"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự
Hành Trình Mùa Xuân
Bút ký Tiêu Dao Bảo Cự
1.
Đây là chuyến di mà chúng tôi, Bạch Yến -
vợ tôi và tôi, đã mơ ước và chờ đợi trong nhiều năm: cuôc hành trình
xuyên Việt bằng xe gắn máy.
Gần 15 năm truớc, vào 1988, tôi cũng đã thực
hiện một chuyến đi xuyên Việt, nhưng bằng xe ô tô, cùng với Bùi Minh
Quốc và Hữu Loan, để đấu tranh cho tự do dân chủ và đổi mới thực sự,
đã gây ra biết bao hệ lụy và từ đó, riêng tôi đã phải chôn chân ở mảnh
vườn hiu quạnh tại Đà Lạt hơn 10 năm ( nơi tôi gọi là “ Tuyệt tình cốc”
hay “ Động hoa vàng” trong “ Thung lũng trầm tư”)
Từ cuối năm 1999, sau khi tôi hết hạn quản
chế, chúng tôi muốn đi ngay nhưng không thực hiện được. Tôi vẫn còn bị
theo dõi giám sát khá chặt chẽ, bị triệu tập thẩm vấn trong vụ án gọi là
“ phản bội tổ quốc” của Hà Sĩ Phu - Mai Thái Lĩnh năm 2000. Mặt khác vợ
tôi vẫn còn dạy học và mùa hè chưa chuẩn bị kịp để đi. Nấn ná mãi, đầu
mùa xuân này ( Qúy Mùi 2003 ), ngay sau Tết, chúng tôi nhất quyết thực
hiện điều dự định.
Khác với lần trước là chuyến đi đấu tranh,
lần này chúng tôi xác định là “hành trình tình cảm”. Chúng tôi đi để
thăm đất nước và bạn bè cũ sau bao nhiêu cách xa dâu biển, để thư giãn
tinh thần sau nhiều năm sống trong lo âu và căng thẳng.
Tuy nhiên, riêng việc quyết định chuyến đi
cũng không phải là điều dễ dàng. Khi tôi bày tỏ ý định hầu như tất cả
bạn bè và người thân đều khuyên can không nên đi. Tựu trung họ đưa ra ba
lý do:
Nhà nước có cho tôi tự do đi không khi họ
vẫn luôn theo dõi giám sát, nghi ngờ tôi đi quan hệ móc nối với người
này người khác, thậm chí có thể gây bất lợi nghiêm trọng cho tôi khi
tôi đi trên đường, nhất là lúc qua các tỉnh xa xôi không ai biết.
Tôi và nhất là vợ tôi có đủ sức khỏe để
chịu đựng cuộc hành trình dài 2000 cây số, với thời gian trên dưới một
tháng, khi tôi đã 58 tuổi, vợ tôi 55 tuổi và chúng tôi vốn nổi tiếng gầy
yếu.
Cuối cùng là vấn đề an toàn và tai nạn giao
thông. Mấy năm gần đây tai nạn giao thông đã trở thành nỗi ám ảnh kinh
hoàng đối với nhiều người, hàng năm cướp đi hơn 10.000 sinh mạng và hàng
vạn người khác bị thương tật. Trong thành phố va trên các quốc lộ, các
“hung thần” như xe tải, xe buýt, xe đò, xe ben và đủ loại xe khác với
những người điều khiển vô ý thức, không bằng lái, ẩu tả … gieo rắc tai
họa khắp nơi. Chưa kể nạn cướp giật xảy ra nhan nhản, đôi khi chỉ vì
vài chỉ vàng, vài triệu đồng, thậm chí vài trăm ngàn cũng có thể đưa đến
giết người.
Những lời khuyên này rất
có lý, làm BY giao động, thậm chí đôi khi muốn bỏ cuộc hoặc muốn thay
đổi cách đi, không đi xe gắn máy nữa.
Tôi vẫn giữ vững quyết
tâm, không hề biết sợ và có lý lẽ riêng của mình.
Tôi biết rõ sau khi hết
quản chế, tôi chưa phải được tự do như những bình thường khác. Tôi vẫn
bị giám sát bằng nhiều cách như xem, nghe lén thư từ, điện thoại, dùng
người quen biết tiếp cận, công an địa phương và các cơ sở chỉ điểm,
theo dõi thông tin qua các hoạt động và báo đài ở nước ngoài…
Tuy nhiên tôi hiểu rằng
nếu tôi không có hoạt động gì hay bài viết được công bố, người ta tạm
thời để cho tôi yên vì gây phiền nhiễu cho tôi tất sẽ có phản ứng trên
dư luận ở nước ngoài cũng chẳng có lợi gì cho họ.
Dĩ nhiên vấn đề không
chỉ đơn giản như thế. Tôi là kẻ đã có tên trong sổ đen, đã có “tiền án
tiền sự” và chưa bao giờ tỏ ra bị khuất phục hay ăn năn hối cải về những
việc mình đã làm. Tôi và nhiều người khác, như Hồ Hiếu, một người bạn
có hoàn cảnh và thái độ gần giống tôi, thường nói, chúng tôi sống
trong chế độ này như cá trong rọ hay nằm trên thớt, người ta muốn bắt
muốn chặt lúc nào cũng được vì chúng tôi không có khả năng tự vệ. Nếu
muốn tạm sống yên ổn, phải giữ một lằn mức, một giới hạn, không nên vượt
qua. Giới hạn này rất tế nhị vì ở trên mọi lĩnh vực, từ làm ăn kiếm
sống, giao tiếp xã hội cho đến phát ngôn hàng ngày. Tất cả đều có thể
trở thành vấn đề và được cân nhắc, đánh gía để có biện pháp phù hợp.
Tôi giữ nguyên tắc làm mọi việc
đều công khai và không bao giờ từ bỏ những quyền tự do mà tôi cho đặc
biệt quan trọng chính đáng, dù trong hòan cảnh này, nhà nưóc cũng không
được can thiệp vào. Tôi tạm thời im lặng về chính trị đã là một sự nén
lòng, lẽ nào tôi lại còn tự quản chế mình và làm một kẻ hèn nhát?
Thế là tôi cứ đi.
Vấn đề sức khỏe dĩ nhiên đáng
quan tâm. BY đủ thứ bệnh tật, từ rối loạn tuần hoàn não, rối loạn tiền
đình, suy nhược thần kinh, viêm thấp khớp, viêm xoang sàn sau, viêm bao
tử…, chữa đủ khắp các bệnh viện, bớt rồi lại tái phát bất cứ lúc nào.
Tôi cao 1,73 mét nhưng chỉ nặng có 46 ký. Hôm Tết chúng tôi có đến thăm
Nguyễn Ngọc Lan, thấy ông da bọc xương, nặng 35 ký, nói chuyện một lúc
đã thở dốc vì hụt hơi. Tôi bày tỏ sự ái ngại nhưng ông nhìn tôi và nói
tôi chẳng hơn gì ông. Sự thực không phải vậy. Ông chẳng tập luyện gì
cả, rất ít vận động và đang bị bệnh phổi nặng , thường xuyên ngồi
trước máy vi tính, không chịu uống thuốc vì dã uống quá nhiều nhưng
không khỏi, trong khi tôi tập yoga đều đặn trong 10 năm, tập 5 thức Tây
Tạng trong 5 năm và thường xuyên lao động chân tay, ít đau vặt và không
có bệnh tật gì nghiêm trọng.
Về việc đi xe gắn máy đường xa,
tôi đã tập dượt và thử sức nhiều lần, trong hai năm qua. Tôi đã đi tuyến
đường ĐàLạt – Sàigòn 300 cây số hơn 20 lần, đi đường ĐàLạt – Phan Rang
- Phan Thiết –Sàigòn 500 cây số 2 lần. Một lần khác từ Sàigòn tôi đã
lên ĐàLạt, đi dọc Tây nguyên qua ĐakLak Pleiku, Kontum và trở về Sài
Gòn qua ngả Bình Phươc, Bình Dương gần 1300 cây số trong thời gian chưa
tới 1 tuần. Tôi đã lái xe qua các đường đồi núi cao nguyên quanh co, qua
các đèo BảoLộc , Prenn và nhất là đèo Ngoạn Mục rất hiểm trở dài 20 cây
số nhiều lần nên tôi chẳng còn sợ đèo dốc nào nữa.
Thế là tôi cứ đi.
Còn tai nạn ? Quả là chuyện
đáng sợ và tác động mạnh khi nó diễn ra hàng ngày khắp mọi nơi. Nhưng
tôi lại cho rằng nếu số mình đã tới thì tránh đâu cho khỏi. Đi chậm
trên đường phố cũng bị xe buýt mất thắng cán chết. Đứng trên lề đường
cũng không thoát. Thậm chí ở trong nhà cũng bị xe tải, xe ben tông vào
ủi sập. Vậy ở đâu không nguy hiểm. Lý luận này hơi “cùn” nhưng rõ ràng
cũng giúp cho tôi an tâm. Dĩ nhiên chạy đường dài, nhiều ngày nhất
thiết phải cẩn thận hơn vì nguy cơ sẽ cao hơn. Dù sao tôi cư nói “Trời
kêu ai, người nấy dạ”, chạy đâu cho thoát, còn khi trời chưa ngó tới, cứ
yên chí.
Thế là tôi cứ đi.
Tuy vậy tôi cũng đưa ra giải
pháp để trấn an BY: Nếu lúc nào quá mệt hay có sự cố gì, cứ việc bỏ xe
gắn máy lên xe đò, xe lửa đi tiếp. Vậy là chấm dứt bàn cãi. Vỉ thực hiện
một chuyến đi như vậy mà cuối cùng không quyết đoán thì cũng như “ làm
nhà bên đường, ba năm không xong”. Cũng may tôi có hai con làm đồng
minh. Chúng cũng có máu “liều” như tôi và khuyến khích “Bố mẹ muốn
đi cứ đi. Không việc gì đâu mà lo “.
Chúng tôi chuẩn bị hành trang
với đồ đạc hết sức thật gọn nhẹ. Hai ba lô vừa, một ba lô nhỏ để lọt
vào khoảng giữa trước yên xe. Một bao ni lông đựng đồ tắm và các thứ
linh tinh trước giỏ xe. Hai bên xe có hai móc, một phía treo túi giày
dép, phía kia treo túi thức ăn, nước uống và khăn mặt. Kể cũng nhiều
nhưng tôi xếp rất gọn, không cồng kềnh ra hai bên, không che chắn tầm
nhìn, lên xuống xe dễ dàng và ngồi lái xe không bị vướng. Lại còn hai
cái mũ bảo hiểm, nhưng khi chạy xe đường trường đội trên đầu, tới thành
phố nghỉ cất đi. BY rất ghét mang đồ đạc nhiều nhưng không thể ít hơn
được. Chúng tôi đi xa nhiều ngày, phải thay, giặt ủi quần áo. Đi chơi
trong thành phố không thể mặc như khi đi đường, nhất là đối với phụ nữ.
Tôi lại còn hứa sẽ cho BY tắm ở tất cả các bãi biển chúng tôi đi qua để
cảm nghiệm và so sánh, mà bãi biển thì vô số trên đường đi.
Chiếc xe của tôi là xe Wave do
hãng Loncin của Trung Quốc sản xuất, mua cách đây hai năm, với giá 12
triệu đồng. Hồi đó xe Trung Quốc bắt đầu tràn ngập nhưng chỉ có người ít
tiền mua vì chất lượng không tốt. Người ta đồn nhiều về các sự cố, tai
nạn do lọai xe này gây ra, nào gãy tay lái, bể hộp số, mất thắng… Nhưng
tôi làm sao mua nổi xe Nhật đắt gấp 3 lần. Rất may chiếc xe tôi mua lại
khá tốt, chạy hơn 20.000 cây số rồi mà chưa có sự cố gì đáng tiếc. Tôi
không ưa gì hàng Trung Quốc và các trò thương mại ma giáo của họ trong
việc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam nhưng tôi hoan nghênh hãng Loncin và
cũng phục dân Trung Quốc. Họ sản xuất được mọi thứ, và bán gía quá rẻ.
Nghe nói không những các công ty của trung ương, tỉnh, thành phố mà đến
cả các xưởng của huyện,xã cũng sản xuất được xe gắn máy. Hãng Honda Nhật
cũng phải chào thua và mất phần lớn thị trường xe máy gần như độc quyền
ở Vệt Nam hàng mấy chục năm nay, nơi mà từ “honda” đồng nghĩa với xe gắn
máy. Người Trung Quốc thật đáng sợ.
Xe tôi có đủ hai kính chiếu hậu,
giỏ xe phía trước, chỉ việc thay nhớt, kiểm tra thắng, xích là yên chí
lên đường.
Từ trước chúng tôi dự định xuất phát từ
Sàigòn đi thẳng ra Phan Thiết rồi cứ tiếp tục giong ruổi trên quốc lộ
1A nhưng đến ngày đi chúng tôi lại thay đổi lộ trình. Chúng tôi lên
ĐàLạt trước rồi sẽ đổ đèo Ngoạn Mục xuống Phan Rang, ra Nha Trang, không
qua Phan Thiết nữa. Lý do ngày 14/2 là ngày Hà Sĩ Phu hết hạn quản chế,
chúng tôi muốn gặp mừng bạn. Ngoài ra BY cũng có vài thứ giấy tờ liên
quan đến chuyện bảo hiểm y tế và nghỉ hưu phải giải quyết ở Đà Lạt.
Quãng đường từ Sàigòn đến ngã ba
Dầu Giây, nơi rẽ sang quốc lộ 20 lên Đà Lạt, khoảng 70 cây số bình
thường tôi đi mất hơn một giờ. Lần đi nhanh nhất nhờ đi từ 6g sáng hai
năm trước mất đúng 1 giờ. Hiện nay tình hình đã khác. Trên xa lộ Hà
Nội(xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa trước đây), xe cộ dày đặc, và nhiều ngã ba,
ngã tư mới xuất hiện vì thành phố mở thêm quận 9 ở khu vực này. Đi
khoảng đường này rất căng thẳng và tai nạn xảy ra hàng ngày. Người yếu
thần kinh hay không quen khó lòng đi nổi. Cứ thoáng thấy xe ben hay xe
đò, xe tải, xe bồn trong kính chiếu hậu , tôi đã phải vội né ra xa vì
chúng có thể húc đầu vào đít mình bất cứ lúc nào. Lần này BY ngồi sau cứ
nhắc nhở liên tục nên tôi chạy khoảng đường này mất gần 2 giờ.
Ngã ba Dầu Giây trước đây có rất
nhiều hàng quán dưới rừng cao su rất mát mẻ nhưng nay người ta mới phá
cao su sâu vào vài trăm mét dọc theo đường nên các hàng quán rất nóng
bức. Tôi phải chạy thêm khoảng 1 cây số nữa mới vào nghỉ ở một quán mới
mở dưới vườn điều. Dân địa phương ở đây cũng rất nhạy bén. Biết các quán
ở ngã ba nắng nóng, khách không muốn vào, họ lập tức mở quán mới trong
vườn của mình dọc theo quốc lộ. Chỉ cần vài bộ bàn ghế, vài chiếc võng,
mái che bằng tranh tre hay vải bạt là đã thành quán. Ở đây, người ta
thường bán nước giải khát với nước ngọt các loại, nước dừa hay nước mía.
Loại quán này đặc biệt hấp
dẫn đối ới khách đường xa đi xe gắn máy như chúng tôi. Thật thú vị và
thoải mái khi sau một vài giờ căng thẳng và nóng nực trên đường đi, ghé
vào quán, bỏ chiếc mũ bảo hiểm nặng nề gò bó ra, đi vô vườn giải quyết
vấn đề vệ sinh, rửa mặt rồi ra võng nằm uống nước thiu thiu thư giãn.
Thức ăn chúng tôi mang theo
khi đi đường rất đơn giản, chỉ có bánh mì, phó mát, trái cây. Kinh
nghiệm đi đường dài cho thấy không nên vào ăn ở các quán hay hiệu ăn dọc
đường. Thức ăn ở đó vừa đắt vừa mất vệ sinh lại rất ồn ào nóng nực. Vả
lại đi đường mệt nên chúng tôi không muốn ăn nhiều, chủ yếu uống nước.
Chỉ khi vào thành phố, tắm rửa nghỉ ngơi xong mới đi tìm một hiệu ăn
đàng hoàng để ăn lấy sức.
Chủ quán nơi chúng tôi ghé
vào là một phụ nữ còn trẻ. Hỏi chuyện chị cho biết trước ở ngoài Bắc,
gia đình làm ruộng rất vất vả và kinh tế khó khăn nên bán tất cả tài sản
ngoài đó vào đây mua mấy sào điều. Theo chị trong Nam làm ăn dễ sống và
đỡ cực hơn nên nhiều người tìm vào.
Lần trước trong chuyến
đi Tây nguyên, chúng tôi gặp một trận mưa lớn phải ghé vào một nhà bên
đường trú mưa. Nhà này vách gỗ, lợp tranh giữa đồng không mông quạnh,
chỉ có 3 đứa bé ở nhà, bố mẹ đang đi làm rẫy. Chúng cho biết gia đình
chúng cũng ở Bắc vào. Một đứa có dấu vết bị bỏng nặng do mấy năm trước
nó còn bé, bố mẹ đi vắng, nhà bị hỏa hoạn không chạy ra được. Ba đứa bé
trong căn nhà tuềnh toàng dưới cơn mưa cuồng gío giật trông thật đáng
thương. Có lẽ chúng đói nên khi chúng tôi cho chúng nải chuối mang theo,
chúng ngốn sạch ngay.
Việc đưa dân ngoài Bắc vào Nam
ngoài chủ trương của nhà nước còn là một xu hướng tự phát. Miền Nam
hiện nay không đâu không có người Bắc, nhất là vùng cao nguyên đất rộng
người thưa và các đô thị lớn. Tuy nhiên sự hòa hợp giữa dân hai miền đòi
hỏi nhiều thời gian nữa vì sự khác biệt trong phong tục, tập quán, quan
niệm sống và chế độ chính trị trước đây không thể khắc phục sớm. Đây đó
vẫn còn có sự kỳ thị hoặc thiếu thân thiện nhất định.
Chuyển sang quốc lộ 20 đi Đà Lạt, cảm
giác chạy xe trên đường khác hẳn, nhẹ nhàng và thoải mái hơn, không còn
căng thẳng như trên quốc lộ 1A đoạn đường vừa qua, tuy vẫn còn những
chỗ khá nguy hiểm hay xảy ra tai nạn. Hai bên đường nhiều đọan là rừng
cao su, rừng điều và một khoảng đặc biệt có rừng cây bá súng trải dài
làm không khí dịu hẳn. Thỉnh thoảng có thị trấn dọc đường như Gia Kiệm,
La Ngà, Định Quán… nhưng không đông đúc lắm. La Ngà có sông La Ngà chảy
về sông Đồng Nai, nơi có khu vực dân cư nuôi cá bè trên sông khoảng 10
năm trở lại đây, các xe chở khách du lịch nước ngoài thường dừng lại
trên cầu cho khách xuống ngắm cảnh, chụp hình. Định Quán nổi tiếng với
những tảng đá khổng lồ cheo leo bên đường, làm người yếu bóng vía đi qua
rảo bước vì sợ đá rơi sập xuống đầu.
Những cảnh này đối với chúng tôi
quá quen thuộc nên tôi chạy với tốc độ nhanh nhất có thể, tối đa 70 cây
số / giờ những khoảng đường vắng và dừng lại nghỉ tiếp lần thứ hai ở
quán café vườn cuối thị trấn Tân Phú. Chỗ này chúng tôi và khách đi
đường thường dừng nghỉ vì khoảng cách hợp lý, cách Dầu Giây phía dưới
và Bảo Lộc phía trên khoảng 60 cây số, lại có hai quán café vườn bên
đường rất rộng. Vườn rợp bóng cây có tàng lá lớn, được trang trí thêm
nhiều hoa và cây kiểng, lối đi lại rộng rãi có thể chạy thẳng xe đến chỗ
ngồi. Các xe nhà, xe tải thỉnh thoảng cũng dừng lại đây để nghỉ .
Đôi khi chúng tôi cũng hơi bực
mình vì nạn bán vé số nơi đây từ lúc bắt đầu có nhiều khách. Tôi rất
ghét trò cờ bạc trá hình này và không bao giờ chơi vé số. Tôi không
chắc lắm nhưng có lẽ không đất nước nào có xổ số nhiều như ở Việt Nam.
Mỗi tỉnh đều tổ chức và xổ số không phải hàng tháng, hàng tuần mà là
hàng ngày. Số tiền do xổ số đóng góp cho ngân sách địa phương chiếm tỉ
lệ không nhỏ nên giám đốc các công ty xổ số rất được trọng vọng. Đây là
một loại đánh bạc mà nhà nước bao giờ cũng thắng và tạo ra tâm lý thích
cờ bạc trong dân chúng. Đội quân bán vé số có lẽ là đội ngũ lao động
đông đảo nhất so với mọi ngành nghề khác. Gìa tre, lớn be, nam nư, tật
nguyền đều có đu, thậm chí có những đứa bé mới 5,6 tuổi và những ông bà
gìa 60,70 tuổi. Đó cũng là một cách giải quyết lao động thất nghiệp
nhưng chỉ góp phần đưa đất nước đi xuống. Tôi đã từ chối hàng ngàn
người mời mua vé số nhưng không bao giờ thoát khỏi họ quấy rầy. Có người
bán không quấy nhiễu, khách lắc đầu thì thôi nhưng đó là số ít. Phần lớn
mời chào, năn nỉ, ấn tập vé vào tay khách, lải nhải đến 5,10 phút cả
trong lúc người ta đang bận ăn uống. Làm việc không ra làm việc, ăn mày
không ra ăn mày. Thật không còn nhân cách gì và làm thui chột lòng bất
nhẫn nơi con người. Có lẽ chỉ có những đất nước mạt hạng như đất nước
chúng ta mới có thứ nghề nghiệp kỳ quái này.
Nửa giờ sau, chúng tôi tiếp
tục lên đường. Qua Phú Lâm, Phương Lâm, Madagouil, ĐạmRi trước khi lên
đèo Bảo Lộc. Trước kia ở Madagouil, qua khỏi đèo Chuối, có khu du lịch
Suối Tiên nhưng mới đây có lẻ do ít khách và trùng tên với khu du lịch
Suối Tiên nổi tiếng gần Sàigòn nên được đổi tên là “Du lịch rừng
Madagouil”. Chúng tôi không bao giờ ghé vào đây vì qua đây chưa mệt và
rừng thác đối với chúng tôi đã quá quen thuộc.
Đèo Bảo Lộc, dài 10 cây số
bằng đèo Prenn nhưng âm u và nguy hiểm hơn nhiều vì đường dốc và ngoằn
ngoèo liên tục. Cho đến nay, dù khí hậu thay đổi nhiều, cao nguyên nóng
bức hơn trước nhưng buổi sáng sớm, buổi chiều và sau cơn mưa ở đây vẫn
có sương mù. Đi lên đèo dễ hơn đi xuống, chạy với tốc độ 40 cây số /
giờ vẫn có cảm giác an toàn. Tuy nhiên khi gặp xe tải rất khó vượt vì
đường quanh co liên tục bị che khuất. Xe tải chạy đường bằng thường
phóng như điên nhưng khi lên đèo lại bò như sên, nếu chạy sau sốt ruột
không chịu được. Dù BY thường ngăn cản nhắc nhở tôi vẫn tìm cách vượt xe
tải nơi nào có thể.
Giữa đèo Bảo Lộc có hai nơi có
thể dừng nghỉ là Đài Đức Mẹ và Miếu Ba Cô, không xa nhau lắm. Đài Đức Mẹ
có tượng Đức Mẹ Fatima gần đây mới được tu bổ lại và hầu như lúc nào
cũng có khách dừng vào viếng. Phía trước sát đường có bãi đậu xe rộng,
tráng nhựa sạch sẽ. Vài hàng quán bán hoa huệ, nước giải khát và cung
cấp nhang miễn phí cho khách ( do giáo xứ Bảo Lộc đài thọ ). Đài xây
trên bệ cao sát vách núi, phía trước là khoảng rộng có nhiều ghế đá để
khách viếng ngồi nghỉ và cầu nguyện. Dọc theo đài có con suối chảy từ
trên cao xuống, nước tươi mát, lòng suối nhiều đá sỏi. Lên cao qua khỏi
đài, người ta xây một cây cầu nhỏ bắc ngang suối để đứng ngắm cảnh. Đây
là một thánh tích nhỏ đẹp, thuận tiện cho khách đi đường chiêm bái và
nghỉ ngơi.
BY cũng thường muốn ghé lại đây
để cầu nguyện. Tôi không cầu nguyện bao giờ nhưng ngồi nghỉ trên ghế đá
giữa rừng, bên dòng suối để hút một điếu thuốc cũng rất thú vị. Chẳng
có gì lấn cấn.
Dưới đèo Bảo Lộc là Mađagouil,
nay gọi là huyện Đạ Oai, đặc biệt nắng nóng ngột ngạt vì đây là một vùng
lòng chảo thấp, lên đèo không khí bắt đầu dịu đi và qua khỏi đèo mới
thật sự bước vào khí hậu cao nguyên. Trời đã ngả về chiều, se lạnh và
chúng tôi phải mặc thêm áo khoác vì chạy xe tốc độ nhanh dễ nhiễm lạnh
rất khó chịu.
Chúng tôi nghỉ lại Bảo Lộc để
thăm con. Tiêu Dao, con trai lớn của chúng tôi đang hợp tác mở một cửa
hàng dịch vụ Internet tại đây. Từ trước Dao có cửa hàng mua bán máy vi
tính ở Sàigòn nhưng vì ít vốn, cạnh tranh gay gắt nên cháu lên đây tìm
thị trường mới. Dao nói mấy tháng gần đây Bảo Lộc bắt đầu bùng nổ dịch
vụ Internet. Khoảng vài trăm mét trên đường Trần Phú ( đường quốc lộ 20
chạy xuyên qua thị xã) đã có hơn mười cửa hàng. Tuy nhiên khách hàng
phần lớn là học sinh vào chơi game, một số chat và chỉ mới có một số ít
người dùng email. Dù sao đây cũng là tín hiệu tốt của một thị trường còn
nhiều tiềm năng.
Bảo Lộc là nơi trước đây chúng
tôi ở gần 20 năm, từ khi còn có tên là Blao - Thị trấn Sương mù. Trước
đó nữa, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã có thời bắt đầu nghề dạy học ngắn
ngủi của mình ở đây và ông đã đưa vào nhạc hình ảnh “ đàn bò vào thành
phố, đêm buồn vắng buồn hơn.” của phố núi hiu quạnh. Nhà thơ Sao Trên
Rừng Nguyễn Đức Sơn vẫn thủy chung với vùng đất này và ông hiện vẫn ở
trên mấy ngọn đồi của Phương Bối Am ngày trước và tự đặt biệt hiệu là
“Sơn Núi”. Một số trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng của Miền Nam trước
đây cũng đã từng có thời lưu lại Blao và dấu ấn của “thị trấn sương mù”
xuất hiện trong tác phẩm của họ.
Bảo Lộc nay là thị xã đang phát
triển với tộc độ nhanh. Bảo Lộc nổi tiếng là xứ trà, café, dâu tằm, nhất
là trà. Những danh trà từ mấy chục năm trước như Quốc Thái, Đỗ Hữu bây
giờ chìm ngập trong hàng trăm hãng trà mới xuất hiện. Dọc theo quốc lộ
20 chạy qua các xã và thị xã, hiệu trà dày đặc với nhà phố mỗi lúc mỗi
lớn và sang trọng, bề thế hơn. Vài hãng trà xây dựng cửa hiệu của mình
như một toà lâu đài. Đặc biệt hãng trà Tâm Châu mới xuất hiện, do mấy
anh em Việt kiều Mỹ gốc ở đây về làm chủ, nổi lên như một đại gia trong
nghề. Họ có vốn lớn, kinh doanh, quảng cáo theo kiểu Mỹ, nhanh chóng lấn
chiếm thị trường. Họ sản xuất theo chu trình khép kín với công nghệ
tiên tiến, từ trồng trà cho đến xây dựng nhà máy chế biến, cửa hàng tiêu
thụ. Thương hiệu của họ có mặt khắp nơi trong thị xã và cửa hiệu chính
của họ là một nhà hàng hiện đại ngay bên đường quốc lộ, nơi các đoàn xe
du lịch chở khách nước ngoài thường ghé qua.
Các đường trong thị xã đều được
mở rộng. Một công viên mới xây dựng trên quãng trường trước trụ sở UBND
thị xã khá đẹp và thoáng mát. Khách sạn Seri hotel 3 sao có từ thời
hoàng kim của Tổng Công ty Dâu Tằm, nhiều tầng, với mặt tiền đồ sộ vẫn
sừng sững bên hồ Bảo Lộc làm hồ như bé lại dù đã được nạo vét. Chung
quanh chợ, nhà phố phần lớn mới xây dựng lại, đặc biệt các cửa hàng xe
gắn máy lớn không thua gì Sàigòn, có mặt bằng rộng đủ để hàng trăm
chiếc. Nhìn qua có thể nói kinh tế ở đây phát triển nhanh nhưng có cái
gì đó còn ngổn ngang và trình độ văn hóa còn thấp.
Hơn mười năm nay, Bảo Lộc có khu
du lịch ĐạMri bắt đầu thu hút khách phương xa và cư dân địa phương. Nơi
đây, cách thị xã 20 cây số về hướng Bắc, phong cảnh âm u hoang dã, có
ngọn thác Đạ Mri hùng vĩ và vườn thú hoang dã. Một thang máy mới được
xây dựng để đưa khách xuống lòng suối cho những ai không muốn hay không
đủ sức leo mấy trăm bậc cấp dốc đứng. Vườn thú với một số loại thả tự
do như khỉ, hươu nai sán đến bên khách đòi thức ăn cũng là một cảnh
tượng thú vị. Nơi đây cũng đã có nhà hàng và phòng nghỉ cho khách muốn
lưu lại qua đêm.
