãy phố này. Hình như người ta chưa chú ý đến sự hòa hợp thẩm mỹ ở đây vì  quá chú trọng  khía cạnh chính trị. Tôi nghĩ gía trị văn hóa tự thân nói lên tất cả, không cần khoác vào chiếc áo chính trị. Sự áp đặt chính trị một cách thô thiển lại tạo ra khiên cưỡng, không tăng thêm mà còn làm giảm gía trị của văn hóa.

Xế chiều chúng tôi từ gĩa Hội An đi Đà Nẵng theo một con đường mới mở ( không trở lại đường cũ ra quốc lộ 1A) chạy qua khu đô  thị mới Điện Ngọc và thắng cảnh Ngũ Hành Sơn. Đường này vào Đà Nẵng từ phía Nam, tiếp giáp với một đại lộ cũng mới mở với bốn làn xe và hai dãy nhà phố mới. Tất cả còn bụi bặm, nhiều đoạn lề đường, cống chưa làm xong, nhà xây dựng dở dang nhưng con đường này hứa hẹn sẽ trở thành một đại lộ hiện đại. Đại lộ này chạy dọc hữu ngạn sông Hàn, có đường rẽ vào cầu Trịnh Minh Thế cũ và cầu Quay mới xây dựng bắc qua sông để vào trung tâm thành phố.

Chúng tôi qua cầu Quay, chiếc cầu xây dựng theo kỹ thuật hiện đại với những nhịp ở giữa rời, có dây văng có thể quay dọc mở cầu cho tàu lớn qua lại không bị vướng. Công trình này là một niềm tự hào của cư dân Đà Nẵng. Qua cầu, rẽ phải, chạy dọc theo con đường Trần Phú song song với đường bờ sông Bạch Đằng, chúng tôi  gặp may vì tìm ngay được khách sạn ưng ý, gía cả khá bình dân, không phải chạy lòng vòng mệt mỏi như một vài nới khác.

Buổi tối tôi gọi điện thoại tìm Đông Trình, bạn học cùng ban Việt  văn, Đại học Sư Phạm Huế, cũng là thành viên sáng lập nhóm Việt. Từ thời sinh viên Đông Trình đã là nhà thơ phản chiến, thiên tả. Sau khi ra trường, dạy học ở đây, anh tham gia hoạt động cách mạng. Anh không là đảng viên nhưng rất  nhiều học trò anh là đảng viên cộng sản. Sau 75 anh được coi như một  trong những trí thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu của miền Nam ủng hộ cách mạng, được đưa vào ban lãnh đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, Hội Văn học nghệ thuật của tỉnh, kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, được đưa đi tham quan các nước xã hội chủ nghĩa.

Từ trước 75 anh đã có nhiều bài thơ nổi tiếng như Hoa đã hướng dương, Tiếng đàn bầu…Tôi thích thơ của Đông Trình hơn nhiều bạn khác trong nhóm Việt vì ngoài ý tưởng độc đáo, nghệ thuật thơ anh điêu luyện, âm điệu lôi cuốn, hào sảng, nhất là loại thơ 7 chữ. Anh sáng tác nhiều, cho đến nay đã có 5,7 tập thơ được xuất bản.

Sau này tôi nghe nói nhiều người không thích anh vì anh hơi kiêu ngạo và” tả” trong cách sống, quan hệ với bạn bè cũ. Gia đình anh con đông, kinh tế khó khăn, gặp nhiều chuyện buồn. Vợ anh bị tâm thần, mất  trong một tai nạn bi thảm. Con gái lớn của anh cũng bị tâm thần. Mấy chục năm qua anh và tôi ít gặp nhau nhưng vẫn có sự cảm thông và giữ được thân tình xưa.

Đông Trình trả lời điện thoại. Tôi kinh ngạc khi nghe anh nói mấy năm nay anh bị bệnh nhũn não, thường xuyên bị choáng váng, ít  khi ra ngoài nên không đến gặp chúng tôi được. Tôi nói vậy thì sáng mai chúng tôi sẽ đến thăm anh.  Tuy vậy khoảng nửa giờ sau anh gọi lại, hỏi rõ địa chỉ khách sạn và báo sẽ đến gặp chúng tôi ngay.

Cứ tưởng phải có người chở đến nhưng anh lại đi honda một mình.  Vẫn dáng người thấp lùn, cặp kính cận thị dày cộp, anh nặng nề  từng bước lên cầu thang. Anh bảo bệnh của anh phát  thất thường. Cơ quan cho nghỉ ở nhà, mỗi tuần chỉ đến một, hai buổi khi có việc gì cần thiết. Anh mời chúng tôi ra uống bia ở một quán lề đường gần khách sạn. Chúng tôi nói chuyện khá lâu.

Đông Trình bảo hiện nay anh rất bi quan, không muốn sáng tác nữa vì thấy tất cả mọi sự đều  rất  phù du, vô nghĩa. Tôi đồng ý chuyện cuộc đời phù du nhưng không  thể thiếu đam mê vì không đam mê rất khó sống. Tuy nhiên lại không nên coi trọng quá bất cứ vấn đề gì vì  dễ dẫn đến thất vọng. Tôi biết anh có xu hướng bi quan từ thời trẻ nhưng bây giờ do hoàn cảnh riêng nên tâm trạng nặng nề hơn.

Đây là một kinh nghiệm cuộc sống mà mỗi người nếm trải theo cách riêng. Thời sinh viên tôi tham gia đấu tranh hết mình cho độc lập dân tộc, công bằng xã hội để rồi chán chường với sự thối nát của chính trường miền Nam và sự bi thảm của cuộc chiến. Tôi tham gia hoạt động cách mạng như  tiếp tục dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp để rồi vỡ mộng vì thực tế cách mạng phản lý tưởng. Tôi lại tiếp tục đấu tranh cho dân chủ tự do nhưng không  thôi khắc khoải vì những thủ đoạn chính trị xấu xa làm vấy bẩn những con người trong sáng nhất. Tôi trầm tư thao thức trên những nẻo tâm linh nhưng vẫn không ngớt hoài nghi về chân lý và hiệu quả thực tế trong cuộc sống làm người… Có phải sẽ không bao giờ có lời đáp cuối cùng cho cuộc đời đa đoan ngắn hạn này ? Và ý nghĩa cuộc sống phải chăng là cứ mãi lên đường, luôn ở trên đường?

Về một phương diện khác, ở lứa tuổi của tôi, nhiều bạn bè đã ra đi, có người bệnh tật quanh quẩn ở nhà, tôi vẫn còn khỏe mạnh chạy xe gắn máy được hàng ngàn cây số, tại sao tôi không đi để ngắm nhìn, suy ngẫm và hưởng thụ cuộc sống ? Tôi sẽ không bi quan dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Đông Trình còn bảo muốn tục huyền, tìm một người phụ nữ để chăm sóc gia đình. BY nghe phản ứng ngay, bảo như thế là đàn ông ích kỷ và không phụ nữ nào chịu làm điều đó. Anh tìm phụ nữ để chia sẻ, nương tựa vào nhau thì được, còn nếu chỉ để chăm sóc gia đình thì tốt hơn nên tìm người giúp việc. Nhà thơ có vẻ bất ngờ khi nghe ý kiến đó và phải tán đồng  BY, bảo anh không có ý nói thế.

Đông Trình chia tay chúng tôi lúc gần 11giờ đêm. Tôi cảm thấy ấm lòng vì đã cùng bạn xưa chia sẻ những điều tâm sự. Đâu phải dễ gì với ai mình cũng mở lòng ra và được đón nhận.

Sáng hôm sau chúng tôi đi Ngũ Hành Sơn, thắng cảnh nổi tiếng của Quảng Nam – Đà Nẵng từ xưa, gồm 5 ngọn núi ( Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ )  nằm cạnh nhau, cách thành phố khoảng  gần 10 cây số về phía đông nam. Đây là những ngọn núi đá hoa cương biệt lập, đột khởi giữa vùng đồng bằng gần biển với hàng cây cối rậm rạp bên ngoài và hang động luồn lỏi bên trong.

Theo một bảng chỉ đường ở ngã ba, chúng tôi rẽ phải thăm Kim sơn và Hỏa sơn trước. Tôi gởi xe ở một cửa hiệu bán đồ  đá mỹ nghệ và xem qua các mặt hàng khá phong phú. Từ các vật đơn giản như vòng đeo tay, nhẫn, dây chuyền, gạt tàn thuốc cho đến các loại phức tạp hơn như bộ ấm chén, sư tử, tượng thần Phật, tượng người, tượng muông thú làm bằng nhiều loại đá khác nhau, tất cả đều được gia công rất tinh xảo, có tính thẩm mỹ cao, theo nhiều loại mẫu mã truyền thống hoặc sáng tạo.. Chủ hiệu nói khách muốn đặt hàng gởi đến địa chỉ nào trong nước hay nước ngoài đều đáp ứng được, chỉ trong vài ngày sẽ giao hàng tận nơi và nhận hàng xong mới thanh toán. Mua bán đạt đến trình độ này với những mặt hàng đá nặng nề quả là một tiến bộ lớn.

Mấy đứa bé ở đâu xuất hiện cầm đèn pin trong tay gạ chúng tôi để chúng dẫn đi xem hang động. Chúng tôi từ chối nói để tự đi nhưng khi tìm hang động, mới thấy chúng  có lý vì chúng tôi chưa biết đường, vả lại đường vào hang rất tối. Tôi chọn một cô bé khoảng mười mấy tuổi có vẻ lanh lẹ làm hướng dẫn viên. Nó lập tức làm nhiệm vụ một cách thành thạo, soi đèn đi trước, luôn mồm nhắc chừng tôi đi cẩn thận khi lên xuống các  bậc cấp, cúi đầu ở những vòm thấp  và giới thiệu các hình tượng thạch nhũ bên trong. Chúng tôi xem động Quan Âm ở khu Kim sơn rồi qua động Huyền Vi ở Hỏa sơn gần đó.

Các hang động vùng này không lớn và sâu nhưng hơi ngoằn ngoèo, các thạch nhũ kết tủa khá lạ lùng, có hình tượng được bàn tay  người  chế tác thêm và được các câu chuyện truyền kỳ thêu dệt thêm đượm vẻ kỳ bí. Cô bé dẫn đường có vẻ đã thành chuyên nghiệp, nói năng lưu loát, nghe cũng hấp dẫn tuy có chi tiết không chính xác. Làm nhiệm vụ xong, hỏi trả tiền, cô bé nói một giá BY bảo hơi cao nhưng tôi cho là xứng đáng, cứ trả cho cháu. Còn bé thế mà đã biết làm việc kiếm tiền giúp bố mẹ thật đáng khen. Cháu nói đang học cấp 2 và chỉ làm thêm giờ rảnh.

Xem hai núi bên này xong, chúng tôi chạy ngược lại, qua bên kia đường lớn xem các núi khác. Trên những con đường chạy vòng quanh gần các núi này có vô số cửa hiệu và xưởng làm đá mỹ nghệ, có thể nói là một đại công trường. Đây chính là làng đá mỹ nghệ Non Nước. Thợ vừa làm bằng máy vừa làm tay, tiếng cưa xẻ, đục đẽo vang rền khắp nơi. Quả là một nghề kỳ diệu, tuy nhọc nhằn. Bao nhiêu phiến đá thô nháp vô tri thoắt biến thành những tác phẩm nghệ thuật. Co những con sư tử đá vĩ đại gấp ba, bốn lần sư tử thật, vươn mình oai phong trong lớp bụi mù. Có lẽ phải dùng xe cần cẩu mới  đưa chúng lên xe tải được. Tết vừa rồi chúng tôi đã thấy một số con xuất hiện ở công viên chợ hoa Sàigòn. Những tác phẩm điêu khắc này sẽ tồn tại lâu dài, phô bày  trình độ và sự tài hoa của nghệ nhân Non Nước xứ Quảng.

Thủy sơn là núi lớn nhất trong Ngũ Hành Sơn, có hình dáng một khối đá dựng đứng, đỉnh núi chia thành 3 ngọn. Trên núi có các chùa Tam Thai, Linh Ứng và nhiều động dẹp như  Linh Nham, Vân Thông, Tâm Chơn, Huyền Không…

Nếu đi hết các  chùa, hang động sẽ mất rất nhiều thời gian. Trước đây tôi đã có lần đi nên không muốn đi nữa còn BY hơi mệt  sợ không đủ sức đi nên cũng  như ở Hội An chúng tôi chỉ “cỡi ngựa xem hoa” và chụp hình bên dưới.

Buổi chiều chúng tôi đi xem phố. Đà Nẵng rất rộng, phố xá hàng hóa nhiều, cũng có những khu tập trung bán từng loại mặt hàng. Đặc biệt khu vực phía Tây Nam mới mở, đường rộng thênh thang, có một con đường tập trung nhiều cửa hiệu vi tính. Phần lớn các cửa hiệu này đều có 2 căn, một căn bán hàng và một căn dùng làm trung tâm bảo hành, hàng ngày đều phát bảng quảng cáo giá cập nhật cho khách. Xem ra cách làm ăn cũng khá năng động theo kiểu Sài Gòn.

Chúng tôi cũng dành thời gian để xem Bảo tàng Chăm. Đây là một địa chỉ hấp dẫn đối với du khách, nhất là khách nước ngoài, lại dễ đi vì ở ngay trong trung tâm thành phố, cạnh bờ sông Hàn. Bảo tàng này do người Pháp xây dựng từ  lâu, sưu tập các hiện vật từ khắp các tỉnh miền Trung. Đáng chú ý là các linh vật Linga, Yoni ( biểu tượng bộ phận sinh dục nam nũ) nhiều kích cỡ, các tượng thần, Phật, vũ nữ, muông thú…

Ngoài Bảo tàng Chăm, Quảng Nam – Đà Nẵng còn tự hào về thánh địa Mỹ Sơn  mới được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới. Cùng với nhiều lợi thế khác, nền văn hóa và kiến trúc Chăm sẽ giúp Quảng Nam - Đà Nẵng trở thành một khu du lịch hấp dẫn lớn nhất miền Trung.

Khi nhìn các tháp Chăm trơ trụi hư hao trong nắng gío suốt dọc các tỉnh miền Trung, tôi không nhìn như chiêm ngưỡng thắng cảnh mà tôi luôn nghĩ về một đất nước đã mất dù dân tộc vẫn còn. Tôi không thương vay khóc mướn theo kiểu thơ “Điêu tàn” hay nhạc “ Hận Đồ Bàn”. Tôi cũng không nghĩ về chính sách đại đoàn kết với các dântộc ít người nghe tuyên truyền nhiều nhưng làm được rất ít. Tôi cũng không tự hào về quá khứ của cha ông thuở nào  “ mang gươm đi mở nước” để biết ơn tiền nhân. Trong tôi chỉ có mặc cảm tội lỗi dù tôi không dính dáng gì đến tội lỗi.

Các công trình kiến trúc, điêu khắc Chăm còn sót lại, những trang sử hào hùng của dân tộc Việt đã hé lộ, phơi mở, ghi dấu lịch sử và văn hóa của một dân tộc đã mất nước. Đó là hệ quả của cuộc đấu tranh sinh tồn theo luật rừng, mạnh được yếu thua.

Trung quốc nam tiến và Việt Nam vừa cố chặn xâm lược phương bắc vừa đẩy mạnh xâm lược về phương nam. Lịch sử đã qua rồi, đã định hình nhưng không phải đã chấm hết. Nhận thức lại lịch sử là điều tối cần thiết trong xây dựng  tương lai. Chúng ta lên án mọi hình thức xâm lược của nước khác đối với mình nhưng sao lại không biết tự phán hành động xâm lược của mình đối với đất nước khác, nhất là sự xâm lược của ta còn triệt để hơn, đưa một quốc gia đến tiêu vong. Dân tộc nào có quyền sống và sung sướng hạnh phúc hơn dân tộc khác? Tất cả chỉ xuất phát từ lòng tham lam và độc ác, không xứng với danh nghĩa con người. Chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi chỉ là liều thuốc kích thích sự dã man và lòng ích kỷ.

Có lần tình cờ tôi gặp nói chuyện một vị sư Phật giáo người Chăm. Tôi đánh bạo hỏi ông dân tộc Chăm hiện nay có mặc cảm vong quốc hay không? Ông trả lời đại ý: Người Chăm không cần chiếm đất không cần lãnh thổ. Người Chăm chỉ cần không gian cho đời sống tâm linh.

Một cách trả lời lạ lùng. Tôi không hiểu hết ý ông. Đó là cách nghĩ khác thường, thoát tục hay chỉ là cách né tránh hiện thực đau buồn không còn cơ cứu vãn của một dân tộc vong quốc ngay trên chính đất nước mình. Tuy nhiên nếu con người thực sự nghĩ và sống như thế chắc chắn nhân loại sẽ thái bình.

Tôi không có dịp tìm hiểu về đời sống, tâm tình của dân tộc Chăm đang sống tập trung một vài nơi và lưu lạc nhiều nơi khác trên đất nước này nhưng về phần mình tôi luôn có mặc cảm về tội lỗi của dân tộc mình trong quá khứ. Cuộc tham quan bảo tàng Chăm lần này chỉ làm tôi thêm chạnh lòng.

Buổi tối tôi đã hẹn gặp mấy người bạn cũ cùng ban Việt văn ở Đại học sư phạm Huế: Vợ chồ Nguyễn thị Hường - Lưu Đức Tuấn Anh, Hoàng Sơn Phụng, Trần Cao Bằng. Chúng tôi họp mặt tại nhà Hường – Anh, có người hơn 30 năm mới gặp lại. Chúng tôi hỏi thăm nhau về gia đình và bạn bè cũ, nhắc lại những kỷ niệm xưa thời sinh viên.

Cho đến bây giờ các bạn vẫn còn đi dạy học. Thoáng chốc mà họ đã thành những ông bà giáo gìa sắp về hưu. Ôn lại thời sau 75, các bạn đều ngán ngẩm với các trò miệt thị, tẩy não đối với các giáo sư văn chương miền Nam bị cho là nhiễm độc tư tưởng tư sản phản động và văn hóa đồi trụy. Họ đã phải nén lòng lắm mới có thể tiếp tục hành nghề. Bây giờ tình hình có đổi khác. Việc quy chụp, đánh giá một chiều có giảm đi, một số giá trị văn học được khôi phục thẩm định lại nhưng họ buồn vì nội dung chương trình vẫn còn quá giáo điều cứng nhắc, trình độ của giáo viên mới đào tạo quá thấp và nhất là trình độ của học sinh quá tệ hại do hậu quả của một quá trình dạy và học nhiều sai lầm. Họ thấy rất rõ nhưng bây giờ họ không  buồn lên tiếng, góp ý gì nữa vì tiếng nói của họ những người lãnh đạo không muốn nghe. Họ dạy học như một nghề kiếm sống, không còn chút nhiệt tình và chuẩn bị về hưu.

Trò chuyện chán, các bạn mời chúng tôi đi ăn mì quảng ở một tiệm nổi tiếng nhất ở đây. Tiệm đông khách, bàn nào cũng chật cứng người. Không hiểu sao chúng tôi ăn không thấy ngon, cũng như món cao lầu Hội An.

Sáng hôm sau, từ giã Đà Nẵng, theo lời chỉ dẫn của bảo vệ khách sạn, chúng tôi theo con đường mới mở tiếp nối đường Bạch Đằng  cạnh Sông Hàn, chạy dọc theo bờ biển ra đến tận Liên Chiểu gần chân đèo Hải Vân. Đây là một đại lộ 4 làn xe có giải phân cách ở giữa. Tôi có đọc một bài báo thấy đưa số liệu: Đường dài hơn 12 cây số với 6 cây số kè bảo vệ bờ biển và tổng kinh phí đầu tư hơn 488 tỷ đồng. Phải giải tỏa 2523 hộ dân sống trong  những căn nhà lụp xụp, ổ chuột và bố trí vào 6 khu tái định cư có cơ sở hạ tầng khang trang sạch đẹp. Đây là chủ trương quy hoạch tổng thể của thành phố, xác định không gian phát triển đô thị về phía bắc. Con đường này sẽ nối liền khu du lịch Cảnh Dương - Lăng Cô - Hải Vân - Non Nước - Hội An, tạo điều kiện thu hút đầu tư và cải thiện mội trường dân sinh trong khu vực.

Lúc chúng tôi chạy qua, con đường sắp hoàn thành. Mặt đường nhựa đã làm xong. Một số công  nhân đang tiếp tục làm lề đường và trồng cỏ, trồng hoa ở giải phân cách. Điều thú vị là có thể vừa chạy xe thong dong hít thở gío biển nghe tiếng sóng vỗ ầm ì, thỉnh thoảng  có thể ngừng lại, đi vào một ban công nhỏ có lan can nhô ra từ bờ kè để đứng ngắm biển.

Có lẽ đây là con đường ven biển dài nhất, tốn kém nhất  và tương lai có thể đẹp nhất miền Trung. Đi qua một số tỉnh, thành phố, chỉ nhìn bên ngoài cũng thấy rõ Quảng Nam - Đà Nẵng là nơi phát triển  năng động và có nhiều công trình vĩ đại nhất. Điều này do lợi thế địa lý, cơ sở hạ tầng cũ nhưng một phần cũng do những người lãnh đạo ở đây có tầm nhìn, dám nghĩ dám làm. Điều này cho thấy bất cứ ở đâu ngoài vấn đề đạo đức, trong sạch nếu người lãnh đạo có năng lực và trí tuệ, cuộc sống người dân cũng sẽ đỡ khổ.

 

                                                    §©§

 

 

6.

 

Đèo Hải Vân  nằm ven biển, dài 20 cây số có vị trí tương tự đèo Cả nhưng dài và ít âm u hơn. Con đường ngoằn ngoèo lên cao dần, có khi  chạy  theo hướng ngược lại, vì phải men theo địa thế sườn núi rồi lại lên cao hơn cho đến khi tới đỉnh. Đỉnh đèo là một nét đặc biệt của Hải Vân mà các đèo khác không có. Đỉnh có một mặt bằng rộng gần như nằm chính giữa đèo, chia đèo thành 2 phần bắc nam rõ rệt với độ dài gần bằng nhau. Ngày xưa có dạo người ta chỉ cho xe lên xuống đèo một chiều theo giờ để bớt nguy hiểm. Xe từ hai đầu đèo chạy lên đỉnh dừng lại nghỉ. Đền giờ hết xe lên, có lệnh xe mới được phép đổ đèo. Vì thế đây là nơi tập trung hàng quán phục vụ cho khách. Khách cũng có dịp nghỉ ngơi và xuống xe ngắm cảnh là điều rất thú vị.

Bây giờ đường chạy 2 chiều vì đèo đã  được mở rộng trải nhựa láng , những  bức tường và rào cản an toàn được xây  thêm,  kính lồi  dựng nhiều ở các khúc quanh  khuất tầm nhìn. Sau khi đã đi qua nhiều đèo khác, Hải Vân đối với chúng tôi chẳng có gì nguy hiểm, chúng tôi chạy thong dong ngắm cảnh và dừng lại chụp hình những nơi có địa thế đẹp.

Ở đỉnh đèo tuy không bị bắt buộc nhưng phần lớn  xe đều dừng lại, nhất là các xe du lịch. Các đoàn khách nước ngoài túa ra chụp ảnh. Ở ngọn núi nhỏ gần mặt bằng đỉnh có một pháo đài xưa và một lô cốt thời chiến tranh. Nhiều khách tây cố leo lên đó để xem. Từ đỉnh đèo lộng gió và mây mù phảng phất này, ta có thể phóng tầm mắt về hai hướng bắc nam để nhìn toàn cảnh hai đường dốc  xuống khi ẩn khi hiện giữa núi rừng trùng điệp. Đó là một cảm giác ngây ngất đặc biệt khi đứng trên cao giữa trời mây phóng khoáng trên một đỉnh núi rừng.

Cảm giác này chắc chắn sẽ gây ấn tượng  hơn nếu khách không bị những  người bán hàng chèo kéo quấy rầy. Cũng như  mọi nơi khác, đâu có khách du lịch là ở đó có  đội ngũ những người bán hàng này. Dĩ nhiên đây là nhu cầu về cả hai phía nhưng cái cung cách làm ăn tự phát này quả thật kém văn minh. Người  Việt Nam chúng ta còn chán ngấy huống gì khách nước ngoài. Làm sao thoải mái được khi  muốn yên tĩnh thả hồn vào cảnh vật, một tay lại phải lo giữ túi, tay kia xua xua từ chối những lời chào mời riết róng đến cưỡng ép.

Nghe nói sau khi làm xong công trình đường hầm xuyên qua Hải Vân, con đường  đèo này sẽ trở thành nơi phục vụ du lịch. Hi vọng lúc đó hoạt động ở đỉnh đèo này sẽ được tổ chức tốt hơn. Hiện tại chỉ có mấy hàng quán tư nhân tạm bợ và chỉ có một nhà vệ sinh cũng của tư nhân, sử dụng phải trả tiền nhưng khá bẩn thỉu.

Xuống khỏi đèo Hải Vân là đầm nước Lăng Cô rộng bát ngát. Bãi tắm  nằm ở phía đông không xa đường lắm nhưng bị che khuất bởi các đồi cát và rừng dương. Thỉnh thoảng có những con đường dẫn vào bãi với bảng hiệu của một khu resort gì đó nhưng chúng tôi không ghé vào vì đã nghỉ trên đỉnh đèo nhiều lần khá lâu.

Hai đèo ngắn Phú Gia và Phước Tượng tiếp theo đối với chúng tôi chỉ là những con đường dốc dài hơi quanh co. Dù sao cảm giác chạy xe tốc độ nhanh  trên đường  đèo uốn  lượn quả thú vị hơn chạy trên đường thẳng rất nhiều.

Quãng đường tiếp theo vào giờ  trưa khá trống trải. Tôi đang chạy với tốc độ 60 cây số / giớ, có một chiếc xe ben chạy phía trước. Chiếc xe ben từ từ giảm tốc độ  rồi ép vào lề. Tôi tăng ga để chuẩn bị qua mặt nó. Thình lình  không báo hiệu gì, chiếc xe ben ngoắt ngang qua đường hình như để quay đầu lại. Cả tôi và BY đều thét lên kinh hoàng. Tôi phản xạ vừa thắng xe vừa bóp còi. Xe tôi lết  siết trên mặt đường loạng choạng, rít lên và dừng lại sát ngay đầu xe ben  lúc nó choán ngang ba phần tư mặt đường. Gã lái xe thò đầu ra nhìn. Tôi lách qua trái và sang số chạy luôn, quên cả chửi gã lái xe ẩu tả. That hú vía. Chỉ một tích tắc nữa chúng tôi sẽ lao vào đầu xe ben như một quả trứng ném vào đá.

Phản xạ đã đối phó với tình huống chớp nhoáng làm tôi quên cả sợ hãi trong khi BY trống ngực đập thình thịch, mặt tái mét và không  ngớt tạ ơn Đức Mẹ. Tay hơi run nhưng tôi vẫn tiếp tục chạy với tốc độ chậm và đến một chỗ vắng có bóng mát mới dừng nghỉ để lấy lại bình tĩnh.

Từ đó về đến Huế, BY chỉ cho tôi chạy tối đa 40 cây số / giờ và thoáng thấy xe ben, xe tải từ xa BY đã bảo tôi né tránh trước. Đúng là tai nạn không thể lường trước. Nếu ta chạy cẩn thận, đúng luật và nghĩ ai cũng như mình sẽ rất dễ gặp tai nạn. Phải luôn cảnh giác có những người lái xe không biết luật hay không cần tôn trọng luật, chỉ cần một chút sơ sẩy  ta có thể làm mồi ngon cho những “hung thần quốc lộ”  này. Trên những chặng đường vừa qua, chúng tôi  cũng đã thấy nhiều tai nạn nhưng tôi không dừng lại xem vì sợ tác động xấu đến tâm lý BY, mất thoải mái trên đường đi. Tôi tin ở số mạng nhưng đúng là tôi phải cẩn thận gấp hai  lần. BY không sao quên sớm được chuyện đó, cằn nhằn tôi liên tục và khẳng định  nếu không có Đức Mẹ phù hộ thì chúng tôi đã tiêu tùng rồi. Tôi phải hùa theo nói chúng tôi phước lớn mạng lớn và có Đức Mẹ cứu  giúp, nhất định sẽ được an toàn.

Quá trưa chúng tôi đến Huế. Tôi chạy thẳng ra đường Lê Lợi dọc hữu ngạn sông Hương. Con đường Áo Trắng ngày xưa này đối với tôi có biết bao kỷ niệm thời sinh viên. Con đường vẫn êm ả như ngày nào với hai hàng long não phủ bóng ra mặt đường song song với dòng sông dịu dàng xuôi chảy. Tôi chạy lên xuống con đường này hai vòng để ngắm cảnh, hưởng gió mát và cũng để tìm khách sạn. Con đường không thay đổi nhưng quang cảnh, nhà cửa hai bên đường thay đổi nhiều.

Tòa Viện trưởng Viện Đại học Huế nay vẫn là trụ sở của Viện Đại học. Năm 1963, tôi thường lên đây để lấy thư của một người yêu phương xa vì lúc đó Viện còn nhận giúp thư của sinh viên. Tôi đã từng thất vọng  ngồi bệt xuống bậc thềm của Viện hàng giờ liền vì không có thư như mong đợi.Đối diện với viện là khu cư xá của giáo sư đại học, nay trở thành  nhà khách của Ủy Ban Thành phố.

Ngoài hai khách sạn Hương Giang  sang trọng phía bờ sông, bên kia đường và những con đường nhỏ bên trong, vô sô khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ và nhà khách ( của các cơ quan nhà nước) mọc lên. Nhiều nhà ở tư nhân biến thành nhà trọ, khách tây ra vào khá đông, chứng tỏ khu vực này đang sôi động với dịch vụ du lịch. Tuy nhiên gía cả ở đây lại khá đắt, so với Đà Nẵng, Nha Trang nên chúng tôi không thuê phòng ở khu vực này mà chạy qua bên hữu ngạn để tìm nơi thích hợp.