Ghé Bảo Lộc, lần nào chúng tôi
cũng đến thăm Trần Minh Thảo, người bạn cố tri từ thời sinh viên ở Huế.
Thảo nổi tiếng là “Thảo tóc bạc” từ hồi còn trẻ nhưng bây giờ anh lại
nhuộm tóc đen nhánh. Anh rút lui khỏi bộ máy chính quyền hơn mười năm
nay, bị khai trừ Đảng vì đã dám viết bài góp ý cho Đại hội Đảng, yêu cầu
Đảng từ bỏ độc tài, thực hiện dân chủ hóa và đa nguyên chính trị. Anh
nguyên là một giáo sư văn chương, bây giờ lại say mê nghiên cứu vi tính
và chỉ sau vài năm đã trở thành giáo viên giảng dạy vi tính cho các
trung tâm ở đây. Suốt ngày anh miệt mài bên máy để nghiên cứu kỹ thuật
và truy cập thông tin trên Internet. Gặp tôi, anh lúc nào cũng nói
chuyện thời sự chính trị với những suy niệm thâm trầm của một ẩn giả bất
đắc chí.
Nghỉ một đêm ở Bảo Lộc, sáng hôm
sau chúng tôi đi tiếp lên Đà Lạt. Khoảng đường 110 cây số này chúng tôi
hầu như thuộc nằm lòng. Các xã Lộc Sơn, Lộc Nga, Lộc An của Bảo Lộc
trước đây nghèo nàn nay khởi sắc rõ rệt với nhà cửa chợ búa sầm uất. Địa
phận huyện Di Linh tiếp nối với con đường quốc lộ 20 mới được làm lại,
quanh co uốn lượn theo các sườn đồi, cảm giác chạy xe thật lâng lâng
khinh khoái.
Khu du lịch thác Bobla gần xã
Liên Đầm mới khai phá có vẻ ít khách, tuy sát bên đường nhưng ở ngoài
nhìn vào chẳng thấy gì cả. Chúng tôi không nghỉ lại đây và thường nghỉ ở
quán 4 cây thông sau khi qua khỏi thị trấn Di Linh. Thị trấn này so với
những năm xưa không phát triển bao nhiêu, vẫn còn nét “quê mùa” và không
có được vẻ lãng mạn như Blao - Thị trấn Sương mù.
Tiếp nối Di Linh là huyện Đức
Trọng, nơi có thác Pongour hùng vĩ nhất tỉnh Lâm Đồng nhưng vì đường đi
rất khó nên chỉ đông khách vào những ngày lễ hội đầu xuân. Thác Gougha
ngay bên đường nhưng ít ai vào vì suối khô cạn và cây cối có vẻ xơ xác.
Phần đất Đức Trọng gần chân đèo
Prenn thay đổi nhiều nhất so với trước đây. Những mảnh ruộng lúa khô
cằn do đồng bào dân tộc ít người canh tác đã được thay thế bằng những
vườn trồng rau, hoa theo công nghệ mới, cho ra sản phẩm không thua gì Đà
Lạt. Việc này do các công ty nước ngoài, chủ yếu là Đài Loan, khởi xướng
đầu tư và sau đó nông dân địa phương học tập làm theo. Nơi đây còn có
những vườn hồng trái mới, trước đây không có, thích hợp với loại hồng
Nhật chín muộn, sang xuân rồi mà vẫn còn trái vàng rực lủng lẳng trên
cành những cây đã hoàn toàn trụi lá.
Đèo Prenn có lẽ là đèo đẹp nhất
Việt Nam. Đẹp theo nghĩa hoang dã nhưng không âm u, trái lại dịu dàng,
thơ mộng với con đường êm ái uốn lượn giữa các đồi thông mượt mà, quanh
năm xanh tươi mát mẻ. Dưới đèo có thác Prenn nổi tiếng từ xưa lúc nào
cũng đông đảo du khách và các đoàn xe du lịch. Giữa đèo có thác Datanla
với đường xuống hiểm trở chỉ thích hợp với những người thích mạo hiểm.
Gần đó là ngã ba có đường dẫn vào khu du lịch Tuyền Lâm mới noi tiếng
gần đây với Trúc Lâm thiền viện và khu hồ mênh mông uốn quanh các đồi
thông vào sâu phía thượng nguồn.
Quá trưa chúng tôi về đến nhà.
“Động hoa vàng” của chúng tôi vô cùng tĩnh mịch. Hoa quỳ dại đầu ngõ đã
tàn gần hết nhưng những loại hoa vàng khác vẫn còn rải rác. Vườn chúng
tôi mới làm cỏ mấy tháng trước, đang mùa khô nên vẫn còn tương đối sạch
sẽ, không đến nỗi vạch cỏ tìm đường như mọi lần.
Từ khi về Sàigòn hơn một năm nay,
nhà chúng tôi ở đây bỏ hoang, chỉ gởi hàng xóm trông chừng. Chúng tôi đã
mượn tiền để mua nhà ở Sàigòn nên định bán nhà này để trả nợ nhưng các
con chúng tôi khuyên nên cố giữ, tiền nợ chúng sẽ làm việc để trả dần.
Căn nhà này bằng gỗ lợp tôn, có tuổi thọ gìa hơn tuổi tôi, phía dưới mối
mục cả nhưng vẫn còn đứng vững. Bù lại vườn rất rộng và vô cùng yên
tĩnh, đầy nắng gió với thung lũng phía dưới và bầu trời trên cao, suốt
ngày nghe tiếng chim nhiều hơn tiếng người. Dù sao đây cũng là “một cõi
đi về” thân thuộc, đầy kỷ niệm của chúng tôi và cả con chúng tôi sau
này.
Ở Đà Lạt, chúng tôi đi lo giấy
tờ của BY và đi thăm cáp treo . Ở đây, nơi chúng tôi đã sống hơn 15
năm, thắng cảnh nào chúng tôi cũng đã biết, riêng cáp treo mới được xây
dựng và khai trương vào dịp Tết vừa qua là chúng tôi chưa đi.
Đà Lạt là xứ du lịch “trời cho”
với cảnh quan và khí hậu thuộc loại hấp dẫn nhất Việt Nam nhưng những
việc “người làm“ để phục vụ du lịch còn quá ít, đôi khi phản tác dụng mà
người dân địa phương và báo chí đã phê phán nhiều. Trụ sở vĩ đại và thô
kệch của Đài Truyền hình mới xây dựng án ngữ ngay lối vào của thành phố.
“Con chim Lâm cẩu“ xấu xí vẫn còn nặng nề giương cánh ở bùng binh trước
chợ Hòa Bình. Đồi Cù tự do mộc mạc tuyệt đẹp ngày nào đã trở thành sân
golf hiện đại rào kín chỉ dành cho khách lắm tiền, chủ yếu là người nước
ngoài. Cả thành phố Đà Lạt hầu như không còn bãi cỏ tự do nào cho trẻ
con đùa chơi và những cặp trai gái tình tự. May ra còn chút rẻo quanh
hồ Xuân Hương nhưng khi làm đường, người ta ủi bừa đất vào lô xô lảm
xảm, dù cỏ mọc lên cũng không còn mấy chỗ ngồi êm ái.
Công bằng mà nói thành phố cũng
đã được sửa sang xây dựng nhiều. Các khách sạn ĐàLạt Palace; ĐàLạt
Novotel đã trở thành khách sạn 3 sao nổi tiếng sang trọng. Nhiều khách
sạn khác cũng được nâng cấp hoặc xây dựng mới hiện đại. Các công sở,
nhà hàng và nhà các quan chức to đẹp bề thế mọc lên khắp nơi. Đường sá
nội thành hầu như mở rộng và làm mới hoàn toàn, một số công viên mới
được xây dựng. Tuy nhiên việc xây dựng không theo quy hoạch, không tôn
trọng không gian kiến trúc và cảnh quan môi trường, chặt phá tùy tiện
các đồi thông đã làm Đà Lạt mất dần bản sắc ngày xưa, một cái gì là hồn
phố lãng mạn êm ả, trữ tình làm cho Đà Lạt không giống bất cứ thành phố
nào khác. Thành phố này muốn vươn cao cùng thời đại mà vẫn giữ được bản
sắc cần những người lãnh đạo không những có trí tuệ, tầm nhìn cao hơn,
mà còn cần phải có ít nhất một chút lãng mạn và trái tim dễ rung động
của người nghệ sĩ đam mê cái đẹp chứ không phải là đầu óc thực dụng.
Riêng về cáp treo, một loại hình
phục vụ du lịch rất phù hợp với địa hình Đà Lạt đã được nói đến và thực
hiện trong nhiều năm trước nhưng bất thành. Một công ty nước ngoài nào
đó đầu tư, quảng cáo ầm ĩ nhưng không rõ vì sao đã động thổ khởi công
rồi bỏ cuộc, nghe nói là không có vốn. Thật kỳ lạ ! Mới đây, người ta âm
thầm làm, không dám quảng cáo gì nữa và lúc sắp hoàn thành đưa vào sử
dụng mới dám công bố. Chúng tôi cũng háo hức đi xem thử bộ mặt cáp treo
Đà Lạt thế nào.
Đầu trên của cáp treo được xây
dựng trên ngọn đồi đầu đèo Prenn. Theo con đường nhựa mới mở chạy quanh
co khoảng vài trăm mét là đến vị trí của đầu cáp trên đỉnh đồi. Đây là
một mặt bằng khá rộng được thiết kế một công trình kiến trúc khá hợp lý
với bãi đậu xe, nhà hàng, nhà khách, phòng bán vé và nơi điều khiển cáp
treo trên tầng cao nhất. Một sân rộng hình bán nguyệt với cây cảnh và
lan can bao quanh lộng gió. Từ đây có thể nhìn toàn cảnh thành phố bên
dưới, một chặng đèo quanh co phía đông nam và dãy núi với đỉnh Lang
Bian cuối trời phía bắc.
Chúng tôi đến gần trưa nhưng
khách vẫn đông. Gía vé khá đắt: 50.000đ cho người lớn một lượt đi về.
Nghe nói chỉ trong mấy ngày Tết đã thu tiền vé được vài tỉ. Cáp treo có
40,50 cabin gì đó, mỗi cabin ngồi được 4 người, thiết kế gọn và xinh
xắn, nhiều mầu sắc khác nhau với cửa kính trong suốt tứ phía. Hai dây
cáp lớn chuyển động liên tục giữa các ròng rọc trên các đầu trục đưa
các cabin êm ả lướt về hai chiều ngược nhau trên các ngọn thông. Đầu
dưới của cáp treo ngay trên lối vào Trúc Lâm thiền viện cách đầu trên
khoảng vài cây số.
Việc chọn địa điểm cáp treo ở
đây khá thích hợp. Cùng với chùa Trúc Lâm và hồ Tuyền Lâm, đây quả là
một khu du lịch phức hợp lý tưởng. Khách có thể đi cáp treo đến chùa
viếng cảnh rồi thuê thuyền đi chơi trên hồ, sinh hoạt dã ngoại trong
rừng và trở về bằng đường cáp treo cho một ngày đi chơi thú vị.
Cabin chúng tôi đi lúc mới
lên có 4 người nhưng ngay sau đó, hai người kia, có lẽ là đôi tình nhân
hay vợ chồng trẻ nhảy vội xuống đi cabin sau, họ nói muốn đi riêng để
chụp hình. Những người phụ trách cáp treo không phản đối nên chúng tôi
cũng được đi riêng hai người. BY sợ độ cao nên cứ nắm chặt lấy tay tôi
và chúng tôi ở bên nhau, trên cao lồng lộng, trong một cảm giác mới mẻ
gội nhớ những ngày tháng lãng mạn xa xưa thời trẻ. Chúng tôi chụp hình
cho nhau với bối cảnh bên dưới: là rừng thông bát ngát và hàng dọc
những cabin khác đang chuyển động trên đường dây.
Cáp treo là một công trình phục
vụ du lịch mới đáng tán thưởng. Tuy nhiên việc trông cây quanh hồ Xuân
Hương và trên các trục đường, nhất là đối với loại cây mai anh đào,
một đặc trưng của Đà Lạt thật đáng chê trách. Gần 30 năm qua, năm nào
cũng hô hào phát động trồng cây ầm ĩ mà đến nay mới chỉ một số ít cây
sống được, phần lớn chết, bị chặt phá hay xác xơ còm cõi.
Năm nay do khí hậu thời tiết
thay đổi tác động, hoa mai anh đào nở muộn. Thường hoa này chỉ nở và tàn
khoảng một tuần trước hoặc sau Noel nhưng năm nay đến Tết hoa mới nở.
Ngày chúng tôi về đây vẫn có một vài cây còn hoa bập bùng một màu hồng
nhạt quanh hồ Xuân Hương và trên đường dốc lên khu Hòa Bình. Hầu như tất
cả đều là những gốc mai gìa còn sót lại từ thời xa xưa. Chúng tôi cũng
ghi được mấy tấm hình bên cảnh tượng hiếm hoi này. Người dân địa phương
và báo chí rất tán thưởng hiện tượng này, coi đây như một nét hồi sinh
của “thành phố hoa đào” một thời vang bóng. Nghe nói nhân dịp này chính
quyền địa phương đã quyết định đặt tên một con đường là đường “ Mai anh
đào” và quyết tâm trồng lại hàng cây kỳ diệu đặc trưng này của thành
phố. Cũng rất mong điều này được thực hiện và người dân Đà Lạt có thể tự
hào về một tên gọi lãng mạn của thành phố mình bên cạnh những tên gọi
khác như “ thành phố ngàn hoa” , “ thành phố trên cao” …
Thăm cáp treo, thưởng thức mai
anh đào chỉ là chuyện phụ. Mục đích của chúng tôi khi lên đây là thăm và
mừng Hà Sĩ Phu hết hạn quản chế. Chúng tôi đến thăm vợ chồng Hà Sĩ Phu
trước ngày Hà Sĩ Phu hết hạn quản chế. Vợ chồng Hà Sĩ Phu -Thanh Biên
tiếp chúng tôi với vẻ lo lắng căng thẳng hiếm thấy. Anh cho biết trước
Tết, anh được mời lên làm kiểm điểm về những chuyện vi phạm trong thời
gian bị quản chế, đặc biệt về việc anh ủy quyền cho những người bất
đồng chính kiến ngoài Bắc thay anh ký vào những văn bản họ làm gởi cho
Nhà nước lên tiếng về những vấn đề dân chủ, nhân quyền. Anh giải thích
anh làm thế để chứng tỏ dù trong hoàn cảnh bị quản chế anh luôn giữ vững
quan điểm của mình, không vì sợ hãi mà im tiếng. Anh tin tưởng ở những
người bất đồng chính kiến ngoài Bắc, đã xác định rõ nội dung anh ủy
quyền và đó cũng là quyền công dân của anh mà quyết định quản chế không
ngăn cấm. Tuy nhiên công an cho rằng anh đã vi phạm và bị bọn phản động
lợi dụng để chống phá Nhà nước. Trước tình hình đó, chúng tôi phân tích
hai khả năng: Hoặc trấn áp, hù dọa, khủng bố tinh thần anh trước khi
giải chế. Hoặc lấy cớ áp đặt một lệnh quản chế mới. Tuy nhiên Hà Sĩ
Phu đặc biệt lo ngại vì những biện pháp mạnh tay của Nhà nước đối với
những người bất đồng chính kiến thời gian gần đây: Đưa ra tòa kết án Lê
Chí Quang. Bắt giam Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình rồi Trần Khuê, Phạm
Quế Dương, Trần Dũng Tiến… Trong khi đó thế giới đang tập trung chú ý
vào tình hình Trung Đông và chiến tranh vùng Vịnh sắp nổ ra, không có
chính phủ nào trực tiếp can thiệp vào vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt
Nam. Trung quốc lại làm gương trong việc đàn áp những người bất đồng
chính kiến…
Về mặt tâm lý, Hà Sĩ Phu, nhất là chị
Thanh Biên cũng đã cảm thấy quá mỏi mệt sau nhiều năm căng thẳng vì bị
bao vây phong tỏa và luôn phải đối phó với bộ máy công an hùng hậu. Họ
muốn sau hạn quản chế này được nghỉ ngơi, sống thoải mái hơn. Tuy nhiên
“cây muốn lặng mà gió chẳng dừng“ Chúng tôi chỉ còn cố đưa ra những nhận
định lạc quan để an ủi hai người và hẹn hôm sau sẽ lại thăm vợ chồng
anh lần nũa.
14/2/03, đúng ngày hết hạn quản chế của
HSP, chúng tôi định rủ thêm mấy bạn khác lại thăm HSP, coi như anh đương
nhiên giải chế khi không có quyết định gì mới nhưng các bạn ngại cho
rằng làm như thế có thể bị Nhà nước coi là khiêu khích, sẽ gây khó khăn
thêm cho HSP. Cũng đúng ngày hôm đó, anh được triệu tập họp tổ dân phố
để nghe “đấu tố”. Trong cuộc họp này, những người tham dự được chỉ đạo
trước đã tố giác anh và đề nghị Nhà nước kéo dài thêm thời hạn quản chế
hoặc đưa ra xử lý theo pháp luật. Trước tình hình đó, anh khuyên chúng
tôi nếu cần thì cứ tiếp tục đi vì chuyện của anh không thể giải quyết
sớm, chúng tôi không cần đợi. Thế là chai rượu Mao Đài chúng tôi kỳ cạch
mang từ Sài Gòn lên để mừng HSP chưa thể uống được. Chúng tôi tạm thời
cất ở nhà để đợi dịp khác chứ bây giờ không ai lòng dạ đâu để uống rượu.
( Chai rượu này do chú em tặng tôi hồi Tết tôi để dành. Mao Đài được coi
là rượu ngon và qúy của Tàu. Chính sách của Nhà nước Tàu khó chơi nhưng
rượu ngon là của nhân dân Tàu, ta cứ thưởng thức, tinh hoa văn hóa Tàu
ta ngưỡng mộ và học tập. Đó mới là tinh thần quốc tế chân chính ).
Vì chuyện không vui của HSP, chúng tôi
cũng không đến thăm Bùi Minh Quốc, người còn gần một năm nữa mới hết
quản chế. Lúc còn ở Đà Lạt sau khi tôi hết quản chế, HSP lại bị khởi tố
nhưng sau đó đình chỉ điều tra rồi quản chế, BMQ đi Bắc về, vì chuyện
biên giới bị quản chế lần thứ hai, thỉnh thoảng tôi vẫn đến thăm hai
người dù có lúc bị gây khó khăn hạch hỏi. Có lần tôi vào thăm lúc chiều
tối khi về công an đã điều một xe commanca đến chặn ngang đường để xét
hỏi. Sau đó tôi về Sàigòn, cứ vài tháng lên Đà Lạt một lần, bao giờ tôi
cũng đến thăm hai anh. Công an cũng đã nhẵn mặt tôi nên không còn ngăn
cản nữa. Tôi đã nhiều lần nói với công an về chuyện tình nghĩa bạn bè
tôi không từ nan một điều gì.
Thế là hôm sau chúng tôi tiếp tục lên
đường.
2.
*Chặng đường Đà Lạt -
Nha Trang dài 220 cây số, qua 2 đèo và qua vùng Phan Rang nóng cháy đi
trong ngày chắc sẽ là một chặng đi mệt nhọc dối với chúng tôi. Chúng tôi
không thể đi sớm vì trước khi đi phải dọn dẹp, đóng ván niêm phong nhà
đề phòng kẻ trộm đột nhập lúc chúng tôi đi vắng lâu ngày.
Từ Đà Lạt đi Đơn Dương, huyện tiếp giáp đèo
Ngoạn Mục có 2 đường. Đường đi qua đèo Dran ngắn hơn đường kia khoảng 10
cây số, trước kia chúng tôi đã thử 1 lần. Đèo Dran dài hơn 10 cây số,
không đẹp bằng nhưng có vẻ hoang sơ hơn đèo Prenn. Từ đỉnh đèo có thể
nhìn thấy hồ Đa Nhim phía xa. Đường đèo hẹp, vắng vẻ vì từ lâu không có
tuyến xe khách và chung quanh không có dân cư nên chúng tôi ngại, sợ xe
có sự cố không thể xoay xở được. Chúng tôi quyết định đi đường kia, đổ
đèo Prenn, đến ngã ba Finnom rẽ trái đi về Đơn Dương. Đường này hẹp,
quanh co, xe nhiều, qua mấy thị trấn nên không thể chạy nhanh được. Tuy
hơi mệt, tôi chạy một mạch đến đầu đèo Ngọan Mục mới dừng lại nghỉ để ăn
sáng với các thứ mua ở chợ trước khi đi. Nơí đây có một khúc quanh nhô
ra vực rất thuận tiện để nhìn toàn cảnh phía dưới của ngọn đèo hùng vĩ
này. Con đường quanh co lúc ẩn lúc hiện xuôi dần và biến mất trong ngút
ngàn rừng gìa. Người Pháp đặt tên đèo này là “Belle vue”, ta dịch Ngoạn
Mục cũng rất phù hợp. Có người còn gọi là đèo Sông Pha vì dưới chân đèo
có thị trấn Sông Pha.
Đường đèo này rất nguy hiểm, hẹp và
quanh co nhiều, có đến 5 khúc cua khuỷu tay với bảng cảnh báo có thể
rơi luôn xuống vực. Chính do đèo nguy hiểm nên khi đi lại ít hiểm nguy
vì không xe nào dám chạy ẩu. Vả lại đường này xe qua lại cũng ít so với
các tuyến đường khác. Chúng tôi từ từ đổ đèo. Thỉnh thỏang vẫy tay chào
các khách Tây ba lô đồng hành. Họ thường thuê xe ôm từ Đà Lạt đi Nha
Trang hay các tỉnh Tây nguyên. Họ, phần lớn là các cặp trai gái, đôi khi
các bạn trai hay các bạn gái đi với nhau. Có người chỉ đi một mình. Từ
những phương trời xa lạ, họ dám đến đây mạo hiểm đi khắp nơi, lẽ nào
chúng tôi lại không đi được.
Đèo Ngoạn Mục có hai ống nước khổng lồ
do người Nhật thiết kế đưa nước từ hồ Đa Nhim trên đỉnh núi xuống chạy
máy phát điện dưới chân núi ở Sông Pha
Đây cũng là một công trình ngoạn mục đặc
biệt không đâu có. Những lần đi trước chúng tôi đã dừng lại chụp hình
nhiều nên lần này không chụp nữa. Lại chạy một mạch hơn 50 cây số đến
thị xã Phan Rang.
Trên đường, tuy có dòng sông cùng chảy
xuôi nhưng quang cảnh kho cằn, thỉnh thoảng xuất hiện mấy tháp Chàm cũ
kỹ trơ vơ trong nắng. Ở đây dân cư trồng bông vải và trồng nho nhưng
xem ra không được trù phú.
Thị xã Phan Rang nhiều đường phố cũng
có cây xanh nhưng vẫn nóng bức. Chúng tôi vào một tiệm cơm gà ở ngã ba
đường, hình như khá nổi tiếng vì khách rất đông để ăn trưa. Chúng tôi
muốn ngồi phía ngoài cho thoáng nhưng ông gìa bảo vệ khuyên chúng tôi và
mấy người khách mới đến nên vào trong .Ông bảo ngồi ngoài ăn mày đến
quấy rối chịu không nổi, cho một người họ sẽ kéo đến hàng chục, đuổi
không đi. Nạn ăn mày đúng là một vết nhơ trên bộ mặt các đô thị Việt
Nam. Giải quyết nạn nghèo khổ là một vấn đề lớn và khó khăn. Người nghèo
khổ đáng thương hại và giúp đỡ nhưng kiểu ăn mày và lạm dụng ăn mày
thành nghề, đặc biệt ở các thành phố lớn là một sự xấu hổ cho chính họ,
cho nhân dân và cho Nhà nước.
Từ thị xã Phan Rang, chúng tôi đi thẳng
ra quốc lộ 1A, không ghé qua bãi biển Ninh Chữ gần đó, một bãi tắm sạch
và yên tĩnh, nơi chúng tôi đã một lần đến từ nhiều năm trước. Chúng tôi
cũng không tiếc đã không đi qua Phan Thiết vì mấy năm gần đây chúng tôi
đã qua đó hai lần.
Từ Sàigòn ra Phan Thiết có hai đường.
Đường quốc lộ 1A khoảng 170 cây số nắng nóng và xe cộ đông đúc. Đường
kia ra Bà Rịa, Long Hải theo quốc lộ 55 chạy dọc bờ biển đến Hàm Tân(
Hàm Thuận Nam ) rồi lại ra quốc lộ 1A chỗ gần thị xã Phan Thiết. Đường
này vắng ve, cảnh trí đẹp với các rừng cây và đồng ruộng nối tiếp. Ai
có thời gian tha hồ tắm biển. Bãi biển Long Hải nổi tiếng từ xưa nhưng
chật chội bẩn thỉu. Về sau này khách thường đến Phước Hải chỉ cách đó
mươi cây số với hàng loạt bãi tắm đẹp, trong đó có bãi Thùy Dương nhiều
đá nhưng thơ mộng hơn, nơi có khách sạn lớn và nhiều nhà nghỉ sát biển.
Đi tiếp nữa là bãi Hồ Cốc, nhỏ và yên tĩnh, có lối vào đi xuyên qua khu
rừng nguyên sinh, một khu rừng nhỏ với hằng hà sa số thân cây thẳng tắp.
Đi tiếp nữa sẽ gặp khu du lịch Bình Châu, nơi có nước khoáng nóng chữa
bệnh, được đầu tư xây dựng nhiều để phục vụ du lịch. Ở dây bạn có thể
ngồi ngâm chân trong dòng nước nhỏ dẫn từ suối vào bằng một con mương
xây xi măng, tắm nước khoáng qua vòi hoa sen hay các bể tắm. Các bể này
được thiết kế lớn nhỏ khác nhau để tắm công cộng hay tắm riêng cho
từng gia đình. Bạn cũng có thể mua trứng, cho vào giỏ thả xuống giếng
nước nóng đến 70 độ để luộc ăn chơi.
Trước khi ra Hàm Tân bạn có thể ghé tham
quan Dinh Thầy Thím ( Thầy và vợ Thầy là Thím chứ không phải Thầy tên
Thím như ban đầu chúng tôi lầm tưởng, hai vợ chồng có phép thuật giúp
dân ngày xưa, nay trở thành nơi hành hương cầu bình an tài lộc của
khách thập phương ). Cạnh Dinh Thầy Thím là bãi biển Thùy Dương ít sóng.
Đây là một khu du lịch kỳ lạ nhằm phục vụ cho khách hành hương Dinh Thầy
Thím với vô số quán cho thuê sạp và hàng ngàn chiếc võng, ngủ qua dêm
chỉ mất 10.000đ. Bãi biển Hàm Tân cách đó 30 cây số là bãi biển của thị
xã nhưng lại chật chội bẩn thỉu và không có nhà nghỉ cho khách.
Phan Thiết với bãi biển Mũi Né khoảng
mười năm lại đây nổi lên như một khu du lịch biển còn hấp dẫn hơn cả
Vũng Tàu. Ngoài bãi tắm Thùy Dương (lại Thùy Dương, vì dọc Miền Trung
bãi biển nào cũng có dương liễu) sát thị xã, khách có thể tha hồ lựa
chọn nơi tắm biển dọc theo Mũi Né, cách thị xã 20 cây số. Một con đường
nhựa mới mở chạy qua lầu ông Hoàng (công trình nổi tiếng nhờ thơ Hàn Mặc
Tử , nay không còn mấy dấu tích ) dọc theo bờ biển giữa hai hàng dừa
xanh ngun ngút gần chục cây số. Ở đây có vô số resort do các công ty
nước ngoài hay các công ty du lịch ở Sàigòn ra đầu tư, sang trọng đắt
tiền hay dân dã, Âu Á đều có đủ. Nét mới ở đây là các resort này được
nhà nước cho khoanh vùng quản lý bãi biển, chỉ phục vụ tắm cho khách
riêng của mình nên không ồn ào và rất sạch sẽ. Dọc bãi biển cát vàng dài
hơn 20 cây số, nhiều khu vực còn hoang sơ rất phù hợp với những người
thích yên tĩnh. Ngoài ra khách có thể đi tham quan các thắng cảnh trong
khu vực như Đồi Cát, Hòn Rơm, Suối Hồng… rất đặc trưng về mặt địa chất
của vùng đất này.
Chúng tôi chỉ tiếc không qua thị xã Phan
Thiết để rủ vợ chồng nhà thơ Nguyễn Như Mây cùng đi. Qua mấy lần gặp
trước, chúng tôi biết hai người này rất có máu giang hồ, cũng đã từng
thực hiện nhiều chuyến đi xa bằng xe gắn máy. Đúng là đi xa có bạn đồng
hành vui và yên tâm hơn. Tuy nhiên đi riêng lại cũng có điều thú vị và
thuận tiện. Hy vọng một lần khác chúng tôi sẽ rủ họ cùng đi.
Từ Phan Rang, chúng tôi bắt đầu chặng đường
đã nhiều năm chưa đi. Trên đường điều khác biệt rõ nhất là đường tốt
hơn và các thị xã, thị trấn dọc đường mở rộng và khang trang sầm uất
hơn. Phan Rang- Nha Trang 100 cây số, qua Cam Ranh, Diên Khánh, Ngã ba
Thành, chúng tôi chỉ nghỉ một lần ở quán nước dừa có võng ven một bìa
rừng. Càng đi ra Trung, loại quán này càng hiếm, không như trong Nam ở
đâu cũng có.