Lần đầu thấy lại cầu Trường Tiền sau nhiều năm tôi  hơi thất vọng. Chiếc cầu quá nhỏ và chật chội so với số lượng xe đạp, xe  gắn máy xuôi ngược quá đông ( hình như cấm xe hơi ? ) Tôi quen chạy  xe ở Sàigòn mà ở đây nhiều lần suýt va quẹt vào xe khác. Chiếc cầu trắng xinh  đẹp thơ mộng này có lẽ chỉ nên dành cho người đi bộ. Ấn tượng của tôi về chiếc cầu và có lẽ cũng của  nhiều người khác, là hình dáng thanh bai dịu dàng của nó khi nhìn từ xa và cảm giác phơi phới thanh thản khi đi bộ và dừng lại nơi những vòng cung  nhô ra ở thành cầu để ngắm suốt con sông lặng lờ xuôi chảy bên dưới. Tôi chưa nhìn được vì đang chạy xe nhưng trước đây đọc báo chí, thấy nói khi sửa lại cầu, người ta đã đập bỏ những  vòng cung này và nẹp nó lại bằng sắt thẳng như bó nẹp xương gãy. Sửa chữa một cây cầu dịu dàng như cầu Trường Tiền bằng cách đó sẽ làm nó mãi mãi bị thương tích. Việc như thế người ta còn làm được thì chuyện tôi mơ ước dành chiếc cầu cho người đi bộ chỉ là mơ ước hão huyền. Dĩ nhiên muốn làm thế phải xây dựng thêm cầu khác ( dù đã có một cầu mới phía trên không xa) hoặc giải quyết việc giao thông qua lại giữa đôi bờ bằng một cách nào đó nhưng vấn đề là những người lãnh đạo có ai nghĩ tới chuyện này không. Vấn  đề là tầm nhìn và tâm hồn của  người lãnh đạo, những điều rất ít được chú ý trong bối cảnh hiện nay.

Qua khỏi cầu Trường Tiền, tôi rẽ vào đường cửa Thượng Tứ và gặp ngay mấy nhà trọ ở quãng đường ngắn này. BY vào hỏi và thuê luôn dù không ưng ý lắm. Dù sao giá cả phải chăng hơn và nơi đây đi lại ăn uống cũng tiện.

Tôi gọi điện tìm Hoàng Hòa, Hoà báo đang bận chiêu đãi cán bộ cấp trên, hẹn khoảng nửa giờ sau sẽ đến. Chờ gần một giờ, Hòa vẫn chưa đến, chúng tôi đi ăn tối ở bến xe gần đó. Bến xe này có quán cơm bà Nhơn nổi tiếng ngon, rẻ và thức ăn đúng đặc trưng và tiêu chuẩn của Huế. Ăn xong chúng tôi đi  bộ tà tà và ghé vào một quán chè lề đường. Loại quán này đến tối người ta mới bày ra, bán đủ loại chè Huế và khách khá đông. Ăn ở vỉa hè kiểu này mới thưởng thức hết cái thú và hương vị của những đặc sản bình dân tuy hơi ngại vấn đề vệ sinh. Đành vậy thôi. Dân bụi đời như chúng tôi có lẽ khả năng miễn  nhiễm tốt, dù vậy chúng tôi thường hết sức cẩn thận trong ăn uống.

9 giờ tối, chúng tôi trở về, gặp Hòa đang ngồi uống bia với  mấy người bạn ở một quán đầu đường chờ chúng tôi. Chúng tôi nói chuyện thăm hỏi qua loa vì có mấy người kia chúng tôi không quen. Khi biết chúng tôi chỉ ở Huế đêm nay và sáng mai, Hòa rất ngạc nhiên. Tôi giải thích vì thời gian có hạn và chuyến đi này chúng tôi dành  nhiều thời gian  hơn cho các tỉnh phía Bắc, các tỉnh miền Trung và Huế BY cũng đã biết nên chúng tôi chỉ ghé qua, gặp gỡ một vài bạn bè cũ chứ không ở lâu được. Trưa mai chúng tôi sẽ đi Quảng Trị và ngủ lại đó một đêm để thăm Đỗ Tư Nhơn, hôm  sau sẽ từ Quảng Trị đi tiếp Quảng Bình để chặng  đường không quá xa.

Hòa hỏi tôi muốn gặp ai vào sáng mai Hòa sẽ hẹn giúp vì bạn bè và những người quen của tôi Hòa đều biết cả và họ cũng thường gặp nhau. Hòa cùng  học với tôi ở Đại Học Sư Phạm  nhưng khác ban. Hòa học toán , là thành viên của nhóm Việt và lúc đi học Hòa đã là đảng viên cộng sản nhưng lúc đó chúng tôi không biết. Sau vụ tranh đấu năm 1966 Hòa bị bắt đưa đi Côn Đảo và mãi đến 1975 mới được giải thóat. Sau đó Hòa tiếp tục đi học lại và hiện nay làm hiệu trưởng một trường THPT bán công.

Tôi nói với Hòa lần này ra Huế tôi cần gặp hai người, Nguyễn Đính và Hoàng Phủ Ngọc Tường, còn ngoài ra các bạn khác nếu tiện thì gặp, không sẽ đợi dịp khác. Hai người trên lớn tuổi hơn tôi, không phải là bạn nhưng tôi có mối quan tâm   đặc biệt.

Nguyễn Đính bút hiệu Trần Vàng Sao là một trong những sinh viên Huế “giác ngộ cách mạng “ và thoát ly ra rừng sớm nhất. Anh bị thương trong chiến đấu và được đưa ra Bắc điều trị. Tại trại điều dưỡng, anh bị một “đồng chí” bán đứng khi lén đọc nhật ký của anh và đem nộp cho lãnh đạo để lập công. Trong nhật ký anh có ghi những nhận định “động trời”: chủ nghĩa Mác - Lênin  giáo điều và thiếu khoa học, thủ đô Hà Nội nếu không có cuộc kháng chiến chống Mỹ thì chỉ là một vũng bùn lộn cứt, trí thức miền Bắc hèn nhát và không có tư  duy độc lập… Anh bị đưa ra đấu tố, quy tội phản đảng, phản động, làm gián điệp và bị cách ly, quản chế chặt chẽ. Sau 75 anh  cầy cục xin về Huế nhưng không  được sử dụng, sống phất phơ lạc lõng, bạn bè “ngụy” không dám gặp mà bạn bè “cách mạng” cũng xa lánh. Gia đình anh rất nghèo. Ngày xưa mẹ anh bán bún bò vẫn cố nuôi anh học đại học và làm cách mạng. Bây giờ anh lấy vợ, có con nhỏ, vợ anh cũng bán bún bò để nuôi anh thất nghiệp. Tôi có đọc tập hồi ký của anh và thực sự cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh và tâm trạng của anh. Anh là người sinh viên - trí thức dấn thân, can đảm, bị đày đọa và cùng khổ nhất mà tôi đã từng gặp. Trước đây anh nổi tiếng với “Bài thơ của một người Việt Nam yêu nước mình”, một bài thơ cách mạng. Dạo 1988, anh bị báo công an và báo đảng ở Huế  mở chiến dịch đánh tơi tả vì bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” đăng trên Sông Hương, tiếp tục bị quy chụp là phản động. Tôi chỉ gặp anh một lần trong dịp Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo bênh vực thơ anh trong chuyến đi xuyên Việt của chúng tôi năm đó.

Hoàng Phủ Ngọc Tường với tôi có nhiều quan hệ hơn. Lúc tôi còn học đại học, anh đã là giáo sư từ mấy năm trước. Trong cuộc tranh đấu năm 1966 ở Huế, lúc đó tôi là Phó chủ tịch Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách Mạng Đại Học Huế, cùng với Nguyễn Hữu Giao ( chủ tịch) chủ trương hoạt động của sinh viên độc lập, không chịu sự chỉ đạo của Phật Giáo. Anh đã đến găp để thuyết phục tôi và chuyển lời mời của Thượng Tọa Trí Quang đến gặp ông để trao đổi về vấn đề đó. Sau này khoảng năm 1987-89 lúc Bùi Minh Quốc  và tôi làm tờ LangBian ở Đà Lạt, anh đang làm tổng biên tập tờ Sông Hương ở Huế. Trong chuyến đi xuyên Việt năm 1988 và cuộc đấu tranh “dai dẳng” sau đó, Tường và các bạn văn nghệ sĩ ở Huế ủng hộ chúng tôi nhiều, tuy một số trong đó có Tường không hoàn toàn tán thành cách làm của chúng tôi. Dạo đó, chúng tôi có nghe tin là Tường không được chuyển đảng chính thức vì đã ủng hộ chúng tôi. ( Anh Tường thoát ly từ sau vụ 66, đã làm trưởng Ty Văn Hóa Thông Tin tỉnh Quảng trị từ trước 1975 nhưng  mãi sau này mới được kết nạp đảng). Sau khi chúng tôi bị cách chức, khai trừ đảng, không còn ở trong Hội Văn nghệ nữa nhưng mỗi lần lên Đà Lạt anh đều đến thăm chúng tôi nói chuyện văn chương chính trị.

Trong vụ Mậu Thân năm 1988 ở Huế, dư luận của một số người cho rằng anh cùng với Nguyễn Đắc Xuân, có liên quan đến các vụ thảm sát. Sau này hàng năm, đến ngày kỷ niệm vụ Mậu Thân, báo chí của người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại chuyện này và lên án các anh. Năm đó tôi không còn ở Huế vì đã ra trường  đi dạy học ở Ban Mê Thuột nên không hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra.Tuy nhiên tôi biết Tường bị phê phán nhiều có lẽ do cách anh trả lời phỏng vấn trong bộ phim “Việt Nam, thiên sử truyền hình” do một nhà báo Mỹ thực hiện. Tôi đã xem lại mấy lần cảnh đó. Đại khái khi được hỏi về những người bị giết  trong vụ Mậu Thân ở Huế, anh trả lời đại ý: Đó là những kẻ gây nhiều tội ác, nhân dân xem họ như những con rắn độc cần phải tiêu diệt.

Đối với những người ở phía Việt Nam Cộng Hòa  trứơc đây, câu nói đó gây “sốc”. Ngay đối với tôi bây giờ, sau khi đã có độ lùi lịch sử và bình tâm nhìn lại cuộc chiến, câu nói đó quả thực không ổn, Tuy nhiên tôi nghĩ có lẽ câu trả lời phản ành tâm trạng thực của anh lúc trả lời phỏng vấn vào thời điểm đó. Anh là người đứng về phía chiến thắng nói về cựu thù của mình, trong sự kiêu hãnh và bảo vệ chính nghĩa của cuộc chiến mình đã tham gia. Có thể sau này nếu được hỏi lại, anh sẽ trả lời khác đi. Dù đã từng nói như thế, tôi tin anh không phải là kẻ tàn bạo hay khát máu. Anh không thể cầm súng bắn ai hay ra lệnh giết người khi tác phẩm -  thể hiện tâm hồn anh - tràn đầy tính nhân bản. Khi  say mê một lý tưởng hay tham gia một cuộc chiến người ta dễ trở nên cực đoan, đặc biệt trong tư tưởng, nhưng khi thể hiện thành hành động, mỗi người sẽ khác nhau tùy bản tính và trình độ văn hóa. Thực ra tôi không hiểu nhiều về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng tôi mong rằng điều tôi tin là đúng.

Mấy năm gần nay, Tường bị tai biến mạch máu não phải nằm liệt giường nên tôi muốn dịp này đến thăm anh, tuy nhiên Hòa cho tôi biết Tường đã được gia đình đưa về Hương Hóa, Quảng Trị nhờ một bà thầy mo chữa bệnh vì các biện pháp điều trị ở Huế không khả quan nữa. Thế là tôi không thăm được Tường. Hòa hẹn chúng tôi sáng mai đến khách sạn Morin uống cà phê và Hòa sẽ báo một số bạn cùng đến đó để gặp. Chúng tôi chia tay Hòa và đến một tiệm dịch vụ Internet gần đó.

 

Trước khi về nghỉ, chúng tôi dạo một vòng bên tả ngạn sông Hương để ngắm cầu Trường Tiền trong ánh sáng đổi màu. Đây là một nét mới của Huế từ sau festival. Một công ty của Pháp đã thiết kế hệ thống chiếu sáng đổi màu để tôn vẻ đẹp của cầu trường Tiền về đêm. Hình ảnh cây cầu nổi bật trên dòng sông đêm cứ vài phút lại chuyển sang một màu khác, vàng, đỏ, cam, tím… trông rất ngoạn mục. Việc chiếu sáng này khá tốn kém nên lúc đầu  thực hiện hằng đêm nhưng gần nay chỉ duy trì 3 buổi trong tuần và chúng tôi may mắn đã ở lại Huế đúng đêm cầu được chiếu sáng. Đối với  tôi, chiếc cầu trong màu sắc hiện đại tuy có vẻ đẹp riêng nhưng không thay thế được hình ảnh chiếc cầu trắng dịu dàng mờ ảo trong sương sớm hay trăng khuya đã gắn bó với tôi một thời trẻ tuổi cùng với những cuộc tình lảng đảng đã quá xa rồi nhưng không bao giờ mất.

Buổi sáng chúng tôi ăn bánh xèo ở quán trên đường trước cửa Thượng Tứ, quán bánh xèo nổi tiếng từ xưa tuy vị trí  có thay đổi, nhưng không thấy ngon như trước. Quán này cũng có thực đơn ghi tiếng Anh và đang có một ông khách người nước ngoài ngồi dùng tay ăn chả ram. Tuy nhiên món bánh nậm quả thật ngon tuy phải chờ đợi hơi lâu vì giờ đó người ta mới bắt đầu hấp.

Trước giờ hẹn với Hòa, chúng tôi chỉ đủ thời gian  chạy sang trường Đại Học Sư Phạm và nhà thờ Phú Cam để chụp hình.

Nhìn từ bên ngoài trường Đại Học Sư Phạm vẫn như xưa. Đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế, với mặt tiền là những ô vuông quét vôi trắng che chắn bên ngoài hành lang các tầng lầu. Tôi chỉ đứng trứơc cổng chụp hình bên cạnh các sinh viên đang ra vào nhốn nháo rồi qua bên kia đường xem vườn tượng. Vườn tượng đặt ở  công viên chạy dài từ chân cầu Trường Tiền đến khách sạn Hương Giang, với nhiều cây cao xanh mát. Festival Huế 2002 có tổ chức một trại sáng tác mỹ thuật quốc tế gồm tác giả của nhiều nước tham gia và sau đó tác phẩm được để lại làm vườn tượng. Tôi chụp cho BY 2 ảnh đứng cạnh 2 tác phẩm độc đáo. Tác phẩm “gia đình” của một tác gỉa nước ngoài với hình tượng một người cha nằm sấp ôm đứa con nhỏ và người mẹ nằm áp lên lưng chồng âu yếm, tất cả đều khỏa thân. Tác phẩm thứ hai “Tắm mưa “ của một tác gỉa Việt Nam với hình tượng một trai một gái hoàn toàn trần truồng đứng bên nhau giơ hai tay lên trời hứng nước mưa. Tôi nghĩ Huế chấp nhận và trưng bày 2 tác phẩm này cũng đã là tiến bộ lắm. Quần chúng sẽ quen dần đi, từng bứơc nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và sẽ không còn thích thú với những loại công trình nghệ thuật chỉ có súng, gươm, búa liềm, giơ tay, dang chân hao hao như nhau có mặt ở khắp mọi nơi. Đó là thứ nghệ thuật bị lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp để thể hiện tư tưởng chính trị một cách dễ dãi, hời hợt và đồng dạng. Tư tưởng chính trị đó là đề cao lòng căm thù, chiến đấu và chiến thắng. Đó cũng là cách người cộng sản tự ghi khắc công trạng mình, làm cho thời đại của những người cộng sản vượt trội và che phủ lên hàng ngàn năm lịch sử. Đó là thời đại huy hoàng nhất, oai hùng nhất, có công lao với đất nước nhiều nhất.  Điều này không chỉ thể hiện trong các tượng đài, các công trình nghệ thuật mà ở khắp tất cả các lĩnh vực, từ cương lĩnh của đảng, hiến pháp, sách dạy chính trị, lịch sử, văn học và cả đến việc tổ chức các ngày kỷ niệm, viết các câu khẩu hiệu, làm bàn thờ tổ quốc, xây dựng nghĩa trang, đặt tên đường phố… Đó là một lối tuyên truyền nhồi sọ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, làm cho người ta chỉ nghĩ và biết một chiều. Không thấy nơi nào nói đến sám hối, ăn năn, đến  chiều sâu thảm kịch, đến bao dung tha thứ, hòa giải hòa hợp hay rút ra được điều gì mới mẻ cho tương lai một dân tộc đã hứng chịu vô cùng đau thương mất mát.

Đến giờ hẹn với Hòa, chúng tôi định chạy đến khách sạn Morin thì nhận được điện thoại Hòa gọi báo chuyển địa điểm đến quán café nơi trụ sở Tổng Hội Sinh Viên cũ gần đó, vì khách sạn Morin ồn ào và nhiều khách Tây nói chuyện  không thoải mái.

Khi chúng tôi đến, đã có 5, 6 bạn ngồi uống café ngoài sân bên hông quán: Hoàng Hòa, Nguyễn Đính, Thái Ngọc San, Lê Thừa Trứ, Lý văn Nghiêm và 1,2 người nữa tôi không quen, không hiểu họ tình cờ ngồi đó hay do Hòa hẹn.

Trụ sở Tổng Hội Sinh Viên cũ hầu như hoàn toàn không thay đổi, nơi đối với tôi quá quen thuộc. Trong cuộc tranh đấu năm 1966, tôi đã làm việc, ăn, ngủ ở đây hàng tháng trời. Vì các bạn khác có gia đình ở Huế nên trưa, tối về nhà, chỉ có tôi tuy gốc Huế nhưng là dân trọ học nên tôi tình nguyện ở lại để trực và làm việc cho tiện. Ngoài những buổi làm việc, hoạt động ồn ào, sôi nổi, đầy hào khí, nơi này tôi đã trải qua những giờ phút vắng lặng một mình để suy tưởng và phản tỉnh về việc mình làm, về thân phận dân tộc và những  nỗi khắc khoải về sự dằng xé, phân ly giữa con người dân tộc và con người nhân loại, giá trị giai đoạn và giá trị vĩnh cửu. Tuổi 20 của tôi và thế hệ chúng tôi đã là thế hệ dấn thân, đầy lý tưởng, trào sôi nhiệt tình nhưng cũng không ít băn khoăn dằn vặt.

Nguyễn Đính trông bề ngoài quá thảm. Gầy gò, hàm trên móm mém vì răng ruing gần hết,  cặp kính gọng nâu cũ kỹ, mái tóc muối tiêu dài không cắt buộc phía sau. Anh ít nói, chỉ mỉm cười như một ông gìa hiền lành. Anh có vẻ vui lên một chút khi nghe tôi  nhắc đến bài thơ “Tao chưởi” của anh  mới sáng tác mà Bùi Minh Quốc  đã đọc cho tôi nghe ở Đà Lạt. Quốc  kể gần đây, trứơc khi bị quản chế lại, lần nào ngang Huế, Quốc  cũng xách rượu đến nhà anh nói chuyện đọc thơ. Bài thơ “Tao chưởi” rất dài, hình như đến cả trăm câu, anh chưởi từ trên xuống dưới, chưởi những  thằng khốn nạn làm hại đất nứơc và nhân dân không sót một ai, bằng giọng đặc trưng của một nhà thơ bất đắc chí đầy lòng căm phẫn và kiểu cách, ngôn ngữ của người dân xứ Huế. Đó là một bài thơ lạ lùng chỉ có thể xuất hiện để phản ánh một thời đại mà đất nước bị phá sản một cách tan hoang dù đã độc lập thống nhất. Tôi tiếc đã không có thời gian đến nhà  nói chuyện riêng với anh.

Lý Văn Nghiên cùng học ban Việt văn, sau tôi một khóa ở Đại Học Sư Phạm. Anh là đoàn trưởng một đoàn Sinh viên Quyết tử trong cuộc tranh đấu năm 1966. Sau 1975, một thời gian anh làm đoàn trưởng văn công, có lần dẫn đoàn vào Bảo Lộc biểu diễn, gặp Trần Minh Thảo và tôi ở đó. Tôi không thân Nghiên và không biết sau này anh làm gì, anh nói khơi khơi là đang thất nghiệp. Nghiên hát rất hay, hay hát và nghe nói rất “ quậy’ trong những lần gặp gỡ bạn bè.

Thái Ngọc San cao lêu nghêu, trước đây nổi tiếng với những bài thơ tranh đấu xuống đường, là thành viên của nhóm Việt nhưng tôi ít gặp, nhất là sau khi đã ra trường xa Huế. Hiện nay anh đang làm đại diện cho báo Thanh Niên ở miền Trung, nghe nói uống rượu như hũ chìm, ngày nào cũng làm hết một can rượu đế ( ?! ).

Lê Thừa Trứ học cùng khóa với tôi nhưng khác ban ở Đại Học Sư Phạm. Khi  mới ra trường cùng dạy với tôi ở Ban Mê Thuột. Đến nay anh vẫn còn đi dạy, hình như cả đại học và trung học, trông đạo mạo ra dáng một nhà giáo.Thời sinh viên anh có một ông bố nổi tiếng tên Lê Thừa Xích, tôi vẫn còn nhớ tên vì lúc đó ông hình như đã gần 50 tuổi vẫn còn cắp sách đi học Đại Học Văn Khoa cùng với chúng tôi.

Các bạn cùng ngồi uống càfé ở đây có quan hệ với tôi theo những cách khác nhau nên chúng tôi chỉ nói chuyện xã giao chung chung. Nghe nói  chúng tôi sắp đi, họ lần lượt cáo từ, chỉ có Hòa và Trứ còn ở lại nói chuyện thêm một lúc nữa trứơc khi chia tay.

Chúng tôi ghé lại nhà Nguyễn Văn Dũng gần đó hi vọng gặp anh một lát trứơc khi đi vì chiều hôm qua chúng tôi đã đến nhưng  không gặp. Dũng học cùng ban,  trứơc tôi một khóa ở Đại Học Sư Phạm. Anh nguyên là giáo sư văn chương nhưng nay là võ sư huyền đai  thất đẳng, chưởng môn phái Karaté Suzuki ở Việt Nam, sáng lập võ đường Nghĩa Dũng ở Huế và có chi nhánh, môn sinh ở nhiều tỉnh. Những năm trứơc, mỗi lần đến Đa Lạt chấm thi lên đai đen cho môn sinh karaté anh đều đến thăm tôi.

Dũng vừa về đến nhà. Anh nói hôm qua anh cùng  Nguyễn Đắc Xuân và gia đình về quê, thăm mộ, ở lại đêm, sáng nay mới lên. Anh nhất định bắt chúng tôi đợi anh tắm rửa rồi dẫn đi thăm mộ Trần Đình Vỹ và đi ăn trưa với anh trứơc khi rời Huế.

Trần Đình Vỹ là bạn thân học cùng lớp, ở cùng phòng với tôi và cũng là bạn thân của Dũng.

Vỹ đã mất trong cuộc đấu tranh năm 1966 vì một lý do bí ẩn lúc đi biển Thuận An cùng hai người bạn. Thời đó có nghi vấn anh bị sát hại. Vỹ quê Quảng Nam, thích hoạt động chính trị và văn học, có mộng lấp bể vá trời. Vỹ cùng với Trần Duy Phiên và tôi, 3 người học cùng lớp là sáng lập viên của Hội Hồng Sơn, tiền thân của Nhóm Việt sau này.

Dũng gọi điện hẹn Trần Công Tín, bạn học cùng lớp với tôi và Vỹ cùng đi. Thời dạy học, Tín xui xẻo bị động viên đi học lớp sĩ quan dự bị, tốt nghiệp lại biệt phái về dạy học nhưng mang lon sĩ quan nên sau 75 phải đi cải tạo rồi“ mất dạy”. ( Một số bạn bè khác của tôi rơi vào trường hợp này, trong đó có Huỳnh Châm ở Quảng Ngãi, trong khi tôi và những người khác lại chỉ đi học quân sự 9 tuần, cấp bậc binh nhì, rồi về dạy học với tư cách dân sự. Có sự khác biệt này vì việc động viên đơn thuần căn cứ vào năm sinh và tùy tình hình chiến sự lúc đó. Những người kia được coi như là sĩ quan biệt phái nên sau 75 bị “cách mạng” cho là những  phần tử nguy hiểm phải đi học tập cải tạo dài ngày.)

Tín gặp tôi rất mừng, chuyện trò huyên thuyên vì kể từ khi ra trường, gần 40 năm mới lại gặp nhau. Tín bây giờ chỉ ở nhà loanh quanh giúp vợ làm việc nhà. Đúng là số phận con người không ai có thể lường trước. Chúng tôi vào đời cùng một điểm xuất phát, chỉ khác nhau có năm sinh mà số phận mỗi người đi một hướng.

Dũng nói hai vợ chồng vừa đi xe gắn máy lên khá mệt nhưng sẽ chở Thảo - bà xã - cùng đi thăm mộ Vỹ vì trước đây lúc còn sống, Vỹ có thời yêu Thảo nhưng Thảo lại yêu Dũng. “Để cho Vỹ được chút thỏa lòng dù nó đã chết gần 40 năm “. Dũng nói. Anh chàng giáo sư văn chương - võ sư này kể cũng ngộ. Thế là cả đoàn  chúng tôi kéo nhau đi thăm mộ Vỹ.

Mộ Vỹ nằm trong nghĩa trang  “Đồng châu Quảng Nam” gần Đàn Nam Giao, hình như đã lâu lắm  không có người thăm viếng. Chúng tôi thắp nhang và chụp  hình chung bên mộ Vỹ. Tôi bồi hồi nhớ lại thời kỳ sinh viên trẻ trung, hào sảng, vẫn là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời. Dù sao Vỹ cũng đã được sống 3 năm làm sinh viên. Chẳng mấy chốc mà chúng tôi đã qua hơn nửa đời người, với bao thăng trầm dâu biển, và có lẽ chẳng có lúc nào vui vẻ, hồn nhiên, sống hết mình như thủơ đôi mươi trong môi trường đại học.

Thăm mộ Vỹ xong, Dũng đưa chúng tôi đi ăn trưa trên nhà hàng nổi đậu gần cầu Trường Tiền. Ngồi ăn trên sông thật thú vị nhưng theo BY và tôi, các tàu, đò dùng làm nhà hàng và phục vụ du lịch trông lòe loẹt quá xấu và không chút hài hoà với dòng sông Hương dịu dàng thơ mộng.Trang trí một chiếc tàu, đò có gì là khó, thế mà chiếc nào cũng thi nhau sơn xanh đỏ và treo cờ xí, không mang dáng vẻ cung đình mà cũng chẳng giản dị kiểu dân gian. Đúng là một trình độ thẩm mỹ quá thấp trong một thành phố được coi là “bài thơ đô thị” có bề dày lịch sử văn hóa nghệ thuật.

Trong bữa cơm, Dũng nói riêng với tôi, lúc nãy trên đường đi tới đây, Dũng có gặp Trần Thùy Mai và hỏi Mai có quen tôi không. Tôi kinh ngạc nhớ lại, lúc chạy xe sau Dũng, Dũng có đi song song và nói chuyện một lúc với hai phụ nữ chở nhau trên xe gắn máy tình cờ đi cùng đường, tôi chỉ thấy lưng của họ và không chú ý vì sau đó họ đi thẳng và Dũng cũng không nói gì.

Bây giờ Dũng chỉ nói qua như thế rồi chuyển sang chuyện khác tôi cũng không hỏi gì thêm.

Thực ra hôm qua tôi nói với Hòa ra Huế lần này tôi chỉ cần gặp hai người là không đúng hẳn. Người thứ ba tôi muốn gặp hơn cả nhưng không nói ra là Trần Thùy Mai vì đây là một vấn đề rất tế nhị.

Trần Thùy Mai là một nửa nguyên mẫu của nhân vật Sơ Huyền trong tiểu thuyết “ Nửa đời nhìn lại” của tôi xuất bản ở Mỹ năm 1994. Thùy Mai tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm sau 1975 và được giữ lại làm giảng viên của trường. Thời đó, Thùy Mai đã nổi tiếng là một nhà văn nữ trẻ có nhiều triển vọng, với những tác phẩm tinh tế, đầy chất thơ và có chiều sâu tư tưởng.

Tôi gặp Thùy Mai lần đầu năm 1985 khi cùng các cựu sinh viên về dự lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Đại Học Sư Phạm Huế. ( Lúc ấy, người ta chỉ tính từ năm 1975 ). Thời đó Thùy Mai cùng với Trần Thức và Hoàng Dũng, 2 giảng viên khác của trường  Đại Học Sư Phạm đang làm một công trình nghiên cứu về nhóm Việt của chúng tôi ngày trước. Lần đó tôi ít nói chuyện với Thùy Mai vì mới quen và Mai nói chuyện với Trần Duy Phiên nhiều vì hai người đã có nhiều dịp gặp gỡ. Ba năm sau, năm 1988, trong chuyến đi xuyên Việt đấu tranh cho tự do và đổi mới thực sự, tôi găp lại Thùy Mai và từ đó trong vài năm, chúng tôi có mối quan hệ đặc biệt, chủ yếu qua thư từ.

Trong cuộc đấu tranh của chúng tôi, Thùy Mai là người ủng hộ mạnh mẽ, với tinh thần thực sự cấp tiến, có lý luận sắc bén và cả những đề xuất, việc làm táo bạo mà nhiều  đấng nam nhi không có được. Sau này Thùy Mai tỏ ra thất vọng  khi viết thư cho chúng tôi nhận xét rằng chúng tôi là những kẻ cô đơn trên con đường gian nan vì nhiều người khác trước đây ủng hộ nay đã quay lưỡi 180 độ hoặc chỉ nói suông mà không dám làm điều gì thiết thực.