Lối vào thành phố Nha Trang là một con đường
hai chiều có dải phân cách dài thăm thẳm. Trước đây đã từng qua Nha
Trang vài lần nên dù không rành đường, tôi không cần hỏi cứ nhắm hướng
đông mà chạy, quả nhiên cuối cùng ra tới bãi biển. Tôi chạy dọc theo con
đường dài và đẹp nhất thành phố này, với vô số khách sạn cao tầng mới
mọc lên, tìm một khoảng tương đối vắng, đưa xe vào bãi cát sát biển nghỉ
ngơi trước khi đi tìm chỗ ở.
Buổi chiều muộn không còn mấy người tắm. Làn
gió biển mát rượu làm chúng tôi dịu bớt mệt nhọc. Chúng tôi rất thích
biển nhưng số phận ( hay hoàn cảnh ) không cho chúng tôi được sống ở
vùng biển. Đứng trước biển, trước trời nước mênh mông phóng khoáng, tâm
hồn mình cũng được mở rộng ra, cao hơn dù thân xác lại như bé nhỏ mong
manh hơn. Bãi cát vàng mịn, nắng ấm, tiếng sóng vỗ ì ầm miên man vẫn là
nơi dễ ru hồn ta vào chốn bình yên thanh thản nhất.
Nghỉ mệt xong chúng tôi đi tìm chỗ ở. Với
chúng tôi đây là một vấn đề phải tính toán và mất công sức. Số tiền
chúng tôi để dành được cho chuyến đi chỉ có thể chi tiêu một cách hết
sức tiết kiệm. Chúng tôi chủ trương đến đâu cũng không ở nhà người quen
mà chỉ ở khách sạn, nhà nghỉ hay phòng trọ vì đi mệt cần nghỉ ngơi và
được thoải mái tự do hơn. Tuy nhiên giá tiền phòng không được quá
100.000 đồng một đêm. Nơi nào có biển nên ở gần biển. Nơi nào không có
biển, ở khu phố nhỏ ít xe cộ ồn ào. Vời điều kiện như thế, chúng tôi
phải chịu khó đi tìm. Kinh nghiệm những lần đi trước cho thấy, ở nhiều
thành phố, với gía trên dưới 100.000đ tùy nơi cũng có thể tìm được phòng
tương đối tiện nghi, có toa lét riêng, có máy tắm nước nóng và cả TV,
điện thoại. Do đó đi xe gắn máy quả thật thuận tiện cho việc này.
Ở đây, dĩ nhiên chúng tôi không thể vào
các khách sạn sang trọng dọc đường bở biển nên chúng tôi “kính nhi viễn
chi” chỉ đi qua ngó chơi . Tôi rẽ vào mấy con đường bên trong một chút
và nhanh chóng tìm được chỗ trọ ưng ý, tuy phải leo lên lầu 3. Chẳng
sao vì tại Sài Gòn chúng tôi cũng ở tầng 3 chung cư và Đà Lat là phố
núi nên leo trèo là chuyện nhỏ. BY nói chuyện sao mà cô chủ bảo có cảm
tình với khách Đà Lạt nên chỉ tính giá 100.000đ dù bình thường giá cao
hơn.
Tắm rửa xong, chúng tôi di ăn tối và vào
một tiệm dịch vụ Internet gần đó để gởi mail. Chuyến đi này chúng tôi có
phương tiện thông tin liên lạc hiện đại: một điện thoại di động, một thẻ
card phone trong túi. Còn các trụ điện thoại công cộng ngoài đường, các
đại lý bưu điện, các tiệm dịch vụ Internet có rất nhiều ở các thành phố
và thị xã, thậm chí các thị trấn nhỏ cũng có tuy ít hơn.
Sự phát triển có thể nói là nhảy vọt của
công nghệ thông tin ở nước ta là một hiện tượng đáng phấn khởi. Sự phát
triển này là tất yếu nếu muốn hội nhập vào thế giới và ứng dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào mọi lãnh vực kinh te, văn hóa, xã hội cũng
như quản lý hành chính. Đây là một công cụ lợi hại của Nhà nước, đồng
thời cũng là một con dao hai lưỡi. Người dân có thể truy cập mọi loại
thông tin, kể cả nhưng thông tin bị bưng bít và bất cứ việc gì xảy ra
trong nước cũng có thể nhanh chóng loan truyền ra khắp thế giới. Đây
chính là một phương tiện tự do hóa, tiền đề của dân chủ hóa, tự nó dù
muốn hay không, cũng hữu hiệu hơn nhiều so với những lời lẽ tuyên
truyền của nhà nước hay luận điệu chống nhà nước.
Sáng hôm sau chúng tôi dậy muộn và lập tức
chuẩn bị đi tắm biển. Cô chủ khách sạn cho biết ở đây dân địa phương đi
tắm rất sớm, từ 5g sáng đến trước 7g đã về nhà chuẩn bị đi học, đi làm.
Sau đó ở bãi biển hầu hết là khách tây, nhất là gần trưa. Quả nhiên như
vậy. Hơn 9 giớ chúng tôi ra biển, suốt một khoảng bãi cát dài trước các
hàng quán, không có ai tắm cả. Càng tốt vì chúng tôi không thích đông
người. Chúng tôi vào một quán gởi xe, mua hai ly café và thuê một ghế
nằm dưới dù. Thức ăn sáng chúng tôi đã mua trong phố mang theo. Thế là
đủ cho một buổi tắm thoải mái.
BY thích tắm biển nhưng lại không biết
bơi và sợ sóng nên chỉ dám cùng với tôi lội ra một chút rồi vào nằm chơi
bên mép nước. Tôi ngược lại, bơi khá và không hề sợ biển. Bao giờ tôi
cũng bơi ra xa một hai trăm mét với đủ kiểu bơi rồi quay vào nhảy sóng.
Tôi may mắn trải qua thời tuổi nhỏ của mình bên ba dòng sông: Sông
Thạch Hãn ở Quảng Trị, sông Hương ở Huế và sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi.
Tôi biết bơi một cách hầu như tự nhiên. 12 tuổi tôi đã dám bơi qua sông
Hương một mình. Thời sinh viên, trong một chuyến đi tắm biển ở Thuận An,
tôi đã một mình bơi ra khơi và ở ngoài đó 4 tiếng đồng hồ. Bây giờ lớn
tuổi tôi không thể bơi nhanh được nhưng nếu biển lặng tôi vẫn có thể ở
ngoài đó bao lâu cũng được vì tôi có thể nằm trên mặt nước để nghỉ ngơi
như nằm trên giường mà chỉ cần động đậy một chút hai bàn chân. Tôi ngạc
nhiên và buồn vì thấy thanh niên hiện nay ít người biết bơi quá. Qua
bao nhiêu bãi biển, tôi thấy phần lớn họ chỉ lẩn quẩn trong bờ đùa dỡn
hay lúc nào cũng đeo cứng chiếc phao. Bơi một mình trên biển mới cảm
nhận được hết sức mạnh và sự bao dung của biển cả, sự rộng lớn thăm thẳm
của bầu trời cũng như năng lực tiềm ẩn vô hạn của con người khi hòa nhập
vào vũ trụ. Đó là kinh nghiệm tâm linh quý gía cho một đời người.
Trong thời gian chúng tôi tắm, chỉ lác đác
vài cặp khách tây xuống nhúng nước rồi lên nằm ghế đọc sách. Những người
khác ngồi trong quán nhâm nhi ăn uống. Khi mặt trời bắt đầu gay gắt,
chúng tôi ngưng tắm ra về. Tắm lại nước ngọt và thay quần áo xong, chúng
tôi lấy xe chạy dọc theo đường bờ biển lần nữa vì chiều hôm qua mệt nhọc
và mới chạy một quãng ngắn.
Con đường này có nhiều thay đổi. Các hàng
quán phía bờ biển được xây dựng lại, sạch đẹp hơn. Gần về phía Cầu Đá có
những khu trước đây để trống được xây dựng những công trình mới, phần
lớn là nhà hàng, nhà nghỉ với hàng rào và hàng cây khép kín, có lẽ là
những resort quản lý riêng một khoảng bờ biển. Phía bên kia từ viện
Pasteur trở đi là khách sạn. Trước đây Hải Yến là khách sạn lớn và sang
trọng nhất nhưng bây giờ trở nên nhỏ bé giữa rất nhiều khách sạn cao
tầng hiện đại mới mọc lên. Một nhà biểu diễn nghệ thuật hoành tráng với
hai hàng tượng chạy suốt hai mặt tiền nơi một ngã ba. Về phía gần Cầu
Đá, nơi trước đây là bãi trống, nay nhà phố san sát, phần lớn 3, 4 tầng,
có lẽ của tư nhân, chủ yếu cũng làm khách sạn, nhà nghỉ. Con đường này
có nét gần giống với con đường bờ biển Vũng Tàu, hình như dài đến 4,5
cây số.
Chúng tôi ghé vào thăm dinh Bảo Đại ở gần
cuối đường. Công trình này đã lâu lắm tôi có dịp ghé thăm một lần nhưng
không có ấn tượng gì đặc biệt, lần này tôi dẫn BY đi xem kỹ hơn. Đây là
một kiến trúc phúc hợp gồm nhiều công trình trên một núi thấp nhô ra
biển với lối vào xẻ dọc những phiến đá lớn. Dựa theo địa hình tự
nhiên,các ngôi nhà được xây dựng trên các mỏm cao cách xa nhau, có đường
trải nhựa chạy vòng quanh nối liền: gác nghinh phong, nhà ăn, nhà nghỉ,
nhà khách, khu bảo vệ, đường xuống đội tàu phía cảng. Cả khu vực xanh
tươi với các loại cây bóng mát, cây cảnh các loai hoa qúy. Đúng là một
khu nghỉ dưỡng đế vương.
Các chuyên gia xây dựng của Bảo Đại quả có
trình độ thiết kế cao và óc thẩm mỹ tinh tế khi chọn địa điểm và phong
cách kiến trúc để xây dựng các dinh thự này. Dinh ở Đà Lạt mang vẻ u
nhã, sang trọng theo phong cách Pháp thời cổ. Dinh Ban Mê Thuột với các
lọai cây gỗ rừng qúy hiếm cao lớn che phủ các nhà sàn phong cách Tây
nguyên. Ở đây cảnh quan rộng thoáng đón gió biển với các kiểu nhà đơn
giản nhưng không kém phần thẩm mỹ.
Dinh Bảo Đại Nha Trang cũng như các nơi
khác, dùng làm nơi tham quan du lịch, nhà hàng, khách sạn, tổ chức hội
nghị. Khi tôi đi vòng quanh gác nghinh phong, mấy công nhân vệ sinh, cả
nam lẫn nữ, đang ngồi bệt dưới mái hiên uống rượu đế với một đĩa nhắm
gì đó. Thấy tôi nhìn, họ vui vẻ mời tôi ngồi xuống chơi. Họ nói ở đây
trưa buồn quá không biết làm gì. Tôi cám ơn, từ chối đi tiếp và thầm
nghĩ: Thời nào cũng vậy, chỉ có những người lao động nghèo là khổ. Ai ăn
chơi hưởng thụ xa hoa còn họ cứ quần quật làm việc. Giờ phút rảnh rỗi
hiếm hoi đối với những công nhân kia có lẽ đã là hạnh phúc.
Rời Dinh Bảo Đại, chúng tôi chạy tiếp đến
Viện Hải Dương học và Cầu Cảng gần đó nhưng không ghé vào xem vì đã quá
trưa. Chúng tôi quay lại khách sạn, đi ăn trưa gần đó rồi về nghỉ. Buổi
sáng như thế là đủ.
Buổi chiều chúng tôi chạy xem khu phố xá.
Những khu phố cũ không thay đổi bao nhiêu nhưng nhiều khu phố mới ở phía
Nam có đường rộng hơn và nhà cửa hầu hết mới xây dựng. Hình như các
tiệm dịch vụ Internet ở đây không nhiều lắm, rải rác đây đó chứ không
tập trung. Chúng tôi cứ nghĩ một thành phố du lịch có nhiều khách nước
ngoài như Nha Trang hẳn phải có nhiều dịch vụ loại này. Tối hôm qua,
chúng tôi đến một tiệm Internet gần khách sạn, cùng với mấy khách nước
ngoài, phải đợi đến hơn nửa tiếng mới có máy trống. Chúng tôi cũng đã
chạy một vòng quanh đó nhưng không thấy tiệm nào khác mặc dù đây là khu
tập trung các khách sạn.
Chúng tôi cũng vào xem một ngôi nhà thờ
đặc biệt, tôi quên hỏi tên, hình như người dân hay gọi là nhà thờ đá.
Nhà thờ được xây dựng trên một ngọn đồi đột xuất nhô lên giữa mặt bằng
thành phố, cạnh một ngã sáu. Lối vào đi từ phía sau chạy vòng quanh lên
dốc mới tới cửa chính. Đây là một kiến trúc đồ sộ, nặng nề và cũ kỹ một
cách cố ý vì không được sơn phết lại. Bên trong đồ thờ, tượng , bàn ghế
kiểu rất cổ, phần lớn bằng gỗ nâu bóng. Không khí trên đây rất tĩnh
mịch, trái ngược với phố xá ồn ào phía dưới. Có mấy người khách nước
ngoài cũng vào tham quan.
Khoảng gần 5g chiều, chúng
tôi chạy ngang một rạp ciné, thấy đang quảng cáo phim “Gái Nhảy” bèn ghé
vào xem luôn. Từ trước Tết, 2 phim “Người Mỹ Trầm Lặng” và “Gái Nhảy”
được quảng cáo rầm rộ ở Sài Gòn với số khán giả và doanh thu kỷ lục,
báo chí bình luận nhiều nhưng chúng tôi chưa có dịp đi xem. Nay “Gái
Nhảy” đang tấn công ra các tỉnh, thấy bà con đi xem khá đông. Phim này
do Ngụy Ngữ viết kịch bản, Lê Hoàng đạo diễn, hai diễn viên chính là
Minh Thư và Mỹ Duyên. Phim mô tả cuộc sống của giới gái nhảy ở Sài Gòn
lồng vào chủ đề tuyên truyền chống Aids. Ngụy Ngữ là nhà văn lính ở
Miền Nam trước 75, nổi tiếng với truyện ngắn “Con thú tật nguyền” được
chuyển thể thành phim do một đạo diễn Việt kiều dàn dựng sau 75. Hiện
anh chuyên làm công việc viết kịch bản cho hãng phim Giải Phóng. Trước
đây có thời gian Ngụy Ngữ cùng với Trần Minh Thảo ở chung với chúng tôi
ở Bảo Lộc lúc anh đang là binh nhì đóng quân tại đó và chúng tôi cũng
mới về dạy học ở Blao - thị trấn sương mù. Đã lâu lắm chúng tôi không
gặp lại anh.
Cũng đã lâu lắm chúng tôi mới
được coi một phim Việt Nam thuộc loại hấp dẫn. Ưu điểm của phim là tiết
tấu nhanh, hình ảnh đẹp, diễn viên đẹp, diễn xuất khá tốt, nhiều cảnh
sôi động, khác với nhiều phim do các hãng phim nhà nước sản xuất chiếu
hàng ngày trên TV, trong đó đa số diễn viên nói như đọc bài, chuyển
cảnh chậm chạp, những màn đấm đá gỉa tạo đến khôi hài. Quá nhiều phim
lấy bối cảnh nông thôn nghèo nàn bùn lầy nước đọng hay chuyện chiến
tranh súng ống đùng đoàng, ca ngợi chiến sĩ cách mạng, bôi nhọ Mỹ ngụy
theo kiểu tuyên truyền cũ rich. Những phim đó chiếu “chùa” trên TV còn
có người coi chứ chiếu rạp có khi chỉ được 3 khán giả ( như có lần báo
chí nêu ). Cái cung cách lãnh đạo, chỉ đạo văn học nghệ thuật nặng mùi
giáo điều chính trị còn lâu mới sản sinh ra được những tác phẩm xuất
sắc. Hình như đã có lần cách đây 15 năm, rồi 5 năm, tôi đã có viết đâu
đó ý tương tự và tình hình đến nay vẫn không thay đổi mấy.
Nghe khán giả chung quanh vừa
xem vừa bình phẩm, thấy có hai ý nổi bật: Được coi nhiều màn hấp dẫn ở
các vũ trường Sài Gòn. Được thấy mặt trái xấu xa của xã hội xa hoa phồn
vinh giả tạo hiện nay. Theo chúng tôi ngoài những ưu điểm nói trên,
phim còn nhiều hạt sạn trong kịch bản và đạo diễn, nhiều tình tiết vô lý
gượng ép trong mạch truyện, nhiều cảnh và cách diễn xuất quá cường điệu.
Dù sao đây cũng là một phim đáng xem và tạo được sự thích thú, không đến
nỗi xem “uổng mắt” như nhiều phim khác, nhất là lâu lắm chúng tôi mới có
lại được cảm giác xem phim rạp.
Xem phim ra, chúng tôi đến
thăm Triệu Phong, một người bạn cũ. Triệu Phong trước 75 là sinh viên
tranh đấu, nổi tiếng vì là một trong mười mấy sinh viên bị đưa ra Tòa án
quân sự Mặt trận do họat động thân Cộng, sau đó anh “thóat ly tham gia
cách mạng”. Anh làm thơ và được nhắc đến nhiều với bài “Bản hợp xướng
giờ G”. Sau 75 anh công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Khánh Hòa và mới đây
nghe nói chuyển sang Hội Văn nghệ. Đã khá lâu tôi chưa gặp anh.
Hồi trưa tôi gọi điện đến Hội Văn nghệ,
người ta trả lời đã từ lâu anh không đến cơ quan và cho tôi số điện
thọai ở nhà. Gọi về nhà, tôi kinh ngạc khi nghe anh nói anh bị tai biến
mạch máu não, đã phải nằm nhà hơn hai năm nay.Tôi hẹn chiều nay sẽ đến
thăm anh.
Anh vẫn ở căn nhà trên một đường phố nhỏ
trước đây tôi đã có lần đến. Chúng tôi vẫn nghĩ anh bị tai biến mạch máu
não chắc phải nằm trên giường nhưng lại ngạc nhiên lần nữa khi thấy anh
đi ra đón chúng tôi tuy đi lại có vẻ khó khăn chậm chạp. Anh cho biết
ban đầu anh bị liệt nửa người bên phải, tâp luyện bớt, lại liệt nửa
người bên trái, sau đó lại liệt tòan thân một thời gian. Nhờ uống thuốc
gia truyền gì đó và vợ anh tích cực chăm sóc xoa bóp, dần dần anh cử
động đi lại được, tuy đi ra ngòai phải có người đi kèm. Anh bây giờ trở
thành một ông già ốm yếu hom hem.
Trước đây, Triệu Phong thuộc
loại người hào hoa phong nhã, tính tình phóng khoáng, bạn bè nhiều nhưng
bây giờ, sau hai năm bệnh tật, bạn bè thưa thớt dần rồi ít ai đến nữa.
Anh chán ngán cho tình đời nên khi chúng tôi đến thăm anh rất vui. Vào
năm 96, trước khi tôi bị quản chế, một “đồng chí văn nghệ” của tôi viết
một bài trên báo Sàigòn Giải Phóng, đích danh tố cáo tôi là “phản bội tổ
quốc, chống phá cách mạng, tay sai ngoại bang…” để dẫn đường dư luận cho
việc xử lý tôi. Tôi có viết một bài trả lời gởi cho báo Sàigòn Giải
Phóng, đồng thời gởi cho một số Hội Văn nghệ, trong đó có Hội Khánh Hòa
- Nha Trang. Tôi hỏi Triệu Phong hồi đó anh và các bạn văn nghệ ở đây có
đọc không và phản ứng thế nào. Anh cho biết lúc đó anh phụ trách văn
phòng Hội, nhận được anh đọc xong báo cáo cho các đồng chí lãnh đạo
Hội, các đồng chí này hốt hoảng bảo anh phải đốt ngay không được lộ ra
ngoài. Đó là các “đồng chí văn nghệ” đã một thời ủng hộ Bùi Minh Quốc
và tôi trong chuyến đi xuyên Việt vận động dân chủ và đổi mới năm 1988.
Anh cũng nhắc lại một chuyện
cũ. Sau thời kỳ đổi mới, lúc anh đang làm ở Sở Văn Hóa Thông Tin, có ký
giấy phép xuất bản cho mấy cuốn tiểu thuyết của Phạm Kim Anh, trong đó
có cuốn “Đêm mờ sương “. Phạm Kim Anh là hội viên Hội Văn nghệ Lâm Đồng
ở Đà Lạt nhưng có người em công tác ở Khánh Hòa lo việc xuất bản và hồi
đó các sở Văn Hoá Thông Tin cũng được quyền cấp giấy phép xuất bản. Sau
khi văn nghệ sĩ được Tổng bí thư Đảng “cởi trói”, một số vùng lên viết
tự do, thế là Nhà nước vội vàng trói lại. Trong một chiến dịch gọi là
bài trừ văn hóa phẩm phản động và đồi trụy, tác phẩm của Phạm Kim Anh bị
đưa vào danh sách. Anh bị bắt giam, khai trừ đảng, dù anh lúc đó mang
quân hàm thiếu tá công an, hội viên hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Triệu
Phong vì vụ đó cũng bị vạ lây, và suýt bị kỷ luật.
Tác phẩm “Đêm mờ sương“ thực
ra chỉ có vài đoạn hơi giật gân một chút, so với các cảnh trong phim
“Gái nhảy” thua xa, nhất là trường đoạn hiếp dâm tập thể trên bãi biển
Vũng Tàu, trong đó chiếu rõ cận cảnh nạn nhân bị lột truồng đến tận
quần lót và sau đó từng tên nhảy lên hành sự. Bộ phim này đang được hoan
nghênh, trình chiếu rộng rãi, được đánh gía như một bước đột phá, một
bước ngoặc mở ra thời kỳ mới cho điện ảnh Việt nam trong việc đưa nghệ
thuật đến với công chúng thời kỳ kinh tế thị trường. Tôi nghiệp cho Phạm
Kim Anh. Anh đã mất từ mấy năm trước vì bệnh ung thư, không được chứng
kiến và hưởng thành quả đổi mới hôm nay.
Trong lúc chúng tôi nói
chuyện, vợ Triệu Phong bận dạy học trong nhà. Chị là giáo viên Anh văn
cấp hai. Ngày nào chị cũng dạy kèm thêm cho học sinh ở nhà, có khi một
ngày vài xuất, mỗi xuất chỉ vài em học sinh. Đó là cách duy nhất tăng
thêm thu nhập để lo cho chồng bệnh tật và các con còn đang đi học. Dạy
xong, chị ra ngồi góp chuyện với chồng.
Mặc dù trứơc đây chưa biết
chúng tôi, thấy chúng tôi nói chuyện với Triệu Phong có vẻ thân tình,
chị bắt đầu bộc bạch tâm sự. Câu chuyện của chị thật cảm động. Chị chỉ
lo gia đình và dạy học, ít biết về các mối quan hệ của chồng. Lúc còn
hoạt động văn nghệ, Triệu Phong đi đây đó, dự các trại sáng tác, quen
biết văn nghệ sĩ khắp nơi. Có một nhà thơ nữ ở miền Bắc yêu anh. Họ đã
gặp nhau nhiều lần và thường xuyên thư từ cho nhau. Thời gian anh bị
bệnh, không đến cơ quan được, cơ quan nhắn chị lên lấy thư từ và các vật
dụng cá nhân của anh về. Chị phát hiện các thư từ của nhà thơ nữ kia
anh cất giữ ở cơ quan, trong đó các lá thư gần nhất trách móc anh sao
không trả lời. Chị đọc xong rất buồn nhưng khi thấy chồng đau yếu và rất
bi quan, chị quyết định đem xấp thư về cho anh đọc và khuyến khích anh
trả lời, mong anh sẽ tìm được niềm vui trong việc trao đổi thư từ này.
Sau đó, có lần nhà thơ nữ kia vào tận Nha Trang thăm anh và chị cũng
tiếp đón rất bao dung niềm nở.
Triệu Phong sống và đi lại được
nhờ chị. Sau khi điều trị theo tây y không mấy hiệu quả, ai giới thiệu
thuốc đông y, thuốc nam gia truyền gì hay bày cách xoa bóp bấm huyệt nào
chị cũng thử. Cuối cùng chị đã tìm ra cách có hiệu quả và không quản khó
nhọc tự mình điều trị cho chồng suốt cả năm trời, anh mới khá dần và đi
lại được như hiện nay.
Trong khi chị kể chuyện, Triệu
Phong lắng nghe đồng tình và tỏ vẻ biết ơn vợ. Anh nói chị là thầy thuốc
anh hòan toàn tin tưởng tuyệt đối, chị cho gì anh cũng uống, bảo gì anh
cũng làm.
Từ giã vợ chồng Triệu Phong ra
ngoài, BY nói với tôi: “44Đàn ông là vậy. Khỏe mạnh có tiền tha hồ đi
chơi bời, không còn biết gì đến vợ. Đến lúc bệnh hoạn hay có chuyện gì
chỉ có vợ lo mà thôi. Số đàn bà thật khổ.” Tôi nói đùa : “ Thế đàn bà
mới là vĩ đại. Hoan hô các bà vợ.” Đề tài này chúng tôi đã từng nói với
nhau nhiều.
Buổi tối chúng tôi đi uống café ở quán bên
bờ biển. Uống café ở những nơi như thế này thú vị hơn các quán đèn mờ
ngột ngạt và cả các quán café vườn ở Sàigòn. Gió mát, tiếng sóng ầm ì
ngay dưới chân, biển và trời mênh mông mơ hồ phía trước. Các quán ở đây
phần lớn của các công ty nhà nước có bãi để xe rộng, vào để tự do không
cần gởi. Khác tây cũng nhiều bằng khách ta.
Chúng tôi chọn chỗ ngồi sát
bờ biển nhất, ngay bên ngoài là bãi cát. Bên cạnh chúng tôi có hai
người đàn ông nước ngoài ngồi uống bia với nhau. Lát sau một đám thanh
thiếu niênViệt Nam ùa đến ngồi bên cạnh đùa dỡn, gạ bán mấy thứ gì đó.
Một trong hai người nước ngoài đứng dậy bỏ đi ra ngoài bãi cát, người
kia ngồi tại chỗ lấy chiếc radio nhỏ mang theo ra nghe nhưng vẫn bị mấy
cậu thanh niên chọc phá, chèo kéo. Chúng tôi đoán hai người đó là một
cặp đồng tính luyến ái. Anh chàng kia tỏ ra ghen vì thấy các thanh niên
Việt Nam thân mật với bạn mình.
BY hỏi một cậu thanh niên ngồi
cạnh cậu ta bán gì. Cậu ta quay qua nói chuyện với chúng tôi và tự
nhiên kể hết chuyện này đến chuyện kia rất cởi mở.
Cậu và bọn bạn sống bám vào bãi
biển này mười mấy năm rồi. Họ bán các tranh chép, tranh thêu lụa hay các
đồ thủ công mỹ nghệ. Thời hoàng kim nhất mỗi ngày họ kiếm được hàng
triệu đồng. Kiếm được bao nhiêu họ nướng vào sòng bạc hay vũ trường,
không cần biết đến ngày mai. Một dạo công an tảo thanh, bắt nhốt vài
ngày rồi phải thả vì không thể nhốt mãi được. Họ cứ bám các quán này và
nói nếu công an không cho thì nuôi họ đi. Công an cũng phải chào thua.
Có bạn của cậu được một bà Việt
kiều lớn tuổi để mắt đến, kết hôn và bảo lãnh đi nước ngoài nhưng mỗi
lần cậu đó về thăm chỉ đi một mình chứ không dám đi với bà kia vì sợ xấu
hổ. Hình như trong số họ có những người làm nghề bán dâm nam nhưng câu
ta né tránh vấn đề đó khi bị gạn hỏi.
Chúng tôi hỏi cậu nghĩ gì về
tương lai, cậu nói mình không cần biết, sướng ngày nào hay ngày ấy, các
bạn cậu cũng vậy. Nghe nói sắp tới nhà nước sẽ lấy lại mấy quán cho tư
nhân thuê và tổ chức lại việc mua bán ở đây do nhà nước quản lý. Nhưng
dù ai quản lý bọn cậu vẫn hành nghề ở đây kiếm sống. “Còn bãi biển này
là còn sống được.” Cậu ta nói một câu chắc nịch khi chào từ giã chúng
tôi để cùng các bạn kéo nhau đi chỗ khác.
Cậu thanh niên này khá dễ
thương và vui vẻ nhưng câu chuyện của cậu và các bạn làm chúng tôi rất
buồn. Đất nước này còn bao nhiêu thanh niên sống không cần biết đến ngày
mai như những thanh niên này?
3.
Chặng đường kế tiếp chúng tôi định đi từ Nha
Trang đến Qui Nhơn, chỉ ghé qua chứ không nghỉ lại Phú Yên. Chặng này
trên bản đồ dài hơn 250 cây số, có nhiều đèo nên chúng tôi dự kiến đi
trong ngày chắc sẽ khá mệt. Do thời gian đầu còn khoẻ nên chúng tôi cứ
đi, các chặng sau sẽ rút ngắn dần. Tuy vậy cần xuất phát sớm.
6 giờ sáng chúng tôi đã trả phòng. Lại chạy
thêm một khoảng đường bờ biển để hít thở không khí trong lành của biển
lúc rạng đông trước khi rẽ vào khu phố chính qua cầu xóm Bóng, theo
đường dẫn ra quốc lộ 1A ( đường này không trở lại Ngã Ba Thành trước
khi vào Nha Trang từ trong Nam ra). Chúng tôi dừng lại bên đường chụp
hình Tháp Chàm PoNagar, tháp Chàm nổi tiếng nhất của Khánh Hòa và các
tỉnh miền Trung vì là tháp lớn nhất và là nơi có lễ hội thờ Thiên Y
Thánh Mẫu hàng năm. Nơi đây, hơn 30 năm trước, hồi mới về với nhau,
chúng tôi đã đi chơi và chụp hình.
Trên đường, các đèo Rù Rì, Rọ Tượng không
gây ấn tượng gì đặc biệt vì quá ngắn. Từ Ninh Hòa, cách Nha Trang hơn 30
cây số về phía Bắc, đường bắt đầu xấu. Mặt đường ủi lên rồi để đó chưa
làm tiếp nên bụi mù mịt, chúng tôi phải chạy rất chậm. Chạy khoảng hơn
50 cây số mới thấy một quán café bên đường tương đối rộng, mát mẻ để
nghỉ ngơi và ăn sáng với bánh mì chúng tôi đã mua ở Nha Trang. Chạy tiếp
40 cây số nữa, chúng tôi đến Đại Lãnh một bãi biển nhỏ yên tĩnh bên
đường. Đáng lý nghỉ ở đây nhưng vì không muốn vào bãi biển, nơi hình
thành khu du lịch, phải qua một chiếc cầu nhỏ, gởi xe, mua vé phiền phức
nên chúng tôi chạy thẳng lên đèo Cả để chụp hình và ngắm cảnh luôn.
Đèo Cả không dài và cao bằng đèo Ngoạn Mục
nhưng rất hùng vĩ, đường quanh co sát bờ biển, phía dưới là vực sâu, độ
cao cách mặt biển lớn và cây rừng thâm u, gây cảm giác e sợ và choáng
ngợp. Từng đoàn xe tải nối đuôi nhau, qua các khúc quanh gặp xe ngược
chiều dồn cứng, tôi phải nép sát vào lề và đứng hẳn lại. “Tránh voi
chẳng xấu mặt nào”. Chỉ cần một xe tải lạc nhẹ tay lái là đủ hất chúng
tôi xuống vực sâu. Chúng tôi dừng lại ba, bốn chỗ trên đèo để chụp
hình nên mất nhiều thời gian, cũng để thay cho nghỉ ngơi luôn.
Gần trưa chúng tôi đến thị xã Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên. Thị xã bắt đầu từ ven quốc lộ 1A, gần thắng cảnh Núi
Nhạn, trải dài về hướng đông đến bờ biển khoảng 3 cây số. Đường phố Tuy
Hòa rộng, thẳng và sạch sẽ. Người lái các loại xe chấp hành tín hiệu
giao thông rất nghiêm chỉnh dù đường vắng.
Dọc bờ biển, một con đường mới mở
rộng và rất dài, chúng tôi chạy khoảng vài cây số vẫn chưa hết nên quay
lại. Cách con đường một rừng dương liễu hẹp có thể thấy sóng vỗ ngoài
kia chỉ xa khoảng hơn 100 mét. Dưới rừng dương liễu, các hàng quán thưa
thớt có lẽ mới mọc lên, xây dựng còn tạm bợ, phần lớn vách gỗ mái lá,
thỉnh thoảng mới có một nhà gạch đàng hoàng. Chúng tôi chọn một quán có
võng dưới hàng dương để vào nghỉ.
Tôi đi ra bãi cát nhìn dọc theo bờ biển
dài ngút mắt. Một bãi biển sạch và tuyệt đẹp không thua gì Nha Trang,
Mũi Né hay Vũng Tàu, nếu không nói là sạch đẹp hơn. Tuy nhiên bãi biển
này lại ít khách và không nổi tiếng. Nguyên nhân có lẽ do vị trí địa lý.
Nha Trang và Vũng Tàu là 2 thành phố du lịch biển lâu đời. Mũi Né mới
nổi lên do cảnh biển còn hoang sơ, được đầu tư tốt nhưng cũng còn do vị
trí nằm ở giữa khu tam giác du lịch Sàigòn - Nha Trang - Đà Lạt, thuận
tiện cho việc tổ chức các tour du lịch, nhất là cho khách nước ngoài.
Trời nóng, đã chạy hơn 120 cây số, chúng
tôi rất muốn tắm nhưng đành chịu vì quán không có phòng thay đồ và tắm
nước ngọt. BY hỏi thăm mấy quán gần đó, có nơi tắm được nhưng với điều
kiện phải “nhậu” mà chúng tôi không muốn nhậu vào lúc này. Ngay cả cơm
trưa bình thường cũng không có. Đành phải ăn qua quýt mấy thứ mang theo,
uống nước dừa rồi nằm võng nghỉ.
Đoạn đường tiếp theo tiếp tục xấu. Cứ
một quãng đường nhựa lại đến một quãng đường đất hay đang rải đá, bụi mờ
mịt. Phần lớn các cầu đều đang thời kỳ làm lại, phải chạy qua cầu tạm.
Đi du lịch mà cứ gặp đường kiểu này cũng nản. May đến gần Qui Nhơn thì
thoát nạn. Ở một ngã ba, một bảng chỉ đường cho thấy một con đường rẽ
phải chạy vào thành phố Quy Nhơn cách 30 cây số. Hỏi thăm mấy người lái
xe ôm đứng đó, họ bảo đây là con đường mới mở để vào thành phố, khỏi đi
qua đèo Cù Mông nguy hiểm trên quốc lộ 1A.
Sau bao nhiêu dằn xóc, quãng đường trước
mắt thật tuyệt vời. Đường nhựa láng mới tinh thẳng tắp giữa hai bờ cát
rộng, ít xe nên có thể phóng tới 70, 80 cây số / giờ. Gần tới thành phố,
đường bắt đầu vào đèo. Đèo cao quanh co, đường rộng, ít khúc ngoặt nguy
hiểm nên vẫn có thể chạy với tốc độ cao. Chúng tôi dừng lại một nơi giữa
đèo có đề bảng “Bãi Bằng”. Một con đường dốc nhỏ dẫn xuống một bãi biển
xinh xắn rợp bóng cây với vài hàng quán không sang trọng nhưng rộng rãi,
lịch sự. Chúng tôi đứng ngắm cảnh, nói chuyện với cô chủ quán một lúc
rồi tiếp tục đi. Dọc đèo, lại gặp một “ Bãi Dâu” và một bãi gì đó nữa,
là những bãi tắm đã được đầu tư xây dựng, có lẽ cũng tương tự như “ Bãi
Bằng”. Sau khi vào Quy Nhơn rồi chúng tôi mới thấy các bãi ở đây đẹp hơn
bãi biển ở thành phố nhiều và tiếc là đã không nghỉ đêm ở đây.
Cũng như ở Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang,
Phú Yên, các thành phố ở ven bờ biển, Quy Nhơn cũng có một con đường dài
dọc bãi biển, tuy không đẹp bằng. Các khách sạn dọc đường này cũng thuộc
loại đắt tiền, sang trọng và chúng tôi phải vào trong phố, hỏi thăm tìm
mãi mới có một chỗ nghỉ vùa túi tiền của mình, tuy không ưng ý vì căn
phòng hơi ẩm mốc.
Tắm rửa, nghỉ ngơi và đi ăn tối xong, chúng
tôi về khách sạn gọi điện thoại cho Lê Gành và Lê Văn Ngăn, hai người
bạn cũ nhưng không thân lắm. Cả hai đều là nhà thơ và là thành viên của
nhóm Việt, nhóm văn nghệ do tôi tham gia sáng lập từ năm 1965 ở Đại học
Huế. Lê Gành trước làm Trưởng Đài Phát Thanh nay nghe nói chuyển sang
làm tờ báo của tỉnh, không rõ chức vụ gì. Lê văn Ngăn đang chuẩn bị
nghỉ hưu, trước đó là Phó chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Định. Hai người đều
là đảng viên cộng sản và đã lâu tôi không gặp họ.
Tuy đã 9giờ đêm, hai người rủ nhau đến gặp
chúng tôi ngay. Họ mời chúng tôi đi uống bia ở một quán gần khách sạn.
Chúng tôi hỏi thăm nhau về gia đình và tin tức các bạn bè cũ. Nhắc lại
chuyến đi của Bùi Minh Quốc và tôi năm 1988, Lê Gành nói anh rất trọng
chúng tôi nhưng không tán thành cách làm đó. Tôi trả lời mỗi người có
cách nghĩ và lựa chọn của mình, tôi cũng tôn trọng thái độ và quyết định
của các bạn. Chúng tôi chỉ nói qua chứ không đi sâu vào việc này. Lê Văn
Ngăn nói chuyện vui linh tinh. Hai người còn nhiệt tình lấy điện thoại
di động gọi cho các bạn ở Huế để tôi nói chuyện và hẹn gặp khi chúng tôi
ra đó. Thật không gì vui khi đến đâu cũng gặp bạn bè. 11 giờ đêm chúng
tôi chia tay.
Sáng hôm sau, chúng tôi ra bờ biển uống
café ăn sáng trước khi rời Quy Nhơn. Bãi biển không mấy sạch, cát màu
vàng bẩn, dọc về phía Gành Ráng vô số tàu thuyền neo đậu. BY muốn tắm
nhưng tôi ngăn cản, sợ mất thời gian vì còn về chuẩn bị đi. Quãng đường
kế tiếp Quy Nhơn- Quảng Ngãi 175 cây số nghe nói là quãng đường tệ hại
nhất miền Trung hiện nay. BY đành nghe lời tôi.
4.
Bình Định, Quy Nhơn là nơi thuở bé BY đã
cùng gia đình sống vài năm vì theo bố là lính thay đổi đơn vị đóng quân.
Tối hôm qua tôi đưa BY đến con đường phố cũ ở Quy Nhơn, BY chỉ còn nhận
ra được ngôi chùa gần nhà còn phố xá đã thay đổi hoàn toàn. Sáng nay
trên đường đi, chúng tôi chú ý tìm Phù Cát cũng là nơi BY đã từng ở
nhưng chạy qua rồi chúng tôi vẫn không hay vì trên đường không có bảng
ghi tên thị trấn trong khi những địa danh khác lại ghi rất rõ.
Chặng đường này chạy quá mệt. Không
hiểu người ta làm đường kiểu gì. Cứ cày lên hay rải đá sơ sài rồi để
đó. Lại cứ làm từng khúc, từng khúc. Vậy mà chúng tôi đọc báo biết quốc
lộ 1A đã được sửa chữa từ nhiều năm trước với số tiền rất lớn được viện
trợ và vay của nước ngoài. Quả thật đường từ Phú Yên trở vào Sàigòn cũng
như các đường Sàigòn - Cần Thơ, Sàigòn- Vũng Tàu rất tốt, chạy vài trăm
cây số không hề gặp một ổ gà, nhưng “khúc ruột miền Trung” này sao lại
bị bỏ rơi thảm hại thế. Dân miền Trung đã khổ nhiều thứ còn khổ thêm vì
nạn bụi mù. Lại còn điều lạ là dọc đường này rất nhiều vùng trồng dừa,
như Tam Quan - xứ dừa nổi tiếng nhưng chúng tôi không tìm ra một quán
bán dừa,lại chỉ bán toàn các loại nước ngọt có gaz, những thứ chúng tôi
không uống được, đành phải uống nước suối mang theo.
Chạy tới Sa Huỳnh, cách thị xã Quãng Ngãi 60
cây số về phía Nam, chúng tôi dùng lại ăn trưa và nghỉ ngơi. Ở đây ngay
bên đường có một bãi tắm và tỉnh đã xây dựng khu du lịch Sa Huỳnh từ
lâu.
Trước cổng khu du lịch có một bảng lớn ghi
chữ “Sa Huỳnh Hotel
&
Restaurant” với số điện thoại và số fax, bên dưới có phù điêu hình một
chiếc muỗm và một chiếc nĩa chéo nhau. Cũng ngộ! Bên trong cổng, một
bảng lớn khác ghi “Bản đồ quy họach chi tiết khu du lịch Sa Huỳnh” với
sơ đồ và chú giải mấy chục hạng mục công trình. Chúng tôi chạy xe vào
trong: Một bãi biển nhỏ vắng người. Bên trên vài công trình gồm nhà ăn,
dãy phòng trọ và mấy nhà chòi sát biển… Chỉ có thế. Nhiều hạng mục công
trình khác chưa được thực hiện. Tuy nhiên toàn khu vực phủ bóng dừa và
dương liễu xanh mát.
Đã quá mệt, quãng đường còn lại không xa,
nên dù quen tiết kiệm, BY cũng đồng ý thuê phòng nghỉ lại buổi trưa và
tắm biển. Có lẽ ít khách nên các cô tiếp tân đi ngủ, gọi mãi mới có mấy
cô chạy ra. Tiền phòng 60.000đ cho một buổi ban ngày. Phòng đơn giản
nhưng rộng rãi, hai giường, có quạt máy, phòng tắm có vòi hoa sen. Thế
là đạt yêu cầu.
Chúng tôi tắm sơ nước ngọt, ngủ một giấc,
rồi mới ra tắm biển. Chỉ có hai chúng tôi tắm. Trên bờ, trong một nhà
chòi, một đám thanh niên có lẽ là dân địa phương ngồi nhậu lai rai, cười
nói ầm ĩ. Buổi chiều ở đâu biển cũng sóng lớn nhưng BY chỉ được nhúng
nước và ngồi trên bãi cũng thích thú rôi. Tôi hơi mệt nên chỉ bơi một
đoạn ngắn, nhảy sóng một lúc rồi lên bờ nằm nghỉ.
Buổi tắm và nghỉ ngơi giúp chúng tôi lại
sức. Ỷ y quãng đường còn lại không xa, 5giờ chiều chúng tôi mới lên
đường, hi vọng sẽ đến thị xã trước trời tối. Chúng tôi đã lầm. Đường
tiếp tục rất xấu nên khi trời sụp tối phải bật đèn xe, chúng tôi vẫn còn
cách thị xã đến gần 30 cây số. Chúng tôi đã vi phạm nguyên tắc tự mình
đề ra là không chạy xe ban đêm. Đúng là nguy hiểm. Các xe tải, xe đò lớn
giờ này lại chạy rất nhiều, chói đèn vào mặt làm tôi không thấy gì cả.
Tôi phải giảm tốc độ còn 20 cây số / giờ và mãi đến tận 8 giờ tối chúng
tôi mới đến thị xã.
Về Quảng Ngãi chúng tôi không lo chuyện tìm
chỗ trọ. Đây là nơi gia đình thầy mẹ tôi đã sống trước đây, hiện vẫn
còn căn nhà và em gái tôi - Cẩm Thạch đang ở. Tôi cũng đã học 7 năm
trung học ở trường Trần Quốc Tuấn nơi đây, trước khi ra Huế học đại học.
Vì đã được báo trước, Cẩm Thạch đang sốt ruột chờ chúng tôi với một bữa
cơm tối thịnh soạn.
Sáng hôm sau, Cẩm Thạch rủ chúng tôi đi uống
café ở quán vườn rồi đi biển Mỹ Khê. Hệ thống quán café vườn ở đây làm
chúng tôi kinh ngạc. Đi về hướng tây nam của thị xã, từ một đường phố
lớn rẽ vào con hẻm nhỏ, ngoằn ngoèo, trong đó có rất nhiều quán café.
Quán nào cũng rộng từ vài trăm đến cả ngàn mét vuông, cây cối xanh tươi,
trang trí đủ kiểu hoa lá cành. Cẩm Thạch giải thích trước đây khu vực
này là vườn và ruộng, sau khi thị xã mở rộng, đất lên giá và dân cư tự
nhiên giàu có lên. Mở quán café vườn thành phong trào. Người ta thuê cả
kiến trúc sư từ Sàigòn ra thiết kế xây dựng vườn đàng hoàng chứ không
phải làm ẩu.
Cẩm Thạch dẫn chúng tôi vào một quán tiêu
biểu. Trong khu vườn rộng rợp bóng mát, có nhà sàn lớn ở giữa trang trí
các tượng gỗ và giò phong lan. Chung quanh rải rác có các lều tranh và
các chỗ ngồi bên cạnh bồn hoa, khóm trúc hay hòn non bộ. Tôi uống café
phin đen, chiếc tách lịch sự và hương vị đậm đà thơm ngon. Dân Quảng
Ngãi kể cũng sành điệu. Khác với hôm ở bãi biển Quy Nhơn, gọi café đen,
người ta mang ra lột ly cối pha sẵn loãng phệch. Còn ở công viên Cần Thơ
dạo nào, café rẻ nhất nước, chỉ có một ngàn rưỡi một tách, nhưng nhạt
thếch và chẳng mùi mẽ gì cả.
Uống café xong, chúng tôi về nhà lấy đồ đi
bãi biển. Qua cầu Trà Khúc rẽ phải, đi ngang núi Ấn ( người Quảng Ngãi
tự hào gọi là “Thiên Ấn niêm hà”, nơi có ngôi chùa xưa và mộ Huỳnh Thúc
Kháng), theo con đường nhỏ chạy dọc bờ sông 10 cây số, chúng tôi đến
bãi biển Mỹ Khê. Con đường này thời còn đi học tôi và các bạn vẫn đi
chơi bằng xe đạp, đường đất, dân cư nghèo nàn, thưa thớt. Bây giờ đường
đã được tráng nhựa , nhà cửa hàng quán bên đường đông đúc. Có lẽ khu vực
này được nhà nước chú ý đầu tư vì có khu di tích Mỹ Lai, và cảng biển
mới mở.
Bãi biển Mỹ Khê là một vòng cung lặng sóng,
phía Bắc chạy dài đến mũi Ba Làng An nhô ra biển. Bãi này dễ tắm cho
người không biết bơi vì thoai thoải ra xa đến trăm mét vẫn còn đứng
được. Bãi tương đối sạch, cát vàng khá mịn. Các hàng quán chỉ là những
dãy nhà dài cột gỗ, lợp bạt, chia ra thành lô cho từng chủ quán, đánh
số 1,2,3… Thức ăn biển ở đây tươi ngon nhưng khá đắt, không thua gì các
nơi khác, tuy chỉ là một bãi nhỏ, ít khách du lịch, phục vụ cho dân địa
phương là chính. Tuy vậy, theo chủ quán nơi chúng tôi ngồi, ngày nào
cũng có khách lai rai và đến những ngày nghỉ, lễ tết, khách từ thị xã
về rất đông.
Chúng tôi ngồi đến gần chiều mới về, trên
đường ghé vào tham quan khu chứng tích Sơn Mỹ, ngay cạnh đường, nơi
cách thị xã khoảng 5 cây số. Khu chứng tích này rộng khoảng 1 ha, được
xây dựng ngay trên địa điểm năm xưa xảy ra thảm kịch, nơi có 504 người
dân bị lính Mỹ giết chỉ trong một trận càn. Sự kiện này do chính những
người lính Mỹ tố cáo và góp phần đưa ra công luận đã trở thành một vụ
chấn động cả nước Mỹ và toàn thế giới.
Lối vào khu chứng tích trải đá giữa hai hàng
dương liễu thấp cắt tỉa đều đặn dẫn đến một tượng đài lớn màu trắng: Một
phụ nữ tay bế xác con, tay kia đưa lên trời thét căm hờn, dưới chân một
phụ nữ khác đang ôm một cụ gìa hấp hối và một người đàn ông nằm gục dưới
chân cụ gìa. Bên trái là dãy nhà trưng bày các chứng tích. Bên phải là
con mương nơi hơn 200 người bị dồn xuống bắn chết. Phía sau và rải rác
đây đó có các căn nhà tượng trưng ghi dấu nơi từng là ngôi nhà của
người dân trong làng đã bị thảm sát, ghi rõ số lượng và tên họ từng
người. Ngoài vài cây cổ thụ còn sót lại, toàn khu được trồng dừa và
dương liễu với bãi cỏ xanh bên dưới. Trứơc nhà trưng bày chứng tích là
một vườn hoa nhỏ có ghế đá cho khách tham quan ngồi nghỉ. Nhìn chung
toàn cảnh có vẻ xanh mát, êm đềm nếu không đọc những câu chú giải về
tội ác đã xảy ra và nhất là câu khẩu hiệu lớn ghi trên nhà trưng bày:
“Mãi mãi khắc sâu lòng căm thù giặc Mỹ xâm lược.”
Trong khi BY, Cẩm Thạch cùng một đoàn khách
mới vào đi xem kỹ từng chứng tích trong nhà trưng bày, tôi chỉ đi lướt
qua và ra ngồi trên ghế đá ở vườn bên ngòai suy ngẫm. Những chứng tích
đó tôi đã từng thấy, từng biết, từng đọc và bây giờ tôi không muốn xem
lại nữa. Tôi kinh sợ và lên án tội ác, nhất là tội ác giết người, lại là
giết người hàng loạt, những thường dân không có khả năng tự vệ. Đây là
một tội ác điển hình nhưng không phải là tội ác duy nhất trong cuộc
chiến đã qua. Vụ tàn sát này xảy ra sau biến cố Mậu Thân 1968. Tôi liên
tưởng đến những tội ác giết người khác, từ cả hai phía của chiến tranh,
từ những lời cao rao chính nghĩa với những mồ chôn tập thể, những xác
người tan nát, què cụt, sâu hoắm vết thương.
Tôi nghĩ khi lịch sử đi qua, các phe tham
chiến và những người trong cuộc, những người dân thường không nên mãi
mãi ghi khắc lòng căm thù mà nên phản tỉnh, sám hối và cả thao thức, bao
dung để xây dựng một tương lai không bao giờ còn có chiến tranh.
Buổi tối, Cẩm Thạch dẫn chúng tôi đi ăn cơm
hến, có hương vị gần giống món “ doong” đặc biệt của Quảng Ngãi. Chúng
tôi cũng vào một tiệm dịch vụ Internet lớn có khoảng 30 máy, phần đông
khách hàng là học sinh vào chat, chơi game ầm ĩ. Rải rác một số đường
phố có loại tiệm này phản ánh nhu cầu có mức độ của người dân ở đây.
Ở Quảng Ngãi chúng tôi không đi thăm ai.
Người bạn thân duy nhất của tôi ở đây - Huỳnh Châm, bạn từ thời trung
học, học chung lớp ở đại học, nổi tiếng học giỏi, đã qua đời mấy năm
trước vì bệnh ung thư. Các bạn thân khác thuở nhỏ đã ra đi mỗi người một
phương. Tôi cũng quen một số người trong Hội Văn nghệ tỉnh nhưng không
cảm thấy hứng thú đến thăm, vả lại thời gian quá ít.
Ngày mai chúng tôi sẽ lại tiếp tục lên
đường .
¨
¨
¨
¨
¨
¨
5.
Từ Quảng Ngãi trở ra, đường tương đối
tốt, chỉ trừ một vài vùng trũng bị ngập nước vào mùa mưa lũ làm hư
đường, còn lại đường tốt như ở trong nam nhưng có phần hẹp hơn. Tấm bảng
“căn cứ Chu Lai” trên chiếc cổng lớn bằng sắt hoen rỉ từ thời trước 75
nơi đóng quân của lính Mỹ ngày xưa là một dấu vết hiếm hoi còn sót lại.
Vùng này là trảng cát, còn khá hoang vắng tuy rẽ về phía đông ra bờ biển
là khu công nghiệp Dung Quất lớn đang hình thành nhưng từ ngoài quốc lộ
1A chẳng nhìn thấy gì.
Chặng đường Quảng Ngãi – Đà Nẵng chỉ có 120
cây số nên chúng tôi không có gì phải vội. Qua Tam Kỳ, ( xưa thuộc tỉnh
Quảng Tín, mới đây trở thành thị xã của tỉnh Quảng Nam sau khi Đà Nẵng
tách thành thành phố trực thuộc Trung Ương ) tôi chạy chầm chậm tìm
Chùa Tỉnh Độ để ghé vào thăm. Đây là nơi có một kỷ niệm khó quên trong
đời sinh viên của tôi. Năm 1966 tôi làm đoàn trưởng Đoàn 3 Sinh viên
Quyết tử của phong trào đấu tranh của sinh viên Đại Học Huế, dẫn hơn 100
sinh viên vào đóng quân ở chùa này để hỗ trợ cho phong trào tranh đấu
tại chỗ. Chúng tôi đã ở đây gần một tháng, đã tạo ra một sinh khí mới và
có lẽ cũng để lại một ấn tượng khó quên cho người dân ở thị xã hiền
hòa này.
Thời gian ở trong chùa, điều làm tôi cảm
động nhất ngoài việc bà con chăm sóc chuyện ăn uống, là những đêm ngủ ở
chùa. Mùa hè, trời nóng, sinh viên nằm la liệt trên sàn chính điện. Sáng
sớm, các thầy dậy tụng kinh làm lễ trong khi sinh viên vẫn ngủ. Tôi cảm
nhận rõ nhất sự từ bi, và phóng khoáng của đạo Phật không phải qua kinh
sách hay bài thuyết giảng mà chính là lúc nằm lơ mơ ngủ nghe tiếng
chuông mõ và tụng kinh trong chính điện này, một khung cảnh nửa hư nửa
thực và bình yên lạ lùng trong thời tao loạn.
Chùa nằm trong hẻm cách đường quốc lộ 1A
khoảng 50 mét. Hình như chiếc cổng lớn với ba chữ Hán “Tinh Độ Môn” và
ngôi chính điện với bực thềm cao phía trước vẫn như xưa. Trong sân chùa
rộng dưới gốc cổ thụ cao lớn rợp bóng mát, một nhóm người đang làm việc,
trộn hồ, bẻ sắt hình như để xây dựng mấy chiếc tháp và công trình mới
gì đó phía bên hông chùa. Tôi chào họ và hỏi thăm, nhắc lại chuyện xưa,
mấy người già trong số họ từ lâu ở đây vẫn còn nhớ. Thế mà đã gần 40
năm. Biết bao nhiêu dâu biển. Một thoáng ghé qua đây làm tôi bồi hồi nhớ
lại thời trẻ tuổi của mình. Sống như thế mới thật là đáng sống. Tôi đề
nghị chụp chung vớo họ một tấm ảnh, họ vui vẻ nhận lời.
Rời Tam Kỳ, chúng tôi quyết định rẽ qua thị
xã Hội An trước khi ra Đà Nẵng để sau này khỏi trở lại. Từ quốc lộ 1A rẽ
phải chạy khoảng 20 cây số về phía đông đến một ngã ba, có bảng đề “Nội
thị Hội An”. Bên trong lề đường, trên một bệ xi măng người ta dựng một
công trình điêu khắc bằng gỗ có mái che, hình như là biểu tượng của thị
xã với hình một đồng tiền cổ ở giữa.
Vào trung tâm thị xã, chưa biết khu phố cổ ở
hướng nào, chúng tôi chạy lòng vòng tìm chỗ nghỉ, ăn trưa trước khi đi
tham quan. Chúng tôi ghé vào một quán sạch sẽ yên tĩnh trên con đường
phố hẹp gần ngã ba. Quán này mới xây dựng nhưng phần trước ốp gỗ mầu
nâu cho có vẻ cổ. Bàn ghế bên trong và cả mấy bộ đặt ngoài thềm dưới
bóng cây đều bằng gỗ, kiểu dáng đơn giản và thanh nhã. Sát tường là một
dàn máy vi tính để truy cập Internet. Trước quán treo 7 chiếc lồng đèn
kiểu dáng và mầu sắc khác nhau. Quán không có tên riêng, bảng hiệu đề
“Quán ăn 62. Café - Breakfast - Lunch- Dinner”. Chúng tôi hỏi thăm, cô
chủ quán nói hiện nay các quán tương tự mở ra rất nhiều. Rõ ràng loại
quán này nhằm phục vụ khách du lịch nước ngoài và dân cư ở đây cũng hiện
đại hóa rất nhanh với việc tiếp đón khách du lịch bốn phương từ khi Hội
An được Unesco công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Chúng tôi gọi món cao lầu, một đặc sản của
Hội An. Cô chủ giới thiệu sợi bánh của món ăn này do một cơ sở sản xuất
làm với nước của một cái giếng đặc biệt duy nhất ở Hội An nên tất ngon.
Giếng này hiện nay do nhà nước độc quyền quản lý. Tuy vậy chúng tôi ăn
thấy không có gì đặc biệt lắm. Cô em Cẩm Thạch của tôi ở Quảng Ngãi đã
ra đây nhiều lần có dặn chúng tôi phải ăn cao lầu ở mấy quán bình dân
nào đó vừa ngon, vừa rẻ, đúng vị cao lầu truyền thống nhưng chúng tôi
không biết quán đó ở đâu. Dù sao chúng tôi cũng đã đến Hội An, ăn cao
lầu tại chỗ, khi về cũng có thể nói dóc với thiên hạ được rồi.
Ngoài đường khách tây lác đác đi qua. Cô chủ
thấy ai cũng chạy ra chào mời bằng tiếng Anh. Hai cô gái rất xinh vào
ngồi cạnh chúng tôi. Hỏi chuyện xã giao, hai cô cho biết là người Đức,
lần đấu tiên đến Việt Nam. Thấy xe chúng tôi chất đồ đặc lỉnh kỉnh, họ
hỏi chúng tôi đi từ đâu, khi biết chúng tôi chạy từ Sàigòn ra, và sẽ
tiếp tục đi đến Hà Nội, họ có vẻ rất ngạc nhiên và thán phục.
Nghỉ ngơi xong chúng tôi hỏi thăm đường đi
đến khu phố cổ, hóa ra ngay gần đó, là mấy con đường nhỏ song song bờ
sông. Muốn thấy, hiểu rõ thế nào là nhà cổ ở đây, phải đi bộ và vào xem
tận nhà, có nhà phải mua vé tham quan. Chúng tôi chạy xe trên mấy đường
hẹp, nhà thấp, nhiều mái ngói rêu phong và hầu hết các nhà đều có bán đồ
lưu niệm hay hàng hóa gì đó. Nhiều nhà đáng vào xem nhưng chúng tôi
không có nhiều thời gian vì phải ra Đà Nẵng trong ngày.