Về quan hệ cá nhân  với tôi, sau khi biết BY đã biết về mối quan hệ đó, Thùy Mai tỏ ra rất lo lắng ngại ngùng và cùng với nhiều lý do khác tôi không hiểu rõ, Thùy Mai đã lặng lẽ đoạn tuyệt với tôi không lời giải thích. Mấy năm gần đây , có lần Bùi Minh Quốc  ra Huế gặp Thùy Mai ở quán café “Dã Qùy”- quán do Mai mở ở nhà. Quốc kể lại, nói đã rất ngạc nhiên và thất vọng khi Thùy Mai không nhắc gì đến chuyện đấu tranh trước nay và cũng không hề hỏi thăm gì về tôi và các bạn cũ ở ĐàLạt. Tôi không phán đoán gì về những điều Quốc kể. Tôi nghĩ mọi chuyện đều có thể xảy ra và có những điều trong nội tâm một người mà người khác không thể hiểu được.

Lần này về Huế tôi cũng muốn gặp Thùy Mai như gặp một người bạn cũ thân thiết. Tuy nhiên tôi không muốn làm buồn lòng BY. Chuyện đã xảy ra hơn 10 năm. Hồi đó biết chuyện, BY rất buồn nhưng cũng tỏ ra rộng lượng đối với tôi, dần dà cũng nguôi ngoai qua thời gian và đến nay mọi chuyện đã thuộc về quá khứ. Tuy nhiên nếu tôi gặp Thùy Mai, chuyện ngày xưa sẽ gợi lại điều gì nơi BY, tôi không dám chắc. Tôi biết trong chuyện này phụ nữ rất khó quên và dễ bị tổn thương. Tốt hơn tôi không nên nhắc đến. Tôi đã tự nhủ dành trọn vẹn chuyến đi này cho BY, không làm bất cứ điều gì BY không muốn hoặc không vui ( trừ chuyện chạy xe tốc độ nhanh mà BY nhắc nhở nhiều lần vì tôi không muốn kéo dài thời gian chạy trên đường sẽ rất mỏi mệt). Tôi đã nợ BY nhiều hơn bât cứ ai và tôi cứ nói đùa sau chuyến đi này tôi  không những sẽ trả hết nợ mà còn lời thêm. Cũng chính vì lý do này mà tôi đồng ý với BY chỉ ớ lại Huế một đêm dù đúng ra tôi phải ở đây nhiều hơn những nơi khác.

Thế là tôi đã rất gần Thùy Mai mà không hề hay biết. Tôi chợt  nhớ  mấy câu thơ nổi tiếng của BMQ, trong một ý nghĩa khác:

                                           Có khi nào trên đường đời tấp nập

                                           Ta vô tình đã đi lướt qua nhau

Ăn trưa xong,  chúng tôi từ gĩa vợ chồng Dũng và Trần Công Tín, về nhà trọ trả phòng kịp giờ hẹn và lên đường đi Quảng Trị ngay.

Buổi trưa, chạy dọc con đường lớn truớc hoàng thành ra khỏi thành phố, dù trời nắng chúng tôi vẫn có cảm giác âm u. Công viên hai bên đường quá nhiều cây dày đặc và tán lá thấp giao nhau nên trông có vẻ tối tăm, u ám chứ không thóang mát. Tôi nghĩ tại sao người ta không tỉa bớt cây và cành để không gian được thông thoáng hơn.

Một điều không vui khi rời Huế là cảm nhận đối với phố xá không có được dáng vẻ cổ kính hài hoà với khung cảnh hoàng thành mà cá cái gì đó chật chội, bức bối, lộn xộn và hơi nghèo nàn, nếu so với những thành phố lớn phát triển theo hướng hiện đại như Đà Nẵng. Đây có lẽ là một mâu thuẫn khó giải quyết cho một cố đô trong thời hiện đại, khi kinh tế còn kém phát triển, người dân chỉ lo kiếm sống và nhà nước chưa đủ sức, đủ tầm để xây dựng một mô hình thành phố hoàn mỹ với tính đặc thù không  đâu có trên đất nước này.

 

 

 

 

 

7.

 

            Chặng đường Hue - Quảng Trị lại quá xấu và bụi bặm. Chưa đến 60 cây số mà chúng tôi đi mất gần 3 giờ. Giữa đường may mắn chúng tôi gặp một quán giải khát hiếm hoi có võng nằm và chúng tôi nghỉ lại đó khá lâu. Quãng đường này ở địa phận Thừa Thiên không có gì đặc biệt, cảnh vật chung quanh cũng chỉ là ruộng đồng thôn xóm nghèo nàn, nhưng gần ra Quảng Trị, hai bên đường toàn là trảng cát trắng. Người ta trồng phi lao để giữ cát chứ chẳng thấy loại cây gì khác. Chẳng trách từ xưa Quảng Trị vẫn là một tỉnh nghèo.

          Thị xã Quảng Trị nằm gần bên phải quốc lộ 1, dọc hữu ngạn sông Thạch Hãn. Nơi đây tôi đã sống thời thơ ấu lúc học tiểu học và sau này thời sinh viên có ra thăm vài lần nhưng bây giờ tôi hết sức ngỡ ngàng. Tôi đã nghe kể nhiều người lâu ngày trở lại Quảng Trị cũng có cảm gác  như tôi vì trong chiến tranh, thị xã này đã bị phá hủy hoàn toàn. Bây giờ Quảng Trị là một thị xã nhỏ bé, hiền hòa và hơi “quê mùa” so với các thành phố khác chúng tôi đã đi qua. Chỉ có một con đường chính trải nhựa, còn lại là đường đất, quy hoạch ngay  thẳng theo kiểu bàn cờ. Phố xá lèo tèo, hàng hóa ít ỏi, kém sầm uất so với nhiều thị trấn nhỏ trên quốc ộ 1. Tôi đã được biết lý do vì thị xã chính, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng trị đã được dời ra Đông Hà, cách 15 cây số về phía Bắc nên nơi đây không phát triển được nữa. Trong tương lai có lẽ Quảng Trị cũng chỉ là một địa danh mang tính lịch sử với hồi ức một thời điểm được gọi là “mùa hè đỏ lửa” kinh hoàng chết chóc  năm 1972

  Chúng tôi ghé vào Bưu điện thị xã gọi điện thoại cho Đỗ Tư Nhơn  mới phát hiện cuốn sổ điện thoại chúng tôi mang theo đã mất. Có lẽ BY đã bỏ quên ở một trụ điện thoại thẻ công cộng nào đó ở Huế vì BY gọi rất nhiều lần. Thường By làm nhiệm vụ này vì tôi phải ngồi trên xe đậu ngoài đường và tính BY lại hay quên. Tôi bảo BY cứ đi tìm chỗ nghỉ trứơc đã rồi sẽ tìm cách liên lạc với Nhơn sau. Ở một thị xã nhỏ bé như thế này, Nhơn đã dạy học gần 40 năm, có lẽ cứ ra đứng ngòai đường hỏi, chắc chắn sẽ có nhiều người biết, nhất là đám học trò.

Cô nhân viên bưu điện chỉ đường cho chúng tôi đến nhà khách thị xã gần đó. Ở đây rất ít  khách sạn tư nhân. Chúng tôi đặc biệt hài lòng với nhà khách rộng rãi bên bờ sông này. Tuy trang thiết bị không hiện đại nhưng cũng khá tiện nghi, phòng rộng và gía lại đặc biệt rẻ. Cô tiếp viên bảo có mấy phòng thoáng mát trên lầu, chúng tôi muốn chọn phòng nào cũng được. Lại tha hồ giặt rũ và có chỗ phơi đồ ngoài sân thượng, điều mà các khách sạn lớn khác không dễ gì có. Có lẽ nơi đây rất ít khách và khách đi công tác là chính.

BY hỏi thăm cô tiếp tân và quả nhiên cô biết  Đỗ Tư Nhơn, sau một lúc tìm kiếm đã cung cấp cho BY số điện thoại  và địa chỉ  của Nhơn. BY gọi điện cho Nhơn hẹn một giờ sau chúng tôi sẽ đến nhà Nhơn nhưng chúng tôi vừa thay quần áo tắm rửa chưa kịp nghỉ ngơi Nhơn đã mau mắn tìm đến gõ cửa.

Nhơn học ban Văn sau tôi một khóa ở Đại Học Sư Phạm, là thành viên của nhóm Việt và thời còn đi học chúng tôi khá thân  nhau. Nhơn tính tình hiền lành, chân chất, ít hoạt động nhưng rất được bạn bè yêu mến. Nhơn dẫn chúng tôi về nhà  nằm trên một con đường  đất nhỏ. Nhơn bảo đã dựng lại nhà trên mảnh vườn xưa, nơi tôi đã từng ra chơi nhưng tôi chẳng nhớ gì cả. Căn nhà lợp ngói, kiểu cổ và đơn sơ như cuộc đời nhà giáo của Nhơn. Tú - vợ Nhơn, cũng là cô giáo dạy văn. Con gái út Nhơn  mới tốt nghiệp đại học cũng là cô giáo. Nhơn bảo bằng lòng với cuộc đời nhà giáo bình dị ở tỉnh lẻ quê hương này vì không muốn bon chen, cạnh tranh trong xã hội quay cuồng bát nháo hiện nay.

Vợ chồng Nhơn mời chúng tôi đi ăn ở một quán bên quốc lộ 1. Thức ăn là các món đặc sản của địa phương, đặc biệt có món canh chua cá ngạnh nấu măng le rất ngon. Đang ăn điện bỗng tắt phụt. Chủ quán phải đốt nến và khoảng 20 phút sau mới có điện lại. Nhơn bảo ở đây chuyện mất điện như thế rất thường. Đúng là một tỉnh lẻ bị thua thiệt. Ăn xong, vợ Nhơn cáo mệt xin về nghỉ, Nhơn tiếp tục đưa chúng tôi đi uống café  nói chuyện.

Dọc bờ sông Thạch Hãn, ban đêm quán café đèn mờ  mọc lên  thành dãy dài. Người ta chỉ câu ra mấy ngọn điện xanh đỏ, bày mấy bộ bàn ghế ni lông là đã thành quán nhưng khách khá đông, phần lớn là thanh niên nam nữ. Nhơn bảo ở đây chẳng có trò vui chơi  giải trí gì nên ban đêm thanh niên chỉ biết ra ngồi quán.

Chúng tôi ngồi ở quán café của Nhà Văn hóa bên này đường, lịch sự hơn và không tối tăm như các quán sát bờ sông. Nhà Văn hóa này lâu lâu mới có hoạt động, bình thường cũng chỉ bán café. Ở đây quán để nhạc trữ tình tiền chiến và nhạc Trịnh Công Sơn, có cả nhạc Pháp, nghe cũng êm dịu. Nhơn nói chuyện nhiều và tỏ ra rất vui khi gặp chúng tôi. Có lẽ khá lâu Nhơn mới gặp lại bạn cũ và chỉ có chúng tôi đi du lịch ba lô kiểu bụi đời này mới lặn lội ra đây thăm Nhơn.

Trong những chuyện Nhơn kể có hai chuyện làm chúng tôi chú ý. Chuyện thứ nhất liên quan đến Hàn Vũ Hùng. Hùng là một nhà văn trẻ, tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du, quê ở Đông Hà, Quảng Trị. Hùng viết nhiều nhưng ít được đăng vì tác phẩm có nội dung cấp tiến, trực tiếp đụng chạm đến chế độ. Tôi có gặp Hùng một lần ở Đà Lạt lúc Hùng lên đó chơi và đã được đọc một tập bản thảo truyện ngắn và lý luận phê bình của Hùng. Theo  tôi  đó là một nhà văn trẻ khá  độc đáo và nhiều triển vọng. Sau này tôi nghe nói Hùng bất đắc chí  đi ta bà khắp nơi và tu thiền theo đạo của Thanh Hải Thượng Sư. Có thời gian nhà nước đàn áp đạo này, đưa lên truyền hình phê phán Thanh Hải Thượng Sư và buộc các tín đồ phải bỏ đạo. Hùng đã kịch liệt chống lại, công khai viết thư gửi các nhà lãnh đạo để bênh vực Thanh Hải Thượng Sư và lên án các biện pháp trấn áp. Hùng bị bắt giam ở Đông Hà và sau đó chết trong tù, hình như vì quá căng thẳng và suy sụp.

Chuyện thứ hai liên quan đến Thượng Tọa Thích Hải Tạng. Thượng Tọa Hải Tạng là một trong mấy nhà sư ở chùa Linh Mụ đã tổ chức biểu tình chống chính quyền, gây ra một  vụ náo động ở Huế hình như vào năm 1989 và đã bị bắt giam,  kết án mấy năm tù. Sau này Thượng Tọa Hải Tạng ra trụ trì một chùa ở Quảng Trị. Thời còn đi học có thời gian Thượng Tọa Hải  Tạng là học trò của  vợ Nhơn. Do đó khi ra Quảng Trị, Thượng Tọa Hải Tạng có  lui tới thăm cô giáo và cô cũng có đến thăm học trò cũ tại chùa. Chỉ có thế mà vợ Nhơn cũng bị gọi lên kiểm điểm và bị buộc không được lui tới thăm viếng Thượng Tọa Hải Tạng. Vợ Nhơn đã khẳng khái bác bỏ chuyện này vì cho rằng đó chỉ là quan hệ  thầy trò, không liên quan đến chính trị và không thể cấm đoán mối quan hệ như thế.

Rõ ràng đặc biệt trong những vấn đề chính trị liên quan  đến sự tồn vong của chế độ và vai trò lãnh đạo của đảng, bộ máy trấn áp làm việc  rất hữu hiệu, không có chuyện nhỏ nhặt gì có thể thoát qua con mắt của công an. Trong khi đó những việc nghiêm trọng khác liên quan đến tham ô, lãng phí, buôn lậu, ma túy, trộm cướp, giết người và đủ thứ tệ nạn xã hội khác vẫn ngang nhiên tiếp tục phát triển. Công bằng mà nói, nhà nước và công an cũng giải quyết được  nhiều vụ nhưng các vụ được giải quyết không thấm gì so với vô số vụ khác diễn ra như chuyện thường ngày. Đây là vấn đề đáng suy nghĩ. Cần “ổn định chính trị” nhưng “ổn  định chính trị” là gì? Đó có phải chỉ là đàn áp đối lập để duy trì vị trí lãnh đạo độc tôn trong khi bộ máy nhà nước và xã hội tiếp tục băng hoại và suy đồi? Điều này về lâu về dài sẽ nguy hiểm hơn không những cho cả đất nước mà còn ngay cả đối với bộ máy thống trị. Vụ Năm Cam nhà nước đang đem ra xét xử mà đi đâu cũng thấy dân chúng theo dõi bình luận là một thí dụ điển hình. Một gã xã hội đen ít học có thể chi phối guồng máy từ địa phương cho đến trung ương, làm hư hỏng tha hóa một loạt cán bộ có chức quyền từ cấp thấp đến cấp cao. Đó không phải là mối nguy chí tử trước mắt và lâu dài hay sao?

Những chuyện liên quan đến chính trị, chúng tôi chỉ nói thoáng qua.Chúng tôi nói nhiều đến chuyện gia đình và nhắc lại kỷ niệm về bạn bè cũ. Đến tận khuya chúng tôi mới chia tay Nhơn. Sáng mai Nhơn bận một cuộc họp quan trọng ở trường không bỏ được, Nhơn nói sáng sớm sẽ đến rủ chúng tôi đi uống café nói chuyện nữa nhưng chúng tôi bảo thôi vì sáng mai chúng tôi dự định đi thăm thánh địa La vang rồi sau đó đi ngay Quảng Bình. Chúng tôi thật sự cảm động vì tình cảm Nhơn đã giành cho chúng tôi. Quả thật một tình bạn chân chính sẽ mãi mãi bền chặt cho dù người ta có thể rất xa nhau trong không gian va thời gian. Tình bạn trong sáng, vô vị lợi hình như càng ngày càng hiếm và chúng tôi chỉ còn tìm thấy nơi những ngừơi cũ quen biết từ thủơ thiếu thời.

Từ thị xã Quảng Trị, trên quốc lộ 1, có một con đường nhỏ rẽ về hướng tây dài khoảng 6 cây số dẫn vào thánh địa La Vang. Con đường nhỏ tráng nhựa chạy dọc một con sông có rất nhiều xe ben qua lại hình như để phục vụ cho một  công trường gì phía trong.

Thánh địa Đức Mẹ La Vang là một khu đất khá rộng, phía trứơc là một cổng sắt lớn và hàng rào xi măng đơn giản. Bên trong một con đường lớn dẫn vào nhà thờ, hai bên là hai thảm cỏ xanh dài ngút mắt với hai hàng tượng sơn trắng, có cả hàng cột đèn huỳnh quang chiếu sáng.  Chúng tôi đi vòng sang bên phải để vào cổng phụ phía sau. Gần đến cổng chúng tôi giật mình vì một đám đông ở đâu túa ra chặn đầu xe chúng tôi mời chào mua hoa huệ. Ai cũng cầm mấy bó hoa ấn vào người chúng tôi. Đang bối rối, tôi chợt thấy một tấm bảng gắn cạnh cổng  ghi nhà thờ yêu cầu khách hành hương không nên mua bán gì ngoài cổng vì sẽ gây náo loạn mất trật tự. Thế là tôi bảo BY đừng mua và tắt máy dắt xe vào măc cho đám đông nhao nhao ầm ĩ. Ở đâu cũng có cảnh mua bán chụp giựt thiếu văn minh này thật ngán ngẩm, đôi khi làm khách du lịch mất cả hứng thú.

Bên trong khuôn viên thánh địa, cảnh vật rất yên tĩnh, thoáng mát, nhà cửa bố trí hợp lý và ngăn nắp. Sát cổng phụ là nhà bảo vệ, nhà sách và nơi bán hàng lưu niệm, tiếp đến là khu vực để xe. Chính giữa là nhà thờ, sau nhà thờ phía bên phải có khu nhà ở và phía trước bên trái là công trình chính: đền thờ Đức Mẹ La Vang. Giữa các công trình là lối đi trải gạch xi măng với nhiều bồn hoa và cây cảnh.

BY đến cầu nguyện trước đền thờ Đức Mẹ, tôi loanh quanh ngắm cảnh. Đền thờ là một bệ cao có bậc cấp đi lên. Tượng Đức Mẹ không lớn lắm, thể hiện dưới hình tượng một phụ nữ Việt Nam mặc áo dài màu xanh ngọc, đầu đội khăn vành màu vàng, tay bế Chúa Giêsu hài đồng. Chung quanh tượng có ba cột xi măng lớn sù sì  dạng thân cây tượng trưng ba gốc đa  nơi ngày xưa Đức Mẹ hiện hình, với một số lá rộng hình  nấm cũng bằng xi măng, chung quanh có dây leo thật mọc quấn quýt. Một vài cây lớn và các cụm hoa giấy, các chậu hoa, cây cảnh đặt rải rác tạo một không khí mát mẻ, êm dịu và thanh khiết.

Một vài khách hành hương kính cẩn cầu nguyện, sau đó nói chuyện gì rất sôi nổi, hình như nói về sự linh thiêng của Đức Mẹ. Người  bảo vệ cho tôi biết ngày nào cũng có khách phương xa hành hương, riêng ngày nghỉ và ngày lễ khách đến đông đảo. Ở đây còn có dịch vụ làm bia ghi lời cầu nguyện tạ ơn.

BY bảo tôi  tạ ơn Đức Mẹ đã phù hộ  thoát khỏi tai nạn trong đường tơ kẽ tóc ở gần Lăng Cô nhưng tôi nói BY đại diện được rối. Tôi có niềm tin khác với BY và không cản trở cách thể hiện của BY. Tôi hay  nói đùa với BY là tôi không theo đạo nào nhưng không  chừng sẽ lên Thiên đàng trước nhiều người nên đừng lo.

Trước khi rời Quảng Trị, chúng tôi còn cố giành một ít thời gian đi xem  di tích Thành Cổ gần ngay nhà khách.  “Di tích Thành cổ”  thực ra chỉ là một chút bờ tường bằng gạch còn sót lại bên ngoài, bên trong phía sau cổng có người gác là một khu vực mới xây dựng gồm cây cảnh và một nhà bảo tàng. Nghe  người gác nói thế nên chúng tôi không vào. Di tích chiến tranh thực sự còn lại là một góc tường của trường Bồ Đề bị đạn bắn thủng lỗ chỗ mà người ta còn giữ lại và ghi chú, nằm ngay trên con đường lớn nhất của thị xã, khi chạy xe qua lại chúng tôi vẫn thấy.

Điều vui vui khi chúng tôi rời Quảng Trị là một hình ảnh hiếm thấy ở nơi khác. Lúc BY vào chợ để mua bánh mì, tôi định chạy xe vào sát cổng để nhìn một tí bỗng thấy một sợi dây chăng ngang nằm sát đường đựơc giật lên để chặn lại. Thì ra có một bà bắc ghế ngồi bên đường chuyên làm nhiệm vụ này. Tôi đành phải lui xe ra xa chờ. Quả là một loại hàng rào độc đáo hình như tôi đã thấy đâu đó từ xưa lắm, lúc tôi còn bé.

Chúng tôi vẫn còn kịp đi uống café ăn sáng ở quán dã chiến bên bờ sông Thạch Hãn. Buổi sáng chúng tôi mới thấy rõ người ta đang xây kè dọc hữu ngạn để ngăn đất lở. Hy vọng tương lai bờ sông trữ tình này sẽ làm đẹp thêm thành phố. Tôi còn nhớ mơ hồ thời sinh viên tôi đã trải qua một đêm tuyệt vời kỳ diệu bên bờ sông này dưới ánh trăng  và tầng lá phượng  đẫm sương… Bên kia sông là Nhan Biều, một tên gọi nghe âm vang thời nhỏ dại, hình như người ta đang trồng bắp, đậu thành một dải  xanh rì êm ả.

Chúng tôi về trả phòng và tiếp tục chặng đường đi Quảng Bình dài 150 cây số.

                                       

 

                                                       *   *     *

 

 

 

 

 

8.

 

 

Từ thị xã Quảng Trị trở ra, ruộng đồng bắt đầu xanh tốt trù phú. Đông Hà trước là một trị trấn nhỏ, gần đây trở thành thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị đã nhanh chóng phát triển. Một nguyên nhân khác là Đông Hà có đường lên cửa khẩu qua Lào nên việc buôn bán sôi động nhất là buôn lậu qua biên giới mà báo chí thỉnh thoảng vẫn nêu.  Thị xã dài đến 5 cây số dọc theo quốc lộ 1 và nghe nói sâu vào hai bên cũng mấy cây số, đường sá nhiều nhà cửa san sát. Một người bạn tôi quê ở đây sau mấy lần về thăm quê kể  những nhà to đẹp, sang trọng nhất đều là nhà của cán bộ có chức quyền. Tuy nhiên khi chạy trên quốc lộ 1, không dừng lại, chúng tôi chỉ thấy hình ảnh một thị xã xô bồ, bụi bặm như một số nơi khác với tính chất tự phát vô tổ chức của  phố xá thời kinh tế thị trường.

Chúng tôi chạy ngang qua các địa danh Cồn Tiên, Dốc Miếu nổi tiếng thời chiến tranh , nay có những tấm biển ghi:”Khắc sâu tội các của giặc Mỹ xâm lược” và dừng lại chụp hình bên bờ Nam cầu Bến Hải rồi qua  bên bờ Bắc nghỉ ngơi.

Cầu Bến Hải, được ghi tên chính thức cầu Hiền Lương đã được làm mới, rộng rãi như các cầu khác trên quốc lộ 1. Bên cạnh, nơi vị trí của cầu cũ, thấy có mấy trụ  móng đang xây dựng dở dang, nghe nói hình như người ta định phục chế lại cầu cũ để lưu niệm một thời. Thời sinh viên, lúc sinh hoạt hướng đạo trong tráng đoàn Bạch Mã của Thừa Thiên - Huế tôi đã từng đi du khảo với tráng đoàn và chụp ảnh tại cầu này. Bây giờ nhìn lại, thấy con sông chia cắt đất nước này quá nhỏ, chỉ cần bơi mươi sải tay đã có thể vượt sông. Không xa đầu  cầu bờ Bắc, người ta có dựng một tượng đài ghi”Cột mốc giới tuyến quân sự tạm thời 54- 75”.

Rõ ràng  “Cột mốc giới tuyến quân sự tạm thời” chỉ là một cách nói trong các văn bản chính trị. Thực chất con sông bé nhỏ tội nghiệp này đã mang tiếng chia cắt đất nước trong hơn 20 năm phân ly và thù hận, với một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã làm đổ biết bao máu xương của người Việt vì những nhân danh chính nghĩa. Đất nước đã thống nhất với một giá đắt không gì có thể bù đắp. Bây giờ sau gần 30 năm hòa bình, thống nhất, con sông Bến Hải này không còn chia cắt đất nước nhưng đất nước đã thực sự hết phân ly chưa? Tôi e rằng chưa. Vì phân ly không chỉ trên sông núi mà  còn phân ly trong lòng người. Hơn hai triệu người Việt bỏ nước ra đi, đến nay có bao nhiêu người vẫn hô hào chống cộng và không dám , không được trở về đất nước? Bao nhiêu người đã trở về và lại ra đi vì lòng không thanh thản, không tìm thấy hơi ấm tình thân nơi quê hương? Bao nhiêu người không cần trở về quê hương vì đã nhận một đất nước khác làm quê hương? Đó phải chăng là phân ly?

Và ở trong nước, bao nhiêu người tự nhận là lưu vong ngay trên đất nước mình như Hà Sĩ Phu, dù nói ra hay không, vì thấy mình không có chút quyền gì trên đất nứơc do đã bị người khác độc quyền yêu nước,  mới chỉ đưa ra vài ý kiến để xây dựng đất nước khác với quan điểm của nhà cầm quyền, lập tức sẽ bị tù đày, quản chế. Kể cả tôi bây giờ, tôi có thể chạy xe suốt dọc đất nước để nhìn ngó nhưng một anh chàng tây du lịch ba lô cũng có thể đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm chẳng khác gì tôi. Tôi chỉ có thể nhìn ngó mà không được quyền chính thức lên tiếng về bất cứ điều gì nếu không muốn bị chụp lên đầu một cái mũ phản động. Đó phải chăng cũng là phân ly?

Đó là nói về những người có ít nhiều  nặng lòng vì đất nước. Còn với đa số nhân dân đang từng ngày vật lộn với miếng cơm manh áo?  Họ cần gì đến đất nước?

Những người lao động làm thuê bỏ quê hương bản quán tìm vào các đô thị, đổ mồ hôi sôi nước mắt làm bất cứ việc gì để kiếm sống ngày hai bữa. Những người buôn bán nhỏ phơi mặt ngoài đường suốt ngày, thắp một cây nhang cắm trên cục gạch van vái ơn trên phù hộ, luôn  cau có căng thẳng vì  ế khách. Những người buôn bán đồ lưu niệm hay ăn xin lẻo đẻo bám theo quấy rầy khách nước ngoài. Những người đi xuất khẩu lao động bị o ép, hành hạ nơi xứ người. Các cô gái đi làm điếm, làm vợ thuê trên đất khách. Và cả những nông dân miền Bắc mới mồng 1 Tết đã phải ra đồng” bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” ( Mấy năm liền Truyền hình Việt Nam chiếu cảnh mồng 1 Tết cán bộ mặc đồ lớn ra tận bờ ruộng mời rượu chúc Tết trước khi nông dân xuống đồng. Một cách tuyên truyền ngu dốt và phản tác dụng hết chỗ nói! )

Trong khi đó, biết bao cán bộ có chức quyền lớn nhỏ tham ô, lãng phí, nhà cao cửa rộng, ăn trên ngồi trốc, chơi bời xa xỉ. Biết bao kẻ làm ăn buôn gian bán lận, móc ngoặc với người có chức quyền bòn rút của cải của nhà nước và nhân dân, có cuộc sống sung sướng gấp vạn lần những người lao động chân chính. Đó phải chăng cũng là phân ly?!

Đất nước độc lập thống nhất để làm gì? Gạt qua bên những ca ngợi hay phê phán, phải thừa nhận ông Hồ Chí Minh có những câu nói rất chí lý: “Đất nước độc lập mà nhân dân không có hạnh húc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì.”, “ Dân đói, chính phủ có lỗi. Dân rét, chính phủ có lỗi…”.Những người cầm quyền hiện nay tự nhận theo tư tưởng HCM nghĩ gì và làm gì trước thực trạng hiện nay. Trước đây mỗi lần họp quốc hội hay chính phủ kiểm điểm công việc không thấy ai nhận lỗi, nhận khuyết điểm gì cả, mới gần đây tiến bộ hơn, các cán bộ  đảng và chính phủ có nhận trách nhiệm nhưng cũng chẳng ai bị phê phán hay cách chức. Và năm sau cứ thế tiếp tục năm trước một điệp khúc…Ai chịu trách nhiệm về đất nước? Đất nước có ích gì cho mỗi người dân? Ai yêu nước và ai độc quyền yêu nước?