Một trong những điểm tham quan đáng chú ý ở
đây là chùa Cầu, một kiến trúc do người Nhật xây dựng cách nay mấy thế
kỷ. Chùa xây trên chiếc cầu chừng mươi mét bắc qua con sông nhỏ nước
đục, chảy ra sông Hoài gần đó. Chùa có ba mái ngói hẹp tương ứng với các
trụ cầu phía dưới, một phía để trống có lan can nhìn ra sông. Hai đầu
cầu là hai cửa chùa, có bậc chắn không cho xe qua lại dẫn ra hai con
đường phố cổ. Chùa thấp và tối, hai đoàn du khách tây đứng dày đặc nghe
thuyết minh, một đoàn nghe tiếng Anh, đoàn kia nghe tiếng Pháp. Một đoàn
khách Nhật đi xe xích lô chạy hàng một vừa đậu lại bên ngoài.
Chúng tôi chụp hình chùa Cầu rồi chạy ra
sông Hoài, nơi có cầu lớn bắc qua sông. Dọc hai bên bờ sông có mấy quán
rộng, khách ngồi ăn uống khá đông vì nơi này mát và thoáng đãng. Chúng
tôi tiếc đã không biết nơi này trước.
Trên một số đường cổ, đèn lồng đủ kiểu treo
thành dãy trước mỗi nhà đem lại một phong cách thi vị riêng. Tuy nhiên
những hàng cờ đỏ và các băng rôn khẩu hiệu vải đỏ cắm dọc đường để cổ
động cho một chiến dịch hay ngày lễ gì đó do chính quyền phát động lại
rất chỏi với khung cảnh cổ kính, mầu nâu hay đen trầm của các dãy phố
này. Hình như người ta chưa chú ý đến sự hòa hợp thẩm mỹ ở đây vì quá
chú trọng khía cạnh chính trị. Tôi nghĩ gía trị văn hóa tự thân nói lên
tất cả, không cần khoác vào chiếc áo chính trị. Sự áp đặt chính trị một
cách thô thiển lại tạo ra khiên cưỡng, không tăng thêm mà còn làm giảm
gía trị của văn hóa.
Xế chiều chúng tôi từ gĩa Hội An đi Đà Nẵng
theo một con đường mới mở ( không trở lại đường cũ ra quốc lộ 1A) chạy
qua khu đô thị mới Điện Ngọc và thắng cảnh Ngũ Hành Sơn. Đường này vào
Đà Nẵng từ phía Nam, tiếp giáp với một đại lộ cũng mới mở với bốn làn xe
và hai dãy nhà phố mới. Tất cả còn bụi bặm, nhiều đoạn lề đường, cống
chưa làm xong, nhà xây dựng dở dang nhưng con đường này hứa hẹn sẽ trở
thành một đại lộ hiện đại. Đại lộ này chạy dọc hữu ngạn sông Hàn, có
đường rẽ vào cầu Trịnh Minh Thế cũ và cầu Quay mới xây dựng bắc qua sông
để vào trung tâm thành phố.
Chúng tôi qua cầu Quay, chiếc cầu xây dựng
theo kỹ thuật hiện đại với những nhịp ở giữa rời, có dây văng có thể
quay dọc mở cầu cho tàu lớn qua lại không bị vướng. Công trình này là
một niềm tự hào của cư dân Đà Nẵng. Qua cầu, rẽ phải, chạy dọc theo con
đường Trần Phú song song với đường bờ sông Bạch Đằng, chúng tôi gặp may
vì tìm ngay được khách sạn ưng ý, gía cả khá bình dân, không phải chạy
lòng vòng mệt mỏi như một vài nới khác.
Buổi tối tôi gọi điện thoại tìm Đông Trình,
bạn học cùng ban Việt văn, Đại học Sư Phạm Huế, cũng là thành viên sáng
lập nhóm Việt. Từ thời sinh viên Đông Trình đã là nhà thơ phản chiến,
thiên tả. Sau khi ra trường, dạy học ở đây, anh tham gia hoạt động cách
mạng. Anh không là đảng viên nhưng rất nhiều học trò anh là đảng viên
cộng sản. Sau 75 anh được coi như một trong những trí thức, văn nghệ sĩ
tiêu biểu của miền Nam ủng hộ cách mạng, được đưa vào ban lãnh đạo của
Mặt Trận Tổ Quốc, Hội Văn học nghệ thuật của tỉnh, kết nạp vào Hội Nhà
văn Việt Nam, được đưa đi tham quan các nước xã hội chủ nghĩa.
Từ trước 75 anh đã có nhiều bài thơ nổi
tiếng như Hoa đã hướng dương, Tiếng đàn bầu…Tôi thích thơ của
Đông Trình hơn nhiều bạn khác trong nhóm Việt vì ngoài ý tưởng độc đáo,
nghệ thuật thơ anh điêu luyện, âm điệu lôi cuốn, hào sảng, nhất là loại
thơ 7 chữ. Anh sáng tác nhiều, cho đến nay đã có 5,7 tập thơ được xuất
bản.
Sau này tôi nghe nói nhiều người không thích
anh vì anh hơi kiêu ngạo và” tả” trong cách sống, quan hệ với bạn bè cũ.
Gia đình anh con đông, kinh tế khó khăn, gặp nhiều chuyện buồn. Vợ anh
bị tâm thần, mất trong một tai nạn bi thảm. Con gái lớn của anh cũng bị
tâm thần. Mấy chục năm qua anh và tôi ít gặp nhau nhưng vẫn có sự cảm
thông và giữ được thân tình xưa.
Đông Trình trả lời điện thoại. Tôi kinh ngạc
khi nghe anh nói mấy năm nay anh bị bệnh nhũn não, thường xuyên bị
choáng váng, ít khi ra ngoài nên không đến gặp chúng tôi được. Tôi nói
vậy thì sáng mai chúng tôi sẽ đến thăm anh. Tuy vậy khoảng nửa giờ sau
anh gọi lại, hỏi rõ địa chỉ khách sạn và báo sẽ đến gặp chúng tôi ngay.
Cứ tưởng phải có người chở đến nhưng anh lại
đi honda một mình. Vẫn dáng người thấp lùn, cặp kính cận thị dày cộp,
anh nặng nề từng bước lên cầu thang. Anh bảo bệnh của anh phát thất
thường. Cơ quan cho nghỉ ở nhà, mỗi tuần chỉ đến một, hai buổi khi có
việc gì cần thiết. Anh mời chúng tôi ra uống bia ở một quán lề đường gần
khách sạn. Chúng tôi nói chuyện khá lâu.
Đông Trình bảo hiện nay anh rất bi quan,
không muốn sáng tác nữa vì thấy tất cả mọi sự đều rất phù du, vô
nghĩa. Tôi đồng ý chuyện cuộc đời phù du nhưng không thể thiếu đam mê
vì không đam mê rất khó sống. Tuy nhiên lại không nên coi trọng quá bất
cứ vấn đề gì vì dễ dẫn đến thất vọng. Tôi biết anh có xu hướng bi quan
từ thời trẻ nhưng bây giờ do hoàn cảnh riêng nên tâm trạng nặng nề hơn.
Đây là một kinh nghiệm cuộc sống mà mỗi
người nếm trải theo cách riêng. Thời sinh viên tôi tham gia đấu tranh
hết mình cho độc lập dân tộc, công bằng xã hội để rồi chán chường với sự
thối nát của chính trường miền Nam và sự bi thảm của cuộc chiến. Tôi
tham gia hoạt động cách mạng như tiếp tục dấn thân cho một lý tưởng cao
đẹp để rồi vỡ mộng vì thực tế cách mạng phản lý tưởng. Tôi lại tiếp tục
đấu tranh cho dân chủ tự do nhưng không thôi khắc khoải vì những thủ
đoạn chính trị xấu xa làm vấy bẩn những con người trong sáng nhất. Tôi
trầm tư thao thức trên những nẻo tâm linh nhưng vẫn không ngớt hoài nghi
về chân lý và hiệu quả thực tế trong cuộc sống làm người… Có phải sẽ
không bao giờ có lời đáp cuối cùng cho cuộc đời đa đoan ngắn hạn này ?
Và ý nghĩa cuộc sống phải chăng là cứ mãi lên đường, luôn ở trên đường?
Về một phương diện khác, ở lứa tuổi của tôi,
nhiều bạn bè đã ra đi, có người bệnh tật quanh quẩn ở nhà, tôi vẫn còn
khỏe mạnh chạy xe gắn máy được hàng ngàn cây số, tại sao tôi không đi để
ngắm nhìn, suy ngẫm và hưởng thụ cuộc sống ? Tôi sẽ không bi quan dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đông Trình còn bảo muốn tục huyền, tìm một
người phụ nữ để chăm sóc gia đình. BY nghe phản ứng ngay, bảo như thế là
đàn ông ích kỷ và không phụ nữ nào chịu làm điều đó. Anh tìm phụ nữ để
chia sẻ, nương tựa vào nhau thì được, còn nếu chỉ để chăm sóc gia đình
thì tốt hơn nên tìm người giúp việc. Nhà thơ có vẻ bất ngờ khi nghe ý
kiến đó và phải tán đồng BY, bảo anh không có ý nói thế.
Đông Trình chia tay chúng tôi lúc gần 11giờ
đêm. Tôi cảm thấy ấm lòng vì đã cùng bạn xưa chia sẻ những điều tâm sự.
Đâu phải dễ gì với ai mình cũng mở lòng ra và được đón nhận.
Sáng hôm sau chúng tôi đi Ngũ Hành Sơn,
thắng cảnh nổi tiếng của Quảng Nam – Đà Nẵng từ xưa, gồm 5 ngọn núi (
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ) nằm cạnh nhau, cách thành phố khoảng gần 10
cây số về phía đông nam. Đây là những ngọn núi đá hoa cương biệt lập,
đột khởi giữa vùng đồng bằng gần biển với hàng cây cối rậm rạp bên ngoài
và hang động luồn lỏi bên trong.
Theo một bảng chỉ đường ở ngã ba, chúng tôi
rẽ phải thăm Kim sơn và Hỏa sơn trước. Tôi gởi xe ở một cửa hiệu bán đồ
đá mỹ nghệ và xem qua các mặt hàng khá phong phú. Từ các vật đơn giản
như vòng đeo tay, nhẫn, dây chuyền, gạt tàn thuốc cho đến các loại phức
tạp hơn như bộ ấm chén, sư tử, tượng thần Phật, tượng người, tượng muông
thú làm bằng nhiều loại đá khác nhau, tất cả đều được gia công rất tinh
xảo, có tính thẩm mỹ cao, theo nhiều loại mẫu mã truyền thống hoặc sáng
tạo.. Chủ hiệu nói khách muốn đặt hàng gởi đến địa chỉ nào trong nước
hay nước ngoài đều đáp ứng được, chỉ trong vài ngày sẽ giao hàng tận nơi
và nhận hàng xong mới thanh toán. Mua bán đạt đến trình độ này với những
mặt hàng đá nặng nề quả là một tiến bộ lớn.
Mấy đứa bé ở đâu xuất hiện cầm đèn pin trong
tay gạ chúng tôi để chúng dẫn đi xem hang động. Chúng tôi từ chối nói để
tự đi nhưng khi tìm hang động, mới thấy chúng có lý vì chúng tôi chưa
biết đường, vả lại đường vào hang rất tối. Tôi chọn một cô bé khoảng
mười mấy tuổi có vẻ lanh lẹ làm hướng dẫn viên. Nó lập tức làm nhiệm vụ
một cách thành thạo, soi đèn đi trước, luôn mồm nhắc chừng tôi đi cẩn
thận khi lên xuống các bậc cấp, cúi đầu ở những vòm thấp và giới thiệu
các hình tượng thạch nhũ bên trong. Chúng tôi xem động Quan Âm ở khu Kim
sơn rồi qua động Huyền Vi ở Hỏa sơn gần đó.
Các hang động vùng này không lớn và sâu
nhưng hơi ngoằn ngoèo, các thạch nhũ kết tủa khá lạ lùng, có hình tượng
được bàn tay người chế tác thêm và được các câu chuyện truyền kỳ thêu
dệt thêm đượm vẻ kỳ bí. Cô bé dẫn đường có vẻ đã thành chuyên nghiệp,
nói năng lưu loát, nghe cũng hấp dẫn tuy có chi tiết không chính xác.
Làm nhiệm vụ xong, hỏi trả tiền, cô bé nói một giá BY bảo hơi cao nhưng
tôi cho là xứng đáng, cứ trả cho cháu. Còn bé thế mà đã biết làm việc
kiếm tiền giúp bố mẹ thật đáng khen. Cháu nói đang học cấp 2 và chỉ làm
thêm giờ rảnh.
Xem hai núi bên này xong, chúng tôi chạy
ngược lại, qua bên kia đường lớn xem các núi khác. Trên những con đường
chạy vòng quanh gần các núi này có vô số cửa hiệu và xưởng làm đá mỹ
nghệ, có thể nói là một đại công trường. Đây chính là làng đá mỹ nghệ
Non Nước. Thợ vừa làm bằng máy vừa làm tay, tiếng cưa xẻ, đục đẽo vang
rền khắp nơi. Quả là một nghề kỳ diệu, tuy nhọc nhằn. Bao nhiêu phiến đá
thô nháp vô tri thoắt biến thành những tác phẩm nghệ thuật. Co những con
sư tử đá vĩ đại gấp ba, bốn lần sư tử thật, vươn mình oai phong trong
lớp bụi mù. Có lẽ phải dùng xe cần cẩu mới đưa chúng lên xe tải được.
Tết vừa rồi chúng tôi đã thấy một số con xuất hiện ở công viên chợ hoa
Sàigòn. Những tác phẩm điêu khắc này sẽ tồn tại lâu dài, phô bày trình
độ và sự tài hoa của nghệ nhân Non Nước xứ Quảng.
Thủy sơn là núi lớn nhất trong Ngũ Hành Sơn,
có hình dáng một khối đá dựng đứng, đỉnh núi chia thành 3 ngọn. Trên núi
có các chùa Tam Thai, Linh Ứng và nhiều động dẹp như Linh Nham, Vân
Thông, Tâm Chơn, Huyền Không…
Nếu đi hết các chùa, hang động sẽ mất rất
nhiều thời gian. Trước đây tôi đã có lần đi nên không muốn đi nữa còn BY
hơi mệt sợ không đủ sức đi nên cũng như ở Hội An chúng tôi chỉ “cỡi
ngựa xem hoa” và chụp hình bên dưới.
Buổi chiều chúng tôi đi xem phố. Đà Nẵng rất
rộng, phố xá hàng hóa nhiều, cũng có những khu tập trung bán từng loại
mặt hàng. Đặc biệt khu vực phía Tây Nam mới mở, đường rộng thênh thang,
có một con đường tập trung nhiều cửa hiệu vi tính. Phần lớn các cửa hiệu
này đều có 2 căn, một căn bán hàng và một căn dùng làm trung tâm bảo
hành, hàng ngày đều phát bảng quảng cáo giá cập nhật cho khách. Xem ra
cách làm ăn cũng khá năng động theo kiểu Sài Gòn.
Chúng tôi cũng dành thời gian để xem Bảo
tàng Chăm. Đây là một địa chỉ hấp dẫn đối với du khách, nhất là khách
nước ngoài, lại dễ đi vì ở ngay trong trung tâm thành phố, cạnh bờ sông
Hàn. Bảo tàng này do người Pháp xây dựng từ lâu, sưu tập các hiện vật
từ khắp các tỉnh miền Trung. Đáng chú ý là các linh vật Linga, Yoni (
biểu tượng bộ phận sinh dục nam nũ) nhiều kích cỡ, các tượng thần, Phật,
vũ nữ, muông thú…
Ngoài Bảo tàng Chăm, Quảng Nam – Đà Nẵng còn
tự hào về thánh địa Mỹ Sơn mới được Unesco công nhận là di sản văn hóa
thế giới. Cùng với nhiều lợi thế khác, nền văn hóa và kiến trúc Chăm sẽ
giúp Quảng Nam - Đà Nẵng trở thành một khu du lịch hấp dẫn lớn nhất miền
Trung.
Khi nhìn các tháp Chăm trơ trụi hư hao trong
nắng gío suốt dọc các tỉnh miền Trung, tôi không nhìn như chiêm ngưỡng
thắng cảnh mà tôi luôn nghĩ về một đất nước đã mất dù dân tộc vẫn còn.
Tôi không thương vay khóc mướn theo kiểu thơ “Điêu tàn” hay nhạc “ Hận
Đồ Bàn”. Tôi cũng không nghĩ về chính sách đại đoàn kết với các dântộc
ít người nghe tuyên truyền nhiều nhưng làm được rất ít. Tôi cũng không
tự hào về quá khứ của cha ông thuở nào “ mang gươm đi mở nước” để biết
ơn tiền nhân. Trong tôi chỉ có mặc cảm tội lỗi dù tôi không dính dáng gì
đến tội lỗi.
Các công trình kiến trúc, điêu khắc Chăm còn
sót lại, những trang sử hào hùng của dân tộc Việt đã hé lộ, phơi mở, ghi
dấu lịch sử và văn hóa của một dân tộc đã mất nước. Đó là hệ quả của
cuộc đấu tranh sinh tồn theo luật rừng, mạnh được yếu thua.
Trung quốc nam tiến và Việt Nam vừa cố chặn
xâm lược phương bắc vừa đẩy mạnh xâm lược về phương nam. Lịch sử đã qua
rồi, đã định hình nhưng không phải đã chấm hết. Nhận thức lại lịch sử là
điều tối cần thiết trong xây dựng tương lai. Chúng ta lên án mọi hình
thức xâm lược của nước khác đối với mình nhưng sao lại không biết tự
phán hành động xâm lược của mình đối với đất nước khác, nhất là sự xâm
lược của ta còn triệt để hơn, đưa một quốc gia đến tiêu vong. Dân tộc
nào có quyền sống và sung sướng hạnh phúc hơn dân tộc khác? Tất cả chỉ
xuất phát từ lòng tham lam và độc ác, không xứng với danh nghĩa con
người. Chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi chỉ là liều thuốc kích thích sự dã man
và lòng ích kỷ.
Có lần tình cờ tôi gặp nói chuyện một vị sư
Phật giáo người Chăm. Tôi đánh bạo hỏi ông dân tộc Chăm hiện nay có mặc
cảm vong quốc hay không? Ông trả lời đại ý: Người Chăm không cần chiếm
đất không cần lãnh thổ. Người Chăm chỉ cần không gian cho đời sống tâm
linh.
Một cách trả lời lạ lùng. Tôi không hiểu hết
ý ông. Đó là cách nghĩ khác thường, thoát tục hay chỉ là cách né tránh
hiện thực đau buồn không còn cơ cứu vãn của một dân tộc vong quốc ngay
trên chính đất nước mình. Tuy nhiên nếu con người thực sự nghĩ và sống
như thế chắc chắn nhân loại sẽ thái bình.
Tôi không có dịp tìm hiểu về đời sống, tâm
tình của dân tộc Chăm đang sống tập trung một vài nơi và lưu lạc nhiều
nơi khác trên đất nước này nhưng về phần mình tôi luôn có mặc cảm về tội
lỗi của dân tộc mình trong quá khứ. Cuộc tham quan bảo tàng Chăm lần này
chỉ làm tôi thêm chạnh lòng.
Buổi tối tôi đã hẹn gặp mấy người bạn cũ
cùng ban Việt văn ở Đại học sư phạm Huế: Vợ chồ Nguyễn thị Hường - Lưu
Đức Tuấn Anh, Hoàng Sơn Phụng, Trần Cao Bằng. Chúng tôi họp mặt tại nhà
Hường – Anh, có người hơn 30 năm mới gặp lại. Chúng tôi hỏi thăm nhau về
gia đình và bạn bè cũ, nhắc lại những kỷ niệm xưa thời sinh viên.
Cho đến bây giờ các bạn vẫn còn đi dạy học.
Thoáng chốc mà họ đã thành những ông bà giáo gìa sắp về hưu. Ôn lại thời
sau 75, các bạn đều ngán ngẩm với các trò miệt thị, tẩy não đối với các
giáo sư văn chương miền Nam bị cho là nhiễm độc tư tưởng tư sản phản
động và văn hóa đồi trụy. Họ đã phải nén lòng lắm mới có thể tiếp tục
hành nghề. Bây giờ tình hình có đổi khác. Việc quy chụp, đánh giá một
chiều có giảm đi, một số giá trị văn học được khôi phục thẩm định lại
nhưng họ buồn vì nội dung chương trình vẫn còn quá giáo điều cứng nhắc,
trình độ của giáo viên mới đào tạo quá thấp và nhất là trình độ của học
sinh quá tệ hại do hậu quả của một quá trình dạy và học nhiều sai lầm.
Họ thấy rất rõ nhưng bây giờ họ không buồn lên tiếng, góp ý gì nữa vì
tiếng nói của họ những người lãnh đạo không muốn nghe. Họ dạy học như
một nghề kiếm sống, không còn chút nhiệt tình và chuẩn bị về hưu.
Trò chuyện chán, các bạn mời chúng tôi đi ăn
mì quảng ở một tiệm nổi tiếng nhất ở đây. Tiệm đông khách, bàn nào cũng
chật cứng người. Không hiểu sao chúng tôi ăn không thấy ngon, cũng như
món cao lầu Hội An.
Sáng hôm sau, từ giã Đà Nẵng, theo lời chỉ
dẫn của bảo vệ khách sạn, chúng tôi theo con đường mới mở tiếp nối đường
Bạch Đằng cạnh Sông Hàn, chạy dọc theo bờ biển ra đến tận Liên Chiểu
gần chân đèo Hải Vân. Đây là một đại lộ 4 làn xe có giải phân cách ở
giữa. Tôi có đọc một bài báo thấy đưa số liệu: Đường dài hơn 12 cây số
với 6 cây số kè bảo vệ bờ biển và tổng kinh phí đầu tư hơn 488 tỷ đồng.
Phải giải tỏa 2523 hộ dân sống trong những căn nhà lụp xụp, ổ chuột và
bố trí vào 6 khu tái định cư có cơ sở hạ tầng khang trang sạch đẹp. Đây
là chủ trương quy hoạch tổng thể của thành phố, xác định không gian phát
triển đô thị về phía bắc. Con đường này sẽ nối liền khu du lịch Cảnh
Dương - Lăng Cô - Hải Vân - Non Nước - Hội An, tạo điều kiện thu hút đầu
tư và cải thiện mội trường dân sinh trong khu vực.
Lúc chúng tôi chạy qua, con đường sắp hoàn
thành. Mặt đường nhựa đã làm xong. Một số công nhân đang tiếp tục làm
lề đường và trồng cỏ, trồng hoa ở giải phân cách. Điều thú vị là có thể
vừa chạy xe thong dong hít thở gío biển nghe tiếng sóng vỗ ầm ì, thỉnh
thoảng có thể ngừng lại, đi vào một ban công nhỏ có lan can nhô ra từ
bờ kè để đứng ngắm biển.
Có lẽ đây là con đường ven biển dài nhất,
tốn kém nhất và tương lai có thể đẹp nhất miền Trung. Đi qua một số
tỉnh, thành phố, chỉ nhìn bên ngoài cũng thấy rõ Quảng Nam - Đà Nẵng là
nơi phát triển năng động và có nhiều công trình vĩ đại nhất. Điều này
do lợi thế địa lý, cơ sở hạ tầng cũ nhưng một phần cũng do những người
lãnh đạo ở đây có tầm nhìn, dám nghĩ dám làm. Điều này cho thấy bất cứ ở
đâu ngoài vấn đề đạo đức, trong sạch nếu người lãnh đạo có năng lực và
trí tuệ, cuộc sống người dân cũng sẽ đỡ khổ.
§©§
6.
Đèo Hải Vân nằm ven biển, dài 20 cây số có
vị trí tương tự đèo Cả nhưng dài và ít âm u hơn. Con đường ngoằn ngoèo
lên cao dần, có khi chạy theo hướng ngược lại, vì phải men theo địa
thế sườn núi rồi lại lên cao hơn cho đến khi tới đỉnh. Đỉnh đèo là một
nét đặc biệt của Hải Vân mà các đèo khác không có. Đỉnh có một mặt bằng
rộng gần như nằm chính giữa đèo, chia đèo thành 2 phần bắc nam rõ rệt
với độ dài gần bằng nhau. Ngày xưa có dạo người ta chỉ cho xe lên xuống
đèo một chiều theo giờ để bớt nguy hiểm. Xe từ hai đầu đèo chạy lên đỉnh
dừng lại nghỉ. Đền giờ hết xe lên, có lệnh xe mới được phép đổ đèo. Vì
thế đây là nơi tập trung hàng quán phục vụ cho khách. Khách cũng có dịp
nghỉ ngơi và xuống xe ngắm cảnh là điều rất thú vị.
Bây giờ đường chạy 2 chiều vì đèo đã được
mở rộng trải nhựa láng , những bức tường và rào cản an toàn được xây
thêm, kính lồi dựng nhiều ở các khúc quanh khuất tầm nhìn. Sau khi đã
đi qua nhiều đèo khác, Hải Vân đối với chúng tôi chẳng có gì nguy hiểm,
chúng tôi chạy thong dong ngắm cảnh và dừng lại chụp hình những nơi có
địa thế đẹp.
Ở đỉnh đèo tuy không bị bắt buộc nhưng phần
lớn xe đều dừng lại, nhất là các xe du lịch. Các đoàn khách nước ngoài
túa ra chụp ảnh. Ở ngọn núi nhỏ gần mặt bằng đỉnh có một pháo đài xưa và
một lô cốt thời chiến tranh. Nhiều khách tây cố leo lên đó để xem. Từ
đỉnh đèo lộng gió và mây mù phảng phất này, ta có thể phóng tầm mắt về
hai hướng bắc nam để nhìn toàn cảnh hai đường dốc xuống khi ẩn khi hiện
giữa núi rừng trùng điệp. Đó là một cảm giác ngây ngất đặc biệt khi đứng
trên cao giữa trời mây phóng khoáng trên một đỉnh núi rừng.
Cảm giác này chắc chắn sẽ gây ấn tượng hơn
nếu khách không bị những người bán hàng chèo kéo quấy rầy. Cũng như
mọi nơi khác, đâu có khách du lịch là ở đó có đội ngũ những người bán
hàng này. Dĩ nhiên đây là nhu cầu về cả hai phía nhưng cái cung cách làm
ăn tự phát này quả thật kém văn minh. Người Việt Nam chúng ta còn chán
ngấy huống gì khách nước ngoài. Làm sao thoải mái được khi muốn yên
tĩnh thả hồn vào cảnh vật, một tay lại phải lo giữ túi, tay kia xua xua
từ chối những lời chào mời riết róng đến cưỡng ép.
Nghe nói sau khi làm xong công trình đường
hầm xuyên qua Hải Vân, con đường đèo này sẽ trở thành nơi phục vụ du
lịch. Hi vọng lúc đó hoạt động ở đỉnh đèo này sẽ được tổ chức tốt hơn.
Hiện tại chỉ có mấy hàng quán tư nhân tạm bợ và chỉ có một nhà vệ sinh
cũng của tư nhân, sử dụng phải trả tiền nhưng khá bẩn thỉu.
Xuống khỏi đèo Hải Vân là đầm nước Lăng Cô
rộng bát ngát. Bãi tắm nằm ở phía đông không xa đường lắm nhưng bị che
khuất bởi các đồi cát và rừng dương. Thỉnh thoảng có những con đường dẫn
vào bãi với bảng hiệu của một khu resort gì đó nhưng chúng tôi không ghé
vào vì đã nghỉ trên đỉnh đèo nhiều lần khá lâu.
Hai đèo ngắn Phú Gia và Phước Tượng tiếp
theo đối với chúng tôi chỉ là những con đường dốc dài hơi quanh co. Dù
sao cảm giác chạy xe tốc độ nhanh trên đường đèo uốn lượn quả thú vị
hơn chạy trên đường thẳng rất nhiều.
Quãng đường tiếp theo vào giờ trưa khá
trống trải. Tôi đang chạy với tốc độ 60 cây số / giớ, có một chiếc xe
ben chạy phía trước. Chiếc xe ben từ từ giảm tốc độ rồi ép vào lề. Tôi
tăng ga để chuẩn bị qua mặt nó. Thình lình không báo hiệu gì, chiếc xe
ben ngoắt ngang qua đường hình như để quay đầu lại. Cả tôi và BY đều
thét lên kinh hoàng. Tôi phản xạ vừa thắng xe vừa bóp còi. Xe tôi lết
siết trên mặt đường loạng choạng, rít lên và dừng lại sát ngay đầu xe
ben lúc nó choán ngang ba phần tư mặt đường. Gã lái xe thò đầu ra nhìn.
Tôi lách qua trái và sang số chạy luôn, quên cả chửi gã lái xe ẩu tả.
That hú vía. Chỉ một tích tắc nữa chúng tôi sẽ lao vào đầu xe ben như
một quả trứng ném vào đá.
Phản xạ đã đối phó với tình huống chớp
nhoáng làm tôi quên cả sợ hãi trong khi BY trống ngực đập thình thịch,
mặt tái mét và không ngớt tạ ơn Đức Mẹ. Tay hơi run nhưng tôi vẫn tiếp
tục chạy với tốc độ chậm và đến một chỗ vắng có bóng mát mới dừng nghỉ
để lấy lại bình tĩnh.
Từ đó về đến Huế, BY chỉ cho tôi chạy tối đa
40 cây số / giờ và thoáng thấy xe ben, xe tải từ xa BY đã bảo tôi né
tránh trước. Đúng là tai nạn không thể lường trước. Nếu ta chạy cẩn
thận, đúng luật và nghĩ ai cũng như mình sẽ rất dễ gặp tai nạn. Phải
luôn cảnh giác có những người lái xe không biết luật hay không cần tôn
trọng luật, chỉ cần một chút sơ sẩy ta có thể làm mồi ngon cho những
“hung thần quốc lộ” này. Trên những chặng đường vừa qua, chúng tôi
cũng đã thấy nhiều tai nạn nhưng tôi không dừng lại xem vì sợ tác động
xấu đến tâm lý BY, mất thoải mái trên đường đi. Tôi tin ở số mạng nhưng
đúng là tôi phải cẩn thận gấp hai lần. BY không sao quên sớm được
chuyện đó, cằn nhằn tôi liên tục và khẳng định nếu không có Đức Mẹ phù
hộ thì chúng tôi đã tiêu tùng rồi. Tôi phải hùa theo nói chúng tôi phước
lớn mạng lớn và có Đức Mẹ cứu giúp, nhất định sẽ được an toàn.
Quá trưa chúng tôi đến Huế. Tôi chạy thẳng
ra đường Lê Lợi dọc hữu ngạn sông Hương. Con đường Áo Trắng ngày xưa này
đối với tôi có biết bao kỷ niệm thời sinh viên. Con đường vẫn êm ả như
ngày nào với hai hàng long não phủ bóng ra mặt đường song song với dòng
sông dịu dàng xuôi chảy. Tôi chạy lên xuống con đường này hai vòng để
ngắm cảnh, hưởng gió mát và cũng để tìm khách sạn. Con đường không thay
đổi nhưng quang cảnh, nhà cửa hai bên đường thay đổi nhiều.
Tòa Viện trưởng Viện Đại học Huế nay vẫn là
trụ sở của Viện Đại học. Năm 1963, tôi thường lên đây để lấy thư của một
người yêu phương xa vì lúc đó Viện còn nhận giúp thư của sinh viên. Tôi
đã từng thất vọng ngồi bệt xuống bậc thềm của Viện hàng giờ liền vì
không có thư như mong đợi.Đối diện với viện là khu cư xá của giáo sư đại
học, nay trở thành nhà khách của Ủy Ban Thành phố.
Ngoài hai khách sạn Hương Giang sang trọng
phía bờ sông, bên kia đường và những con đường nhỏ bên trong, vô sô
khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ và nhà khách ( của các cơ quan nhà nước)
mọc lên. Nhiều nhà ở tư nhân biến thành nhà trọ, khách tây ra vào khá
đông, chứng tỏ khu vực này đang sôi động với dịch vụ du lịch. Tuy nhiên
gía cả ở đây lại khá đắt, so với Đà Nẵng, Nha Trang nên chúng tôi không
thuê phòng ở khu vực này mà chạy qua bên hữu ngạn để tìm nơi thích hợp.
Lần đầu thấy lại cầu Trường Tiền sau nhiều
năm tôi hơi thất vọng. Chiếc cầu quá nhỏ và chật chội so với số lượng
xe đạp, xe gắn máy xuôi ngược quá đông ( hình như cấm xe hơi ? ) Tôi
quen chạy xe ở Sàigòn mà ở đây nhiều lần suýt va quẹt vào xe khác.
Chiếc cầu trắng xinh đẹp thơ mộng này có lẽ chỉ nên dành cho người đi
bộ. Ấn tượng của tôi về chiếc cầu và có lẽ cũng của nhiều người khác,
là hình dáng thanh bai dịu dàng của nó khi nhìn từ xa và cảm giác phơi
phới thanh thản khi đi bộ và dừng lại nơi những vòng cung nhô ra ở
thành cầu để ngắm suốt con sông lặng lờ xuôi chảy bên dưới. Tôi chưa
nhìn được vì đang chạy xe nhưng trước đây đọc báo chí, thấy nói khi sửa
lại cầu, người ta đã đập bỏ những vòng cung này và nẹp nó lại bằng sắt
thẳng như bó nẹp xương gãy. Sửa chữa một cây cầu dịu dàng như cầu Trường
Tiền bằng cách đó sẽ làm nó mãi mãi bị thương tích. Việc như thế người
ta còn làm được thì chuyện tôi mơ ước dành chiếc cầu cho người đi bộ chỉ
là mơ ước hão huyền. Dĩ nhiên muốn làm thế phải xây dựng thêm cầu khác (
dù đã có một cầu mới phía trên không xa) hoặc giải quyết việc giao thông
qua lại giữa đôi bờ bằng một cách nào đó nhưng vấn đề là những người
lãnh đạo có ai nghĩ tới chuyện này không. Vấn đề là tầm nhìn và tâm hồn
của người lãnh đạo, những điều rất ít được chú ý trong bối cảnh hiện
nay.
Qua khỏi cầu Trường Tiền, tôi rẽ vào đường
cửa Thượng Tứ và gặp ngay mấy nhà trọ ở quãng đường ngắn này. BY vào hỏi
và thuê luôn dù không ưng ý lắm. Dù sao giá cả phải chăng hơn và nơi đây
đi lại ăn uống cũng tiện.
Tôi gọi điện tìm Hoàng Hòa, Hoà báo đang bận
chiêu đãi cán bộ cấp trên, hẹn khoảng nửa giờ sau sẽ đến. Chờ gần một
giờ, Hòa vẫn chưa đến, chúng tôi đi ăn tối ở bến xe gần đó. Bến xe này
có quán cơm bà Nhơn nổi tiếng ngon, rẻ và thức ăn đúng đặc trưng và tiêu
chuẩn của Huế. Ăn xong chúng tôi đi bộ tà tà và ghé vào một quán chè lề
đường. Loại quán này đến tối người ta mới bày ra, bán đủ loại chè Huế và
khách khá đông. Ăn ở vỉa hè kiểu này mới thưởng thức hết cái thú và
hương vị của những đặc sản bình dân tuy hơi ngại vấn đề vệ sinh. Đành
vậy thôi. Dân bụi đời như chúng tôi có lẽ khả năng miễn nhiễm tốt, dù
vậy chúng tôi thường hết sức cẩn thận trong ăn uống.
9 giờ tối, chúng tôi trở về, gặp Hòa đang
ngồi uống bia với mấy người bạn ở một quán đầu đường chờ chúng tôi.
Chúng tôi nói chuyện thăm hỏi qua loa vì có mấy người kia chúng tôi
không quen. Khi biết chúng tôi chỉ ở Huế đêm nay và sáng mai, Hòa rất
ngạc nhiên. Tôi giải thích vì thời gian có hạn và chuyến đi này chúng
tôi dành nhiều thời gian hơn cho các tỉnh phía Bắc, các tỉnh miền
Trung và Huế BY cũng đã biết nên chúng tôi chỉ ghé qua, gặp gỡ một vài
bạn bè cũ chứ không ở lâu được. Trưa mai chúng tôi sẽ đi Quảng Trị và
ngủ lại đó một đêm để thăm Đỗ Tư Nhơn, hôm sau sẽ từ Quảng Trị đi tiếp
Quảng Bình để chặng đường không quá xa.
Hòa hỏi tôi muốn gặp ai vào sáng mai Hòa sẽ
hẹn giúp vì bạn bè và những người quen của tôi Hòa đều biết cả và họ
cũng thường gặp nhau. Hòa cùng học với tôi ở Đại Học Sư Phạm nhưng
khác ban. Hòa học toán , là thành viên của nhóm Việt và lúc đi học Hòa
đã là đảng viên cộng sản nhưng lúc đó chúng tôi không biết. Sau vụ tranh
đấu năm 1966 Hòa bị bắt đưa đi Côn Đảo và mãi đến 1975 mới được giải
thóat. Sau đó Hòa tiếp tục đi học lại và hiện nay làm hiệu trưởng một
trường THPT bán công.
Tôi nói với Hòa lần này ra Huế tôi cần gặp
hai người, Nguyễn Đính và Hoàng Phủ Ngọc Tường, còn ngoài ra các bạn
khác nếu tiện thì gặp, không sẽ đợi dịp khác. Hai người trên lớn tuổi
hơn tôi, không phải là bạn nhưng tôi có mối quan tâm đặc biệt.
Nguyễn Đính bút hiệu Trần Vàng Sao là một
trong những sinh viên Huế “giác ngộ cách mạng “ và thoát ly ra rừng sớm
nhất. Anh bị thương trong chiến đấu và được đưa ra Bắc điều trị. Tại
trại điều dưỡng, anh bị một “đồng chí” bán đứng khi lén đọc nhật ký của
anh và đem nộp cho lãnh đạo để lập công. Trong nhật ký anh có ghi những
nhận định “động trời”: chủ nghĩa Mác - Lênin giáo điều và thiếu khoa
học, thủ đô Hà Nội nếu không có cuộc kháng chiến chống Mỹ thì chỉ là một
vũng bùn lộn cứt, trí thức miền Bắc hèn nhát và không có tư duy độc
lập… Anh bị đưa ra đấu tố, quy tội phản đảng, phản động, làm gián điệp
và bị cách ly, quản chế chặt chẽ. Sau 75 anh cầy cục xin về Huế nhưng
không được sử dụng, sống phất phơ lạc lõng, bạn bè “ngụy” không dám gặp
mà bạn bè “cách mạng” cũng xa lánh. Gia đình anh rất nghèo. Ngày xưa mẹ
anh bán bún bò vẫn cố nuôi anh học đại học và làm cách mạng. Bây giờ anh
lấy vợ, có con nhỏ, vợ anh cũng bán bún bò để nuôi anh thất nghiệp. Tôi
có đọc tập hồi ký của anh và thực sự cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh và
tâm trạng của anh. Anh là người sinh viên - trí thức dấn thân, can đảm,
bị đày đọa và cùng khổ nhất mà tôi đã từng gặp. Trước đây anh nổi tiếng
với “Bài thơ của một người Việt Nam yêu nước mình”, một bài thơ cách
mạng. Dạo 1988, anh bị báo công an và báo đảng ở Huế mở chiến dịch đánh
tơi tả vì bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” đăng trên Sông
Hương, tiếp tục bị quy chụp là phản động. Tôi chỉ gặp anh một lần trong
dịp Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo bênh vực thơ
anh trong chuyến đi xuyên Việt của chúng tôi năm đó.
Hoàng Phủ Ngọc Tường với tôi có nhiều quan
hệ hơn. Lúc tôi còn học đại học, anh đã là giáo sư từ mấy năm trước.
Trong cuộc tranh đấu năm 1966 ở Huế, lúc đó tôi là Phó chủ tịch Hội Đồng
Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách Mạng Đại Học Huế, cùng với Nguyễn Hữu
Giao ( chủ tịch) chủ trương hoạt động của sinh viên độc lập, không chịu
sự chỉ đạo của Phật Giáo. Anh đã đến găp để thuyết phục tôi và chuyển
lời mời của Thượng Tọa Trí Quang đến gặp ông để trao đổi về vấn đề đó.
Sau này khoảng năm 1987-89 lúc Bùi Minh Quốc và tôi làm tờ LangBian ở
Đà Lạt, anh đang làm tổng biên tập tờ Sông Hương ở Huế. Trong chuyến đi
xuyên Việt năm 1988 và cuộc đấu tranh “dai dẳng” sau đó, Tường và các
bạn văn nghệ sĩ ở Huế ủng hộ chúng tôi nhiều, tuy một số trong đó có
Tường không hoàn toàn tán thành cách làm của chúng tôi. Dạo đó, chúng
tôi có nghe tin là Tường không được chuyển đảng chính thức vì đã ủng hộ
chúng tôi. ( Anh Tường thoát ly từ sau vụ 66, đã làm trưởng Ty Văn Hóa
Thông Tin tỉnh Quảng trị từ trước 1975 nhưng mãi sau này mới được kết
nạp đảng). Sau khi chúng tôi bị cách chức, khai trừ đảng, không còn ở
trong Hội Văn nghệ nữa nhưng mỗi lần lên Đà Lạt anh đều đến thăm chúng
tôi nói chuyện văn chương chính trị.
Trong vụ Mậu Thân năm 1988 ở Huế, dư luận
của một số người cho rằng anh cùng với Nguyễn Đắc Xuân, có liên quan đến
các vụ thảm sát. Sau này hàng năm, đến ngày kỷ niệm vụ Mậu Thân, báo chí
của người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại chuyện này và lên án các anh.
Năm đó tôi không còn ở Huế vì đã ra trường đi dạy học ở Ban Mê Thuột
nên không hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra.Tuy nhiên tôi biết Tường bị phê
phán nhiều có lẽ do cách anh trả lời phỏng vấn trong bộ phim “Việt Nam,
thiên sử truyền hình” do một nhà báo Mỹ thực hiện. Tôi đã xem lại mấy
lần cảnh đó. Đại khái khi được hỏi về những người bị giết trong vụ Mậu
Thân ở Huế, anh trả lời đại ý: Đó là những kẻ gây nhiều tội ác, nhân dân
xem họ như những con rắn độc cần phải tiêu diệt.
Đối với những người ở phía Việt Nam Cộng
Hòa trứơc đây, câu nói đó gây “sốc”. Ngay đối với tôi bây giờ, sau khi
đã có độ lùi lịch sử và bình tâm nhìn lại cuộc chiến, câu nói đó quả
thực không ổn, Tuy nhiên tôi nghĩ có lẽ câu trả lời phản ành tâm trạng
thực của anh lúc trả lời phỏng vấn vào thời điểm đó. Anh là người đứng
về phía chiến thắng nói về cựu thù của mình, trong sự kiêu hãnh và bảo
vệ chính nghĩa của cuộc chiến mình đã tham gia. Có thể sau này nếu được
hỏi lại, anh sẽ trả lời khác đi. Dù đã từng nói như thế, tôi tin anh
không phải là kẻ tàn bạo hay khát máu. Anh không thể cầm súng bắn ai hay
ra lệnh giết người khi tác phẩm - thể hiện tâm hồn anh - tràn đầy tính
nhân bản. Khi say mê một lý tưởng hay tham gia một cuộc chiến người ta
dễ trở nên cực đoan, đặc biệt trong tư tưởng, nhưng khi thể hiện thành
hành động, mỗi người sẽ khác nhau tùy bản tính và trình độ văn hóa. Thực
ra tôi không hiểu nhiều về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng tôi mong rằng điều
tôi tin là đúng.
Mấy năm gần nay, Tường bị tai biến mạch máu
não phải nằm liệt giường nên tôi muốn dịp này đến thăm anh, tuy nhiên
Hòa cho tôi biết Tường đã được gia đình đưa về Hương Hóa, Quảng Trị nhờ
một bà thầy mo chữa bệnh vì các biện pháp điều trị ở Huế không khả quan
nữa. Thế là tôi không thăm được Tường. Hòa hẹn chúng tôi sáng mai đến
khách sạn Morin uống cà phê và Hòa sẽ báo một số bạn cùng đến đó để gặp.
Chúng tôi chia tay Hòa và đến một tiệm dịch vụ Internet gần đó.
Trước khi về nghỉ, chúng tôi dạo một vòng
bên tả ngạn sông Hương để ngắm cầu Trường Tiền trong ánh sáng đổi màu.
Đây là một nét mới của Huế từ sau festival. Một công ty của Pháp đã
thiết kế hệ thống chiếu sáng đổi màu để tôn vẻ đẹp của cầu trường Tiền
về đêm. Hình ảnh cây cầu nổi bật trên dòng sông đêm cứ vài phút lại
chuyển sang một màu khác, vàng, đỏ, cam, tím… trông rất ngoạn mục. Việc
chiếu sáng này khá tốn kém nên lúc đầu thực hiện hằng đêm nhưng gần nay
chỉ duy trì 3 buổi trong tuần và chúng tôi may mắn đã ở lại Huế đúng đêm
cầu được chiếu sáng. Đối với tôi, chiếc cầu trong màu sắc hiện đại tuy
có vẻ đẹp riêng nhưng không thay thế được hình ảnh chiếc cầu trắng dịu
dàng mờ ảo trong sương sớm hay trăng khuya đã gắn bó với tôi một thời
trẻ tuổi cùng với những cuộc tình lảng đảng đã quá xa rồi nhưng không
bao giờ mất.
Buổi sáng chúng tôi ăn bánh xèo ở quán trên
đường trước cửa Thượng Tứ, quán bánh xèo nổi tiếng từ xưa tuy vị trí có
thay đổi, nhưng không thấy ngon như trước. Quán này cũng có thực đơn ghi
tiếng Anh và đang có một ông khách người nước ngoài ngồi dùng tay ăn chả
ram. Tuy nhiên món bánh nậm quả thật ngon tuy phải chờ đợi hơi lâu vì
giờ đó người ta mới bắt đầu hấp.
Trước giờ hẹn với Hòa, chúng tôi chỉ đủ thời
gian chạy sang trường Đại Học Sư Phạm và nhà thờ Phú Cam để chụp hình.
Nhìn từ bên ngoài trường Đại Học Sư Phạm vẫn
như xưa. Đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo do kiến trúc sư Ngô
Viết Thụ thiết kế, với mặt tiền là những ô vuông quét vôi trắng che chắn
bên ngoài hành lang các tầng lầu. Tôi chỉ đứng trứơc cổng chụp hình bên
cạnh các sinh viên đang ra vào nhốn nháo rồi qua bên kia đường xem vườn
tượng. Vườn tượng đặt ở công viên chạy dài từ chân cầu Trường Tiền đến
khách sạn Hương Giang, với nhiều cây cao xanh mát. Festival Huế 2002 có
tổ chức một trại sáng tác mỹ thuật quốc tế gồm tác giả của nhiều nước
tham gia và sau đó tác phẩm được để lại làm vườn tượng. Tôi chụp cho BY
2 ảnh đứng cạnh 2 tác phẩm độc đáo. Tác phẩm “gia đình” của một tác gỉa
nước ngoài với hình tượng một người cha nằm sấp ôm đứa con nhỏ và người
mẹ nằm áp lên lưng chồng âu yếm, tất cả đều khỏa thân. Tác phẩm thứ hai
“Tắm mưa “ của một tác gỉa Việt Nam với hình tượng một trai một gái hoàn
toàn trần truồng đứng bên nhau giơ hai tay lên trời hứng nước mưa. Tôi
nghĩ Huế chấp nhận và trưng bày 2 tác phẩm này cũng đã là tiến bộ lắm.
Quần chúng sẽ quen dần đi, từng bứơc nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và sẽ
không còn thích thú với những loại công trình nghệ thuật chỉ có súng,
gươm, búa liềm, giơ tay, dang chân hao hao như nhau có mặt ở khắp mọi
nơi. Đó là thứ nghệ thuật bị lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp để thể hiện tư
tưởng chính trị một cách dễ dãi, hời hợt và đồng dạng. Tư tưởng chính
trị đó là đề cao lòng căm thù, chiến đấu và chiến thắng. Đó cũng là cách
người cộng sản tự ghi khắc công trạng mình, làm cho thời đại của những
người cộng sản vượt trội và che phủ lên hàng ngàn năm lịch sử. Đó là
thời đại huy hoàng nhất, oai hùng nhất, có công lao với đất nước nhiều
nhất. Điều này không chỉ thể hiện trong các tượng đài, các công trình
nghệ thuật mà ở khắp tất cả các lĩnh vực, từ cương lĩnh của đảng, hiến
pháp, sách dạy chính trị, lịch sử, văn học và cả đến việc tổ chức các
ngày kỷ niệm, viết các câu khẩu hiệu, làm bàn thờ tổ quốc, xây dựng
nghĩa trang, đặt tên đường phố… Đó là một lối tuyên truyền nhồi sọ ảnh
hưởng đến nhiều thế hệ, làm cho người ta chỉ nghĩ và biết một chiều.
Không thấy nơi nào nói đến sám hối, ăn năn, đến chiều sâu thảm kịch,
đến bao dung tha thứ, hòa giải hòa hợp hay rút ra được điều gì mới mẻ
cho tương lai một dân tộc đã hứng chịu vô cùng đau thương mất mát.
Đến giờ hẹn với Hòa, chúng tôi định chạy đến
khách sạn Morin thì nhận được điện thoại Hòa gọi báo chuyển địa điểm đến
quán café nơi trụ sở Tổng Hội Sinh Viên cũ gần đó, vì khách sạn Morin ồn
ào và nhiều khách Tây nói chuyện không thoải mái.
Khi chúng tôi đến, đã có 5, 6 bạn ngồi uống
café ngoài sân bên hông quán: Hoàng Hòa, Nguyễn Đính, Thái Ngọc San, Lê
Thừa Trứ, Lý văn Nghiêm và 1,2 người nữa tôi không quen, không hiểu họ
tình cờ ngồi đó hay do Hòa hẹn.
Trụ sở Tổng Hội Sinh Viên cũ hầu như hoàn
toàn không thay đổi, nơi đối với tôi quá quen thuộc. Trong cuộc tranh
đấu năm 1966, tôi đã làm việc, ăn, ngủ ở đây hàng tháng trời. Vì các bạn
khác có gia đình ở Huế nên trưa, tối về nhà, chỉ có tôi tuy gốc Huế
nhưng là dân trọ học nên tôi tình nguyện ở lại để trực và làm việc cho
tiện. Ngoài những buổi làm việc, hoạt động ồn ào, sôi nổi, đầy hào khí,
nơi này tôi đã trải qua những giờ phút vắng lặng một mình để suy tưởng
và phản tỉnh về việc mình làm, về thân phận dân tộc và những nỗi khắc
khoải về sự dằng xé, phân ly giữa con người dân tộc và con người nhân
loại, giá trị giai đoạn và giá trị vĩnh cửu. Tuổi 20 của tôi và thế hệ
chúng tôi đã là thế hệ dấn thân, đầy lý tưởng, trào sôi nhiệt tình nhưng
cũng không ít băn khoăn dằn vặt.
Nguyễn Đính trông bề ngoài quá thảm. Gầy gò,
hàm trên móm mém vì răng ruing gần hết, cặp kính gọng nâu cũ kỹ, mái
tóc muối tiêu dài không cắt buộc phía sau. Anh ít nói, chỉ mỉm cười như
một ông gìa hiền lành. Anh có vẻ vui lên một chút khi nghe tôi nhắc đến
bài thơ “Tao chưởi” của anh mới sáng tác mà Bùi Minh Quốc đã đọc cho
tôi nghe ở Đà Lạt. Quốc kể gần đây, trứơc khi bị quản chế lại, lần nào
ngang Huế, Quốc cũng xách rượu đến nhà anh nói chuyện đọc thơ. Bài thơ
“Tao chưởi” rất dài, hình như đến cả trăm câu, anh chưởi từ trên xuống
dưới, chưởi những thằng khốn nạn làm hại đất nứơc và nhân dân không sót
một ai, bằng giọng đặc trưng của một nhà thơ bất đắc chí đầy lòng căm
phẫn và kiểu cách, ngôn ngữ của người dân xứ Huế. Đó là một bài thơ lạ
lùng chỉ có thể xuất hiện để phản ánh một thời đại mà đất nước bị phá
sản một cách tan hoang dù đã độc lập thống nhất. Tôi tiếc đã không có
thời gian đến nhà nói chuyện riêng với anh.
Lý Văn Nghiên cùng học ban Việt văn, sau tôi
một khóa ở Đại Học Sư Phạm. Anh là đoàn trưởng một đoàn Sinh viên Quyết
tử trong cuộc tranh đấu năm 1966. Sau 1975, một thời gian anh làm đoàn
trưởng văn công, có lần dẫn đoàn vào Bảo Lộc biểu diễn, gặp Trần Minh
Thảo và tôi ở đó. Tôi không thân Nghiên và không biết sau này anh làm
gì, anh nói khơi khơi là đang thất nghiệp. Nghiên hát rất hay, hay hát
và nghe nói rất “ quậy’ trong những lần gặp gỡ bạn bè.
Thái Ngọc San cao lêu nghêu, trước đây nổi
tiếng với những bài thơ tranh đấu xuống đường, là thành viên của nhóm
Việt nhưng tôi ít gặp, nhất là sau khi đã ra trường xa Huế. Hiện nay anh
đang làm đại diện cho báo Thanh Niên ở miền Trung, nghe nói uống rượu
như hũ chìm, ngày nào cũng làm hết một can rượu đế ( ?! ).
Lê Thừa Trứ học cùng khóa với tôi nhưng khác
ban ở Đại Học Sư Phạm. Khi mới ra trường cùng dạy với tôi ở Ban Mê
Thuột. Đến nay anh vẫn còn đi dạy, hình như cả đại học và trung học,
trông đạo mạo ra dáng một nhà giáo.Thời sinh viên anh có một ông bố nổi
tiếng tên Lê Thừa Xích, tôi vẫn còn nhớ tên vì lúc đó ông hình như đã
gần 50 tuổi vẫn còn cắp sách đi học Đại Học Văn Khoa cùng với chúng tôi.
Các bạn cùng ngồi uống càfé ở đây có quan hệ
với tôi theo những cách khác nhau nên chúng tôi chỉ nói chuyện xã giao
chung chung. Nghe nói chúng tôi sắp đi, họ lần lượt cáo từ, chỉ có Hòa
và Trứ còn ở lại nói chuyện thêm một lúc nữa trứơc khi chia tay.
Chúng tôi ghé lại nhà Nguyễn Văn Dũng gần đó
hi vọng gặp anh một lát trứơc khi đi vì chiều hôm qua chúng tôi đã đến
nhưng không gặp. Dũng học cùng ban, trứơc tôi một khóa ở Đại Học Sư
Phạm. Anh nguyên là giáo sư văn chương nhưng nay là võ sư huyền đai
thất đẳng, chưởng môn phái Karaté Suzuki ở Việt Nam, sáng lập võ đường
Nghĩa Dũng ở Huế và có chi nhánh, môn sinh ở nhiều tỉnh. Những năm
trứơc, mỗi lần đến Đa Lạt chấm thi lên đai đen cho môn sinh karaté anh
đều đến thăm tôi.
Dũng vừa về đến nhà. Anh nói hôm qua anh
cùng Nguyễn Đắc Xuân và gia đình về quê, thăm mộ, ở lại đêm, sáng nay
mới lên. Anh nhất định bắt chúng tôi đợi anh tắm rửa rồi dẫn đi thăm mộ
Trần Đình Vỹ và đi ăn trưa với anh trứơc khi rời Huế.
Trần Đình Vỹ là bạn thân học cùng lớp, ở
cùng phòng với tôi và cũng là bạn thân của Dũng.
Vỹ đã mất trong cuộc đấu tranh năm 1966 vì
một lý do bí ẩn lúc đi biển Thuận An cùng hai người bạn. Thời đó có nghi
vấn anh bị sát hại. Vỹ quê Quảng Nam, thích hoạt động chính trị và văn
học, có mộng lấp bể vá trời. Vỹ cùng với Trần Duy Phiên và tôi, 3 người
học cùng lớp là sáng lập viên của Hội Hồng Sơn, tiền thân của Nhóm Việt
sau này.
Dũng gọi điện hẹn Trần Công Tín, bạn học
cùng lớp với tôi và Vỹ cùng đi. Thời dạy học, Tín xui xẻo bị động viên
đi học lớp sĩ quan dự bị, tốt nghiệp lại biệt phái về dạy học nhưng mang
lon sĩ quan nên sau 75 phải đi cải tạo rồi“ mất dạy”. ( Một số bạn bè
khác của tôi rơi vào trường hợp này, trong đó có Huỳnh Châm ở Quảng
Ngãi, trong khi tôi và những người khác lại chỉ đi học quân sự 9 tuần,
cấp bậc binh nhì, rồi về dạy học với tư cách dân sự. Có sự khác biệt này
vì việc động viên đơn thuần căn cứ vào năm sinh và tùy tình hình chiến
sự lúc đó. Những người kia được coi như là sĩ quan biệt phái nên sau 75
bị “cách mạng” cho là những phần tử nguy hiểm phải đi học tập cải tạo
dài ngày.)
Tín gặp tôi rất mừng, chuyện trò huyên
thuyên vì kể từ khi ra trường, gần 40 năm mới lại gặp nhau. Tín bây giờ
chỉ ở nhà loanh quanh giúp vợ làm việc nhà. Đúng là số phận con người
không ai có thể lường trước. Chúng tôi vào đời cùng một điểm xuất phát,
chỉ khác nhau có năm sinh mà số phận mỗi người đi một hướng.
Dũng nói hai vợ chồng vừa đi xe gắn máy lên
khá mệt nhưng sẽ chở Thảo - bà xã - cùng đi thăm mộ Vỹ vì trước đây lúc
còn sống, Vỹ có thời yêu Thảo nhưng Thảo lại yêu Dũng. “Để cho Vỹ được
chút thỏa lòng dù nó đã chết gần 40 năm “. Dũng nói. Anh chàng giáo sư
văn chương - võ sư này kể cũng ngộ. Thế là cả đoàn chúng tôi kéo nhau
đi thăm mộ Vỹ.
Mộ Vỹ nằm trong nghĩa trang “Đồng châu
Quảng Nam” gần Đàn Nam Giao, hình như đã lâu lắm không có người thăm
viếng. Chúng tôi thắp nhang và chụp hình chung bên mộ Vỹ. Tôi bồi hồi
nhớ lại thời kỳ sinh viên trẻ trung, hào sảng, vẫn là thời kỳ đẹp nhất
trong cuộc đời. Dù sao Vỹ cũng đã được sống 3 năm làm sinh viên. Chẳng
mấy chốc mà chúng tôi đã qua hơn nửa đời người, với bao thăng trầm dâu
biển, và có lẽ chẳng có lúc nào vui vẻ, hồn nhiên, sống hết mình như
thủơ đôi mươi trong môi trường đại học.
Thăm mộ Vỹ xong, Dũng đưa chúng tôi đi ăn
trưa trên nhà hàng nổi đậu gần cầu Trường Tiền. Ngồi ăn trên sông thật
thú vị nhưng theo BY và tôi, các tàu, đò dùng làm nhà hàng và phục vụ du
lịch trông lòe loẹt quá xấu và không chút hài hoà với dòng sông Hương
dịu dàng thơ mộng.Trang trí một chiếc tàu, đò có gì là khó, thế mà chiếc
nào cũng thi nhau sơn xanh đỏ và treo cờ xí, không mang dáng vẻ cung
đình mà cũng chẳng giản dị kiểu dân gian. Đúng là một trình độ thẩm mỹ
quá thấp trong một thành phố được coi là “bài thơ đô thị” có bề dày lịch
sử văn hóa nghệ thuật.