Tôi nhớ đã khá lâu tôi có viết một bài báo tranh luận với Nguyễn Gia Kiểng  đăng trên tờ Thông Luận  xuất bản ở Pháp về vấn đề tổ quốc và lòng yêu nước. Tôi đã phản bác NGK khi ông đồng hóa tổ quốc với chế độ. Mấy năm sau, trong hoàn cảnh bị quản chế, tuy vẫn không đồng ý với ông, nhưng tôi có phần nào chia sẻ tâm trạng với những người lưu vong xa đất nước không thể làm gì cho tổ quốc. Gần đây tôi chưa được đọc  nhưng nghe nói NGK có xuất bản cuốn “ Tổ quốc ăn năn” rất nổi tiếng và gây tranh cãi, cũng vẫn tiếp tục luận điểm đồng hóa tổ quốc với chế độ. Tôi cho rằng tổ quốc không thể đồng hóa với chế độ vì rõ ràng chỉ có một tổ quốc nhưng rất nhiều chế độ. Tuy nhiên đúng là có hiện tượng chiếm đoạt tổ quốc của những người cầm quyền, tổ quốc thành của riêng của một triều đại, một chế độ. Các triều đại vua chúa ngày xưa đã làm như thế và ngày nay cách nói “tổ quốc xã hội chủ nghĩa” là  một thí dụ và thể hiện điển hình nhất. Dù đảng cầm quyền có theo đường hướng xhcn cũng không nên và không thể gọi tổ quốc  là tổ quốc xhcn và buộc mọi công dân phải thừa nhận, phục tùng.

Vì thế đã có nhiều người có tâm trạng không còn tổ quốc, không yêu tổ quốc, sợ hãi kinh hoàng tổ quốc, chống đối tổ quốc. Đây không phải là một vấn đề mới. Ngày xưa bên Tàu có chuyện Sào Phủ, Hứa Do thà nhịn đói mà chết chứ không chịu ăn thóc nhà Chu. Tâm trạng đó đâu có khác một số người Việt hiện nay. Nhưng thực ra thóc nào phải của nhà Chu, tổ quốc này đâu phải của riêng ai, của chế độ nào.

Suy nghĩ chuyện chính trị nhiều không thích hợp với chuyến đi này nhưng tôi không thể tránh. Lẽ nào tôi chỉ thưởng thức, ngó nhìn như một người ngoại quốc trên đất nước mình?

 

 

Thị xã Đồng Hới mới nhìn có vẻ  khang trang sạch sẽ. Trên đường quôc lộ 1 có nhiều khách sạn nhưng chúng tôi không vào vì kinh nghiệm  những khách sạn ở vị trí này vừa đắt vừa ồn ào, ban đêm khó ngủ vì tiếng xe chạy, hầu như suốt đêm. Vài khách sạn ở mấy con đường nhỏ phía trong ở được nhưng chúng tôi muốn thử ra bãi biển Nhật Lệ để nếu tiện ở luôn ngoài đó tắm biển. Bãi Nhật Lệ không xa lắm, chỉ cách trung tâm thành phố hơn 3 cây số, trên đường đi cũng là phố xá và khu dân cư. Bãi Nhật Lệ vắng đẹp,  một vài chỗ có đá, có bờ kè dọc theo con đường uốn quanh bờ biển. Nơi đây một loạt khách sạn lớn mới được xây dựng, trong đó có khách sạn Phong Nha 3 sao nhiều tầng, xen kẽ giữa các nhà trọ tư nhân và nhà hàng đặc sản. Gía cả ở nay hơi đắt nên sau khi  hỏi thăm, ngồi ngắm biển một lúc chúng tôi chạy trở lại trung tâm thị xã vào thuê nghỉ ở nhà khách Ngân Hàng, nơi BY đã hỏi qua lúc mới đến, của cơ quan nhà nước nhưng vừa phục vụ cho nội bộ ngành vừa phục vụ khách du lịch.

Buổi tối chúng tôi ăn một bữa cơm khá ngon miệng ở quán ăn gần đó nhờ món ăn hợp khẩu vị nhất là món rau bí xào dân dã mà BY rất thích. Ăn xong chúng tôi lại ra tiệm dịch vụ Internet. Đến đâu chúng tôi cũng gởi mail cho các con và vài người thân kể về chuyến đi. BY rất hăng hái trong công việc này, dù mệt đến mấy cũng làm. Nhiều nơi tôi về nghỉ trước, để BY ở lại tha hồ mail bao nhiêu tùy thích. Ở đây cô chủ tiệm cho biết dịch vụ Internet mới có khoảng hơn mấy năm nay, cửa tiệm không nhiều lắm và làm ăn cũng được. Tiệm của cô có gần 20 máy, ban đêm lúc nào cũng kín người.

Sáng hôm sau, cô tiếp tân nhà khách chỉ cho chúng tôi đường đi động Phong Nha, xa  khoảng 50 cây số. Phong Nha là một điểm du lịch mới nổi tiếng gần đây. Chạy theo quốc lộ 1 ra hướng Bắc khoảng 10 cây số đến thị trấn Hoàn Lão có đường rẽ trái về hướng Đông. Con đường nhỏ, ít xe, hai bên là đồng ruộng và làng xóm thưa thớt, có nơi dân cư đông đúc. Gần đến cuối đường có một khu rừng thông khá đẹp, hiện tượng hơi hiếm ở khu vưc miền trung này. Hết con đường nhỏ, chúng tôi chạy theo một con đường lớn mới mở và chẳng mấy chốc nhìn thấy một vùng núi non phía xa xa. Núi ở đây hình thù giống mấy ngọn Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng, không cao lắm, ít cây nhưng rất nhiều ngọn và trải dài lô xô mờ ảo in hình trên nền trời trông thật lạ, khác hẳn những rặng núi cây cối thâm u của dãy Trường Sơn  chúng tôi quen nhìn ở Tây Nguyên và Nam trung bộ

Khu du lịch ở đây do nhà nước tổ chức khép kín gồm nơi để xe, phòng bán vé, cửa hàng lưu niệm.,bến thuyền, khách sạn. Các hàng quán của tư nhân ở chung quanh lác đác không đáng kể. Vé cho mỗi người 25.000 đồng. Thuyền mỗi chuyến chở tối đa 8 người giá 80.000đ. Lúc chúng tôi đến quá trưa, ít khách nên đành phải thuê nguyên chuyến,  không  đợi được vì nghe nói chuyến đi mất đến 3-4 giờ. Tuy nhiên lúc xuống thuyền sắp khởi hành, chúng tôi nghe nói đi thăm động phải có hướng dẫn viên đi theo nên tôi lên phòng vé khiếu nại. Đúng lúc có một đoàn 4 người đến mua vé nên tôi đề nghị đi chung và họ đồng ý. Phòng vé cũng cử một hướng dẫn viên cùng đi.

Cô hướng dẫn viên rất trẻ, khá xinh, mặc áo dài, ăn nói hoạt bát, giọng Quảng Bình nhưng khá dễ thương, vừa xuống thuyền cô đã làm nhiệm vụ giới thiệu khái quát về chuyến đi. Thuyền chạy bằng máy nổ dọc theo sông Son ngược về phía thượng nguồn, hai bên sông rải rác những ngọn núi đá vôi và đồi thấp, phong cảnh hữu tình. Thuyền chạy khoảng nửa giờ mới đến nơi có cửa hang của  một con sông ngầm chảy trong lòng núi. Cửa hang này không lớn lắm, nằm dưới một vách đá dựng đứng, nhìn vào tối om. Chủ thuyền tắt máy và cùng hai đứa  nhỏ bắt đầu chèo tay. Cô hướng dẫn viên giải thích tiếng máy trong hang động vang chói tai không chịu nổi.

Ban đầu từ ngoài sáng vào hầu như chúng tôi không thấy gì chỉ nghe tiếng mái chèo vỗ nước  nghe âm u rờn rợn. Dần dần hang sáng lên mờ ảo bởi những ngọn đèn điện nhỏ thiết kế dấu sau các hốc đá. Đúng là một thế giới kỳ ảo. Lòng  sông rộng dần và trần hang cũng cao hơn, có nơi đến vài chuc mét. Vô vàn thạch nhũ đủ mọi hình thể phô diễn bên vách đá và trên trần động lung linh ẩn hiện làm mọi người hầu như nín thở nhìn ngắm. Thỉnh thoảng giọng cô hướng dẫn viên ngân vang nhè nhẹ giải thích về một hình thù đặc biệt nào đó.

Thuyền đi trong động một khoảng dài 800m. Cô hướng dẫn viên bảo các nhà thám hiểm đã vào sâu 8 cây số trong lòng núi  với vô vàn ngỏ ngách hang động và con sông này xuất phát từ Lào dài đến 40 cây số. Đúng là một kỳ quan hiếm thấy. Các nhà thám hiểm thuộc Hội địa lý Hoàng gia Anh,, hiện đang có mặt ở đây, đã giúp phát hiện thêm hang động, công nhận Phong Nha là một hang động thuộc loại lớn nhất thế giới và nhà nước đang làm thủ tục để xin Unesco công nhận là di sản thiên nhiên thế giới vì có đủ tiêu chuẩn do Unesco đề ra. Quả thật  so với Phong Nha, các hang động ở Ngũ Hành Sơn  chẳng nghĩa lý gì và ở đây thuần thiên tạo, không có chùa và tượng Phật như ở Ngũ Hành Sơn.

Thuyền dừng lại bên cạnh một đường lên hang bên vách đá. Việc khai thác du lịch hang động chỉ từ đây trở ra vì vào sâu nữa chưa đủ điều kiện và khách có thể bị lạc trong lòng núi rất nguy hiểm.

Từ đây khách được hướng dẫn tham quan 3 hang lớn. Hang “Bi ký”, hang “Hội trường” và hang “Hoàng cung”. Các hang này rất rộng, thông nhau bằng những lối đi có nhiều ngõ ngách. Thạch nhũ ở đây là những tác phẩm điêu khắc dưới bàn tay thiên tài của tạo hóa. Những nàng tiên, các vị Phật, các loài chim, thú, các cột  có dây leo, thậm chí đến những  mái tóc óng ả hay thắt bện thành con rít tỉ mỉ đến từng chi tiết. Tất cả đều là thạch nhũ kết tủa qua hàng triệu năm làm cho người xem kinh ngạc và thán phục.

Hang “Bi ký” có dấu vết chữ khắc Chàm trên vách đá. Hang “Hội trường” có một mặt bằng rộng đủ cho một đoàn quân trú ẩn, thời chiến tranh bộ đội dùng làm nơi hội họp để tránh máy bay đánh phá. Hang “Hoàng cung” có đầy đủ  cả ngai vàng, long sàng, nơi thiết triều, giường nằm của Hoàng hậu…   Sự hấp dẫn ở đầy  là tất cả đều tự nhiên, lung linh mờ ảo, ít thấy dấu vết nhân tạo trừ một vài rào chắn đơn sơ được  dựng lên không cho khách đi sâu vào các ngõ ngách vì sẽ bị lạc. Điều lạ là dù sâu trong lòng núi không khí rất thanh khiết, không cảm thấy ngột ngạt và không thấy dấu vết các loài thú gây bẩn.

Khi chúng tôi vào hang, một đoàn khách đi trước đang ở đây, Mọi người thi nhau chụp hình. Chiếc máy ảnh cũ kỹ của chúng tôi quá tệ nhưng chúng tôi cứ chụp bừa, may ra giữ được chút hình ảnh. Có một thợ nhiếp ảnh đi theo chụp cho đoàn  đi chung thuyền với chúng tôi nhưng anh ta bảo phải chụp nguyên cuộn phim đưa cho khách đem về Mỹ rửa nên không chụp cho chúng tôi được. Xem các hang xong, chúng tôi  đi theo đường dọc vách đá ra một khoảng, đến nơi có thuyền lui về chờ sẵn để chở tiếp khách ra cửa hang. Thuyền chèo tiếp đến gần một khu đất cao bằng phẳng cạnh cửa hang. Nơi đây có quán giải khát và nhà vệ sinh để khách nghỉ ngơi trước khi đi tham quan tiếp.

Động chúng tôi vừa xem là động Phong Nha, động nước bên dòng sông ngầm. Theo chương trình chúng tôi sẽ tham quan tiếp động Tiên Sơn là động khô nằm phía sau ngọn núi cao kế khu vực nghỉ ngơi. Muốn đi trước hết phải leo mấy trăm bậc cấp dọc theo sườn núi, sau đó đi tiếp vào trong, thời gian mất gần 2 giờ. Cô hướng dẫn viên bảo động Tiên Sơn đẹp không thua gì động Phong Nha nhưng nhìn ngọn núi cao, mọi người đều ngần ngại. Đoàn đi với chúng tôi có một bà to mập ở Mỹ về mới đi xe hơi từ Huế ra bảo phải trở về  Huế trong ngày. BY cũng ngán sợ leo  không nổi và cảm thấy thỏa mãn với việc xem động Phong Nha, chúng tôi cũng phải trở về thị xã Đồng Hới trứơc khi trời tối. Cuối cùng chúng tôi thống nhất không thăm động Tiên Sơn nữa mà nghỉ ngơi một lúc rồi xuống thuyền.

Lúc thuyền trở về, xuôi dòng nhưng gió ngược rất mạnh, chúng tôi phải mặc áo thêm khoác. Tôi xin phép cô hướng dẫn viên chụp chung với BY một tấm hình làm kỷ niệm. Cô gái tóc dài da trắng có má lúm đồng tiền này tạo cho khách một cảm tình đặc biệt. Cô tốt nghiệp Khoa Văn Đại Học Huế, làm việc lương tháng chỉ có 300.000đ và phải ở lại trong khu vực này, hàng tuần mới về nhà được một lần. Cô đang học thêm ngoại ngữ và nghiên cứu thêm tư liệu về hang động này để có thể làm tốt hơn công việc của mình.

Chúng tôi lấy xe trở về lúc trời đã xế chiều. Đến ngã ba rẽ vào con đường cũ đã đi, tôi hỏi thăm mới biết con đường lớn chúng tôi đang  đứng là đường Trường Sơn chạy qua địa phận Quảng Bình. Con đường này song song với quốc lộ 1 và có đoạn áp sát thị xã Đồng Hới, do đó chúng tôi có thể chạy theo đường mới, rộng  đẹp và gần hơn so với đường cũ. Thế là tôi chạy theo đường mới. Đi du lịch phiêu lưu cá nhân kiểu này có cái thú hơn đi theo tour, có tính chất khám phá, bất ngờ và muốn đi đâu tùy thích.

Con đường mới quả thật là đẹp, đã tráng nhựa xong, thỉnh thoảng mới gặp một toán công nhân đang tiếp tục hoàn chỉnh phần mương hay cống. Đường rộng, chạy qua các vùng đồi núi vắng vẻ, ít xe qua lại. Khoảng đường nghe nói gần 40 cây số, trời chiều, BY hơi ngại nên tôi tăng ga chạy với tốc độ cao. Một cảm giác rờn rợn nhưng thú vị.

Đến ngã ba có con đường rẽ vào thị xã, một cảnh sát giao thông to lớn xuất hiện ra hiệu chặn xe tôi lại. Tôi hơi ngạc nhiên vì khu vực này thấy rất ít xe chạy. Tôi đưa giấy tờ, anh ta xem kỹ rồi đứng ngắm ngía bảng số xe TP/HCM sau xe tôi. Anh ta hỏi tôi từ đâu đến, đã đi Phong Nha chưa. Nghe chúng tôi nói từ Sàigòn ra, mới đi thăm động Phong Nha về, anh ta hỏi động Phong Nha có đẹp không. Chúng tôi khen động rất đẹp, là một thắng cảnh đẹp nhất mà chúng tôi đã tham quan trên đường đi, anh ta có vẻ khoái chí, trả lại giấy tờ cho tôi và chúc chúng tôi đi vui vẻ.

Từ đây chúng tôi phải hỏi đường, chạy loanh quanh một lúc lâu, mới ra đến thị xã lúc gần 6g chiều. Đúng là một chuyến tham quan đáng bõ công và rất ấn tượng.

 

 

Sau một đêm ngủ ngon giấc, chúng tôi lấy lại sức để tiếp tục cuộc hành trình. Trứơc khi đi chúng tôi còn chạy một vòng chụp hình mấy nơi: Cửa sông Nhật Lệ, chỗ có nhà thờ Tam Tòa đổ nát còn giữ lại làm di tích  chiến tranh. Nơi dự định làm tượng đài Mẹ Suốt và xây dựng một cây cầu bắc qua sông. “Quảng Bình quan” , một cổng trong hệ thống lũy thành do Đào Duy Từ xây dựng giữa thế kỷ 17 được phục chế lại nằm ngay bên quốc lộ 1..

Quảng Bình là một trong những nơi chúng tôi có cảm tình nhất khi chúng tôi đi qua.

 

                                             *              *           *

 

 

9,

 

Chặng kế tiếp chúng tôi định đi là Quảng Bình - Hà Tĩnh - Nghệ An dài khoảng 200 cây số vì thành phố Vinh, Nghệ An chỉ cách thị xã Hà Tĩnh có 50 cây số nên chúng tôi sẽ không dừng lại Hà Tĩnh.

Rời thị xã Quảng Bình không xa, tôi bỗng có linh cảm xấu. Đường hẹp, nhiều xe, tôi chạy chậm và luôn nhìn kính chiếu hậu. Tôi bỗng thấy  một chiếc xe ben cứ chạy phía sau, không qua mặt dù có lúc đường trống và tôi chạy chậmn có lúc nó chạy sát vào lề. Tình hình đó diễn ra một lúc nhưng tôi không nói cho BY biết sợ BY lo. Tôi làm bộ dừng lại để sửa mũ bảo hiểm. Chiếc xe ben vượt qua rồi biến mất nhưng  chạy một  khoảng nữa, tôi lại  thấy nó  ở phía sau. Tôi ép vào lề chạy rất chậm. Cuối cùng nó vượt qua và đi luôn không thấy trở lại. Tôi vẫn không nói gì với BY. BY không biết vì cứ  chăm chăm nhìn phía trước. May cũng không có gì bất thường xảy ra nữa và tôi cũng  nhanh chóng quên đi.

Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến cầu Gianh bắc qua sông Gianh. Lại một con sông chia cắt đất nước trong hơn 200 năm, chúng nhân một cuộc chiến tương tàn khác. Lịch sử Việt Nam đầy dãy chiến tranh, không những chống ngoại xâm mà còn đi xâm lược và nội chiến, kể cả nội chiến giữa anh em ruột như Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc. Di sản quá khứ này nhiều vinh quang hào hùng nhưng cũng quá nhiều mất mát, nặng nề đối với một dân tộc.

Sông Gianh rộng hơn sông Bến Hải nhiều và lộng gió. Chúng tôi chỉ dừng lại chụp hình rồi chạy tiếp đến gần đèo Ngang mới dừng lại nghỉ ở một quán nước có nhiều võng treo dưới hàng phi lao  bên đường. Từ Huế ra, đây là chiếc quán thứ hai thuộc loại này nên chúng tôi nhất định phải vào, lại cũng vừa hơi cảm thấy mệt.

Tiếp tục lên đường chúng tôi đến đèo Ngang cách đó không xa. Đèo chỉ dài 6 cây số, không có gì nguy hiểm so với các đèo khác phía Nam chúng tôi đã đi qua. Tương tự Hải Vân, đỉnh đèo Ngang nằm chính giữa, hai bên dốc xuống, có một mặt bằng nhỏ hơn nhiều so với Hải Vân. Đỉnh đèo là ranh giới  của hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, cũng là nơi nằm gần chính giữa hai tỉnh lỵ. Mỗi bên cách khoảng gần 80 cây số. Cảnh đèo phía Bắc đẹp hơn phía Nam, có lẽ là nơi ngày xưa Bà Huyện Thanh Quan đi qua dừng lại tức cảnh làm thơ vì phía tây có núi, phía đông có trảng cát, sông , làng xóm thưa thớt và xa xa là biển.

Quá trưa chúng tôi đến thị xã Hà Tĩnh nhưng chỉ dừng lại ở dãy phố trên quốc lộ 1, không đi sâu vào khu vực chính của thị xã nằm về phía đông,  có một con đường lớn dẫn vào.

Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy vô số cửa hàng có viết tấm quảng cáo đề”cu đơ” và chất một loạt hàng mẫu phía trước. Đó là những gói giấy màu trắng hình trụ, đường kính bằng chiếc bánh tráng nhỏ xếp thành nhiều chồng  cao. BY hơi buồn cười, hỏi tôi “cu đơ” là gì. Bất ngờ tôi không nghĩ ra, chỉ nhớ mang máng có “cu đơ” là một loại kẹo gì đó khi đọc trong các sách viết về thời kháng chiến chống Pháp. BY đoán “cu đơ”  là một loại phụ tùng máy móc vì thấy chất đống quá nhiều và bụi bặm bên đường. Tôi ngừng xe cho BY vào hỏi thử. Hóa ra “cu đơ” là kẹo đậu phụng nghe nói lấy theo tên của một người Pháp đã sáng chế ra loại kẹo này.  ( Tôi chưa có thì giờ tra cứu xem tên “cu đơ” tiếng Pháp viết thế nào và có đúng nguồn  gốc như thế không? ) Kẹo đậu phụng hay kẹo lạc có bánh tráng chẳng có gì lạ nhưng ở đây  nó được làm đặc biệt lớn và cứng. BY chỉ mua  thử hai cái để ăn và phải nhờ người chủ dùng cưa  cưa ra làm mấy miếng nhỏ và sau đó ăn mãi mấy ngày chưa hết. Những gói người ta chất phía trước cửa hàng  chỉ là đồ giả để làm mẫu quảng cáo. Đúng là chúng tôi bị “quê”.

Ở đây chúng tôi lại bị “quê” thêm một lần thứ hai nữa. Tiếp theo dãy  cửa hàng “ cu đơ” là một loạt của hàng “cháo bồ câu hầm cách thủy”. Đang mệt, quá trưa, ăn món này cũng có lý. Chúng tôi chọn một quán rộng rãi, có sân và cây phía trước. Tôi đậu xe, thấy trên mặt sân, dưới cây có lá giống lá xoài, vô số cái gì nho nhỏ lông lá màu nâu như sâu róm bay tung tóe. Lỡ rồi chúng tôi cứ vào. Tôi hỏi cô chủ quán sao sâu  nhiều thế không quét đi. Cô hỏi sâu đâu. Chúng tôi chỉ ra sân. Cô cười ngất bảo”sâu đâu mà sâu. Hoa sữa đó. Hoa sữa tàn sẽ thành ra như thế”. BY ra bốc lên xem, quả nhiên không phải là sâu, nhưng mới nhìn lần đầu chúng tôi đã phải giật mình. Chúng tôi chưa bao giờ thấy hoa sữa, chỉ nghe ca tụng hương hoa sữa rất thơ mộng trong thơ văn và nhạc viết về Hà Nội. Thật buồn cười !.

Cháo bồ câu cũng độc đáo. Cô chủ quán bảo bồ câu  bỏ vào soong với ít gạo, đậu xanh và các loại thuốc bắc, chưng cách thủy đến 20 giờ mới nhừ. Ăn quá ớn nhưng chắc rất bổ. Một soong nhỏ hai người ăn mãi không hết.

Đến cuối địa phận Hà Tĩnh, thấy dãy núi Hồng Lĩnh phía bên phải đường, chúng tôi định vào thăm mộ Nguyễn Du nhưng khi hỏi thăm, biết từ quốc lộ 1 phải rẽ vào huyện Nghi Xuân khoảng 20 cây số nữa, trời đã chiều nên chúng tôi đành đi tiếp tục đến Nghệ An.

Thành phố Vinh hiện ra trong dáng vẻ xô bồ và bụi bặm, nhiều nơi đang xây dựng nhà và sửa chữa đường. Chúng tôi ghé vào một quán nước mía bên đường để giải khát và hỏi thăm về các khách sạn. Ông gìa bán nước mặc đồ bộ đội dầu đội nón cối chỉ  lung tung  mấy chỗ. BY nói chuyện với một ông khách ngồi uống nước cùng bàn, hỏi ông ta ở Vinh có bãi biển không. Ông ta đáp có bãi biển “Cờ Lo”. BY nghe không ra cứ hỏi đi hỏi lại “Cờ Lo” là gì. Tôi phải “ phiên dịch”  “Cờ Lo” là Cửa Lò. BY lại hỏi bãi biển có đẹp không, ông ta cười nói đẹp hay không thì không biết nhưng nhiều cát lắm… Cuộc nói chuyện  quả là thú vị.

Chúng tôi chạy nhiều đường, tìm khá lâu mà vẫn không gặp được khách sạn ưng ý, nơi quá đắt, nơi quá ồn ào hay ẩm thấp. Cuối cùng chúng tôi vào một nhà nghỉ bề ngoài có vẻ xấu xí nhưng bên trong có một số phòng mới sửa lại khá tốt. Đây  hình như là  một khu chung cư được sửa sang để làm nhà nghỉ, nhiều phòng, khách ra vào đông, phần lớn là dân lái xe tải vì phía sau có một bãi đậu xe khá rộng.

Bữa ăn tối làm chúng tôi thất vọng. Trời đổ mưa bất ngờ. Cơn mưa gặp đầu tiên từ lúc chúng tôi xuất phát ở Sài Gòn. Chúng tôi ghé đại vào một quán có vẻ quán nhậu hơn quán ăn. Đối với BY, vì không quen người ta nói BY chẳng hiểu gì cả. Giọng Nghệ đúng là khó nghe. Tôi lang bạt nhiều, đã nghe đủ thứ giọng nhưng mấy cô phục vụ ở đây nói có nhiều tiếng tôi cũng không nghe ra. Các món ăn lại không hợp khẩu vị. Canh “tập tàng” nấu đủ loại rau không ra vị gì cả. Cá kho tộ lại toàn nghệ và riềng khác hẳn kiểu kho trong nam. May có đĩa rau xào ăn được. Đành vậy thôi.

Buổi sáng chúng tôi vừa chạy xem phố xá vừa tìm mãi mới ra một quán cà phê. hiệu Trung Nguyên, thương hiệu  mới nổi tiếng ở Sài Gòn mấy năm gần nay và đã phát triển ra một số tỉnh. Quán rộng, bàn ghế sạch sẽ, có cây cảnh. Gọi café  đen họ mang ra ngay không cần hỏi loại gì  theo kiểu uống “đối chứng” ở các quán Trung Nguyên SàiGòn. Dù sao cà phê không đến nỗi tệ. Đặc biệt các quán ở đây không có người bán vé số nhưng các em đánh giày lại rất đông, chúng đi thành toán và có vẻ rất bụi đời.

Tôi chở BY đi hỏi nhiều cửa hàng, vào tận trong chợ Vinh khá lớn mà vẫn không tìm mua được hộp fromage hiệu con  con bò cười, thứ chúng tôi vẫn mang theo ăn dọc đường với bánh mì. Phong cách sinh hoạt ăn uống các tỉnh ngoài này bắt đầu khác nhiều với trong nam. Chúng tôi cần phải thích nghi nhiều hơn.

Một hình ảnh không đẹp của thành phố Vinh là dãy nhà chung cư cao tầng ngay trên con đường lớn dẫn ra khỏi thành phố.  Dãy nhà  gồm nhiều khối hình hộp xấu xí, quét vôi màu vàng bẩn và quần áo  phơi la liệt chăng kín cả mặt tiền nhìn ra đường. Một hình ảnh rất “chỏi” với nhiều nhà cửa, khách sạn sang trọng  mới xây dựng trên cùng một con đường.

Chúng tôi đi tiếp Thanh Hóa, nơi dự định sẽ lưu lại lâu hơn để thăm nhà thơ Hữu Loan.

                                

                                                           *      *     *

 

 

10.

 

Càng về phía Bắc quốc lộ 1 hẹp dần và xe cộ chạy nhiều hơn, đặc biệt là số người đi xe đạp, nhất là các em học sinh vào giờ học hay tan trường.

Khi bắt đầu mệt chúng tôi chú ý nhìn hai bên đường để tìm quán vào nghỉ nhưng chưa thấy nơi thích hợp. Tôi nấn ná chạy tiếp với tốc độ  không nhanh lắm, khoảng 50 cây số / giờ. Phía trước bên phải đường trống, bên trái có một nhóm học sinh đi xe đạp thành hàng dọc. Cũng bên trái, phía  trong cánh đồng có một tấm bảng rất lớn ghi”Đô thị mới Nghi Sơn - Thanh Hóa”. BY và tôi đều quay  qua nhìn tấm bảng, BY nói gì đó tôi nghe không rõ. Đúng lúc đó, một chiếc xe tải nhỏ chạy cùng chiều với các em vượt qua che chắn tầm nhìn giữa tôi và các em. Chiếc xe tải vừa vượt qua, bất thần một em băng qua đường rất nhanh, đâm sầm vào bánh trước xe tôi. Tôi chỉ kịp thét lên và thắng gấp.

Trong chớp mắt hai xe đụng vào nhau đổ vật xuống, ba người và đồ đạc trên xe tôi đều văng ra. Tôi và em học sinh nằm gần nhau. Tôi lồm cồm  ngồi dậy đỡ em lên và hỏi em có sao không. Em lắc đầu đứng lên. Tôi quay lại thấy BY cũng đang cố đứng lên rồi lại qụy xuống. Tôi đỡ BY dậy, BY kêu đau ở đầu gối nhưng  rồi cũng đứng lên được. Trong lúc lộn xộn, tôi thấy hình như các em học sinh  và vài người trong nhà bên đường  xúm lại. Có tiếng người nói ”Thằng nhỏ đi ẩu quá!”, ” Có ai bị gì không?”, “ Đỡ giùm chiếc xe lên đi.” Một phụ nữ  giúp tôi đỡ BY đi vào trong sân nhà. BY vén quần  áo lên xem xét, thấy sược nhiều chỗ ở đầu gối và cánh tay. Tôi quay ra, em học sinh đụng tôi và các em khác đã kéo nhau  đi hết. Có người nói: “ Thôi giải tán đi, không công an đến làm biên bản phiền phức lắm”. Vài người giúp tôi đem xe và nhặt đồ đạc vào sân nhà. Phụ nữ đỡ BY vào là chủ nhà bảo BY ngồi xuống bậc thềm và lấy dầu ra xoa các chỗ sược. Lúc đó tôi mới thấy đau ở hai đầu gối và bàn tay trái. Tôi kéo ống  quần, hai đầu gối cũng bị sược như BY, gỡ găng tay ra mới thấy ngón tay út đã gãy đốt  trong , ngoặt hẳn sang một bên.

Người chồng chị chủ nhà vừa đi đâu về, xem xét ngón tay tôi rồi bảo đây không có bệnh viện hay trạm xá nhưng trong xóm gần đây có một ông thầy bó xương gãy rất giỏi, nếu muốn anh sẽ chở tôi đi bó giúp. Tôi bảo BY kiểm tra kỹ các vết thương, đi lại, co duỗi chân tay xem sao. BY bị xây sát, đau ở đấu gối chắc do  va đập mạnh nhưng chắc không gãy. Chúng tôi đều mặc quần áo vải dày khi đi đường nên các vết xược không sâu lắm. BY còn phát hiện chiếc mũ bảo hiểm có một vết sược  khi va chạm xuống đất nhưng  may đầu không bị gì. Anh chủ nhà cũng nhận xét như thế. Đối với tôi, anh khuyên nên đi bó ngay vì để lâu sẽ khó chữa. Tôi hội ý với BY và đồng ý  nhờ anh đưa đi, dặn BY cứ vào nhà chờ nghỉ ngơi.

Anh lấy xe tôi chở tôi đi, băng qua quốc lộ, rẽ vào một con đường mòn chạy khá lâu, có lúc băng qua đường xe lửa hay những đoạn đường có đá lớn tôi phải xuống xe đi bộ. Cuối cùng anh đưa tôi đến một căn nhà có vườn rộng rãi trong xóm sâu. Anh vào báo trước, tôi theo sau. Ông thầy thuốc không gìa lắm, gày, có vẻ hiền lành. Ông lấy chiếc ghế đẩu để giữa cửa, bảo tôi ngồi xuống. Ông xem kỹ ngón tay tôi rồi nắn thẳng lại, tôi chỉ thấy hơi đau. Ông lấy ra một gói bột màu nghệ vàng và một chai  bụng lớn đựng rượu ngâm thuốc gì trong đó. Ông đổ rượu vào một ít bột, trộn cho thấm dẻo rồi đắp vào ngón tay gãy của tôi. Xong ông dùng một miếng giấy bìa cứng xé ra từ một chiếc hộp nào đó bó quanh ngón tay thay cho nẹp. Cuối cùng dùng một miếng ga cũ, vàng bẩn quấn quanh cột chặt lại. Ông còn lấy rượu thuốc xoa vào các chỗ xây xát ở đầu gối và mu bàn tay  của tôi. Xong xuôi ông bảo tôi qua bàn ngồi uống nước và đi lấy một lọ thuốc viên nhỏ li ti cũng do ông bào chế, đưa cho tôi  uống một nhúm. Ông nói: “Thế là yên chí. Ngày mai nếu có gì bất thường đến tôi xem lại, còn không cứ  để nguyên thế một tuần sau tháo băng ra sẽ khỏi”. Tự nhiên tôi cảm thấy tin tưởng ở ông.

Sợ BY sốt ruột nhưng vì lịch sự tôi ngồi nói chuyện một lúc. Vợ và con trai của ông thầy thuốc cũng ra ngồi góp chuyện. Họ có vẻ rất chân thành và tử tế. Ông thầy thuốc bảo ông  dòng dõi nhà võ, trước đây đi bộ đội, sau làm công nhân, nay về hưu. Trong chiến tranh và sau này ông đã  chữa hàng trăm trường hợp xương gãy, kể cả những trường hợp khó như gãy vai hay xương vỡ làm nhiều mảnh. Ông bảo về xem lại vợ tôi có bị gãy gì vào ông chữa luôn cho. Nếu cần cứ ở lại nhà ông hay chỗ của anh chủ nhà chở tôi đi, là cháu của ông, ông sẽ ra tận nơi để chữa. Ông nói: “Chúng tôi  người nhà quê, thật thà, muốn giúp đỡ chứ không có ý gì, đừng ngại.”

Trứơc khi về, tôi cảm ơn ông và xin gởi lại ít tiền để ông làm thuốc. Tôi mở ví. Ví tôi đang để tờ 100 và mấy tờ tiền lẻ. Tôi đưa ông tờ 100. Ông dẫy nẩy lên: “Làm gì nhiều thế. Tôi không lấy đâu. Tôi chỉ giúp thôi.” Tôi nài nỉ và anh bạn chở tôi đi cũng góp lời. Cuối cùng ông nói: “ Vây thì tôi lấy hai chục thôii”. Anh bạn  chở tôi bảo: “ Chú cứ lấy năm chục, để còn làm thuốc giúp người khác”. Tôi xem lại mấy tờ bạc lẻ, vừa đủ năm chục. Tôi để lên bàn cảm ơn ông và gia đình lần nữa trước khi ra về cùng anh bạn. Ông còn bảo con trai lấy chai nhỏ chắt ra một ít rượu thuốc để vợ tôi và tôi xoa các vết xây xát.

Tôi  về đến nơi,  BY vô cùng mừng rỡ. Vợ chồng chủ nhà bảo chúng tôi mệt cứ ở lại nghỉ, tối nấu cơm ăn  chung và nghỉ lại sáng mai đi cũng được, đừng ngại gì.

Lúc đó đã 3 giờ chiều, chúng tôi mới cảm thấy đói bụng. Tôi nói với BY xin phép chủ nhà đi tìm quán kiếm cái gì ăn rồi sẽ quyết định. Tôi  đỡ BY đi cà nhắc theo đường lộ. Ở đây dân cư thưa thớt chỉ có một quán cháo lòng nhưng buổi chiều không bán. Bà chủ quán bảo còn ít cơm nguội, nếu muốn sẽ hâm lại và đổ trứng cho chúng tôi ăn tạm. Chúng tôi đồng ý vì không còn cách nào khác.

BY kể lúc anh chủ nhà chở tôi đi, thấy lâu quá, BY  rất lo. Lúc ở Sàigòn, trước khi đi đã có người nói phía bắc bọn cướp giật ghê lắm, nhiều khi chỉ vì vài trăm ngàn, một chiếc nhẫn cũng có thể giết người như chơi. Biết đâu anh ta chở tôi vào núi rồi thủ tiêu, cướp xe luôn. BY bàn  ở lại nhà người ta cũng ngại lắm, nếu gặp người xâu sẽ không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tốt hơn đón xe đò đi ra thị xã Thanh Hóa hoặc nếu tôi chạy xe được, cố chạy đến thị trấn gần nhất tìm nhà trọ ở lại vì ở nhà người ta bất tiện và chắc chắn BY sẽ không ngủ được. ( Chúng tôi đã hỏi thăm và biết thị trấn Tĩnh Gia cách đây 7 cây số  có nhà trọ ).

BY nói thêm là lúc đầu BY rất lo nhưng sau nói chuyện thấy  chị chủ nhà có vẻ tử tế, là người công giáo, trong nhà có bàn thờ Chúa Giêsu và Đức Mẹ nên BY cũng hơi yên tâm. BY còn nói sau vụ suýt tai nạn ở Lăng Cô được Đức Mẹ cứu giúp nhưng  ra Thánh địa Đức Mẹ La Vang tôi không chịu tạ ơn nên mới bị Đức Mẹ phạt. Tôi đùa bảo Đức Mẹ chỉ phạt nhẹ cảnh cáo thôi. Gãy một ngón tay út để kỷ niệm chuyến đi cũng không có gì ghê gớm lắm. Nói  thế chứ Đức Mẹ đâu lại để tâm  những chuyện vặt và đã là Đức Mẹ nhân từ sẽ không hề phạt ai.

Cuối cùng chúng tôi thống nhất sẽ chạy tiếp ra Tĩnh Gia tìm nhà trọ nghỉ rồi ngày mai tính tiếp. Chúng tôi cám ơn chủ nhà, đề nghị chụp với họ mấy tấm hình làm kỷ niệm. BY tặng chị vợ chiếc áo len mới mua mang theo chưa mặc và mấy gói bánh kẹo  cho cháu nhỏ chúng tôi có sẵn trong hành lý.

Chúng tôi tiếp tục đi. Ngón tay gãy tôi để trên tay lái bị rung nhức nên hầu như tôi chỉ chạy một tay. Vả lại cú ngã làm tôi chấn động, tay phải cũng hơi run nên tôi chạy rất chậm, hơn nửa giờ sau mới đến thị trấn Tĩnh Gia trước khi trời tối. Chúng tôi vào ngay  một trong hai nhà trọ kế nhau nằm bên đường và thở phào khi nằm lăn trên giường.

Đêm hôm đó, chúng tôi ngủ không yên giấc lắm vì tiếng động lịch kịch suốt đêm. Nửa đêm hình như có tiếng công an đi kiểm tra nói chuyện vói bà chủ nhà  trọ ngoài hành lang nhưng họ không vào phòng chúng tôi. Buổi chiều, lúc nhận phòng, chúng tôi thấy anh con trai bà chủ nhà trọ to lớn, mặt mày dữ tợn, râu ria xồm xoàm, ở trần cứ đi qua đi lại nhìn vào phòng chúng tôi nên chúng tôi cũng hơi ngại, không biết có rơi vào hắc điếm không. Cuối cùng  vì quá mệt nhọc, chúng tôi cũng ngủ thiếp đi được một giấc. Sáng ra vẫn thấy mình  an toàn.

 

Chúng tôi trả phòng ra thị trấn sửa xe và ăn sáng. Tay lái xe hơi bị lệch và tôi cần chỉnh lại thắng, thay nhớt nếu muốn đi tiếp. Chúng tôi có một bữa ăn bánh cuốn thú vị. Trong một quán nhỏ bên đường, nhiều phụ nữ và trẻ em ngồi trên  những chiếc đòn chung quanh một chiếc bàn thấp chờ chủ quán tráng bánh. Bánh làm xong rắc nhân, cuốn lại, cắt thành miếng cho vào đĩa, lần lượt mỗi người ăn một cái rồi chờ tráng tiếp. Chúng tôi cũng sà vào chờ luân phiên như họ. Ai muốn đặc biệt cho thêm trứng gà, chủ quán sẽ làm theo yêu cầu. BY hỏi cô chủ  làm sao nhớ người nào ăn mấy cái, cô bảo quen rồi, có gì mà không nhớ. Kể cô cũng tài. Tôi cũng chẳng nhớ mình ăn mấy cái mà lúc đó có gần chục người khách. Thật đúng  hương vị bình dân.

Ăn xong chúng tôi tìm một quán café ngồi uống và bàn bạc quyết định nên đi xe gắn máy hay đi xe đò. Chúng tôi vẫn phân vân. Chúng tôi rất ghét đi xe đò, nhất là trong hoàn cảnh xe cộ, đồ đạc lỉnh kỉnh như thế này và lại đón xe dọc đường, nhất định không có chỗ ngồi tốt. Đi xe gắn máy tiếp sợ không an toàn. Ngón tay  và bàn tay tôi sau một đêm có vẻ hơi êm nhưng chạy đường xa nhất định bị ảnh hưởng, tay lái tôi không còn vững như trước và đường ngoài này lại hẹp, rất nhiều xe cộ chạy ẩu.

Cuối cùng chúng tôi quyết định  đi xe đò để bảo đảm an toàn dù có hai điều đáng tiếc: Không thực hiện trọn vẹn chuyến đi bằng xe gắn máy, dù chúng tôi đã đi gần  2000 cây số nhưng còn khoảng 150 cây số cuối cùng lại bỏ cuộc. Không ghé thăm nhà thơ Hữu Loan, sợ sau này sẽ không còn có dịp vì hình như ông đã ngoài 80 tuối.

Tôi cùng đi với Hữu Loan trong chuyến  xuyên Việt năm 1988, giữa ông và tôi có nhiều đồng cảm và tôi rất  kính phục  sự cương trực bất khuất của ông. Nghe nói về sau ông được nhà nước tìm cách o bế,  giúp xuất bản thơ, giúp xây lại nhà nhưng ông vẫn tiếp tục lên án chế độ mạnh mẽ mỗi khi có dịp. Tôi tin ông không bao giờ có thể khuất phục hay bị mua chuộc. Ông đã đem cả cuộc đời để đánh đổi sự trung thực, tự  trọng và tự do tư tưởng thì chút ân huệ cuối đời chẳng có nghĩa  gì.

Tôi nhớ mãi gương mặt đầy cương nghị, chòm râu bạc, giọng đọc thơ chân chất và những lời phát biểu sang sảng đầy chất lửa của ông trong suốt chuyến đi, cả mấy chai rượu tăm ngon tuyệt uống  nóng cả tim gan mà  ông đã  tặng BMQ và tôi năm ấy.

Bà chủ quán café tử tế dặn chúng tôi lên xe phải trả giá trước và chọn đúng xe đi Hà Nội để khỏi bị sang khách giữa đường. Đang ngồi nói chuyện, có chiếc xe đò chạy qua, tôi vẫy lại. Gã lơ xe nhảy xuống chạy đến hỏi. Bà chủ quán nói trước: “Đi Hà Nội hai người 50.000d, xe gắn máy 20.000d, chịu không?”

Gã lơ xe, một thanh niên cao lớn mặc bộ đồ quân phục Mỹ còn mới, có nguyên chữ “ US Army” trên ngực. Gã nhìn qua  chúng tôi  rồi nói: “Được rồi. Lên xe đi”. BY gặng hỏi: “ Có phải xe đi  Hà Nội không? “. Gã lớn tiếng: “ Sao lại không đi “ Hà Lội”. “ Nghe giọng “ Hà Lội” còn không biết hả”. Gã xách ba lô của  chúng tôi cho vào cốp sau rồi cùng một người nữa trên xe xuống đưa xe của chúng tôi vào cửa bên, lấy dây buộc lại. Trên xe hành khách gần kín chỗ. Gã chỉ cho chúng tôi ngồi vào hai chỗ trống, BY ngồi băng sau, tôi ngồi băng trước phía cuối xe. BY phản đối nhưng gã bảo đến Thanh Hóa có người xuống gã sẽ xếp lại chỗ ngồi.

Xe chạy một khoảng ngắn, gã nói với BY:” Cho tiền xe, 160.000 đồng”. BY ngạc nhiên:”Dưới

  kia bà chủ quán trả 70.000 đồng anh chịu rồi sao bây giờ  đòi nhiều thế”. Gã sửng cồ ngay: “ Con mẹ nhà quê đần độn đó biết cái  đ…   gì. Đưa tiền xe. 160.000 đồng”. BY nói:” Nhung mà…”. Gã gạt ngang:” Không nhưng gì hết. 160.000đồng” . Thấy thái độ vô lễ và hung hăng của  gã tôi biết lôi thôi với gã chẳng lợi gì trong hoàn cảnh này. Tôi bảo BY cứ trả tiền cho gã. BY nghe tôi đưa tiền nhưng rất ấm ức. Hành khách chung quanh  nhìn chúng tôi có vẻ ái ngại nhưng không ai nói gì.

Khi gã lơ xe chuyển lên phía trên, thanh niên ngồi  bên cạnh bảo tôi:” Lên xe giữa đường là vậy. Nó chém thế chứ hơn  cũng phải chịu. Không nghe  nó ném xuống đường”. BY cũng bắt chuyện than phiền với mấy người  ngồi bên. Nhiều  người lên tiếng ca thán chuyện xe đò bát nháo hiện nay.

Lát sau  có hai cô gái lên xe. Khi gã lơ xe đòi tiền, một cô nói:” Chúng em vẫn thường đi đoạn đường này. Bớt cho chúng em 10 ngàn. Chúng em là sinh viên nghèo.” Gã quắc mắt:”nghèo mặc cha chúng mày. Sinh viên là cái đ… gì. Chúng mày học cho mày chứ học cho bố mày  đây à. Đưa tiền. Không thì xuống.” Hai cô gái tội nghiệp im thin thít móc tiền ra trả.

Lại có một bà già có vẻ nhà quê lên xe, cò kè gía cả, kêu lấy tiền xe quá đắt. Gã to tiếng:” Đắt gì. Bây giờ  cái gì cũng lêngiá , xăng tăng, thuế tăng, lộ phí  cầu đường tăng. Không lấy tiền xe thế chúng ông ăn cái giải gì. Con mẹ nhà quê này biết đếch gì ngu thấy mẹ. Đúng là dân Lê Khả Phiêu!”. Mọi người đều ngẩng lên nhìn, không ngờ gã táo tợn chửi  xéo luôn cả cựu tổng bí thư.

Đến thị xã, có nhiều người lên xuống, BY đứng lên đòi đổi chỗ ngồi cạnh  tôi. Gã quát: “Cứ ngồi đó.” và lấy tay ấn BY ngồi xuống, trúng ngay chỗ đầu gối bị thương làm By kêu thét lên. Gã tỉnh bơ quay đi chỗ khác. Thấy chỗ  ngồi của BY chiếc ghế không tốt bị xóc nhiều nên tôi bảo BY đổi chỗ cho tôi và rán chịu cho qua, đừng yêu cầu gì nữa.

Trên suốt chuyến đi, rất nhiều  bi hài kịch nữa diễn ra.

Ba thanh niên lên xe trả giá sừng sộ với gã lơ xe nhưng gã vẫn không chịu lép vế, vẫn chém gấp  rưỡi giá thông thường. Một thanh niên nói:”Đây đâu phải là xe chất lượng cao mà lấy đắt thế.” Gã cười khẩy:” Muốn chất lượng cao à. Cứ đưa thêm tiền là khắc có chất lượng cao ngay. Khó gì.” Khi gã quay đi nơi khác, ba thanh niên bàn nhau cách trả thù gã lơ xe. Một người nói:”Ngày mai xe nó đi ngang đây tao không cho nó ăn đòn  thì tao bú  c… cho nó”.

Một người đứng tuổi, ăn mặc có vẻ nghèo khổ không chịu  xuống khi xe dừng ở một thị trấn và bảo còn khoảng 10 cây số nữa mới đến chỗ muốn xuống. Gã lơ xe kéo tay ông ta lôi ra cửa:”Hết tiền rồi. Mày không xuống ông đạp xuống bây giờ.”

Một bà buôn chanh chua chửi nhau với gã lơ xe , có thêm gã lái xe phụ họa hàng nửa giờ liền, hai bên đều tuôn ra những lời thô tục bẩn thỉu không ai chịu nổi.

Tôi quá ngán ngẩm nhắm mắt lại, không buồn nhìn ra ngoài xem phong cảnh vì kính xe quá mờ, chỉ thấy loáng thoáng nhà cửa và các tấm bảng ghi địa danh trên đường. Cũng may chiếc xe chạy bạt mạng khá nhanh và không gặp tai nạn gì dù có những lúc thắng gấp, chao đảo, suýt đụng vào xe khác.

Trưa xe đến Hà nội, nghe nói chỉ còn khoảng  mười cây số nữa đến bến xe nhưng gã lái xe không chạy đến bến mà tấp vào một quán ăn bên đường buộc hành khách vào ăn trưa. Ở đây nhà xe được chiêu đãi miễn phí và khách tha hồ bị chém đẹp.

Gã lơ xe cho xe gắn máy của tôi xuống. Gã đứng trên  đẩy bừa xe xuống bảo tôi đứng  dưới dỡ. Tay tôi bị đau không đỡ được, một ông khách sốt sắng đến giúp và suýt ngã vì chiếc xe quá nặng.

Thật quá quắt và không thể tưởng tượng. Gã lơ xe như  một bạo chúa cai trị vương quốc của mình bằng bàn tay sắt, muốn làm gì thì làm. Tôi chưa bao giờ gặp một gã  đê tiện, thô bỉ và vô văn hóa như thế.

Đúng là một chuyến xe thổ tả. Tuy nhiên mấy hành khách trên xe nói với tôi đây không phải là chuyến xe đặc biệt mà hầu như xe nào cũng như thế cả. Hành khách ai cũng bất bình nhưng đi đường nên không muốn gây sự lôi thôi, có khi rước vạ vào thân, lại không có cơ quan thi hành luật pháp nào can thiệp. Phải chăng chuyến xe này cũng là một điển hình của xã hội hiện nay?

                                   

                                                          *   *     *

 

 

11.

 

Thế là chúng tôi thoát khỏi chiếc xe thổ tả. BY còn cằn nhằn mãi nhưng tôi  nói đó cũng là một kinh nghiệm hay. Dễ gì có dịp gặp gỡ một nhân vật điển hình mới của thời đại như “gã lơ xe mặc quân phục US Army” kia.

Vì chưa có bản đồ, sau khi xuống xe đò, tôi không biết mình đang ở đâu. Tôi hỏi một người đứng gần đó về Hà nội đi đường nào. Ông ta bảo đây là Hà Nội. Tôi phải hỏi lại đường vào trung tâm thành phố, đến Hồ Gươm. Ông ta chỉ  đại khái và bảo đi tới hỏi tiếp. Con đường dẫn vào thủ đô này sao quá ngán ngẫm, có lẽ không phải là đường chính vì  đường nhỏ, bụi mù mịt và chạy dọc một con kênh thối om, sau này tôi mới biết đó là sông Kim Ngưu. Hình như gã lái xe cố tình chạy vào đường này để tránh cảnh sát.

Tôi rẽ qua chiếc cầu và đi vào các khu phố chính. phố Thanh Nhàn, rẽ phố Bạch Mai, tiếp theo là phố Huế, phố Hàng Bài nằm trên cùng một con đường.

Việc quan trọng của chúng tôi bây giờ là tìm một quán ăn hay quán giải khát để vào nghỉ ngơi và rửa ráy, đi vệ sinh vì đã phải giam mình hơn 4 giờ trên xe đò. Không may BY vào hỏi mấy nơi mà nơi không có toa lét, nơi không có chỗ đậu xe. Tôi chạy ngang một hiệu sách, bảo BY vào mua ngay tấm bản đồ Hà Nội rồi sau đó gặp một quán fast food ở phố Hai Bà Trưng. Quán này có mặt tiền rất dài, đặt  bàn ở  cả trong nhà và ngoài hàng hiên, lại có chỗ đậu xe rộng rãi. Quán có một toa lét nhỏ xíu, hơi bẩn, phải dùng gáo dội nước nhưng như thế đã là quá tốt đối với chúng tôi bây giờ. Fast food ơ đây lại có cả cơm đĩa khá ngon và gía rẻ bất ngờ.

Sau khi ăn uống nghỉ ngơi xong chúng tôi đi tìm phòng trọ. Các khách sạn ở những đường lớn đều là khách sạn”có sao”, tiền phòng tính bằng “đô” nên chúng tôi phải  chạy ra khu vực xa hơn. Cuối cùng tìm được một nhà trọ thích hợp trong một hẻm phố Thanh Nhàn. BY hỏi chuyện, anh chàng tiếp tân cho biết nhà trọ của anh ta đủ loại khách, ở xa đến, ở trong thành phố và ngay cả ở khu vực chung quanh. Khách  có thể thuê qua đêm hay thuê giờ. Chúng tôi hơi ngạc nhiên nhưng khi  lên nhận phòng mới hiểu ra. Phòng nào cũng có một tấm gương dài treo  nghiêng ở tường đối diện với bên đặt giường và nằm trên giường có thể nhìn thấy mình trong gương. Chúng tôi đoán đây là một loại “nhà trọ tình yêu” theo kiểu Nhật. Thôi cứ ở tạm một hôm rồi mai tính  tiếp.

Tắm rửa nghỉ ngơi, ngủ một giấc cho lại sức, tôi lấy bản đồ ra nghiên cứu và quyết định đến thăm Hồ Gươm trứơc. Trước đây tôi đã có một lần ra Hà Nội với BMQ, ở một tuần nhưng chỉ lo đi đấu tranh, hết Văn Phòng Trung Ương Đảng lại đến các ban, các bộ, lại đi bằng xe ô tô cơ quan nên tôi không nhớ đường và chẳng thưởng thức được gì. Lần này khác, chúng tôi sẽ tự mình khám phá Hà Nội.

Trứơc đây lần đầu thấy Hồ Gươm tôi rất thất vọng. Ấn tượng của tôi lúc đó Hồ Gươm chỉ là một hồ nhỏ  nươc tù đọng có vẻ bẩn và không lấy gì làm thơ mộng, có lẽ do tình hình và tâm trạng của tôi lúc đó. Bây giờ chạy quanh hồ hai vòng, tôi có cảm giác khác hẳn, hình như hồ và khung cảnh chung quanh được sửa sang chăm sóc nhiều. Nước vẫn còn có vẻ tù đọng nhưng trông không đến nỗi bẩn, bờ kè xây  sạch sẽ. Hàng cây chung quanh hồ nhiều chủng loại, có nhiều cây cổ thụ tỏa bóng rợp mát, vài cây nghiêng mình ra mặt nước rất thơ mộng. Bãi cỏ, ghế đá sạch sẽ. Việc cấm đưa xe đạp, xe máy vào bờ hồ, chỉ dành cho người đi bộ làm cho khung cảnh trở nên yên tĩnh, thanh lịch, không xô bồ bát nháo.

Chiều muộn, chúng tôi vào quán café Highland bên bờ hồ. Hình như quanh hồ chỉ có 2 nơi được phép kinh doanh là quán café này và nhà hàng Thủy Tạ cách đó không xa, cùng ở ven bờ tây. Các bàn đặt ngoài trời, dưới tàng cây, mỗi bàn có một lọ hoa. Các tiếp viên nam nữ  ăn nói nhỏ nhẹ, lịch sự. Gần một nửa số khách là tây. Gía cả cũng không đắt lắm nếu so với Thủy Tạ ĐàLạt. Café uống được nhưng không ngon lắm. Chúng tôi thuộc loại dân sành điệu café vì đã uống đủ các loại café tây nguyên gần 40 năm nên đến đâu cũng uống café đen để thưởng thức và so sánh.

Trời tối dần. Gió mát dịu. Phố xá lên đèn lấp lánh dưới ánh nước. Cảm giác ngồi ở đây thật thư thái, phần nào”lấy lại cảm tình” của chúng tôi đối với thủ đô sau cảm giác chán ngán và bực bội lúc mới vào trong một hoàn cảnh không thuận lợi.

Trước khi về nghỉ, chúng tôi gọi điện cho các con và đến bây giờ mới báo cho chúng biết vụ chúng tôi bị tai nạn. Các con đều lo lắng và khuyên chúng tôi nên đi kiểm tra và điều trị ở bệnh viện. Vì BY vẫn đi lại được tuy đầu gối bắt đầu sưng lên và  hơi cà nhắc còn  bàn tay tôi khá êm, vẫn có thể chạy xe được, tôi lại tin tưởng ở ông thấy thuốc ở Thanh Hóa nên chúng tôi quyết định không vào bệnh viện, sợ mất thời gian phiền phức. Chúng tôi định ở lại đây một tuần và phải đi đây đó, đợi về lại SàiGòn sẽ kiểm tra một thể.

Đêm ở “nhà trọ tình yêu” hầu như chúng tôi không ngủ được. Muỗi tấn công chúng tôi liên tục, nhưng nếu để quạt chạy số lớn lại không chịu được. Nửa đêm chúng tôi phải gọi cho tiếp tân nhưng anh chàng trực ngái ngủ bảo nhà trọ không có mùng. Đành chịu trận. Có lẽ”nhà trọ tình yêu“ này cho thuê giờ là chính nên người ta không chú ý việc này.

Sáng hôm sau, việc đầu tiên là chúng tôi đi ăn sáng và tìm nhà trọ mới. Con trai lớn chúng tôi từng đi làm ăn qua Hà Nội mấy lần mách cho chúng tôi tìm nhà trọ ở khu phố cổ. Thế là chúng tôi đến ngay đó.

Khu phố cổ là khu vực Hà Nội 36 phố phường xưa ở phía bắc hồ Gươm Chúng tôi chạy vòng vòng và không sao nhớ nổi hết  tên phố: Hàng Bạc, hàng Đào, hàng Lược, hàng Đường, hàng Chiếu, hàng Gai… Có phố chỉ ngắn chừng trăm mét. Đường nhỏ, lề hẹp và đông đúc kinh khủng, khách tây đi đầy đường. Nói là phố cổ nhưng nhìn bề ngoài không thấy cổ lắm vì nhà nào cũng mở cửa hiệu kinh doanh, hàng hóa che lấp không nhìn thấy rõ kiểu kiến trúc nhà. Đặc biệt khu vực này có hàng trăm văn phòng dịch vụ du lịch. Một số là khách sạn lớn mới xây dựng làm luôn văn phòng du lịch, còn lại phần lớn là những cửa hiệu nhỏ, thậm chí chỉ là một mặt bằng nhỏ xíu vài mét vuông. Nhiều văn phòng lấy tên “Sinh café” là một công ty du lịch nổi tiếng ở Sài Gòn. Những nơi đó, người ta bán vé các tour du lịch đi Hạ Long, Hải Phòng, chùa Hương, Tây Bắc… và đều có tờ quảng cáo in bằng hai thứ tiếng Anh, Việt có nội dung na ná nhau.

Khách sạn , nhà trọ cũng nhiều không kém. Ngoài các khách sạn mới xây dựng kiểu hiện đại, phần lớn các nhà ở được sửa chữa lại để đón khách. BY vào xem có nơi chỉ là mấy căn phòng nhỏ xíu trên gác nhưng vẫn có khách “tây ba lô” ra vào. Được cái những nơi này gía cả phù hợp với túi tiền chúng tôi và chúng tôi mặc nhiên trở thành khách du lịch “ ta  ba lô”. BY chọn thuê ở một nhà trọ có lối vào bên hông dài và hẹp chỉ lọt vừa chiếc xe gắn máy vì mặt tiền được cho thuê làm cửa hàng kinh doanh nhưng bên trong có 4, 5 tầng và phòng ốc rộng rãi, tuy hơi cũ. Dù sao cũng tốt hơn nhiều so với “nhà trọ tình yêu” phố Thanh Nhàn. Nơi đây lại tiện đường đi các tour du lịch.