Trong bữa cơm, Dũng nói riêng với tôi, lúc
nãy trên đường đi tới đây, Dũng có gặp Trần Thùy Mai và hỏi Mai có quen
tôi không. Tôi kinh ngạc nhớ lại, lúc chạy xe sau Dũng, Dũng có đi song
song và nói chuyện một lúc với hai phụ nữ chở nhau trên xe gắn máy tình
cờ đi cùng đường, tôi chỉ thấy lưng của họ và không chú ý vì sau đó họ
đi thẳng và Dũng cũng không nói gì.
Bây giờ Dũng chỉ nói qua như thế rồi chuyển
sang chuyện khác tôi cũng không hỏi gì thêm.
Thực ra hôm qua tôi nói với Hòa ra Huế lần
này tôi chỉ cần gặp hai người là không đúng hẳn. Người thứ ba tôi muốn
gặp hơn cả nhưng không nói ra là Trần Thùy Mai vì đây là một vấn đề rất
tế nhị.
Trần Thùy Mai là một nửa nguyên mẫu của nhân
vật Sơ Huyền trong tiểu thuyết “ Nửa đời nhìn lại” của tôi xuất bản ở Mỹ
năm 1994. Thùy Mai tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm sau 1975 và được giữ lại
làm giảng viên của trường. Thời đó, Thùy Mai đã nổi tiếng là một nhà văn
nữ trẻ có nhiều triển vọng, với những tác phẩm tinh tế, đầy chất thơ và
có chiều sâu tư tưởng.
Tôi gặp Thùy Mai lần đầu năm 1985 khi cùng
các cựu sinh viên về dự lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Đại Học Sư Phạm Huế.
( Lúc ấy, người ta chỉ tính từ năm 1975 ). Thời đó Thùy Mai cùng với
Trần Thức và Hoàng Dũng, 2 giảng viên khác của trường Đại Học Sư Phạm
đang làm một công trình nghiên cứu về nhóm Việt của chúng tôi ngày
trước. Lần đó tôi ít nói chuyện với Thùy Mai vì mới quen và Mai nói
chuyện với Trần Duy Phiên nhiều vì hai người đã có nhiều dịp gặp gỡ. Ba
năm sau, năm 1988, trong chuyến đi xuyên Việt đấu tranh cho tự do và đổi
mới thực sự, tôi găp lại Thùy Mai và từ đó trong vài năm, chúng tôi có
mối quan hệ đặc biệt, chủ yếu qua thư từ.
Trong cuộc đấu tranh của chúng tôi, Thùy Mai
là người ủng hộ mạnh mẽ, với tinh thần thực sự cấp tiến, có lý luận sắc
bén và cả những đề xuất, việc làm táo bạo mà nhiều đấng nam nhi không
có được. Sau này Thùy Mai tỏ ra thất vọng khi viết thư cho chúng tôi
nhận xét rằng chúng tôi là những kẻ cô đơn trên con đường gian nan vì
nhiều người khác trước đây ủng hộ nay đã quay lưỡi 180 độ hoặc chỉ nói
suông mà không dám làm điều gì thiết thực.
Về quan hệ cá nhân với tôi, sau khi biết BY
đã biết về mối quan hệ đó, Thùy Mai tỏ ra rất lo lắng ngại ngùng và cùng
với nhiều lý do khác tôi không hiểu rõ, Thùy Mai đã lặng lẽ đoạn tuyệt
với tôi không lời giải thích. Mấy năm gần đây , có lần Bùi Minh Quốc ra
Huế gặp Thùy Mai ở quán café “Dã Qùy”- quán do Mai mở ở nhà. Quốc kể
lại, nói đã rất ngạc nhiên và thất vọng khi Thùy Mai không nhắc gì đến
chuyện đấu tranh trước nay và cũng không hề hỏi thăm gì về tôi và các
bạn cũ ở ĐàLạt. Tôi không phán đoán gì về những điều Quốc kể. Tôi nghĩ
mọi chuyện đều có thể xảy ra và có những điều trong nội tâm một người mà
người khác không thể hiểu được.
Lần này về Huế tôi cũng muốn gặp Thùy Mai
như gặp một người bạn cũ thân thiết. Tuy nhiên tôi không muốn làm buồn
lòng BY. Chuyện đã xảy ra hơn 10 năm. Hồi đó biết chuyện, BY rất buồn
nhưng cũng tỏ ra rộng lượng đối với tôi, dần dà cũng nguôi ngoai qua
thời gian và đến nay mọi chuyện đã thuộc về quá khứ. Tuy nhiên nếu tôi
gặp Thùy Mai, chuyện ngày xưa sẽ gợi lại điều gì nơi BY, tôi không dám
chắc. Tôi biết trong chuyện này phụ nữ rất khó quên và dễ bị tổn thương.
Tốt hơn tôi không nên nhắc đến. Tôi đã tự nhủ dành trọn vẹn chuyến đi
này cho BY, không làm bất cứ điều gì BY không muốn hoặc không vui ( trừ
chuyện chạy xe tốc độ nhanh mà BY nhắc nhở nhiều lần vì tôi không muốn
kéo dài thời gian chạy trên đường sẽ rất mỏi mệt). Tôi đã nợ BY nhiều
hơn bât cứ ai và tôi cứ nói đùa sau chuyến đi này tôi không những sẽ
trả hết nợ mà còn lời thêm. Cũng chính vì lý do này mà tôi đồng ý với BY
chỉ ớ lại Huế một đêm dù đúng ra tôi phải ở đây nhiều hơn những nơi
khác.
Thế là tôi đã rất gần Thùy Mai mà không hề
hay biết. Tôi chợt nhớ mấy câu thơ nổi tiếng của BMQ, trong một ý
nghĩa khác:
Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đã đi lướt qua nhau
Ăn trưa xong, chúng tôi từ gĩa vợ chồng
Dũng và Trần Công Tín, về nhà trọ trả phòng kịp giờ hẹn và lên đường đi
Quảng Trị ngay.
Buổi trưa, chạy dọc con đường lớn truớc
hoàng thành ra khỏi thành phố, dù trời nắng chúng tôi vẫn có cảm giác âm
u. Công viên hai bên đường quá nhiều cây dày đặc và tán lá thấp giao
nhau nên trông có vẻ tối tăm, u ám chứ không thóang mát. Tôi nghĩ tại
sao người ta không tỉa bớt cây và cành để không gian được thông thoáng
hơn.
Một điều không vui khi rời Huế là cảm nhận
đối với phố xá không có được dáng vẻ cổ kính hài hoà với khung cảnh
hoàng thành mà cá cái gì đó chật chội, bức bối, lộn xộn và hơi nghèo
nàn, nếu so với những thành phố lớn phát triển theo hướng hiện đại như
Đà Nẵng. Đây có lẽ là một mâu thuẫn khó giải quyết cho một cố đô trong
thời hiện đại, khi kinh tế còn kém phát triển, người dân chỉ lo kiếm
sống và nhà nước chưa đủ sức, đủ tầm để xây dựng một mô hình thành phố
hoàn mỹ với tính đặc thù không đâu có trên đất nước này.
7.
Chặng đường Hue - Quảng Trị lại
quá xấu và bụi bặm. Chưa đến 60 cây số mà chúng tôi đi mất gần 3 giờ.
Giữa đường may mắn chúng tôi gặp một quán giải khát hiếm hoi có võng nằm
và chúng tôi nghỉ lại đó khá lâu. Quãng đường này ở địa phận Thừa Thiên
không có gì đặc biệt, cảnh vật chung quanh cũng chỉ là ruộng đồng thôn
xóm nghèo nàn, nhưng gần ra Quảng Trị, hai bên đường toàn là trảng cát
trắng. Người ta trồng phi lao để giữ cát chứ chẳng thấy loại cây gì
khác. Chẳng trách từ xưa Quảng Trị vẫn là một tỉnh nghèo.
Thị xã Quảng Trị nằm gần bên phải
quốc lộ 1, dọc hữu ngạn sông Thạch Hãn. Nơi đây tôi đã sống thời thơ ấu
lúc học tiểu học và sau này thời sinh viên có ra thăm vài lần nhưng bây
giờ tôi hết sức ngỡ ngàng. Tôi đã nghe kể nhiều người lâu ngày trở lại
Quảng Trị cũng có cảm gác như tôi vì trong chiến tranh, thị xã này đã
bị phá hủy hoàn toàn. Bây giờ Quảng Trị là một thị xã nhỏ bé, hiền hòa
và hơi “quê mùa” so với các thành phố khác chúng tôi đã đi qua. Chỉ có
một con đường chính trải nhựa, còn lại là đường đất, quy hoạch ngay
thẳng theo kiểu bàn cờ. Phố xá lèo tèo, hàng hóa ít ỏi, kém sầm uất so
với nhiều thị trấn nhỏ trên quốc ộ 1. Tôi đã được biết lý do vì thị xã
chính, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng trị đã được dời ra Đông Hà, cách 15 cây số
về phía Bắc nên nơi đây không phát triển được nữa. Trong tương lai có lẽ
Quảng Trị cũng chỉ là một địa danh mang tính lịch sử với hồi ức một thời
điểm được gọi là “mùa hè đỏ lửa” kinh hoàng chết chóc năm 1972
Chúng tôi ghé vào Bưu điện thị xã gọi điện
thoại cho Đỗ Tư Nhơn mới phát hiện cuốn sổ điện thoại chúng tôi mang
theo đã mất. Có lẽ BY đã bỏ quên ở một trụ điện thoại thẻ công cộng nào
đó ở Huế vì BY gọi rất nhiều lần. Thường By làm nhiệm vụ này vì tôi phải
ngồi trên xe đậu ngoài đường và tính BY lại hay quên. Tôi bảo BY cứ đi
tìm chỗ nghỉ trứơc đã rồi sẽ tìm cách liên lạc với Nhơn sau. Ở một thị
xã nhỏ bé như thế này, Nhơn đã dạy học gần 40 năm, có lẽ cứ ra đứng
ngòai đường hỏi, chắc chắn sẽ có nhiều người biết, nhất là đám học trò.
Cô nhân viên bưu điện chỉ đường cho chúng
tôi đến nhà khách thị xã gần đó. Ở đây rất ít khách sạn tư nhân. Chúng
tôi đặc biệt hài lòng với nhà khách rộng rãi bên bờ sông này. Tuy trang
thiết bị không hiện đại nhưng cũng khá tiện nghi, phòng rộng và gía lại
đặc biệt rẻ. Cô tiếp viên bảo có mấy phòng thoáng mát trên lầu, chúng
tôi muốn chọn phòng nào cũng được. Lại tha hồ giặt rũ và có chỗ phơi đồ
ngoài sân thượng, điều mà các khách sạn lớn khác không dễ gì có. Có lẽ
nơi đây rất ít khách và khách đi công tác là chính.
BY hỏi thăm cô tiếp tân và quả nhiên cô
biết Đỗ Tư Nhơn, sau một lúc tìm kiếm đã cung cấp cho BY số điện thoại
và địa chỉ của Nhơn. BY gọi điện cho Nhơn hẹn một giờ sau chúng tôi sẽ
đến nhà Nhơn nhưng chúng tôi vừa thay quần áo tắm rửa chưa kịp nghỉ ngơi
Nhơn đã mau mắn tìm đến gõ cửa.
Nhơn học ban Văn sau tôi một khóa ở Đại Học
Sư Phạm, là thành viên của nhóm Việt và thời còn đi học chúng tôi khá
thân nhau. Nhơn tính tình hiền lành, chân chất, ít hoạt động nhưng rất
được bạn bè yêu mến. Nhơn dẫn chúng tôi về nhà nằm trên một con đường
đất nhỏ. Nhơn bảo đã dựng lại nhà trên mảnh vườn xưa, nơi tôi đã từng ra
chơi nhưng tôi chẳng nhớ gì cả. Căn nhà lợp ngói, kiểu cổ và đơn sơ như
cuộc đời nhà giáo của Nhơn. Tú - vợ Nhơn, cũng là cô giáo dạy văn. Con
gái út Nhơn mới tốt nghiệp đại học cũng là cô giáo. Nhơn bảo bằng lòng
với cuộc đời nhà giáo bình dị ở tỉnh lẻ quê hương này vì không muốn bon
chen, cạnh tranh trong xã hội quay cuồng bát nháo hiện nay.
Vợ chồng Nhơn mời chúng tôi đi ăn ở một quán
bên quốc lộ 1. Thức ăn là các món đặc sản của địa phương, đặc biệt có
món canh chua cá ngạnh nấu măng le rất ngon. Đang ăn điện bỗng tắt phụt.
Chủ quán phải đốt nến và khoảng 20 phút sau mới có điện lại. Nhơn bảo ở
đây chuyện mất điện như thế rất thường. Đúng là một tỉnh lẻ bị thua
thiệt. Ăn xong, vợ Nhơn cáo mệt xin về nghỉ, Nhơn tiếp tục đưa chúng tôi
đi uống café nói chuyện.
Dọc bờ sông Thạch Hãn, ban đêm quán café đèn
mờ mọc lên thành dãy dài. Người ta chỉ câu ra mấy ngọn điện xanh đỏ,
bày mấy bộ bàn ghế ni lông là đã thành quán nhưng khách khá đông, phần
lớn là thanh niên nam nữ. Nhơn bảo ở đây chẳng có trò vui chơi giải trí
gì nên ban đêm thanh niên chỉ biết ra ngồi quán.
Chúng tôi ngồi ở quán café của Nhà Văn hóa
bên này đường, lịch sự hơn và không tối tăm như các quán sát bờ sông.
Nhà Văn hóa này lâu lâu mới có hoạt động, bình thường cũng chỉ bán café.
Ở đây quán để nhạc trữ tình tiền chiến và nhạc Trịnh Công Sơn, có cả
nhạc Pháp, nghe cũng êm dịu. Nhơn nói chuyện nhiều và tỏ ra rất vui khi
gặp chúng tôi. Có lẽ khá lâu Nhơn mới gặp lại bạn cũ và chỉ có chúng tôi
đi du lịch ba lô kiểu bụi đời này mới lặn lội ra đây thăm Nhơn.
Trong những chuyện Nhơn kể có hai chuyện làm
chúng tôi chú ý. Chuyện thứ nhất liên quan đến Hàn Vũ Hùng. Hùng là một
nhà văn trẻ, tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du, quê ở Đông Hà, Quảng
Trị. Hùng viết nhiều nhưng ít được đăng vì tác phẩm có nội dung cấp
tiến, trực tiếp đụng chạm đến chế độ. Tôi có gặp Hùng một lần ở Đà Lạt
lúc Hùng lên đó chơi và đã được đọc một tập bản thảo truyện ngắn và lý
luận phê bình của Hùng. Theo tôi đó là một nhà văn trẻ khá độc đáo và
nhiều triển vọng. Sau này tôi nghe nói Hùng bất đắc chí đi ta bà khắp
nơi và tu thiền theo đạo của Thanh Hải Thượng Sư. Có thời gian nhà nước
đàn áp đạo này, đưa lên truyền hình phê phán Thanh Hải Thượng Sư và buộc
các tín đồ phải bỏ đạo. Hùng đã kịch liệt chống lại, công khai viết thư
gửi các nhà lãnh đạo để bênh vực Thanh Hải Thượng Sư và lên án các biện
pháp trấn áp. Hùng bị bắt giam ở Đông Hà và sau đó chết trong tù, hình
như vì quá căng thẳng và suy sụp.
Chuyện thứ hai liên quan đến Thượng Tọa
Thích Hải Tạng. Thượng Tọa Hải Tạng là một trong mấy nhà sư ở chùa Linh
Mụ đã tổ chức biểu tình chống chính quyền, gây ra một vụ náo động ở Huế
hình như vào năm 1989 và đã bị bắt giam, kết án mấy năm tù. Sau này
Thượng Tọa Hải Tạng ra trụ trì một chùa ở Quảng Trị. Thời còn đi học có
thời gian Thượng Tọa Hải Tạng là học trò của vợ Nhơn. Do đó khi ra
Quảng Trị, Thượng Tọa Hải Tạng có lui tới thăm cô giáo và cô cũng có
đến thăm học trò cũ tại chùa. Chỉ có thế mà vợ Nhơn cũng bị gọi lên kiểm
điểm và bị buộc không được lui tới thăm viếng Thượng Tọa Hải Tạng. Vợ
Nhơn đã khẳng khái bác bỏ chuyện này vì cho rằng đó chỉ là quan hệ thầy
trò, không liên quan đến chính trị và không thể cấm đoán mối quan hệ như
thế.
Rõ ràng đặc biệt trong những vấn đề chính
trị liên quan đến sự tồn vong của chế độ và vai trò lãnh đạo của đảng,
bộ máy trấn áp làm việc rất hữu hiệu, không có chuyện nhỏ nhặt gì có
thể thoát qua con mắt của công an. Trong khi đó những việc nghiêm trọng
khác liên quan đến tham ô, lãng phí, buôn lậu, ma túy, trộm cướp, giết
người và đủ thứ tệ nạn xã hội khác vẫn ngang nhiên tiếp tục phát triển.
Công bằng mà nói, nhà nước và công an cũng giải quyết được nhiều vụ
nhưng các vụ được giải quyết không thấm gì so với vô số vụ khác diễn ra
như chuyện thường ngày. Đây là vấn đề đáng suy nghĩ. Cần “ổn định chính
trị” nhưng “ổn định chính trị” là gì? Đó có phải chỉ là đàn áp đối lập
để duy trì vị trí lãnh đạo độc tôn trong khi bộ máy nhà nước và xã hội
tiếp tục băng hoại và suy đồi? Điều này về lâu về dài sẽ nguy hiểm hơn
không những cho cả đất nước mà còn ngay cả đối với bộ máy thống trị. Vụ
Năm Cam nhà nước đang đem ra xét xử mà đi đâu cũng thấy dân chúng theo
dõi bình luận là một thí dụ điển hình. Một gã xã hội đen ít học có thể
chi phối guồng máy từ địa phương cho đến trung ương, làm hư hỏng tha hóa
một loạt cán bộ có chức quyền từ cấp thấp đến cấp cao. Đó không phải là
mối nguy chí tử trước mắt và lâu dài hay sao?
Những chuyện liên quan đến chính trị, chúng
tôi chỉ nói thoáng qua.Chúng tôi nói nhiều đến chuyện gia đình và nhắc
lại kỷ niệm về bạn bè cũ. Đến tận khuya chúng tôi mới chia tay Nhơn.
Sáng mai Nhơn bận một cuộc họp quan trọng ở trường không bỏ được, Nhơn
nói sáng sớm sẽ đến rủ chúng tôi đi uống café nói chuyện nữa nhưng chúng
tôi bảo thôi vì sáng mai chúng tôi dự định đi thăm thánh địa La vang rồi
sau đó đi ngay Quảng Bình. Chúng tôi thật sự cảm động vì tình cảm Nhơn
đã giành cho chúng tôi. Quả thật một tình bạn chân chính sẽ mãi mãi bền
chặt cho dù người ta có thể rất xa nhau trong không gian va thời gian.
Tình bạn trong sáng, vô vị lợi hình như càng ngày càng hiếm và chúng tôi
chỉ còn tìm thấy nơi những ngừơi cũ quen biết từ thủơ thiếu thời.
Từ thị xã Quảng Trị, trên quốc lộ 1, có một
con đường nhỏ rẽ về hướng tây dài khoảng 6 cây số dẫn vào thánh địa La
Vang. Con đường nhỏ tráng nhựa chạy dọc một con sông có rất nhiều xe ben
qua lại hình như để phục vụ cho một công trường gì phía trong.
Thánh địa Đức Mẹ La Vang là một khu đất khá
rộng, phía trứơc là một cổng sắt lớn và hàng rào xi măng đơn giản. Bên
trong một con đường lớn dẫn vào nhà thờ, hai bên là hai thảm cỏ xanh dài
ngút mắt với hai hàng tượng sơn trắng, có cả hàng cột đèn huỳnh quang
chiếu sáng. Chúng tôi đi vòng sang bên phải để vào cổng phụ phía sau.
Gần đến cổng chúng tôi giật mình vì một đám đông ở đâu túa ra chặn đầu
xe chúng tôi mời chào mua hoa huệ. Ai cũng cầm mấy bó hoa ấn vào người
chúng tôi. Đang bối rối, tôi chợt thấy một tấm bảng gắn cạnh cổng ghi
nhà thờ yêu cầu khách hành hương không nên mua bán gì ngoài cổng vì sẽ
gây náo loạn mất trật tự. Thế là tôi bảo BY đừng mua và tắt máy dắt xe
vào măc cho đám đông nhao nhao ầm ĩ. Ở đâu cũng có cảnh mua bán chụp
giựt thiếu văn minh này thật ngán ngẩm, đôi khi làm khách du lịch mất cả
hứng thú.
Bên trong khuôn viên thánh địa, cảnh vật rất
yên tĩnh, thoáng mát, nhà cửa bố trí hợp lý và ngăn nắp. Sát cổng phụ là
nhà bảo vệ, nhà sách và nơi bán hàng lưu niệm, tiếp đến là khu vực để
xe. Chính giữa là nhà thờ, sau nhà thờ phía bên phải có khu nhà ở và
phía trước bên trái là công trình chính: đền thờ Đức Mẹ La Vang. Giữa
các công trình là lối đi trải gạch xi măng với nhiều bồn hoa và cây
cảnh.
BY đến cầu nguyện trước đền thờ Đức Mẹ, tôi
loanh quanh ngắm cảnh. Đền thờ là một bệ cao có bậc cấp đi lên. Tượng
Đức Mẹ không lớn lắm, thể hiện dưới hình tượng một phụ nữ Việt Nam mặc
áo dài màu xanh ngọc, đầu đội khăn vành màu vàng, tay bế Chúa Giêsu hài
đồng. Chung quanh tượng có ba cột xi măng lớn sù sì dạng thân cây tượng
trưng ba gốc đa nơi ngày xưa Đức Mẹ hiện hình, với một số lá rộng hình
nấm cũng bằng xi măng, chung quanh có dây leo thật mọc quấn quýt. Một
vài cây lớn và các cụm hoa giấy, các chậu hoa, cây cảnh đặt rải rác tạo
một không khí mát mẻ, êm dịu và thanh khiết.
Một vài khách hành hương kính cẩn cầu
nguyện, sau đó nói chuyện gì rất sôi nổi, hình như nói về sự linh thiêng
của Đức Mẹ. Người bảo vệ cho tôi biết ngày nào cũng có khách phương xa
hành hương, riêng ngày nghỉ và ngày lễ khách đến đông đảo. Ở đây còn có
dịch vụ làm bia ghi lời cầu nguyện tạ ơn.
BY bảo tôi tạ ơn Đức Mẹ đã phù hộ thoát
khỏi tai nạn trong đường tơ kẽ tóc ở gần Lăng Cô nhưng tôi nói BY đại
diện được rối. Tôi có niềm tin khác với BY và không cản trở cách thể
hiện của BY. Tôi hay nói đùa với BY là tôi không theo đạo nào nhưng
không chừng sẽ lên Thiên đàng trước nhiều người nên đừng lo.
Trước khi rời Quảng Trị, chúng tôi còn cố
giành một ít thời gian đi xem di tích Thành Cổ gần ngay nhà khách. “Di
tích Thành cổ” thực ra chỉ là một chút bờ tường bằng gạch còn sót lại
bên ngoài, bên trong phía sau cổng có người gác là một khu vực mới xây
dựng gồm cây cảnh và một nhà bảo tàng. Nghe người gác nói thế nên chúng
tôi không vào. Di tích chiến tranh thực sự còn lại là một góc tường của
trường Bồ Đề bị đạn bắn thủng lỗ chỗ mà người ta còn giữ lại và ghi chú,
nằm ngay trên con đường lớn nhất của thị xã, khi chạy xe qua lại chúng
tôi vẫn thấy.
Điều vui vui khi chúng tôi rời Quảng Trị là
một hình ảnh hiếm thấy ở nơi khác. Lúc BY vào chợ để mua bánh mì, tôi
định chạy xe vào sát cổng để nhìn một tí bỗng thấy một sợi dây chăng
ngang nằm sát đường đựơc giật lên để chặn lại. Thì ra có một bà bắc ghế
ngồi bên đường chuyên làm nhiệm vụ này. Tôi đành phải lui xe ra xa chờ.
Quả là một loại hàng rào độc đáo hình như tôi đã thấy đâu đó từ xưa lắm,
lúc tôi còn bé.
Chúng tôi vẫn còn kịp đi uống café ăn sáng ở
quán dã chiến bên bờ sông Thạch Hãn. Buổi sáng chúng tôi mới thấy rõ
người ta đang xây kè dọc hữu ngạn để ngăn đất lở. Hy vọng tương lai bờ
sông trữ tình này sẽ làm đẹp thêm thành phố. Tôi còn nhớ mơ hồ thời sinh
viên tôi đã trải qua một đêm tuyệt vời kỳ diệu bên bờ sông này dưới ánh
trăng và tầng lá phượng đẫm sương… Bên kia sông là Nhan Biều, một tên
gọi nghe âm vang thời nhỏ dại, hình như người ta đang trồng bắp, đậu
thành một dải xanh rì êm ả.
Chúng tôi về trả phòng và tiếp tục chặng
đường đi Quảng Bình dài 150 cây số.
* * *
8.
Từ thị xã Quảng Trị trở ra, ruộng đồng bắt
đầu xanh tốt trù phú. Đông Hà trước là một trị trấn nhỏ, gần đây trở
thành thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị đã nhanh chóng phát triển. Một
nguyên nhân khác là Đông Hà có đường lên cửa khẩu qua Lào nên việc buôn
bán sôi động nhất là buôn lậu qua biên giới mà báo chí thỉnh thoảng vẫn
nêu. Thị xã dài đến 5 cây số dọc theo quốc lộ 1 và nghe nói sâu vào hai
bên cũng mấy cây số, đường sá nhiều nhà cửa san sát. Một người bạn tôi
quê ở đây sau mấy lần về thăm quê kể những nhà to đẹp, sang trọng nhất
đều là nhà của cán bộ có chức quyền. Tuy nhiên khi chạy trên quốc lộ 1,
không dừng lại, chúng tôi chỉ thấy hình ảnh một thị xã xô bồ, bụi bặm
như một số nơi khác với tính chất tự phát vô tổ chức của phố xá thời
kinh tế thị trường.
Chúng tôi chạy ngang qua các địa danh Cồn
Tiên, Dốc Miếu nổi tiếng thời chiến tranh , nay có những tấm biển
ghi:”Khắc sâu tội các của giặc Mỹ xâm lược” và dừng lại chụp hình bên bờ
Nam cầu Bến Hải rồi qua bên bờ Bắc nghỉ ngơi.
Cầu Bến Hải, được ghi tên chính thức cầu
Hiền Lương đã được làm mới, rộng rãi như các cầu khác trên quốc lộ 1.
Bên cạnh, nơi vị trí của cầu cũ, thấy có mấy trụ móng đang xây dựng dở
dang, nghe nói hình như người ta định phục chế lại cầu cũ để lưu niệm
một thời. Thời sinh viên, lúc sinh hoạt hướng đạo trong tráng đoàn Bạch
Mã của Thừa Thiên - Huế tôi đã từng đi du khảo với tráng đoàn và chụp
ảnh tại cầu này. Bây giờ nhìn lại, thấy con sông chia cắt đất nước này
quá nhỏ, chỉ cần bơi mươi sải tay đã có thể vượt sông. Không xa đầu cầu
bờ Bắc, người ta có dựng một tượng đài ghi”Cột mốc giới tuyến quân sự
tạm thời 54- 75”.
Rõ ràng “Cột mốc giới tuyến quân sự tạm
thời” chỉ là một cách nói trong các văn bản chính trị. Thực chất con
sông bé nhỏ tội nghiệp này đã mang tiếng chia cắt đất nước trong hơn 20
năm phân ly và thù hận, với một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã làm đổ
biết bao máu xương của người Việt vì những nhân danh chính nghĩa. Đất
nước đã thống nhất với một giá đắt không gì có thể bù đắp. Bây giờ sau
gần 30 năm hòa bình, thống nhất, con sông Bến Hải này không còn chia cắt
đất nước nhưng đất nước đã thực sự hết phân ly chưa? Tôi e rằng chưa. Vì
phân ly không chỉ trên sông núi mà còn phân ly trong lòng người. Hơn
hai triệu người Việt bỏ nước ra đi, đến nay có bao nhiêu người vẫn hô
hào chống cộng và không dám , không được trở về đất nước? Bao nhiêu
người đã trở về và lại ra đi vì lòng không thanh thản, không tìm thấy
hơi ấm tình thân nơi quê hương? Bao nhiêu người không cần trở về quê
hương vì đã nhận một đất nước khác làm quê hương? Đó phải chăng là phân
ly?
Và ở trong nước, bao nhiêu người tự nhận là
lưu vong ngay trên đất nước mình như Hà Sĩ Phu, dù nói ra hay không, vì
thấy mình không có chút quyền gì trên đất nứơc do đã bị người khác độc
quyền yêu nước, mới chỉ đưa ra vài ý kiến để xây dựng đất nước khác với
quan điểm của nhà cầm quyền, lập tức sẽ bị tù đày, quản chế. Kể cả tôi
bây giờ, tôi có thể chạy xe suốt dọc đất nước để nhìn ngó nhưng một anh
chàng tây du lịch ba lô cũng có thể đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm chẳng
khác gì tôi. Tôi chỉ có thể nhìn ngó mà không được quyền chính thức lên
tiếng về bất cứ điều gì nếu không muốn bị chụp lên đầu một cái mũ phản
động. Đó phải chăng cũng là phân ly?