Thuê phòng xong, chúng tôi về nhà trọ cũ lấy đồ chuyển sang nơi mới và đi bộ tìm chỗ ăn trưa. Ở đây có nhiều hiệu ăn dành cho khách tây. Điều đặc biệt là tất cả đều có bản thực đơn để trên giá đặt ngoài cửa, ngay trên lề đường. Khách tây đi qua đứng lại xem thực đơn thấy thích thì vào. Đúng là một cách tiếp thị sáng tạo và hữu hiệu,  tuy không có vẻ văn minh lắm. Các tiệm cơm Việt Nam ít hơn và rất xô bồ đông đúc. Các quán bán những món đặc sản truyền thống của Hà Nội  nhiều vô kể, bán ngay trên lề đường hoặc ở các đầu hẻm. Chúng tôi ăn thử món bún chả ở một quán loại này.

Bún chả chúng tôi chẳng lạ gì vì ở Sài Gòn thỉnh thoảng vẫn ăn nhưng ở đây cách ăn có hơi khác. Thay vì nươc mắm để riêng, ăn đến đâu cho thêm nước mắm đến đó, người ta làm một tô nước mắm nhạt thật to rồi cứ thế cho bún, chả vào vừa ăn vừa húp. Chúng tôi ăn mãi không hết “xuất” của mình ( gọi là “xuất” thay vì “tô” như trong nam). Kiểu ăn này không quen rất khó ăn. Dĩ nhiên đó là đối với chúng tôi. Còn những khách khác là người Hà Nội, trong đó có mấy cô ăn diện rất mốt, mắt xanh mỏ đỏ, cứ ngồi húp soàn soạt. Chúng tôi tiếc là đã ăn đúng kiểu, ngay  tại Hà Nội 36 phố phường mà vẫn không thấy ngon bằng ở Sài Gòn.

Buổi chiều chúng tôi đi thăm cầu Chương Dương và hồ Tây. Từ khu phố cổ đi ra phía sau không xa, chạy vòng lên đê là đến cầu Chươgn Dương, chiếc cầu cũ bắc qua sông Hồng. Cầu cao và không rộng lắm, xe ô tô chạy làn giữa, dưới vài cầu bằng sắt xám, hai làn bên lộ thiên cũng rộng gần bằng làn giữa dành cho xe gắn máy, chỉ có lan can thưa che chắn. Chạy trên cầu này mới thấy sông Hồng dữ dội. Sông rộng, nhiều bãi cát, phía hạ lưu khói sóng cuộn lên mờ mịt. Gió thổi bạo liệt. Chạy xe gắn máy không vững tay lái có thể bị quăng quật vào lan can như chơi. Dân Hà Nội đã quen nên họ vẫn phóng xe như bay. Tay tôi đau nên phải cố sức giữ ghì tay lái. Bây giờ là mùa xuân, không rõ đến mùa mưa bão  người ta sẽ đi như thế nào trên chiếc cầu này. Tôi qua cầu, chạy thêm một khoảng xem phố xá ở Gia Lâm không thấy gì lạ nên quay lại, chạy dọc theo đê Yên Phụ tìm đường đến hồ Tây.

Hồ Tây quả là  rộng mêng mông. Tôi đọc báo chí thấy nói về các làng hoa, vườn đào đã bị huỷ hoại nhiều do người ta bán đất xây dựng các khách sạn và khu nhà biệt thự ven hồ nhưng không có thời giờ đi xem, chỉ đứng trên đường Thanh Niên giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch để ngắm cảnh. Hồ Tây có nhiều nhà hàng du thuyền và các trò chơi dưới nước như chèo pédalo, đạp vịt… Trời chiều gío lạnh nhưng vẫn có người chơi. Dọc đường ven hồ, nhiều cặp thanh niên nam nữ dựng xe ngồi tâm tình nhưng hình như ít cảnh âu yếm trắng trợn như ở các công viên Sài Gòn, tuy cũng có cặp hôn nhau. Bây giờ đối với một số thanh niên, nơi tình tự an toàn và thơ mộng (?!) lại là chỗ công cộng giữa ban ngày hay dưới đèn đường sáng trưng. Những người lớn tuổi  như chúng tôi dù đã qua một thời rất lãngmạn, cũng không hiểu nổi những “cảm xúc tình yêu” như thế.

Ngắm cảnh hồ Tây một lúc chúng tôi vào nhà hàng phía bên hồ Trúc Bạch để ăn bánh tôm. Gió mạnh và hơi lạnh, chúng tôi  phải ngồi ở góc khuất, không thể ngồi sát mép nước để  vừa ăn vừa thưởng ngoạn cảnh hồ. Bánh tôm hồ Tây nổi danh này chúng tôi ăn vẫn không thấy ngon lắm, chẳng khác mấy với bánh tôm ở sàigòn. Chất lượng của các món ăn truyền thống này đã kém đi, không phải chỉ ở Hà Nội mà còn ở nhiều nơi khác, hay khẩu vị chúng tôi “ có vấn đề”. Lâu nay chúng tôi đã quen chay tịnh. Một hũ yaourt, một trái chuối, một gói xôi, một đĩa rau bí xào… đối ới chúng tôi nhiều khi ngon lành hơn các món sơn hào hải vị.

Khi trở về cuối đường Thanh Niên có một hàng cây nở hoa vàng rất đẹp, BY thích muốn chụp hình nhưng vì trời đã sụp tối nên tôi chạy luôn.

 

                                                  *                *             *

 

 

 

 

12.

 

Chúng tôi đã mua vé tour đi Hạ Long từ chiều hôm trứơc và sáng nay người ta hẹn sẽ đến tận phòng trọ đón sớm. Việc đến đón trễ gần một tiếng. Một hướng dẫn viên đi taxi  đến đón chúng tôi, trên xe đã có sẵn hai người khách Nhật. Hướng dẫn viên xuống xe đi lo việc gì đó, bảo tài xế taxi đưa chúng tôi đến nơi có xe car lớn đậu  gần đê Yên Phụ để cùng đi với đoàn. Tài xế taxi đưa chúng tôi đến đó nhưng  tìm không ra xe car, phài dùng điện thoại di động liên lạc mãi không được, cuối cùng được hướng dẫn đưa khách về trụ sở của công ty du lịch ở đường Mã Mây. Tại đây một hướng dẫn viên khác đưa chúng tôi đi bộ ra nơi đậu xe car ở một địa điểm khác. Quãng đường này không gần lắm nên BY đi bộ  nhiều bị đau đầu gối phải đi rất chậm. Chúng tôi trở thành những người cuối cùng trong đoàn lên xe car.

Chiếc xe car lớn chở khoảng 50 người, trong xe chỉ có hai chúng tôi và một cô gái  là người Việt, còn lại đều là khách nước ngoài. Quãng đường từ Hà Nội đi Hạ Long khoảng 170 cây số, thời gian đi mất gần 4 giờ. Trên  đường đi lúc qua địa phận Hải Dương, khách được mời xuống nghỉ giải lao và mua hàng lưu   niệm ở một cửa hàng lớn mới xây dựng trong đó trưng bày nhiều hàng thủ công mỹ nghệ và bánh kẹo đặc sản của địa phương. Khu vệ sinh xây dựng riêng cũng rộng rãi và sạch sẽ. Phần lớn khách chỉ xem, ít mua sắm, có lẽ vì họ đang trên đường đi tham quan, không muốn mang theo nhiều đồ đạc vướng víu.

Xe đến Bãi Cháy gần thành phố Hạ Long lúc trưa. Bãi biển này không dài lắm hình vòng cung và bên trên có núi. Nhiều khách sạn cao tầng mới được xây dựng trông rất bề thế, trong đó có các khách sạn, theo tên gọi cho thấy liên doanh với Sài Gòn. Khách được hướng dẫn vào ăn trưa ở một khách sạn. Thức ăn chỉ có món chả giò ăn được, các món khác là hải sản chế biến  nhưng quá dở. Chúng tôi ngồi cùng bàn với hai vợ chồng gìa người Na Uy đi với cô con gái lớn và một thanh niên người Pháp rất đẹp trai đi một mình. Chúng tôi nói chuyện xã giao với họ vui vẻ. Trình độ ngoại ngữ chúng tôi lem nhem nhưng cũng nói được đại khái tiếng Anh tiếng Pháp và đây là dịp để thực tập. Cô gái Na Uy không biết bị bệnh gì mà không nói và không tự ăn được , đi lại khó khăn, bố mẹ cô phải chăm sóc cô rất vất vả. Thấy thế chúng tôi giúp họ và họ có vẻ cảm kích. Anh chàng  người Pháp thấy BY nói được tiếng Pháp rất thích  thú, kể chuyện và hỏi han đủ thứ.

Ăn xong khách được mời lên xe chở ra bến tàu để đi tham quan Vịnh Hạ Long. Đoàn  chúng tôi được tách làm đôi, số người đi tour một ngày cùng đi với nhau và số người đi tour 2 ngày đi thành nhóm khác. Hai hướng dẫn viên hướng dẫn hai nhóm tự giới thiệu tên và yêu cầu khách nhớ mặt họ để khỏi lạc nhóm. Kể cũng hơi khó cho họ vì mới thoạt nhìn  trong đám đông, chúng tôi cũng không phân biệt rõ hai anh chàng quần áo, tầm vóc tương tự này.

Hướng dẫn viên mua vé lên tàu đưa cho khách tự giữ để đi qua trạm kiểm soát lên cầu tàu. Từ đây, nơi tàu thuyền đậu san sát ven bơ, có thể nhìn toàn cảnh Hạ Long.

Từ đất liền vô số hòn núi nhấp nhô chạy ra giữa biễn trời mênh mông. Những ngọn núi không cao lắm, nhiều hình thù nhưng vẫn có cái gì đó đồng dạng, hoặc đơn lẻ, hoặc kết thành khối, lô xô khuất dần trong biển cả, in hình lên nên trời những nét mờ ảo như trong tranh vẽ.

Chúng tôi xuống thuyền. Thuyền không lớn lắm nhưng vững chắc. Phần lớn khách ngồi trong khoang phía dưới nhưng một ít số leo cầu thang lên mái thuyền để tắm nắng và ngắm cảnh từ trên cao. Ở đây có thể ngồi trên các ghế nhựa nhỏ hay ngồi bệt xuống sàn. Cô gái Việt, dân Sàigòn ra Hà Nội công tác, chụp hình lia lịa và nhờ người khác chụp hộ cảnh cô đứng làm dáng nhiều kiểu. Hai vợ chồng người Singapore thỉnh thoảng trò chuyện với chúng tôi. Hai  người khác, hình như là vợ chồng,  nhưng không rõ quốc tịch, ngồi im lặng tắm nắng, không trò chuyện với ai và cũng không nói với nhau. Hình như họ có một nỗi buồn nào đó. Một cô gái New Zealand và cô gái Hàn Quốc kéo ghế  ra ngồi gần mép mái thuyền.

Thuyền từ từ tiến sát đến hòn núi gần nhất rồi len lỏi đi qua các hòn khác. Đây là núi đá vôi giống núi ở động Phong Nha nhưng ít cây hơn, nhiều hòn chỉ là những khối đá đủ dạng hình thù nổi lên từ mặt biển, trong đó có hòn Gà Chọi với hình dáng hai con gà đang sửng cồ đá nhau. Lênh đênh trên biển giữa vô vàn núi đá này người ta có cảm giác như đi  trong một mê đồ trận kỳ ảo ngoài trần the, rất dễ lạc lối về.

Sau một lúc chạy vòng vèo ngắm cảnh, thuyền cập bến để khách vào viếng động Thiên Cung. Muốn vào động phải leo khoảng trăm bậc cấp lên lưng chừng núi mới đến cửa động. Đã đi Phong Nha nên chúng tôi không thấy ngạc nhiên với động Thiên Cung dù ở đây cũng rộng, nhiều hình thù kỳ dị không kém. Sự khác biệt và cũng kém hấp dẫn  ở đây là  néon quá sáng và dấu vết nhân tạo nhiều quá, người ta làm nhiều bậc cấp, cả những chiếc cầu gỗ có tay vịn để khách dễ đi lại  nhưng chính vì thế mất đi vẻ mê cung huyền ảo.

Sau khi xem động Thiên Cung, khách được hướng dẫn đi men  sườn núi sang xem hang Đầu Gỗ cách đó khá xa. Con đường này được sửa sang khá rộng và đi lại an toàn. Hang Đầu Gỗ cũng có dạng tương tự như động Thiên Cung nhưng nhỏ hơn đôi chút.

Máy ảnh của tôi sắp hết phim, tôi đã mua một cuộn phim dự trữ nhưng lại để quên trong xắc bỏ dưới thuyền. Cô gái Sàigòn rất cởi mở và vui vẻ sẵn sàng chụp cho chúng tôi một số kiểu và hứa về Sàigòn sẽ gởi ảnh cho chúng tôi. BY tuy đau chân nhưng  vẫn cố khập khiễng đi theo mọi người vì không lẽ ra tận đây mà ngồi một chỗ.

Xem xong, chúng tôi xuống thuyền đã đến đậu sẵn dưới hang Đầu Gỗ để trở về. Sau khi leo trèo mỏi mệt, ngồi trên  mái thuyền, tận hưởng  làn gió mát trong biển trời về chiều, ai cũng lim dim ngây ngất.

Trên đường về, xe chúng tôi phải chở thêm mấy người khách tây của một đoàn khác gởi đi nhờ  một chặng đường để sang xa khác đi Hải Phòng. Họ phải ngồi ghế “xúp” ở giữa. Đây chắc là  chuyện lạ ở Việt Nam đối với họ. Hai hướng dẫn viên nói tiếng Anh khá trôi chảy tuy một trong hai người phát âm quá tệ. Họ nói với khách rất lịch sự, luôn mồm “ I’m sorry”, “ Thank you very much”, “Thanks for your help”. Nhưng khi nói với nhau bằng tiếng Việt lại chửi thề và văng tục lia lịa làm chúng tôi và cô gái Sàigòn lắc đầu. Hai xe cũng ngừng giải lao ở một cửa hàng bán đồ lưu niệm tương tự cửa hàng lúc đi. Đây là sự kết hợp thuận tiện rất đáng hoan nghênh.

8 giờ tối xe về đến Hà Nội, đổ khách ở trước rạp múa rối nước đầu Hồ Gươm và khách tự về. Chúng tôi tiếc đã không  đi tour 2 ngày, sẽ được dạo chơi trên biển nhiều hơn và ngủ lại đêm ở đảo Cát Bà. Tour 1 ngày đi về mất đến hai phần ba thời gian và khá mệt nhọc trong khi giá vé tour 2 ngày không mắc hơn bao nhiêu ( Tour 1 ngày 180.000đ / người , Tour 2 ngày 230.000đ / người). BY tiếc rẻ nhưng tôi an ủi nói lần sau sẽ rút kinh nghiệm. Biết đến bao giờ nhưng cứ nói đại cũng không sao (?!)

 

 

 

 

13.

 

Ngày thứ ba chúng tôi tôi tiếp tục đi thăm thú Hà Nội.

Khu phố cổ quả là đông đúc và chật chội. Đi bộ phải đi dưới lòng đường vì lề quá hẹp, lại để đầy xe gắn máy. Con đường nhìn ra Hồ Gươm đang bị công an dọn dẹp, nhiều bảng hiệu đồ đạc treo lấn ra lề bị giật xuống nhưng phía trong này chắc công an phải chào thua. Tuy vậy khách tây ba lô có vẻ khoái khu vực này, họ đi nhan nhản và cùng chen lấn với người Việt rất tự nhiên.

Các tiệm dịch vụ Internet không nhiều lắm. Ở các đường  phía  gần hồ giá lên đến 12.000đ/ giờ trong khi cách đó chùng trăm mét, ở các đường phía sau giá chỉ có 3000đ/ giờ. Dĩ nhiên chúng tôi phải chịu khó đi xa hơn khách tây.

Sinh hoạt phố phường Hà Nội có nhiều đặc trưng lạ mắt đối với chúng tôi và có lẽ đối với người ở xa đến, theo chúng tôi có cái chấp nhận được nhưng có cái không được đẹp mắt hay không có vẻ văn hóa lắm đối với một thủ đô.

Các quán trà lề đường  là một đặc trưng truyền thống. Chỉ cần một ấm tích, vài chiếc cốc, một giỏ đựng kẹo, thuốc lá và một ống thuốc lào, một chiếc bàn thấp, vài chiếc ghế đẩu đặt bên lề đường, các bà hàng đã có thể hành nghề quanh năm. Thậm chí ở trước chợ Đồng Xuân, tôi thấy tất cả đồ lề của bà hàng chỉ đặt gọn trong một chiếc giỏ  xách. Không cần bàn ghế mà chỉ có mấy  chiếc đòn nhựa, khi có khách bỏ mất chiếc đòn ra, cái làm ghe, cái làm bàn. Phải thừa nhận uống trà ở những  quán này rất tuyệt, nhất là về đêm. Trời lạnh, uống một cốc trà nóng bỏng miệng thấy ấm cả người, giá lại đặc biệt rẻ, chỉ có 500đ một cốc, có nơi 200đ, một giá không đâu có.

Buổi sáng chúng tôi đi mua bánh mì nhưng tìm mãi không thấy. Hỏi và được chỉ ngay trước  mắt. Hóa ra mấy bà mấy cô  đi bán rong đội một cái rổ lớn trên đầu trong đựng bánh mì được phủ kín bằng một một cái bao tải cũ kỹ. Một số khách tây rành hơn chúng tôi ra hiệu gọi đến mua nhưng một số khác có vẻ ngạc nhiên và xin phép chụp hình.

Cảnh By không thích nhất là các cô đi xe đạp chở hoa bán dạo. Phía sau xe người ta buộc một cái mẹt khá lớn và hoa được dặt trên đó,  xếp như  rau, nhiều cành héo úa trông rất thảm thương. Đã quen với các hàng hoa ở chợ  Đà Lạt hay các chợ, các tiệm hoa ở  Sài Gòn nên nảy sinh ra sự so sánh không vui. Ở những nơi này hoa được bỏ trong chậu tưới nước thường xuyên và xếp trông rất mỹ thuật, chưa kể có loại đã được bọc giấy kiếng sẵn, làm thành lẵng hoa hay đặt lên những gía nhiều kiểu dáng. Cách bán hoa  trên mẹt này giống với cách bán rau cải rong của một số dân mới nhập cư vào Sàigòn.

Nhiều người lái xe ôm mặc đồ bộ đội, đội nón cối, một số khác ăn mặc nghiêm chỉnh, mang giày. Những người đạp xích lô ăn mặc cũng đàng hoàng nhưng  nhiều người lại mặc veston, trông không hợp tí nào với công việc đang làm và chắc cũng  sẽ rất vướng víu nóng nực. Dù là xích lô chuyên dùng để chở khách nước ngoài đi dạo phố, có lẽ cũng không cần qúa trịnh trọng  như thế.

Chúng tôi chạy xe qua hầu hết các đường phố chính. Vài đường lớn xe cộ đông đúc như ở Sài Gòn nhưng những đường khác vắng hơn nhiều. Một số đường ở quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng nhiều bóng cây xanh mát nhưng ở các quận khác, những đường lớn mới mở nắng nóng không thua gì  Sài Gòn.

Chúng tôi cũng đi thăm Văn Miếu và Chùa Một Cột. Chùa Một Cột nằm lọt  trong khu vực lăng Hồ Chí Minh và các cơ quan bảo vệ, muốn vào phải qua cổng một cơ quan và đi  ngõ sau vào chùa. Chùa này rất nổi tiếng, có gía trị lịch sử và kiến trúc, xây dựng từ đời Lý, đầu thế kỷ 15, nhưng chỉ là một chùa nhỏ xíu dáng đài hoa sen  đứng trong một cái hồ nước vuông xây bằng xi măng có thả sen cũng rất nhỏ, mỗi cạnh chừng vài mét.              

 

 

Chúng tôi chạy ngang qua quãng trường Ba Đình và lăng HCM nhưng không vào. Quãng trường rộng, nhiều bãi cỏ được cắt xén chăm sóc kỹ, cách khoảng có lính đứng gác. Một rặng tre lớn phía trước bên trái đang được tưới bằng vòi nước phun. Đây là rặng tre duy nhất từ xưa đến nay tôi được thấy chăm sóc kiểu này. Lăng xây bằng đá đỏ, buổi chiều  tắt nắng thẫm lại trông âm u, phía trước có dựng mấy vòng hoa đã hơi héo.

Khi đi về, ông chủ nhà trọ hỏi chúng tôi có vào thăm Bác không, Bác đang ngủ yên trong đó. BY nói thôi để bác ngủ đừng quấy rầy Bác làm gì. Lần trước ra Hà Nội tôi đi qua lại quãng trường Ba Đình nhiều lần nhưng cũng không vào thăm lăng HCM. Tôi không tán thành việc xây  lăng và không thích  nhìn xác ướp, dù là của bất cứ ai. Vả lại điều này không đúng di chúc của HCM. Ước nguyện của HCM trước khi mất là

 

 

Xét theo văn bản di chúc, đó là một nguyện vọng thật chính đáng và cao qúy, thể hiện tấm lòng thương dân thương nước và sự hy sinh tột cùng không nghĩ đến bản thân. Di chúc của người chết là linh thiêng, nhất lại là của lãnh tụ một nước. Thế nhưng người ta không tôn trọng, lại làm trái ý nguyện đã được ghi rõ ràng trong di chúc. Việc xây dựng và bảo vệ lăng làm hao tốn bao nhiêu tiền của nhân lực của đất nước, không chỉ một lần mà còn về lâu về dài. Việc ướp xác và bảo quản, càng về sau càng khó khăn khi xác bị phân hủy không thể cứu vãn, cũng làm mất đi sự tôn kính đối với lãnh tụ. Hình thức tôn kính chỉ cần một tấm ảnh, một bức tượng, thậm chí không cần đến những biểu tượng vật chất. Đánh gía đúng  mức sự vĩ đại của lãnh tụ, hiều thấu tư tưởng, học tập việc làm, tiếp tục phấn đấu thực hiện ước vọng của lãnh tụ, đó là cách tôn kính tốt đẹp và gía trị nhất. Còn viếng thăm hương hoa nhang khói nhưng không có nội dung trên thì sự tôn kính đó chỉ là hình thức vô nghĩa, thậm chí giả hình hay mù quáng, hoặc  chỉ nhằm mục đích lợi dụng cho những ý đồ không trong sáng.

 

Chúng tôi đi thăm hồ Thiền Quang. Gia đình BY có thời gian sống ở khu vực này lúc BY  mới 1, 2 tuổi. Dĩ nhiên BY không nhớ gì nhưng anh của BY nói nhà cũ của gia đình ở trong một phòng của một ngôi nhà 3 tầng trên con đường gần hồ. Chúng tôi chạy chầm chậm quanh hồ, thấy có vài căn nhà 3 tầng có vẻ cổ, hiện đang là trụ sở của các cơ quan nhà nước, chẳng biết cái nào là nhà xưa còn sót lại trong khi nửa thế kỷ đã trôi qua. Chúng tôi chỉ còn biết chụp mấy tấm hình ở bờ hồ làm kỷ niệm.

Chúng tôi cũng trở lại hồ Gươm, gởi xe đi bộ để cảm nhận hết vẻ đẹp cuả hồ. Công viên ven hồ có ưu điểm là rộng thoáng, nhiều cây , sạch sẽ làm mặt nước trở nên dịu dàng và trữ tình. Thỉnh thoảng gặp một đôi trai gái đang ngồi trò chuyện hay một người lớn tuổi im lặng ngồi hút thuốc trầm tư một mình. Giữa cuộc sống xô bồ căng thẳng náo nhiệt hiện nay, bờ hồ có thể trở thành nơi tĩnh tâm cho một số người muốn lắng lòng trở lại với chính mình. BY gợi chuyện một bà lớn tuổi cũng đang ngồi một mình. Bà nói Hà Nội có nhiều hồ và dân nghèo Hà Nội sống được nhờ hồ. Họ ra hồ để thở khi ở trong nhà không còn thở nổi.

Chúng tôi chụp hình bên tháp Bút, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc. Trong đền chúng tôi chỉ đi lướt qua vì không thích các mái quá thấp làm những gian thờ trở nên âm u và lại nồng nặc mùi khói nhang trong khi  một  nhóm du khách đang kiên nhẫn đứng lắng nghe thuyết minh. Từ  đền Ngọc Sơn có thể  chụp một bức hình gần toàn cảnh hồ Gươm theo hướng bắc – nam với một cái tháp cũ kỹ đứng xa xa giữa hồ.

Trước đền Ngọc Sơn  và ở nhiều thắng cảnh khác của Hà Nội, có nhiều người chụp ảnh dạo, đặc biệt rất nhiều phụ nữ làm nghề này. Hình như đây cũng là một nét đặc trưng của Hà Nội.

Buổi tối  chúng tôi chạy vòng vòng khu phố cổ tìm tiệm ăn, tình cờ chạy ngang hiệu Chả Cá Lã Vọng ở số 14 phố Chả Cá. Tôi đã biết về sự nổi tiếng của hiệu ăn và gần đây có đọc mấy bài báo về hiệu ăn này, nơi đã được thành lập từ 100 năm trước qua 5 đời cha truyền con nối và chỉ có một cửa hiệu duy nhất ở Hà nội. Chúng tôi đoán gía cả sẽ rất đắt nhưng  quyết định xài sang một bữa.

Hiệu ăn nhỏ, phải leo lên cầu thang gỗ vì bàn ăn bày trên gác. Căn gác gỗ đèn không sáng lắm vì hình như ám khói và khói cũng đang nghi ngút ở các bàn vì người ta dùng lò than. Cá được lóc xương, cắt thành miếng hình chữ nhật dày ướp nhiều thứ gia vị, nấu trong nồi đất với một thứ nước sền sệt màu vàng nghệ sôi sùng sục trên lò than. Cá ăn với bún và nhiều loại rau đặc biệt, trong đó hành ngò, thìa là  phải trộn ngay vào cá trong nồi.

Hiệu ăn khách tây nhiều hơn khách ta, chắc vì được giới thiệu trong các sách hướng dẫn du lịch. Căn gác nóng bức dù quạt máy đặt nhiều nơi chạy vù vù. Giá quả nhiên đắt: 80.000đ / xuất / người chưa kể đồ uống nhưng đối với chúng tôi lại không ngon bằng bánh cuốn ở một tiệm nhỏ trên phố Lò Đúc, nơi chúng tôi ăn sáng khi tình cờ chạy ngang, gía chỉ vài ngàn một đĩa.

 

 

 

 

 

 

14.

 

Ngày kế tiếp chúng tôi theo tour du lịch đi Chùa Hương. Lần này hướng dẫn viên lại đến đón quá sớm, chúng tôi chưa kịp chuẩn bị xong, anh ta phải đi đón người khách khác ở gần đó rồi quay lại. Đó là một thanh niên người Anh nhưng hơi  giống Ấn Độ, chúng tôi đóan  và sau này nói chuyện  anh xác nhận đúng là gốc Ấn.

Cũng khác với lần trước, lần này chúng tôi được taxi chở đến tận nơi xe car đậu nhưng lại phải chờ những người khác đến gần một tiếng xe mới khơi hành. Tình trạng này cho thấy cách làm việc rất linh hoạt nhưng không chu đáo của các công ty du lịch ở đây như anh chàng hướng dẫn viên thích trò chuyện nói cho chúng tôi rõ. Các văn phòng dịch vụ du lịch ở nhiều nơi bán vé cho khách rồi báo lại cho công ty du lịch. Các văn phòng dịch vụ bán vé không trực thuộc và có thể giao khách cho bất cứ công ty nào. Xe chở khách lớn hay nhỏ lại là xe thuê từng chuyến tùy theo số lựơng khách. Hướng dẫn viên chia nhau đi đón khách khắp nới từ 5g sáng, sau đó đi theo đoàn nên rất vất vả nhưng lương chỉ 50.000đ / ngày, hôm nào nghỉ làm không có lương.

Các chỗ ngồi trên xe đã đầy khách nhưng vẫn còn một số đứng ở dưới chờ. Có hai người Pháp chúng tôi đoán là hai cha con, có vẻ bực bội. Ông bố nhỏ con, ria mép dày điểm bạc, anh con trai cao to, đầu húi trụi. Họ đi lên đi xuống càu nhàu vì không biết ngồi đâu, cuối cùng được cho ngồi ghế “xúp” ở giữa lối đi mới được lật ra, cùng với mấy người nữa. Tây sang ta cũng phải “nhập gia tùy tục” thôi.

Quãng đường từ Hà nội đi Chùa Hương thuộc tỉnh Hà Tây chỉ có 70 cây số nhưng rất xấu nên xe đi mất gần 2 tiếng. Không hiểu sao một tuyến đường du lịch đông khách như thế mà người ta không chịu sửa sang cho đàng hoàng. Gần tới nơi, xe dừng lại cho hướng dẫn viên vào mua vé mới được vào. Khi xe dừng, có mấy người đến mời đổi tiền lẻ. Họ cầm từng xấp tiền loại 200 đ. Sau này chúng tôi mới hiểu là khách hành hương cần tiền lẻ để cúng trong các chùa. Mỗi chùa có rất nhiều chỗ cúng nên khách phải có tiền lẻ để cúng khắp lượt.

Xe vào đậu trước mấy quán ăn bên bến thuyền gọi là Bến Đục đợi hướng dẫn viên sắp xếp thuyền đi. Ở đây không có nhà vệ sinh sạch sẽ như chuyến đi Hạ Long, khách phải xếp hàng dài trước toa lét chật chội của quán ăn. Nơi đây cũng có nhiều hàng quán bán bánh kẹo đặc sản và đồ lưu niệm. Hướng dẫn viên khuyên chúng tôi nên mua nón rộng vành bày bán ở đây để đội vì phải ngồi thuyền đi 3 cây số hơn một giờ dưới nắng gay gắt. Từ bến thuyền nhìn dọc theo suối Yến (thực ra là sông vì khá rộng nhưng người ta quen gọi là suối ) thấy cơ man nào là thuyền nhỏ đậu san sát như lá tre, không phải hàng trăm mà là hàng ngàn, chỉ chừa một lối trống nhỏ ở giữa. Mỗi thuyền của đoàn chúng tôi chở tối đa 10 khách nhưng những thuyền khác của khách hành hương có đến hơn 20 người, họ ngồi chen chúc sát nhau trong khoang và cả hai bên mạn thuyền làm mép thuyền chìm xuống xấp xỉ mặt nước. Phần lớn khách  là phụ nữ trong đó có nhiều bà gìa và trẻ em.

Trừ hai chúng tôi, cả đoàn còn lại đều là khách nước ngoài, chia ra ngồi  bốn thuyền. Thuyền của chúng tôi ngồi có một cô gái Mỹ gốc Hàn Quốc, cô gái New Zealand mà chúng tôi đã gặp trong chuyến đi Hạ Long, thanh niên Anh gốc Ấn, anh chàng Pháp “con” và mấy người nữa. Chúng tôi chuyện trò vui vẻ.

Cô gái Mỹ gốc Hàn lúc trên xe ngồi cạnh tôi yêu cầu tôi dạy cô nói  một số câu tiếng Việt tỏ ra rất thích thú và thực tập liên tục. Cô nói trước khi đến cô không ngờ dân Việt Nam dễ mến như thế.

Anh chàng Pháp “con”, khoảng 30 tuổi, nói luôn mồm. khi tiếng Pháp khi tiếng Anh, có vẻ hơi ba trợn. Anh ta tán tỉnh cô gái Mỹ gốc Hàn và dám hỏi” Voulez - vous coucher avec moi ce soir? “. BY cảnh cáo anh ta nếu nói với gái Việt Nam như thế sẽ bị ăn bạt tai. Anh ta cười nói chỉ đùa cho vui thôi.

Thuyền do hai người chèo tay, một người đàn ông và một phụ nữ đứng ở hai đầu thuyền. Họ chèo khá vất vả  và dù cẩn thận thuyền vẫn luôn va chạm với các thuyền đậu hai bên hay đi ngược chiều vì  lối trống ở giữa quá chật. Hình như đây là chuyện quá bình thường nên khi va chạm mọi người đều cười xòa vui vẻ chứ không ai cáu gắt. Càng vào sâu, cảnh vật hai bên càng đẹp, nhiều cây xanh và xóm làng thưa thớt, thỉnh  thoảng có vài ngọn núi nhỏ. Thuyền đi hơn một giờ mới đến bến trong, đúng là một  lối vào thắng cảnh độc đáo.

Dọc theo sông ở bến trong lại thấy vô số thuyền đậu và trên bờ hàng quán san sát. Ở đây ngoài bánh kẹo đặc sản, hàng lưu niệm, người ta còn bán thức ăn uống, đồ cúng, thuôc chữa bệnh ( các loại thuốc nam cây cỏ, củ) và cả gậy tre để chống. BY cũng mua một chiếc gậy vì chân đau và đường lên núi đá dốc trơn trợt.

Từ dưới bến thuyền lên khỏi dốc đá đến một mặt bằng khá rộng phía trước chùa Thiên Trù, một chùa lớn. Ở mặt bằng này người ta lại dựng hàng quán, có quán ăn rộng với năm, bảy chục bàn. Ngoài ra còn có nhiều nhà trọ cho khách nghỉ qua đêm, nhìn vào thấy giường, sạp để san sát dưới các mái tôn hay ni lông che tạm bợ. Ngày hôm nay lúc chúng tôi đi khách không đông lắm. nhưng nhìn quang cảnh này cũng biết vào mùa lễ hội hay ngày nghỉ khách hành hương sẽ tấp nập như thế nào, nghe nói lên tới hàng chục vạn.

Hướng dẫn viên thông báo sẽ dẫn khách đi viếng động Tiên Sơn, động Đại Bình, trở về chùa Thiên Trù, sau đó sẽ viếng chùa Hương Tích là chùa chính ở sâu trong núi. Các động đều có chùa và chùa thường ở trong động. Các chùa, động này nằm  rải rác trong một vùng núi rừng rộng lớn.

Leo các bậc cấp và dốc đá lên chùa Tiên Sơn, chúng tôi và một vài khách lớn tuổi phải dừng lại mấy lần để nghỉ. Điểm độc đáo của chùa Tiên Sơn ở chỗ lối vào là một khe đá hẹp chỉ vừa một người đi lọt nhưng vào trong động mở rộng ra thành nơi thờ cúng của một ngôi chùa. Chùa này nằm lưng chừng  một ngọn núi.

Sau chùa Tiên Sơn, chúng tôi theo đường dốc đá đi xuống một thung lũng phía sau khá sâu để đến động Đại Bình. Vào động này phải leo xuống hang đá tối om nhưng bên dưới động mở ra rộng rãi có nhiều ngăn. Tượng Phật được đặt trên các bệ, các hốc đá tự nhiên và nhang khói nghi ngút. Đi vòng hết động, khách sẽ trở lên trên theo một cửa hang khác.

Từ động Đại Bình, chúng tôi lại trèo ngược lên đường cũ một quãng rồi theo một đường khác vòng quanh sườn núi trở về chùa Thiên Trù. Giữa đường có một chỗ bằng rộng người ta dựng quán bán nước giải khát, có sạp, võng cho khách dừng nghỉ chân.

Về đến trước chùa Thiên trù, đoàn khách được hướng dẫn viên đưa vào một quán ăn và phải chờ khá lâu mới được ăn một bữa không lấy gì làm ngon miệng. BY lui phía sau tìm một toa lét và trở ra lắc đầu nói nếu vào bếp rồi sẽ không dám ăn vì người ta làm quá bẩn, thấy phát sợ. Chúng tôi phải đi tìm nhà vệ sinh cho thuê cách  quán ăn khá xa. Đúng là vấn đề vệ sinh ở đây quá kém và trong những ngày số khách hành hương đông đảo không hiểu người ta sẽ giải quyết thế nào. Khách tây đi một lần chắc tởn tới gìa.

Ăn uống xong, hướng dẫn viên tuyên bố: Khách tiếp tục xem chùa Thiên trù, sau đó ai muốn vào chùa Hương Tích tự đi nhưng phải có mặt ở quán ăn trước 3g chiều để kịp trở về. Anh ta dọa nếu  dẫn khách vào chùa Hương Tích phải đi mất vài tiếng và leo trèo rất mệt nhọc, không phải ai cũng đi nổi. Theo chúng tôi thấy một phần do thời gian ít, phần khác hai hướng dẫn viên này, hai thanh niên cũng rất mệt nhọc. Một trong hai người đang bị ho,sổ mũi. Kể cũng tội cho họ. Nếu ngày nào cũng dẫn khách đi tuyến du lịch này sẽ không chịu nổi vì rất mệt và nhàm chán.

Trước hoàn cảnh đó, chúng tôi cũng không muốn đi xa nữa, nhất là BY đang bị đau chân. Chúng tôi vào xem và la cà trong khu vực chùa Thiên Trù , một chùa rộng, trước sân có nhiều bậc thềm và có hàng cây râm mát bao quanh. Động Thủy Sơn ở sau chùa không có gì đặc sắc so với động Tiên Sơn và Đại Bình vì động nhỏ, phần lộ thiên nhiều hơn.

Người ta cúng dường bằng cách để tiền lẻ vào các bát nhang trong chùa sau khi cầu xin van vái. Trước hiên chùa có đặt một bàn làm việc, ở đó ai cúng dường nhiều tiền được ghi sổ và cấp một giấy chứng nhận công đức. Ở đây hình như tín ngưỡng, mê tín và sự tham lam vị kỷ lẫn lộn trong một hình thức buôn thần bán thánh khá kỳ quặc, thể hiện tâm  lý và trình độ của khách hành hương. Trước đây báo chí còn nói đến việc làm chùa giả và các hình thức bịp bợm để làm tiền. Những việc làm quá lố đã bị ngăn cấm nhưng nói chung các hình thức mê tín dị đoan, các trò lễ lạt rườm rà gọi là phục cổ, về nguồn, văn hóa dân tộc vẫn tiếp tục phát triển và còn được khuyến khích.

3giờ chiều, đoàn chúng tôi trở về. Hướng dẫn viên yêu cầu ai đi thuyền nào về lại thuyền đó. Ngồi với nhau trong khoang thuyền hẹp một thời gian khá lâu, nói chuyện nhiều, chúng tôi hầu như trở thành bạn. Thanh niên Anh gốc Ấn nói từ nhỏ đến nay chưa lần nào về thăm Ấn Độ dù bố anh về nhiều lần. Anh mới tốt nghiệp đại học và gia  đình cho đi du lịch suốt một năm liền, anh hy vọng trong dịp này sẽ về thăm Ấn Độ. Anh có vẻ ngạc nhiên khi biết chúng tôi đã từng học Yoga với những ông thầy Ấn trong khi anh biết về yoga rất lơ mơ. Chụp ảnh chung với chúng tôi bằng máy ảnh kỹ thuật số, anh hứa khi về anh sẽ gửi tặng cho chúng tôi qua email.

Anh chàng Pháp “con” làm nghề kinh doanh địa ốc, có vẻ ba trợn nhưng lại thích nói chuyện chính trị. Anh ta bảo đến Hà Nội nói chuyện với sinh viên khi đề cập đến vấn đề chính trị họ đều tỏ ra sợ hãi lãng ra  vì sợ bị nghe lén. Khắp nơi đều có tai vách mạch rừng. Tôi gặng hỏi anh ta đến Hà Nội lâu chưa và có tiếp xúc với nhiều sinh viên  không mà biết chuyện đó. Anh ta bảo những điều đó anh chỉ mới đọc thấy trong một số sách báo ở nước ngoài thôi. Anh ta bảo anh ta ghét chính trị, không ưa các lãnh tụ vì phần đông chuyên nói dối và chỉ vì quyền lợi của mình, không  ưa cả chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản. Tôi nói tôi cũng không ưa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, tôi còn không ưa chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa bá quyền nước lớn  và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Tôi thích chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa vũ trụ. Nghe tôi nói, hai anh chàng Anh gốc Ấn và Pháp “con” đều kêu lên tán thành: “Chúng tôi cũng thế”. Sau đó anh chàng Pháp “con” còn làm bộ chỉ tay sang các thuyền đi gần bảo coi chừng có các lỗ tai đang lắng nghe.

Trước khi rời thuyền, có chuyện không hay là bà chèo thuyền đòi tiền bồi dưỡng ( dù công ty du lịch  đã trả tiền thuê  tính trong vé ). Ai cho ít bà ta đều cằn nhằn, nói những câu khó nghe. Điều này cũng chứng tỏ việc tổ chức tour còn nhiều bất ổn.

Trên chuyến xe về, tình cờ ông Pháp “bố” lại ngồi gần chúng tôi. Ông này rất thích nói chuyện, cứ ba hoa luôn mồm. Ông bảo ông thích Hà Nội hơn Sài Gòn vì Sài Gòn có nhiều ăn mày quá. BY giải thích Sài Gòn có nhiều ăn mày vì dân đông và phần lớn ăn mày đều là dân mới nhập cư, trong đó có khá nhiều dân miền Bắc vào. Ông ta gật gù có vẻ hiểu ra. Chúng tôi nhớ lại hôm đi Hạ Long, hai anh bạn Nhật bảo thích phong cách người Sài Gòn hơn Hà Nội. Đối với người nước ngoài, những cảm nhận này tùy thuộc vào tâm lý, sự hiểu biết và hoàn cảnh tiếp xúc của họ, khác nhau là chuyện thường.

Trên đường về, trời đã gần tối, ngang qua thị xã Hà Đông, nhiều người tình cờ nhìn qua cửa kính thấy trong một cửa hàng một phụ nữ đang nhảy chồm chồm lên la hét xỉa xói vào mặt một người đàn ông. Anh chàng hướng dẫn viên buột miệng nói: “Sư tử Hà Đông đó”. Khách nhao nhao lên hỏi sư tử Hà Đông là gì làm anh chàng bối rối phải giải thích rất dài dòng mà có người vẫn tỏ ra không hiểu.

Lại cũng đến gần 8 giờ tối xe mới về đến Hà Nội, đỗ trước nhà múa rối nước cạnh hồ Gươm. Đi tour trong ngày mà đi xa quả thật mệt.

Khi về nhà trọ, ông chủ hỏi chúng tôi có vào động Hương Tích chưa, chúng tôi bảo chưa, ông tỏ ra tiếc rẻ. Ông nói đi chùa Hương mà chưa vào động Hương Tích cũng như chưa đi. Chúng tôi cũng biết điều đó vì đã nghe Hương Tích là “Nam thiên đệ nhất động” nhưng trong hoàn cảnh tour du lịch vừa qua đành chịu. Tuy nhiên đã đi Phong Nha và Hạ Long xem động nên chúng tôi cũng không tiếc lắm. Đọc trong sách thấy mô tả động Hương Tích cũng tương tự, chỉ khác là có chùa.

 

 

 

 

 

 

15.

 

Ngày cuối trước khi gĩa từ Hà Nội, chúng tôi quyết định đi thăm mấy người quen đặc biệt. Đó là những người được gọi là bất đồng chính kiến hay nhóm dân chủ ở Hà Nội. Trong quá trình hơn 10 năm trước, qua các bài viết, chúng tôi đã quen biết theo nhiều hình thức một số người ở đây.

Tướng Trần Độ đã gặp chúng tôi nhiều lần ở Đà Lạt nhưng ông đã mất năm ngoái. Nhà vật lý địa cầu, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang tôi cũng đã gặp một lần ở ĐàLạt, thỉnh  thoảng có điện thoại và năm nào ông cũng gởi thiệp chúc Tết cho chúng tôi. Thủ lĩnh “Xét lại chống đảng” Hoàng Minh Chính thường xuyên thăm hỏi, gởi quà cho chúng tôi nhân những ngày lễ tết lớn trong năm. Nhà văn Hoàng Tiến vẫn gởi những bài viết mới  cho chúng tôi đọc. Cựu đại tá quân đội , nhà sử học Phạm Quế Dương có lần vào Lâm Đồng đến thăm chúng tôi trong thời gian tôi bị quản chế, bị công an canh gác chặn lại không cho vào. Nhà thơ Tú Sót đã viết tặng tôi một bức thư pháp bài thơ “Đăng U Châu đài ca” của Trần Tử Ngang…

Nói chung chúng tôi quen họ trong tinh thần “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” và nhiều người chỉ là “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”. Tuy nhiên tình cảm chúng tôi dành cho họ và họ dành cho chúng tôi rất đặc biệt. Chúng tôi gặp nhau, đồng cảm trong tư tưởng đấu tranh cho tự do dân chủ giữa một bối cảnh đất nước đã độc lập thống nhất nhưng lại nằm dưới sự cai trị của một đảng độc quyền, sau gần 30 năm vẫn là một  trong những nước nghèo đói lạc hậu nhất thế giới. Chúng tôi là một thiểu số quá ít, chỉ chừng vài mươi người trong một đất nước gần 80 triệu dân và tất cả chúng tôi đều đã bị đàn áp bằng nhiều cách.

Ra Hà Nội, đi thăm những ngừơi này là một việc làm khá nguy hiểm. Đặc biệt trong thời gian gần đây, nhà nước đang gia tăng việc đàn áp. Đưa ra tòa xử tù nặng hai người trẻ là luật sư Lê Chí Quang và nhà báo Nguyễn Khắc Toàn. Bắt giam một loạt mấy người trẻ khác như bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình… Gần hơn bắt Phạm Quế Dương và Trần Khuê lúc PQD vào thăm TK ở Sàigòn. Mới nhất trước Tết bắt Trần Dũng Tiến.

Chúng tôi quá hiểu rõ tình hình bao vây phong tỏa thường trực những người bất đồng chính kiến vì đã trải qua tình trạng  đó trong nhiều năm. Chúng tôi đi thăm họ, nhất định không qua khỏi mắt công an và việc chúng tôi gặp họ rất dễ bị công an suy diễn hay quy chụp là liên lạc bàn bạc kế hoạch, móc nối hình thành tổ chức… và lấy đó làm cớ để gây khó khăn cho chúng tôi. Tuy nhiên nếu đã ra Hà Nội mà không thăm họ, chúng tôi thấy lòng áy náy không yên, thấy mình có lỗi và hình như quá hèn nhát.  Chuyến đi du lịch của chúng tôi đã gần hoàn tất, chúng tôi quyết định đi thăm vài người một cách công khai, chỉ với mục đích thăm hỏi tình cảm và công an có biện pháp thế nào sẽ hạ hồi phân giải. Tôi rất cám ơn BY vì đã hết sức ủng hộ tôi trong việc này. Tôi nói đùa nếu công an bắt áp giải chúng tôi về Sàigòn như BMQ trước đây, chúng tôi sẽ đỡ tốn tiền đi xe lửa.

Chúng tôi quyết định đi thăm HMC trước. Ông này ở ngay trong một ngõ đường Lý Thường Kiệt là một phố lớn ở quận Hoàn Kiếm. Địa chỉ cụ thể chúng tôi đã mất lúc ở Huế nên chỉ dựa vào trí nhớ. Đường Lý Thường Kiệt có mấy ngõ có bảng ghi số nhưng hình như không phải nơi HMC ở vì BY vào xem qua  thấy không có số nhà như chúng tôi nhơ. Trước các ngõ này đều là các quán nước có công an mặc sắc phục ngồi và đối diện với một ngõ là trụ sở của cơ quan công an. Chúng tôi đành đi tìm Hòang Tiến  trước, sẽ hỏi rõ địa chỉ của HMC rồi đến thăm ông sau.

Nhà HT ở tập thể cao tầng Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân ở phía Nam thành phố. Theo bản đồ, chúng tôi chạy khá lâu và bất ngờ khi thấy bảng chỉ dẫn đã tới địa phận tỉnh Hà Tây. Hóa ra Hà Tây giáp giới với quận Thanh Xuân. Hỏi thăm mãi chúng tôi mới vào được khu tập thể cao tầng Thanh Xuân Bắc. Nói là cao tầng nhưng đây chỉ là khu chung cư chừng 4, 5 tầng  bao gồm nhiều dãy, giữa là những con đường nhỏ, nhiều chợ búa, quán xá. Khu chung cư này xem ra đã khá cũ kỹ và người ta cơi nới, phơi phóng lung tung nên nhìn có vẻ hơi nhếch nhác.

Đầu lối vào khu nhà của HT có một quán vừa bán giải khát vừa sửa xe, có mấy người đang ngồi uống nước. Chúng tôi rất dị ứng với các lọai quán này vì biết quá rõ đây là nơi có chỉ điểm hay trinh sát làm việc. BY lên lầu hỏi thăm trước và xuống báo HT có nhà. Tôi gửi xe ở quán để lên lầu. Xe tôi mang biển số 52 của Sài Gòn nên dĩ nhiên nếu có công an họ sẽ biết ngay. Tôi có thể gửi xe nơi khác đi bộ đến nhưng tôi đã quyết định công khai nên chẳng việc gì phải che giấu.

HT hình như đã hơn 70 tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện và linh họat. Ông mừng rỡ bắt tay tôi nói: “Quý hóa quá! Quý hóa quá!”. Ông tiếp chuyện chúng tôi nơi bàn vừa làm việc vừa tiếp khách. Trong khi ông pha trà ô long, chỉ là mấy cọng dài đen thui mà ông bảo là một lọai trà đắng đặc biệt dùng tiếp khách quý, chúng tôi quan sát căn hộ của ông. Căn hộ này có lẽ chưa đến 30 m2. Ngay cửa vào một bên là toa lét, bên kia là cầu rửa chén bát, tiếp theo là phòng khách, trong cùng là phòng ngủ, tất cả đều nhỏ xíu. BMQ đã từng nói với tôi. trước đây dân Hà Nội ai được phân một căn hộ 24m­­2 được xem là một hạnh phúc nhất trên đời.

HT  nghe nói chúng tôi đi xe máy và đã rời Sài Gòn gần một tháng nay vội hỏi ngay đã biết tin về HSP chưa?. Chúng tôi nói đã biết vì trên đường đi thỉnh thoảng có điện về Đà Lạt hỏi thăm. Một lần HSP trực tiếp trả lời, báo anh đã chính thức tự do sau một thời gian căng thẳng làm vợ chồng anh gầy rộc cả người. Người ta đã đưa anh ra tổ dân phố để đấu tố 2 lần nhưng lần sau anh từ chối không dự. Quyết định chứng nhận anh chấp hành xong quản chế ký đúng ngày hết hạn nhưng họ bày trò răn đe gây căng thẳng và mãi 10 ngày sau mới đưa vì phải “xin ý kiến cấp trên”. Sau đó HSP đã có thể đi bộ tập thể dục buổi sáng  quanh hồ Xuân Hương.

HT tầm vóc vừa phải, trán cao, tóc hoa râm, nói năng khúc chiết, đúng phong thái “sĩ phu Bắc hà”. Ông cho chúng tôi biết tình hình liên quan đến “nhóm dân chủ” ở Hà Nội.

Trước Tết Nhà nước tung tin đã lên danh sách và sẽ” khuân 30 cụ vào kho” ( lần đầu tôi nghe kiểu nói này - cũng thú vị ). Mọi người nghĩ có lẽ những người lãnh đạo Nhà nước này đã điên lên rồi và có thể dám làm mọi chuyện nên ai cũng chuẩn bị sẵn tinh thần và vật chất, ổn định gia đình trước khi bị bắt. Riêng HT, ông đã dặn dò trấn an vợ con, lúc nào cũng để sẵn một ba lô với vài bộ quần áo và mấy đồ dùng thiết yếu. Tiền bạc ông không cần vì đã quen sống đạm bạc, có thể chịu đựng được hoàn cảnh sống trong tù. Nghe ông nói thường chỉ có mấy trăm ngàn trong túi, mấy người bạn tặng thêm tiền để phòng khi chi dùng nhưng ông kiên quyết từ chối.

Thế nhưng qua Tết vẫn không thấy Nhà nước động tĩnh gì. Các cụ bảo nhau hay là Nhà nước còn “nhân đạo” để các cụ ăn Tết xong mới bắt. Qua tháng giêng, vẫn không thấy gì, các cụ lại bảo có thể Nhà nước cho các cụ qua lễ rằm tháng giêng. Cuối cùng đến nay vẫn chưa có gì. Hóa ra họ chưa đến nỗi điên lắm, chỉ cốt hù dọa thôi. Tuy nhiên không phải vì thế mà tình hình căng thẳng.

Trong vụ bắt Phạm Quế Dương  và Trần Khuê, Nhà nước tung tin sẽ đưa hai người này ra xử thật nặng về tội làm gián điệp, tổ chức chống phá nhà nước. Sau mấy tháng hai ông bị bắt và đưa ra giam ở Hà Nội, gia đình đã lùng hỏi khắp nơi nhưng vẫn không biết được hai ông bị giam ở đâu. Riêng PQD, Nhà nước tung tin có bằng chứng ông nhận tiền của nước ngòai để họat động gián điệp làm những người thân và quen biết ông cũng đâm ra hoang mang. Trước đó PQD đã từng nói đùa: ”Sợ gì không nhận tiền. Hồ Chí Minh  nhận tiền  của nước ngòai để làm cách mạng. Đỗ Mười nhận tiền hối lộ của một công ty Hàn Quốc. Tôi cũng nhận tiền để làm cách mạng, phục vụ nhân dân có gì là xấu”. Nghe đâu vì câu nói này mà Đỗ Mười  rất giận dữ, đòi đưa PQD ra xử bắn. Thực tế PQD có công khai quyên góp tiền để làm qũy  cho họat động của hội chống tham nhũng mà ông và TK đã chính thức công bố thành lập. Lúc ông bị bắt, trong người ông có một số tiền “đô” và vì thế người ta mặc sức vu vạ.

 

Trần Dũng Tiến, cựu chiến binh, nguyên quyết tử quân, một ông già ăn nói phang ngang bổ củi không nể nang bất cứ ai, đã từng lên tiếng tố cáo đích danh tội trạng của nhiều nhà lãnh đạo, sau khi ông công bố một bài viết về vụ bắt PQD và TK, ngay trước Tết ông cũng bị bắt và cho đến bây giờ gia đình cũng không biết ông bị giam ở đâu. Nhà nước này chẳng cần tôn trọng gì các luật pháp quy định này nọ do chính họ đặt ra.

Tôi nhân định sự dũng cảm đấu tranh của các cụ rất đáng quý và có hiệu quả nhất định nhưng tình hình chỉ có thể xoay chuyển khi có sự góp sức, chuyển động của tòan xã hội, trong đó có sự thay đổi của nhà cầm quyền cùng với sự thay đổi của tình hình thế giới, sức ép từ bên ngòai. Ai hi vọng sẽ có sự thay đổi nhanh chóng hay cho rằng họat động của một nhóm nhỏ sẽ mang lại kết quả quyết định chỉ là ảo tưởng và sẽ dễ trở nên bi quan. HT đồng ý với nhạn định này.

 

HT còn kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện về giới văn nghệ sĩ ở thủ đô. Chuyện nào ông cũng nói rành rọt, phân tích, lý luận chặt chẽ tỏ rõ là một người rất am hiểu tình hình.

Chúng tôi nói chuyện với HT cũng khá lâu, có lẽ đến hơn mất tiếng đồng hồ nên cáo từ sau khi hỏi rõ địa chỉ của HMC và đường đi đến làng Hà Hồi, quê ngọai của BY.

HT đưa chúng tôi xuống lầu. Ông bảo đã quá trưa rồi nên mời chúng tôi ăn bún ở quán phía trước chung cư. Quán này nhỏ, bình dân nhưng ăn được và theo ông ra Hà Nội phải ăn theo kiểu “bụi” mới thưởng thức hết hương vị của các món ăn truyền thống. Bà hàng sắp dẹp tiệm nhưng thấy HT là khách quen vào nên nán lại và may bún còn mấy tô đủ cho ba chúng tôi. Quán bán bún riêu và bún ốc. Chúng tôi sợ ốc nên chỉ ăn bún riêu. Theo chúng tôi bún riêu ở đây quá tệ nhưng vì lịch sự và sự nhiệt tình của HT chúng tôi phải khen ngon. Dù sao lần đầu gặp chúng tôi, HT đã tỏ ra rất vui vẻ, cởi mở, quý mến và chu đáo.

Từ gĩa HT, chúng tôi đi luôn về làng Hà Hồi, thuộc huyện Thường Tín Tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khỏang 20 cây số. Con đường đi Hà Hồi có đọan chạy song song sát đường xe lửa với những đường bộ cắt ngang khá nguy hiểm. Thỉnh thỏang chúng tôi lại thấy  có tấm bảng đề”coi chừng cướp:, “ coi chừng cướp xe ôm” nhưng vì đi ban ngày, xe cộ đông đảo nên chúng tôi không ngại.

Làng Hà Hồi nằm gần ga xe lửa Thường Tín là một làng khá đẹp. Lối đi trong làng tuy nhỏ nhưng đều tráng nhựa và đủ cho một xe ô tô chạy. Đình làng Hà Hồi kiến trúc theo kiểu cổ, bề thế và được xếp hạng di tích văn hóa lịch sử. Bà ngọai của BY ngày xưa ở đây cách hơn 50 năm, bà con không còn ai nhưng khi hỏi thăm về mấy người quen của bà ngọai cũng có người biết. Mấy người quen đó đã mất nhưng còn một vài con cháu họ đang ở làng này. Rất tiếc khi tìm đến họ đều vắng nhà. BY cũng hỏi thăm thế thôi chứ không bà con thân thuộc gì với họ, chỉ muốn đến thăm nơi ngày trước bà ngọai và mẹ đã từng ở nhân có dịp ra đây.

Trở về Hà Nội, chúng tôi hỏi đường đi theo một lối khác, ra xa lộ mới mở về thẳng Hà Nội chứ không qua Hà Tây. Xa lộ này là cửa ngỏ của thủ đô về phía Nam, gần giống với xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa nhưng đúng tiêu chuẩn đường cao tốc. Đường có con lươn phân cách ở giũa, rào chắn hai bên và tuyệt đối không có đường cắt ngang. Mấy đường cắt đều phải chạy vòng lên cầu vượt. Do đó lái xe đường này có thể chạy nhanh hết tốc lực. Tuy nhiên tôi lại không thể chạy nhanh vì một phần tay đau, phần khác trời bỗng trở lạnh và lất phất mưa, gió rét thổi mạnh và đường lại trống trải. Chúng tôi lấy áo khóac ra mặc nhưng áo của tôi mỏng và ngồi trước nên lạnh không chịu nổi. Tay tôi tê cứng , hàm răng nghiến lại nhưng vẫn run lập cập. Tôi gồng mình cố gắng hết sức mới chạy về tới Hà Nội.

Loi vào thủ đô lần này là đường chính có tên là đường Giải Phóng khá rộng, đọan đầu song song với đường xe lửa. Chúng tôi ngặc nhiên khi thấy ở đây cũng có bảng cảnh báo”coi chừng cướp”. Thật không ra sao khi ngay cửa ngõ thủ đô tình hình an ninh lại như thế và lại có bảng công khai nhắc nhở thiên hạ.

Rét quá tôi phải tấp vào một quán nước lề đường, uống liền hai cốc trà nóng và cảm thấy sự ấm áp tuyệt thú của lọai trà này. Có lẽ vì trời trở rét bất ngờ nên mấy người nữa chạy xa như chúng tôi cũng ghé vào uống trà và súyt soa vì lạnh. Bây giờ là mùa xuân mà còn thế cho thấy cái rét của Hà Nội không  phải chuyện đùa dù chúng tôi cũng  đã quen với xứ lạnh ở Đà Lạt.

Buổi tối chúng tôi đến thăm Hòang Minh Chính. Nhà ông ở khu tập thể phía sau của Thư Viện Khoa Học Xã Hội, trứơc kia là trụ sở của Viện Triết Học Mác - Lênin thời ông còn làm viện trưởng. Trước ngõ vào nhà lại cũng có một quán nước lề đường và mấy người đang ngồi. Tôi đậu xe ở ngòai, BY vào trứơc hỏi, ra báo ông đang có nhà. BY nói đó là một ông gìa mặc đồ ngủ, trùm mũ len, tai có vẻ như nghễng ngãng, cứ hỏi đi hỏi lại. Khi nghe ra có tôi đến thăm ông mừng rỡ bảo BY ra mời tôi vào ngay. Chúng tôi vào, ông ra mở cửa, không bắt tay mà ôm chầm lấy tôi, miệng không ngớt súyt soa” Qúy hóa quá!”.

Sau này BY kể lại, do ông đã thay quần áo đàng hòang, bỏ mũ trùm đầu, nói năng rổn rảng nên hầu như trở thành một người khác hẳn. Ông đã gần 80 tuổi, nhỏ người nhưng trông vẫn còn khỏe, mặt xương, mắt sáng và đặc biệt giọng nói vang, đầy chất lửa. Trước cửa nhà ông là con hẻm nhỏ chạy sâu vào trong, thỉnh thỏang có xe gắn máy vụt qua. Nếu có người đứng nấp ngòai cửa, chắc chắn sẽ nghe rõ mồn một lời ông nói nhưng hình như ông không thèm để ý chuyện đó. Ông mời chúng tôi uống trà, ăn chuối hỏi thăm vài câu về sức khỏe và chuyến đi của chúng tôi  rồi nói ngay vào những vấn đề chính trị.

             Ông  xưng “anh” và gọi chúng tôi là “hai em” một cách thân mật. Ngay câu đầu tiên đã làm BY hơi hoảng:

                “ Căng thẳng! Tình hình vô cùng căng thẳng! Hiện nay chúng nó đang bao vây giám sát anh 24 trên 24”

       Tình hình ông nói với chúng tôi cũng tương tự những gì Hoàng Tiến đã nói nhưng có tính chất khái quát, ít chi tiết. Ông nói anh em dân chủ ở đây thương và nể anh nên thường gọi ông là “Anh Cả”, có chuyện gì cũng hỏi ý kiến “ Anh Cả”. Chủ trương của ông hiện nay là tạm thời yên lắng, không làm gì để chính quyền cảm thấy bị khiêu khích, sẽ phản ứng không có lợi. Chúng tôi hầu như chỉ ngồi nghe, không phát biểu gì nhưng cuối cùng ông nói: “Thế nhé. Sau này gặp anh em ở đây anh sẽ nói với anh em là hai em ở Sài Gòn ra cũng đồng ý với chủ trương của anh nhé”.

Chúng tôi hơi buồn cười nhưng cũng không tỏ ý phản đối vì chuyện đó không quan trọng và chủ trương như thế cũng tốt. Cách nói của ông có tác phong của lãnh tụ, nhiệt tình, đam mê, thân mật và hơi có vẻ áp đặt. Đây là buổi gặp mặt sơ giao, thời gian ít và hòan cảnh khá đặc biệt nên tôi khôgn góp ý gì với ông, chỉ nhắc lại nhận định đã nói với HT về diều kiện chuyển hóa của tình hình. Ông cũng tán thành  nhận định đó.

Khi ra về, tôi chạy xe cố ý dừng lại vài lần để quan sát nhưng không thấy ai theo. Có thể do chúng tôi đến bất ngờ nên người ta không chú ý, cũng có thể công an đã biết nhưng không can thiệp ngay để theo dõi tiếp. Dù sao cho đến khi chúng tôi lên xe lửa và khởi hành, chúng tôi mới yên chí  không bị rắc rối ở đây. Còn về sau thế nào sẽ hạ hồi phân giải. Chúng tôi luôn hiểu rằng công an có thể hành động bất cứ khi nào họ muốn và cảm thấy cần thiết.

 

*   *

*

 

 

              16.

 

 Từ bắt đầu chuyến đi, chúng tôi đã quyết định sẽ trở về bằng tàu lửa. Thời gian, tiền bạc, nhưng nơi đến theo dự tính đã hết, tới lúc chúng tôi phải trở về, có điều càng đi, tuy meat nhọc, chúng tôi lại càng muốn đi, muốn đến, muốn thấy nhiều nơi hơn nhưng rõ ràng thực tế không cho phép. Đành tự hẹn đến một dịp khác nào đó mơ hồ trong tương lai thường gọi là “ hạ hồi phân giải”.

Chúng tôi đã mua vé một ngày trước hôm khởi hành. Vé thuộc lọai trung bình, gọi là “ghế mềm” thấp hơn lọai “giường nằm” và cao hơn lọai “ghế cứng”. Giá mỗi vé HàNội – Sàigònchỉ hơn 500.000đ. Đây là lọai tàu tốc hành E1 nhanh và hiện đại nhất của ngành giường sắt Việt Nam, với thời gian 30 giờ cho tuyến đường dài 1700 cây số.

Chiếc xe gắn máy tôi phải gởi theo một chuyến tàu chở hàng khác và nhận sau ở Sài Sòn. Việc gởi xe gắn máy có một chuyện hơi lạ. Nếu để nguyên chiếc, bó giấy bìa cứng gửi đi gía cước hơn 400.000 đồng. Nếu tháo rời một số bộ phận, đóng thùng, công việc phức tạp và tốn công sức hơn, gía cước lại chỉ có hơn 300.000 đồng, kể cả công tháo và đóng thùng. Từ trước ai muốn gửi theo cách nào cũng được, tùy ý khách. Nhưng đến hôm chúng tôi đi mới có thông báo việc gởi xe gắn máy bắt buộc phải tháo đóng thùng, không cho gửi nguyên chiếc. Tuy theo thông báo quy định này còn mấy ngày nữa mới áp dụng nhưng những người phụ trách đã sốt sắng thực thi ngay vì việc này có lợi cho họ. Họ có sẵn một đội ngũ chuyên tháo gỡ và đóng thùng để lấy tiền công. Việc tháo gỡ và đóng thùng này mất khỏang một giờ và khi vào Sài Gòn lại phải trả tiền công ráp lại, chưa kể phụ tùng có thể bị mất mát. Chúng tôi không muốn cũng đành chịu. Đúng là một kiểu cửa quyền.

Trong khi chúng tôi chờ đóng thùng có ba, bốn thanh niên cũng mang xe đến gửi. Khi các công nhân giở một yên xe lên, phát hiện có một con dao lớn to bản ở bên trong. Ai cũng giật mình và nghi ngờ các thanh niên này thuộc nhóm băng đảng xã hội đen gì đó chuyển địa bàn họat động. Chuyện băng nhóm tội phạm cướp của giết người và thanh toán nhau không còn xa lạ trên báo chí hàng ngày.

Tàu khởi hành lúc 11 giờ đêm, giờ không mấy thuận lợi. Chúng tôi phải trả tiền phòng trọ thêm một đêm dù không ở tuy ông chủ có bớt đôi chút khi BY đặt vấn đề. Dù sao chúng tôi cũng đã ở phòng trọ của ông gần một tuần và 9 giờ tối chúng tôi đã rời phòng trọ để ra ga.

Ga Hàng Cỏ ở ngay trung tâm Hà Nội nên việc đi lại cho khách cũng khá thuận tiện. Nơi phòng chờ đông đảo chỉ co vài khách nước ngòai là mấy cô tây bụi đời, mỗi người khóac đến ba, bốn  ba lô sau lưng và trước ngực, đúng là “tây ba lô”.

Giờ tàu khởi hành rất chính xác, đúng 11 giờ. Mỗi toa tàu có 4 ghế ở giũa xếp ngồi đối diện nhau, sử dụng một bàn ăn chung. Các ghế khác ngồi nhìn về một hướng, có bàn ăn nhỏ gấp sau lưng ghế phía trứơc. Tình cờ vé chúng tôi mua lại đúng số ở giữa, ngồi đối diện với hai thanh niên. BY giật mình khi nghe họ nói họ từ Sài Gòn ra công tác ở Bộ Công an, lại còn khoe được Bộ cấp xe cho đi biên giới mua hàng Trung Quốc. BY tìm cách hỏi kỹ mới biết họ là công nhân của một công ty ở Sài Gòn, ra Hà Nội để lắp đặt máy in cho Bộ Công an. Thật không hiểu tại sao Bộ lại phải đặt hàng  tận Sài Gòn.

Họ đi một nhóm không phải chỉ hai người mà là bốn người. Một người nói bọn họ biết, định mua bốn vé ở giữa toa để ngồi chung với nhau nhưng cô bán vé bán nhầm. Chúng tôi đang không thỏai mái vì phải ngồi đối diện với  người lạ nên tôi lập tức đề nghị đổi chỗ cho hai người kia. Họ đồng ý ngay và còn cám ơn rối rít vì cũng định đề nghị với chúng tôi như thế nhưng chưa dám nói. Thế là đôi bên đều vui vẻ. Đúng là không dễ chịu chút nào khi phải ngồi đối diện suốt 30 giờ và ngủ gà ngủ gật trước mặt người khác, nhất là đối với BY.

Quá nửa đêm nhưng chúng tôi không ngủ được vì đèn để sáng trưng và tàu lắc lư kinh khủng. Đã lâu chúng tôi không đi tàu lửa, cứ nghĩ tàu chạy sẽ rất êm nhưng không ngờ lại quá lắc lư như thế. Có lẽ do khỏang cách hai đường ray hẹp. Đường ray này có từ thời Pháp thuộc, chỉ được gia cố sửa chữa chứ không phải làm lại theo tiêu chuẩn hiện đại. Dù sao đi tàu cũng thỏai mái hơn đi xe đò vì chỗ ngồi rộng hơn, có thể ngả ghế ra nằm và thỉnh thỏang đi lại cho đỡ mỏi chứ không phải ngồi bó giò chịu trận như đi xe đò.

Đêm mọi người ngủ lơ mơ. Có người có lẽ quen đi tàu đã mua sẵn chiếu đem theo trải ra dưởi gậm bàn để nằm cho thẳng lưng, tuy phải thò chân ra lối đi. Đó cũng là một trong những biểu hiện thiếu văn minh mà ta có thể thấy ở khắp nơi của một quốc gia nghèo nàn laic hậu, cứ mãi được gọi là “đang phát triển”.

   Ấy là chiếc tàu tôi đang đi được quảng cáo là tàu hiện đại nhất của ngành đường sắt. Dù sao so với 10 năm trước đây cũng đã có bước tiến khá dài. Lúc đó tàu chỉ có ghế bằng gỗ, sàn tàu ngổn ngang hàng hóa và hành khách nằm ngồi vật vã khắp nơi, đi lại có thể dẫm đạp lên nhau.

Bây giờ, các toa tàu này đều lắp máy điều hòa nhiệt độ. Ghế ngồi, giường nằm khá thỏai mái, sạch sẽ, có cả chăn đắp cho mỗi hành khách. Hai đầu mỗi toa có phòng rửa mặt và nhà vệ sinh với hai lọai bồn xí kiểu phương tây và kiểu ngồi xổm, nước cung cấp đầy đủ. Các thiết bị thóat hiểm trong trường hợp có tai nạn được bố trí sẵn sàng để hành khách sử dụng khi có sự cố. Lại có cả máy đun nước nóng dành cho hành khách muốn tự pha trà, cà phê. Việc phục vụ ăn ( tính trong tiền vé) sạch sẽ, chu đáo với chất lượng “tạm được” trong điều kiện đi tàu. Ai muốn ăn ngon, nhà tàu có bán thêm các món đặc biệt tận toa hay đến toa ăn dành riêng gọi theo thực đơn.

Những thông tin về giờ giấc, thiết bị an tòan và các nhắc nhở cần thiết khác đều được thông báo trên bảng chữ điện tử ở hai đầu mỗi toa bằng hai thứ tiếng Việt, Anh, thỉnh thỏang xuất hiện trong suốt chuyến đi. Gần đến các ga giữa đường, nhà tàu lại có loa thông báo, nhắc nhở hành khách chuẩn bị lên xuống. Đặc biệt khi tàu qua mỗi tỉnh, loa phát bài giới thiệu sơ lược về địa phương đó, chú trọng lịch sử và các địa danh du lịch bằng hai ngôn ngữ Việt, Anh, kèm theo một số bài hát nổi tiếng liên quan đến địa phương. Điều này nghe cũng thú vị và hành khách được cung cấp thêm thông tin.

Với hành trình hơn 1700 cây số, qua hai đêm, một ngày, trong điều kiện như trên có thể nói là quà dễ chịu so với đi xe đò, nhất là các lọai xe đò “chất lượng cao dỏm” đang “hành” khách hiện nay.

Tuy nhiên trong cố gắng cải thiện tiện nghi và điều kiện của việc đi tàu, có một số việc đáng lý phải và có thể làm tốt hơn.

Trong một chuyến đi dài, nhà vệ sinh là nhu cầu thiết yếu, đã được thông báo trên tàu là xây dựng theo công nghệ mới hiện đại nhưng vẫn còn khuyến điểm quan trọng. Bồn xí kiều ngồi xổm thiết kế hệ thống nước dội thế nào mà khi sử dụng nước bắn mạnh văng lên ướt cả quần hành khách. Mặt sàn nhà vệ sinh không đủ độ nghiêng cần thiết và  lỗ thóat nước có gờ hàn làm nước đọng vũng, hành khách vào ra dẫm nhớp nháp làm bẩn cả các lối đi lại. Điều này thật sự muốn sửa chữa không mấy khó khăn.

Việc giới thiệu về các địa phương trên loa có nơi bị bỏ qua, không những các tỉnh nhỏ như Quảng Trị, Quảng Ngãi, mà cả Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi có tiềm năng du lịch lớn, dù  giờ tàu đi qua nơi đó là ban ngày. Không rõ vì nội dung giới thiệu các nơi này chưa có hay người phụ trách quên. Các bài hát phát không đúng chỗ, vào địa phận Nam Trung bộ rồi vẫn còn nghe “câu hò Nghệ Tĩnh”. Vấn đề là phải thường xuyên bổ sung tư liệu mới, chọn thêm bài hát phù hợp và người phụ trách việc này có cách làm việc chính xác, khoa học hơn. Đã không làm thì thôi, khi làm phải đến nơi đến chốn vì họat động này là một ưu điểm lớn cần hòan thiện đến mức tối đa, sẽ gây ấn tượng rất tốt nơi hành khách.

Toa giường nằm lọai phòng có giường ba tầng rất bất tiện. Tầng áp nóc quá sát trần và hai tầng dưới  chỉ nằm chứ không ngồi được. Muốn ngồi, người ở tầng giữa phài xuống tầng dưới và lật giường lên để ngồi chung với người tầng dưới chứ không có chỗ ngồi nào khác. Nếu trong 30 giờ mà chỉ nằm không ngồi cũng khó lòng chịu nổi. Có nên thiết kế quá tiết kiệm và “thiếu văn minh” như thế khôngkhi hành khách mua lọai giường nằm phải là người có tiền. Đã tốn tiền mà còn khổ thì hơi vô lý.

Thời gian 30 giờ cho chuyến đi xuyên Việt so với xe đò Việt Nam đã là nhanh nhưng so với tàu lửa bình thường các nước khác còn quá chậm, chưa nói đến các lọai tàu siêu tốc. Dù ghế, giường êm cỡ nào mà ngồi mà hay nằm suốt hai đêm một ngày, hành khách nào cũng quá “oải”. Không biết đến bao giờ ngành đường sắt nói riêng và đất nước nói chung mới có thể đồng hành cùng thế giới chứ không mãi “tụt hậu”.

Trên hành trình trở về bằng tàu lửa này, vào ban ngày tàu chạy từ Quảng Bình cho đến Quy Nhơn, các nơi khác tàu chạy về đêm. Co những khỏang đường sắt song song và sát quốc lộ 1 nên chúng tôi có thể nhìn lại những nơi mình đã đi qua bằng xe gắn máy. Nhìn từ trên tàu, hai nơi có phong cảnh đẹp gây ấn tượng là vùng núi  Kẽ Bàng - Phong Nha và đèo Hải Vân. Đặc biệt trên đèo Hải Vân, tàu nhiều lần qua hầm và khi uốn khúc theo triền núi, khách nhìn qua cửa sổ có thể thấy cả con tàu uốn lượn trườn mình như một con trăn khổng lồ trên cao, phía dưới là vực sâu hay bãi cát lặng lờ, ngòai xa là biển khơi ngăn ngắt.

Đêm thứ hai trên tàu, để đỡ chán và có chút không khí lãng mạn , tôi rủ BY đến toa ăn dành riêng để uống cà phê. Đáng lẽ điều này sẽ rất thú vị khi cùng ngồi chuyện trò bên cửa sổ của con tàu đang lướt nhanh trong màn đêm nhưng không khí ở toa này đã làm chúng tôi mất hứng. Toa tàu hẹp, người đông, chúng tôi phải ngồi chung bàn với người khác. Phần lớn khách đến đây đều nhậu. Mùi thức ăn, mùi bia, khói thuốc lá nồng nặc và bia vào lời ra rôm rả. Nhiều người đã ngà ngà say, mặt đỏ gay hay tái nhợt, nói chuyện bằng cách gào lên thi đua với tiếng tàu xình xịch làm chúng tôi đinh tai, nhức óc. Hai người khách đối diện lại cứ nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Đành chịu thôi và chúng tôi phải kết thúc sớm buổi cà phê đêm lãng mạn bị thất bại.

Dù sao tàu chạy cũng khá đúng giờ. Suốt hành trình chỉ dừng đỗ khỏang 6 ga lớn, nơi lâu nhất nửa giờ và nơi nhanh nhất chỉ một phút. Giờ dừng đỗ ở các ga dọc đường có xê dịch đôi chút so với lịch thông báo nhưng đến Sài Gòn, ga cuối cùng lại rất đúng giơ -  5giờ sáng.

Thế là chúng tôi kết thúc chuyến đi gần một tháng. Tại ga Sài Gòn, chúng tôi lại gặp một chút bực mình. Vì không muốn chen lấn, chúng tôi hầu như rời tàu sau cùng nhưng ở bậc lên xuống vẫn bị xô đẩy thô bạo. Những hành khách mang nhiều hành lý, xuống rồi lại lên lấy tiếp cứ tông thẳng vào chúng tôi để dành lối đi, không hề có một chút tối thiểu lịch sự. Xuống sân, các taxi đợi sẵn đã đi hết, các taxi mới vào bị khách dành giật. Chúng tôi không muốn đi xe ôm vì nhiều đồ và đi giờ này sợ không an tòan nhưng những người chạy xe ôm cứ bám riết, làm như chúng tôi nợ họ không bằng. Dĩ nhiên là họ kiếm sống lương thiện, nhưng cũng như những người bán vé số hay bán hàng lưu niệm, cách làm việc của họ quá gây phiền nhiễu cho người khác, điều chỉ có thể thấy ở những nước nghèo đói và thiếu văn minh như Việt Nam hôm nay. Chúng tôi phải xách đồ đi một khỏang khá xa ra ngòai sân ga mới thóat khỏi họ và tìm được taxi. Hai mươi phút sau chúng tôi có mặt ở nhà, chấm dứt cuộc hành trình.

 

 

 

 

 

 

LỜI KẾT

 

Sau chuyến đi, cuộc hành trình của chúng tôi chưa thực sự kết thúc vì chúng tôi vẫn còn nhiều dịp để hồi tưởng, kể lại và suy ngẫm về những gì đã trải qua. Đó chính là hành trình nội tâm song hành và tiếp diễn hành trình thực tế.

Với tư cách người đi du lịch xuyên suốt từ Nam ra Bắc trong một chuyến đi, tuy thời gian ít, nhiều nơi chỉ là “cỡi ngựa xem hoa” nhưng cùng với ký ức và những hiểu biết đã có, chúng tôi cũng có được một cái nhìn toàn cảnh, tuy chưa sâu sắc, về tình hình đất nước.

“Giang sơn gấm vóc”, “đất nước tươi đẹp” là những từ có tính cách ước lệ, tuy có một phần thực chất nhưng có lẽ chúng nói lên sự yêu mến và lòng kiêu hãnh của chúng ta về đất nước nhiều hơn. Quả thực chúng ta có những phong cảnh đẹp, đặc trưng, nổi bật là vô số bãi biển dọc dài theo đất nước và những di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới được Unesco công nhận nhưng cũng không ít nới đất đai cằn cỗi, đồng khô cỏ cháy, phong cảnh đơn điệu nhàm chán. Trên thế giới biết bao quốc gia có phong cảnh thơ mộng , hùng vĩ, kỳ lạ và phong phú hơn đất nước ta. Dĩ nhiên về tình cảm, đất nước quê hương bao giờ cũng đẹp hơn cả nhưng so sánh thực tế phải có lý trí tỉnh táo, không thể cứ tự hào suông.

Các công trình kiến trúc, điêu khắc của ta có gía trị riêng, mang dấu ấn lịch sử dân tộc, có nơi khá xa xưa nhưng không có tính hoành tráng, tinh tế hay trình độ nghệ thuật, thẩm mỹ cao như nhiều nước phương tây. Các đền, chùa, tượng nhiều nơi phong cách gần giống nhau, ít tính sáng tạo và đa dạng. Các công trình mới xây dựng mang màu sắc hiện đại, hào nhoáng bên ngòai nhưng lại có một vẻ đơn điệu mới, chưa thấy gì gọi là đặc sắc. Đặc biệt các tượng đài thể hiện sự nghèo nàn, rập khuôn, gò bó trong tư duy sáng tạo. Không ít công trình chỉ là sự thể hiện thô thiển những tư tưởng chính trị chỉ đạo cũng thô thiển không kém.

Về góc độ khai thác du lịch, sự quan tâm và đầu tư, tôn tạo được thể hiện ở nhiều nơi, tạo ra các điểm đến thú vị cho khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên điều nổi bật là trình độ nhận thức ( đặc biệt về thẩm mỹ) và khả năng tổ chức quản lý của những người, cơ quan có trách nhiệm còn quá yếu kém. Nhiều nơi điều này đã không tạo ra được sự hài hòa giữa thiên nhiên và công trình nhân tạo mà ngược lại là sự đối chọi, phản cảm. Tệ hại nhất là sự bát nháo, mất vệ sinh, thiếu an toàn cộng với cơ sở vật chất tồi tệ  đã gây ấn tượng  rất xấu lên du khách, một lần trải qua là mất hết thiện cảm. Các điểm đến du lịch chính là một phần của khuôn mặt đất nước trình diện với thế giới trong thời kỳ hội nhập toàn cầu nên cần phải được chăm sóc nhiều hơn nữa với sự đầu tư nhiều hơn cả tiền bạc lẫn những con người có tài năng, trình độ và tầm nhìn trên lĩnh vực này.

Nếp sống đô thị hóa là điều nổi bật nhất trên tất cả các thành phố, thị trấn tập trung dọc đường quốc lộ 1 từ Nam ra Bắc. Đây là xu thế áp đảo của thời hiện tại, một nhu cầu bức xúc nhưng không phải là tối ưu đối với đất nước. Mục đích của người dân trong cơn sốt đô thị hóa này là kiếm sống, làm giàu cho cá nhân chứ không phải phát triển đất nước một cách toàn diện, cân bằng.  Vì thế nó diễn ra một cách hỗn độn, bừa bãi, tự phát vô tổ chức mà nhà nước không thể quản lý nổi. Người dân có thu nhập khá hơn, sống tiện nghi hơn, sử dụng nhiều thành quả khoa học kỹ thuật và vui chơi giải trí của thời đại văn minh hơn nhưng cùng song song là sự tranh sống quyết liệt, đôi khi tàn bạo, thiếu nhân tính. Trong cuộc tranh sống đó, sự bất công lớn nhanh hơn sự phát triển kinh tế với quy luật mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Ở đây kẻ mạnh, cá lớn chính là những kẻ có quyền, có tiền, và thường kẻ có quyền là kẻ có tiền. Những công ty lớn nhất, những khách sạn sang trọng nhất, những biệt thự hào nhoáng nhất, những xe hơi đời mới đắt tiền nhất, những ngôi nhà to dẹp mới xây dựng, không của ai khác hơn là các cơ quan nhà nước, các quan chức đảng và nhà nước ở mọi cấp và gia đình, bà con họ hàng. Còn lại là những kẻ làm ăn móc ngoặc, phi pháp hoặc những người có sẵn tiền của. Người giàu lên nhờ có năng lực và làm ăn lươmg thiện rất hiếm.  Người dân thường làm ăn chân chính chỉ đủ sống, đa số đổ mồ hôi sôi nước mắt chỉ để lo ngày hai bữa.

Tình trạng đó kéo theo sự sa đọa về lẽ sống, lối sống và nhân cách. Nổi bật nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng ở tất cả mọi cấp, từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tham nhũng hoành hành ở tất cả các ngành, các lãnh vực, từ kinh tế đến công an kiểm sát, tòa án; từ xây dựng, cầu đường đến hội chữ thập đỏ, bảo hiểm y tế, cứu đói giảm nghèo, các chương trình dành cho đồng bào miền núi; từ Mặt Trận Tổ Quốc cho đến Đoàn Thanh Niên, Hội Sinh Viên , Hội Nhà Báo, các trường học… nghĩa là bất cứ ai có chút quyền, dù lớn hay nhỏ đều có thể muốn và có thể lạm dụng chức quyền để kiếm lợi bất chính. Dĩ nhiên đó là những quan chức.

Người làm ăn họat động kinh doanh muốn có lãi phải hối lộ, móc ngoặc với quan chức để giành lợi thế, trốn lậu thuế hay bóc lột lừa đảo khách hàng. Người dân lương thiện khi cần công việc gì liên quan đến thủ tục hành chính đều phải chạy chọt lo lót.  Các tệ nạn xã hội “phát triển phi mã” với đủ mọi loại dạng từ  mãi lộ, trộm cắp, cơm tù xe cướp, xì ke, ma túy, mại dâm, hiếp dâm, phá thai, nhiễm HIV - AID đến hành hung, giết người, kể cả con giết cha mẹ, cha mẹ giết con, vợ chồng anh em bạn bè giết nhau, mẹ nấu dầu sôi tạt lên con gái, trò đánh thầy… đến lường gạt tình, tiền, bằng cấp gỉa, thi thuê, rải đinh ra đường, ném đá lên xe lửa, lái xe không biết luật, xả rác phóng uế bừa bãi…

Có lẽ không có đất nước nào mà các lọai tội ác, tội phạm, thói hư tật xấu lại đa dạng, phong phú và đê tiện, bẩn thỉu đến thế, lại còn diễn ra thường xuyên, hàng ngày, nhiều thứ gần như công khai trứơc mắt mọi người. Tình trạng đó làm xói mòn những tình cảm tốt đẹp, sự phản kháng chính trực, niềm tin vào cuộc sống và tương lai đất nước. Đây mới chính là nguy cơ lớn nhất trong mọi nguy cơ. Vì đến khi một dân tộc không còn niềm tin, đánh mất nhân cách thì còn cơ sở nào để xây dựng tương lai.

Nói như thế không phải là xã hội không có những mặt tích cực và con người tốt. Nổi bật nhất là những họat động từ thiện. Đông đảo các tổ chức và cá nhân đã nhanh chóng hưởng ứng đóng góp công sức, tiền của để cứu trợ những người xấu số khi có thiên tại, hỏa họan, tai nạn hoặc gặp hoàn cảnh thương tâm. Những lúc đó tình nhân ái, lòng trắc ẩn đã được khơi dậy, thể hiện một cách mạnh mẽ và có hiệu quả đích thực. Rồi còn bao nhiêu gương tốt con ngoan, trò giỏi, các thầy thuốc, giáo viên phục vụ vùng sâu vùng xa, cán bộ chiến sĩ công an tận tụy xả thân hy sinh khi chống buôn lậu, bắt cướp… kể cả ở lực lượng cảnh sát giao thông vốn nhiều tai tiếng.

Tuy nhiên, trong bức tranh xã hội cả về mặt thực tiễn lẫn tinh thần, màu xám nặng nề ảm đạm lấn át màu xanh, màu hồng tươi sáng. Có phải như thế không? Có phải đó là cảm xúc cá nhân mang nặng chủ quan ( dĩ nhiên cảm thức cá nhân nào cũng mang nặng chủ quan), nhuốm màu bi quan và chưa phản ánh chân thực hiện trạng cuộc sống? Tôi cũng rất mong là như thế. Nhưng tôi tự thấy mình  không phải là người chỉ nhìn đời qua cặp kính màu đen hay nặng thành kiến một chiều. Tôi vốn lạc quan và muốn công bằng trong mọi việc.

Nhiều người đã khẳng định dân chủ là chiếc chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Điều đó đúng. Nhưng vấn đề trong vấn đề là dân chủ ở đâu ra. Dân chủ không được ban phát. Dân chủ không do nhập khẩu. Dân chủ chỉ có được bằng đấu tranh, không phải chỉ của một vài người, một số nhóm người mà phải là của toàn dân tộc. Nếu đa số nhân dân chưa khao khát dân chủ, còn mải mê gục đầu xuống miếng cơm manh áo, còn khiếp sợ trước bạo lực và chỉ muốn bình an kiếm sống, chưa thực sự đấu tranh, ngay từ những vấn đề nhỏ hằng ngày trong cuộc sống thì dân chủ của toàn dân tộc chưa thể có được. Nếu ai cũng cứ đợi chờ, dân chủ sẽ không tự đến nhưng nếu ai quá sốt ruột cũng sẽ dễ đi đến thất vọng. Thiểu số người có ý chí mạnh nhất đấu tranh tích cực nhất sẽ góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trình dân chủ hóa dù bản thân họ sẽ chịu nhiều thương tổn. Tuy nhiên số phận của dân tộc tùy thuộc vào mọi người dân chứ không phải chỉ một nhóm người. Với trình dộ dân trí và sự thờ ơ với dân chủ như hiện nay, sự chờ đợi không thể tránh khỏi, dù đó là một chờ đợi đau lòng và đầy bi kịch.

                                                                 Ghi xong tháng 7/2003

                                                                  Tiêu Dao Bảo Cự


LÝ LUẬN    VĂN HỌC    BÌNH LUẬN    PHỎNG VẤN    VỤ ÁN LIÊN QUAN    NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