Đó là nói về những người có ít nhiều nặng
lòng vì đất nước. Còn với đa số nhân dân đang từng ngày vật lộn với
miếng cơm manh áo? Họ cần gì đến đất nước?
Những người lao động làm thuê bỏ quê hương
bản quán tìm vào các đô thị, đổ mồ hôi sôi nước mắt làm bất cứ việc gì
để kiếm sống ngày hai bữa. Những người buôn bán nhỏ phơi mặt ngoài đường
suốt ngày, thắp một cây nhang cắm trên cục gạch van vái ơn trên phù hộ,
luôn cau có căng thẳng vì ế khách. Những người buôn bán đồ lưu niệm
hay ăn xin lẻo đẻo bám theo quấy rầy khách nước ngoài. Những người đi
xuất khẩu lao động bị o ép, hành hạ nơi xứ người. Các cô gái đi làm
điếm, làm vợ thuê trên đất khách. Và cả những nông dân miền Bắc mới mồng
1 Tết đã phải ra đồng” bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” ( Mấy năm
liền Truyền hình Việt Nam chiếu cảnh mồng 1 Tết cán bộ mặc đồ lớn ra tận
bờ ruộng mời rượu chúc Tết trước khi nông dân xuống đồng. Một cách tuyên
truyền ngu dốt và phản tác dụng hết chỗ nói! )
Trong khi đó, biết bao cán bộ có chức quyền
lớn nhỏ tham ô, lãng phí, nhà cao cửa rộng, ăn trên ngồi trốc, chơi bời
xa xỉ. Biết bao kẻ làm ăn buôn gian bán lận, móc ngoặc với người có chức
quyền bòn rút của cải của nhà nước và nhân dân, có cuộc sống sung sướng
gấp vạn lần những người lao động chân chính. Đó phải chăng cũng là phân
ly?!
Đất nước độc lập thống nhất để làm gì? Gạt
qua bên những ca ngợi hay phê phán, phải thừa nhận ông Hồ Chí Minh có
những câu nói rất chí lý: “Đất nước độc lập mà nhân dân không có hạnh
húc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì.”, “ Dân đói, chính phủ có lỗi.
Dân rét, chính phủ có lỗi…”.Những người cầm quyền hiện nay tự nhận theo
tư tưởng HCM nghĩ gì và làm gì trước thực trạng hiện nay. Trước đây mỗi
lần họp quốc hội hay chính phủ kiểm điểm công việc không thấy ai nhận
lỗi, nhận khuyết điểm gì cả, mới gần đây tiến bộ hơn, các cán bộ đảng
và chính phủ có nhận trách nhiệm nhưng cũng chẳng ai bị phê phán hay
cách chức. Và năm sau cứ thế tiếp tục năm trước một điệp khúc…Ai chịu
trách nhiệm về đất nước? Đất nước có ích gì cho mỗi người dân? Ai yêu
nước và ai độc quyền yêu nước?
Tôi nhớ đã khá lâu tôi có viết một bài báo
tranh luận với Nguyễn Gia Kiểng đăng trên tờ Thông Luận xuất bản ở
Pháp về vấn đề tổ quốc và lòng yêu nước. Tôi đã phản bác NGK khi ông
đồng hóa tổ quốc với chế độ. Mấy năm sau, trong hoàn cảnh bị quản chế,
tuy vẫn không đồng ý với ông, nhưng tôi có phần nào chia sẻ tâm trạng
với những người lưu vong xa đất nước không thể làm gì cho tổ quốc. Gần
đây tôi chưa được đọc nhưng nghe nói NGK có xuất bản cuốn “ Tổ quốc ăn
năn” rất nổi tiếng và gây tranh cãi, cũng vẫn tiếp tục luận điểm đồng
hóa tổ quốc với chế độ. Tôi cho rằng tổ quốc không thể đồng hóa với chế
độ vì rõ ràng chỉ có một tổ quốc nhưng rất nhiều chế độ. Tuy nhiên đúng
là có hiện tượng chiếm đoạt tổ quốc của những người cầm quyền, tổ quốc
thành của riêng của một triều đại, một chế độ. Các triều đại vua chúa
ngày xưa đã làm như thế và ngày nay cách nói “tổ quốc xã hội chủ nghĩa”
là một thí dụ và thể hiện điển hình nhất. Dù đảng cầm quyền có theo
đường hướng xhcn cũng không nên và không thể gọi tổ quốc là tổ quốc
xhcn và buộc mọi công dân phải thừa nhận, phục tùng.
Vì thế đã có nhiều người có tâm trạng không
còn tổ quốc, không yêu tổ quốc, sợ hãi kinh hoàng tổ quốc, chống đối tổ
quốc. Đây không phải là một vấn đề mới. Ngày xưa bên Tàu có chuyện Sào
Phủ, Hứa Do thà nhịn đói mà chết chứ không chịu ăn thóc nhà Chu. Tâm
trạng đó đâu có khác một số người Việt hiện nay. Nhưng thực ra thóc nào
phải của nhà Chu, tổ quốc này đâu phải của riêng ai, của chế độ nào.
Suy nghĩ chuyện chính trị nhiều không thích
hợp với chuyến đi này nhưng tôi không thể tránh. Lẽ nào tôi chỉ thưởng
thức, ngó nhìn như một người ngoại quốc trên đất nước mình?
Thị xã Đồng Hới mới nhìn có vẻ khang trang
sạch sẽ. Trên đường quôc lộ 1 có nhiều khách sạn nhưng chúng tôi không
vào vì kinh nghiệm những khách sạn ở vị trí này vừa đắt vừa ồn ào, ban
đêm khó ngủ vì tiếng xe chạy, hầu như suốt đêm. Vài khách sạn ở mấy con
đường nhỏ phía trong ở được nhưng chúng tôi muốn thử ra bãi biển Nhật Lệ
để nếu tiện ở luôn ngoài đó tắm biển. Bãi Nhật Lệ không xa lắm, chỉ cách
trung tâm thành phố hơn 3 cây số, trên đường đi cũng là phố xá và khu
dân cư. Bãi Nhật Lệ vắng đẹp, một vài chỗ có đá, có bờ kè dọc theo con
đường uốn quanh bờ biển. Nơi đây một loạt khách sạn lớn mới được xây
dựng, trong đó có khách sạn Phong Nha 3 sao nhiều tầng, xen kẽ giữa các
nhà trọ tư nhân và nhà hàng đặc sản. Gía cả ở nay hơi đắt nên sau khi
hỏi thăm, ngồi ngắm biển một lúc chúng tôi chạy trở lại trung tâm thị xã
vào thuê nghỉ ở nhà khách Ngân Hàng, nơi BY đã hỏi qua lúc mới đến, của
cơ quan nhà nước nhưng vừa phục vụ cho nội bộ ngành vừa phục vụ khách du
lịch.
Buổi tối chúng tôi ăn một bữa cơm khá ngon
miệng ở quán ăn gần đó nhờ món ăn hợp khẩu vị nhất là món rau bí xào dân
dã mà BY rất thích. Ăn xong chúng tôi lại ra tiệm dịch vụ Internet. Đến
đâu chúng tôi cũng gởi mail cho các con và vài người thân kể về chuyến
đi. BY rất hăng hái trong công việc này, dù mệt đến mấy cũng làm. Nhiều
nơi tôi về nghỉ trước, để BY ở lại tha hồ mail bao nhiêu tùy thích. Ở
đây cô chủ tiệm cho biết dịch vụ Internet mới có khoảng hơn mấy năm nay,
cửa tiệm không nhiều lắm và làm ăn cũng được. Tiệm của cô có gần 20 máy,
ban đêm lúc nào cũng kín người.
Sáng hôm sau, cô tiếp tân nhà khách chỉ cho
chúng tôi đường đi động Phong Nha, xa khoảng 50 cây số. Phong Nha là
một điểm du lịch mới nổi tiếng gần đây. Chạy theo quốc lộ 1 ra hướng Bắc
khoảng 10 cây số đến thị trấn Hoàn Lão có đường rẽ trái về hướng Đông.
Con đường nhỏ, ít xe, hai bên là đồng ruộng và làng xóm thưa thớt, có
nơi dân cư đông đúc. Gần đến cuối đường có một khu rừng thông khá đẹp,
hiện tượng hơi hiếm ở khu vưc miền trung này. Hết con đường nhỏ, chúng
tôi chạy theo một con đường lớn mới mở và chẳng mấy chốc nhìn thấy một
vùng núi non phía xa xa. Núi ở đây hình thù giống mấy ngọn Ngũ Hành Sơn
ở Đà Nẵng, không cao lắm, ít cây nhưng rất nhiều ngọn và trải dài lô xô
mờ ảo in hình trên nền trời trông thật lạ, khác hẳn những rặng núi cây
cối thâm u của dãy Trường Sơn chúng tôi quen nhìn ở Tây Nguyên và Nam
trung bộ
Khu du lịch ở đây do nhà nước tổ chức khép
kín gồm nơi để xe, phòng bán vé, cửa hàng lưu niệm.,bến thuyền, khách
sạn. Các hàng quán của tư nhân ở chung quanh lác đác không đáng kể. Vé
cho mỗi người 25.000 đồng. Thuyền mỗi chuyến chở tối đa 8 người giá
80.000đ. Lúc chúng tôi đến quá trưa, ít khách nên đành phải thuê nguyên
chuyến, không đợi được vì nghe nói chuyến đi mất đến 3-4 giờ. Tuy
nhiên lúc xuống thuyền sắp khởi hành, chúng tôi nghe nói đi thăm động
phải có hướng dẫn viên đi theo nên tôi lên phòng vé khiếu nại. Đúng lúc
có một đoàn 4 người đến mua vé nên tôi đề nghị đi chung và họ đồng ý.
Phòng vé cũng cử một hướng dẫn viên cùng đi.
Cô hướng dẫn viên rất trẻ, khá xinh, mặc áo
dài, ăn nói hoạt bát, giọng Quảng Bình nhưng khá dễ thương, vừa xuống
thuyền cô đã làm nhiệm vụ giới thiệu khái quát về chuyến đi. Thuyền chạy
bằng máy nổ dọc theo sông Son ngược về phía thượng nguồn, hai bên sông
rải rác những ngọn núi đá vôi và đồi thấp, phong cảnh hữu tình. Thuyền
chạy khoảng nửa giờ mới đến nơi có cửa hang của một con sông ngầm chảy
trong lòng núi. Cửa hang này không lớn lắm, nằm dưới một vách đá dựng
đứng, nhìn vào tối om. Chủ thuyền tắt máy và cùng hai đứa nhỏ bắt đầu
chèo tay. Cô hướng dẫn viên giải thích tiếng máy trong hang động vang
chói tai không chịu nổi.
Ban đầu từ ngoài sáng vào hầu như chúng tôi
không thấy gì chỉ nghe tiếng mái chèo vỗ nước nghe âm u rờn rợn. Dần
dần hang sáng lên mờ ảo bởi những ngọn đèn điện nhỏ thiết kế dấu sau các
hốc đá. Đúng là một thế giới kỳ ảo. Lòng sông rộng dần và trần hang
cũng cao hơn, có nơi đến vài chuc mét. Vô vàn thạch nhũ đủ mọi hình thể
phô diễn bên vách đá và trên trần động lung linh ẩn hiện làm mọi người
hầu như nín thở nhìn ngắm. Thỉnh thoảng giọng cô hướng dẫn viên ngân
vang nhè nhẹ giải thích về một hình thù đặc biệt nào đó.
Thuyền đi trong động một khoảng dài 800m. Cô
hướng dẫn viên bảo các nhà thám hiểm đã vào sâu 8 cây số trong lòng núi
với vô vàn ngỏ ngách hang động và con sông này xuất phát từ Lào dài đến
40 cây số. Đúng là một kỳ quan hiếm thấy. Các nhà thám hiểm thuộc Hội
địa lý Hoàng gia Anh,, hiện đang có mặt ở đây, đã giúp phát hiện thêm
hang động, công nhận Phong Nha là một hang động thuộc loại lớn nhất thế
giới và nhà nước đang làm thủ tục để xin Unesco công nhận là di sản
thiên nhiên thế giới vì có đủ tiêu chuẩn do Unesco đề ra. Quả thật so
với Phong Nha, các hang động ở Ngũ Hành Sơn chẳng nghĩa lý gì và ở đây
thuần thiên tạo, không có chùa và tượng Phật như ở Ngũ Hành Sơn.
Thuyền dừng lại bên cạnh một đường lên hang
bên vách đá. Việc khai thác du lịch hang động chỉ từ đây trở ra vì vào
sâu nữa chưa đủ điều kiện và khách có thể bị lạc trong lòng núi rất nguy
hiểm.
Từ đây khách được hướng dẫn tham quan 3 hang
lớn. Hang “Bi ký”, hang “Hội trường” và hang “Hoàng cung”. Các hang này
rất rộng, thông nhau bằng những lối đi có nhiều ngõ ngách. Thạch nhũ ở
đây là những tác phẩm điêu khắc dưới bàn tay thiên tài của tạo hóa.
Những nàng tiên, các vị Phật, các loài chim, thú, các cột có dây leo,
thậm chí đến những mái tóc óng ả hay thắt bện thành con rít tỉ mỉ đến
từng chi tiết. Tất cả đều là thạch nhũ kết tủa qua hàng triệu năm làm
cho người xem kinh ngạc và thán phục.
Hang “Bi ký” có dấu vết chữ khắc Chàm trên
vách đá. Hang “Hội trường” có một mặt bằng rộng đủ cho một đoàn quân trú
ẩn, thời chiến tranh bộ đội dùng làm nơi hội họp để tránh máy bay đánh
phá. Hang “Hoàng cung” có đầy đủ cả ngai vàng, long sàng, nơi thiết
triều, giường nằm của Hoàng hậu… Sự hấp dẫn ở đầy là tất cả đều tự
nhiên, lung linh mờ ảo, ít thấy dấu vết nhân tạo trừ một vài rào chắn
đơn sơ được dựng lên không cho khách đi sâu vào các ngõ ngách vì sẽ bị
lạc. Điều lạ là dù sâu trong lòng núi không khí rất thanh khiết, không
cảm thấy ngột ngạt và không thấy dấu vết các loài thú gây bẩn.
Khi chúng tôi vào hang, một đoàn khách đi
trước đang ở đây, Mọi người thi nhau chụp hình. Chiếc máy ảnh cũ kỹ của
chúng tôi quá tệ nhưng chúng tôi cứ chụp bừa, may ra giữ được chút hình
ảnh. Có một thợ nhiếp ảnh đi theo chụp cho đoàn đi chung thuyền với
chúng tôi nhưng anh ta bảo phải chụp nguyên cuộn phim đưa cho khách đem
về Mỹ rửa nên không chụp cho chúng tôi được. Xem các hang xong, chúng
tôi đi theo đường dọc vách đá ra một khoảng, đến nơi có thuyền lui về
chờ sẵn để chở tiếp khách ra cửa hang. Thuyền chèo tiếp đến gần một khu
đất cao bằng phẳng cạnh cửa hang. Nơi đây có quán giải khát và nhà vệ
sinh để khách nghỉ ngơi trước khi đi tham quan tiếp.
Động chúng tôi vừa xem là động Phong Nha,
động nước bên dòng sông ngầm. Theo chương trình chúng tôi sẽ tham quan
tiếp động Tiên Sơn là động khô nằm phía sau ngọn núi cao kế khu vực nghỉ
ngơi. Muốn đi trước hết phải leo mấy trăm bậc cấp dọc theo sườn núi, sau
đó đi tiếp vào trong, thời gian mất gần 2 giờ. Cô hướng dẫn viên bảo
động Tiên Sơn đẹp không thua gì động Phong Nha nhưng nhìn ngọn núi cao,
mọi người đều ngần ngại. Đoàn đi với chúng tôi có một bà to mập ở Mỹ về
mới đi xe hơi từ Huế ra bảo phải trở về Huế trong ngày. BY cũng ngán sợ
leo không nổi và cảm thấy thỏa mãn với việc xem động Phong Nha, chúng
tôi cũng phải trở về thị xã Đồng Hới trứơc khi trời tối. Cuối cùng chúng
tôi thống nhất không thăm động Tiên Sơn nữa mà nghỉ ngơi một lúc rồi
xuống thuyền.
Lúc thuyền trở về, xuôi dòng nhưng gió ngược
rất mạnh, chúng tôi phải mặc áo thêm khoác. Tôi xin phép cô hướng dẫn
viên chụp chung với BY một tấm hình làm kỷ niệm. Cô gái tóc dài da trắng
có má lúm đồng tiền này tạo cho khách một cảm tình đặc biệt. Cô tốt
nghiệp Khoa Văn Đại Học Huế, làm việc lương tháng chỉ có 300.000đ và
phải ở lại trong khu vực này, hàng tuần mới về nhà được một lần. Cô đang
học thêm ngoại ngữ và nghiên cứu thêm tư liệu về hang động này để có thể
làm tốt hơn công việc của mình.
Chúng tôi lấy xe trở về lúc trời đã xế
chiều. Đến ngã ba rẽ vào con đường cũ đã đi, tôi hỏi thăm mới biết con
đường lớn chúng tôi đang đứng là đường Trường Sơn chạy qua địa phận
Quảng Bình. Con đường này song song với quốc lộ 1 và có đoạn áp sát thị
xã Đồng Hới, do đó chúng tôi có thể chạy theo đường mới, rộng đẹp và
gần hơn so với đường cũ. Thế là tôi chạy theo đường mới. Đi du lịch
phiêu lưu cá nhân kiểu này có cái thú hơn đi theo tour, có tính chất
khám phá, bất ngờ và muốn đi đâu tùy thích.
Con đường mới quả thật là đẹp, đã tráng nhựa
xong, thỉnh thoảng mới gặp một toán công nhân đang tiếp tục hoàn chỉnh
phần mương hay cống. Đường rộng, chạy qua các vùng đồi núi vắng vẻ, ít
xe qua lại. Khoảng đường nghe nói gần 40 cây số, trời chiều, BY hơi ngại
nên tôi tăng ga chạy với tốc độ cao. Một cảm giác rờn rợn nhưng thú vị.
Đến ngã ba có con đường rẽ vào thị xã, một
cảnh sát giao thông to lớn xuất hiện ra hiệu chặn xe tôi lại. Tôi hơi
ngạc nhiên vì khu vực này thấy rất ít xe chạy. Tôi đưa giấy tờ, anh ta
xem kỹ rồi đứng ngắm ngía bảng số xe TP/HCM sau xe tôi. Anh ta hỏi tôi
từ đâu đến, đã đi Phong Nha chưa. Nghe chúng tôi nói từ Sàigòn ra, mới
đi thăm động Phong Nha về, anh ta hỏi động Phong Nha có đẹp không. Chúng
tôi khen động rất đẹp, là một thắng cảnh đẹp nhất mà chúng tôi đã tham
quan trên đường đi, anh ta có vẻ khoái chí, trả lại giấy tờ cho tôi và
chúc chúng tôi đi vui vẻ.
Từ đây chúng tôi phải hỏi đường, chạy loanh
quanh một lúc lâu, mới ra đến thị xã lúc gần 6g chiều. Đúng là một
chuyến tham quan đáng bõ công và rất ấn tượng.
Sau một đêm ngủ ngon giấc, chúng tôi lấy lại
sức để tiếp tục cuộc hành trình. Trứơc khi đi chúng tôi còn chạy một
vòng chụp hình mấy nơi: Cửa sông Nhật Lệ, chỗ có nhà thờ Tam Tòa đổ nát
còn giữ lại làm di tích chiến tranh. Nơi dự định làm tượng đài Mẹ Suốt
và xây dựng một cây cầu bắc qua sông. “Quảng Bình quan” , một cổng trong
hệ thống lũy thành do Đào Duy Từ xây dựng giữa thế kỷ 17 được phục chế
lại nằm ngay bên quốc lộ 1..
Quảng Bình là một trong những nơi chúng tôi
có cảm tình nhất khi chúng tôi đi qua.
* * *
9,
Chặng kế tiếp chúng tôi định đi là Quảng
Bình - Hà Tĩnh - Nghệ An dài khoảng 200 cây số vì thành phố Vinh, Nghệ
An chỉ cách thị xã Hà Tĩnh có 50 cây số nên chúng tôi sẽ không dừng lại
Hà Tĩnh.
Rời thị xã Quảng Bình không xa, tôi bỗng có
linh cảm xấu. Đường hẹp, nhiều xe, tôi chạy chậm và luôn nhìn kính chiếu
hậu. Tôi bỗng thấy một chiếc xe ben cứ chạy phía sau, không qua mặt dù
có lúc đường trống và tôi chạy chậmn có lúc nó chạy sát vào lề. Tình
hình đó diễn ra một lúc nhưng tôi không nói cho BY biết sợ BY lo. Tôi
làm bộ dừng lại để sửa mũ bảo hiểm. Chiếc xe ben vượt qua rồi biến mất
nhưng chạy một khoảng nữa, tôi lại thấy nó ở phía sau. Tôi ép vào lề
chạy rất chậm. Cuối cùng nó vượt qua và đi luôn không thấy trở lại. Tôi
vẫn không nói gì với BY. BY không biết vì cứ chăm chăm nhìn phía trước.
May cũng không có gì bất thường xảy ra nữa và tôi cũng nhanh chóng quên
đi.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến cầu Gianh
bắc qua sông Gianh. Lại một con sông chia cắt đất nước trong hơn 200
năm, chúng nhân một cuộc chiến tương tàn khác. Lịch sử Việt Nam đầy dãy
chiến tranh, không những chống ngoại xâm mà còn đi xâm lược và nội
chiến, kể cả nội chiến giữa anh em ruột như Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc. Di
sản quá khứ này nhiều vinh quang hào hùng nhưng cũng quá nhiều mất mát,
nặng nề đối với một dân tộc.
Sông Gianh rộng hơn sông Bến Hải nhiều và
lộng gió. Chúng tôi chỉ dừng lại chụp hình rồi chạy tiếp đến gần đèo
Ngang mới dừng lại nghỉ ở một quán nước có nhiều võng treo dưới hàng phi
lao bên đường. Từ Huế ra, đây là chiếc quán thứ hai thuộc loại này nên
chúng tôi nhất định phải vào, lại cũng vừa hơi cảm thấy mệt.
Tiếp tục lên đường chúng tôi đến đèo Ngang
cách đó không xa. Đèo chỉ dài 6 cây số, không có gì nguy hiểm so với các
đèo khác phía Nam chúng tôi đã đi qua. Tương tự Hải Vân, đỉnh đèo Ngang
nằm chính giữa, hai bên dốc xuống, có một mặt bằng nhỏ hơn nhiều so với
Hải Vân. Đỉnh đèo là ranh giới của hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, cũng
là nơi nằm gần chính giữa hai tỉnh lỵ. Mỗi bên cách khoảng gần 80 cây
số. Cảnh đèo phía Bắc đẹp hơn phía Nam, có lẽ là nơi ngày xưa Bà Huyện
Thanh Quan đi qua dừng lại tức cảnh làm thơ vì phía tây có núi, phía
đông có trảng cát, sông , làng xóm thưa thớt và xa xa là biển.
Quá trưa chúng tôi đến thị xã Hà Tĩnh nhưng
chỉ dừng lại ở dãy phố trên quốc lộ 1, không đi sâu vào khu vực chính
của thị xã nằm về phía đông, có một con đường lớn dẫn vào.
Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy vô số cửa hàng
có viết tấm quảng cáo đề”cu đơ” và chất một loạt hàng mẫu phía trước. Đó
là những gói giấy màu trắng hình trụ, đường kính bằng chiếc bánh tráng
nhỏ xếp thành nhiều chồng cao. BY hơi buồn cười, hỏi tôi “cu đơ” là gì.
Bất ngờ tôi không nghĩ ra, chỉ nhớ mang máng có “cu đơ” là một loại kẹo
gì đó khi đọc trong các sách viết về thời kháng chiến chống Pháp. BY
đoán “cu đơ” là một loại phụ tùng máy móc vì thấy chất đống quá nhiều
và bụi bặm bên đường. Tôi ngừng xe cho BY vào hỏi thử. Hóa ra “cu đơ” là
kẹo đậu phụng nghe nói lấy theo tên của một người Pháp đã sáng chế ra
loại kẹo này. ( Tôi chưa có thì giờ tra cứu xem tên “cu đơ” tiếng Pháp
viết thế nào và có đúng nguồn gốc như thế không? ) Kẹo đậu phụng hay
kẹo lạc có bánh tráng chẳng có gì lạ nhưng ở đây nó được làm đặc biệt
lớn và cứng. BY chỉ mua thử hai cái để ăn và phải nhờ người chủ dùng
cưa cưa ra làm mấy miếng nhỏ và sau đó ăn mãi mấy ngày chưa hết. Những
gói người ta chất phía trước cửa hàng chỉ là đồ giả để làm mẫu quảng
cáo. Đúng là chúng tôi bị “quê”.
Ở đây chúng tôi lại bị “quê” thêm một lần
thứ hai nữa. Tiếp theo dãy cửa hàng “ cu đơ” là một loạt của hàng “cháo
bồ câu hầm cách thủy”. Đang mệt, quá trưa, ăn món này cũng có lý. Chúng
tôi chọn một quán rộng rãi, có sân và cây phía trước. Tôi đậu xe, thấy
trên mặt sân, dưới cây có lá giống lá xoài, vô số cái gì nho nhỏ lông lá
màu nâu như sâu róm bay tung tóe. Lỡ rồi chúng tôi cứ vào. Tôi hỏi cô
chủ quán sao sâu nhiều thế không quét đi. Cô hỏi sâu đâu. Chúng tôi chỉ
ra sân. Cô cười ngất bảo”sâu đâu mà sâu. Hoa sữa đó. Hoa sữa tàn sẽ
thành ra như thế”. BY ra bốc lên xem, quả nhiên không phải là sâu, nhưng
mới nhìn lần đầu chúng tôi đã phải giật mình. Chúng tôi chưa bao giờ
thấy hoa sữa, chỉ nghe ca tụng hương hoa sữa rất thơ mộng trong thơ văn
và nhạc viết về Hà Nội. Thật buồn cười !.
Cháo bồ câu cũng độc đáo. Cô chủ quán bảo bồ
câu bỏ vào soong với ít gạo, đậu xanh và các loại thuốc bắc, chưng cách
thủy đến 20 giờ mới nhừ. Ăn quá ớn nhưng chắc rất bổ. Một soong nhỏ hai
người ăn mãi không hết.
Đến cuối địa phận Hà Tĩnh, thấy dãy núi Hồng
Lĩnh phía bên phải đường, chúng tôi định vào thăm mộ Nguyễn Du nhưng khi
hỏi thăm, biết từ quốc lộ 1 phải rẽ vào huyện Nghi Xuân khoảng 20 cây số
nữa, trời đã chiều nên chúng tôi đành đi tiếp tục đến Nghệ An.
Thành phố Vinh hiện ra trong dáng vẻ xô bồ
và bụi bặm, nhiều nơi đang xây dựng nhà và sửa chữa đường. Chúng tôi ghé
vào một quán nước mía bên đường để giải khát và hỏi thăm về các khách
sạn. Ông gìa bán nước mặc đồ bộ đội dầu đội nón cối chỉ lung tung mấy
chỗ. BY nói chuyện với một ông khách ngồi uống nước cùng bàn, hỏi ông ta
ở Vinh có bãi biển không. Ông ta đáp có bãi biển “Cờ Lo”. BY nghe không
ra cứ hỏi đi hỏi lại “Cờ Lo” là gì. Tôi phải “ phiên dịch” “Cờ Lo” là
Cửa Lò. BY lại hỏi bãi biển có đẹp không, ông ta cười nói đẹp hay không
thì không biết nhưng nhiều cát lắm… Cuộc nói chuyện quả là thú vị.
Chúng tôi chạy nhiều đường, tìm khá lâu mà
vẫn không gặp được khách sạn ưng ý, nơi quá đắt, nơi quá ồn ào hay ẩm
thấp. Cuối cùng chúng tôi vào một nhà nghỉ bề ngoài có vẻ xấu xí nhưng
bên trong có một số phòng mới sửa lại khá tốt. Đây hình như là một khu
chung cư được sửa sang để làm nhà nghỉ, nhiều phòng, khách ra vào đông,
phần lớn là dân lái xe tải vì phía sau có một bãi đậu xe khá rộng.
Bữa ăn tối làm chúng tôi thất vọng. Trời đổ
mưa bất ngờ. Cơn mưa gặp đầu tiên từ lúc chúng tôi xuất phát ở Sài Gòn.
Chúng tôi ghé đại vào một quán có vẻ quán nhậu hơn quán ăn. Đối với BY,
vì không quen người ta nói BY chẳng hiểu gì cả. Giọng Nghệ đúng là khó
nghe. Tôi lang bạt nhiều, đã nghe đủ thứ giọng nhưng mấy cô phục vụ ở
đây nói có nhiều tiếng tôi cũng không nghe ra. Các món ăn lại không hợp
khẩu vị. Canh “tập tàng” nấu đủ loại rau không ra vị gì cả. Cá kho tộ
lại toàn nghệ và riềng khác hẳn kiểu kho trong nam. May có đĩa rau xào
ăn được. Đành vậy thôi.
Buổi sáng chúng tôi vừa chạy xem phố xá vừa
tìm mãi mới ra một quán cà phê. hiệu Trung Nguyên, thương hiệu mới nổi
tiếng ở Sài Gòn mấy năm gần nay và đã phát triển ra một số tỉnh. Quán
rộng, bàn ghế sạch sẽ, có cây cảnh. Gọi café đen họ mang ra ngay không
cần hỏi loại gì theo kiểu uống “đối chứng” ở các quán Trung Nguyên
SàiGòn. Dù sao cà phê không đến nỗi tệ. Đặc biệt các quán ở đây không có
người bán vé số nhưng các em đánh giày lại rất đông, chúng đi thành toán
và có vẻ rất bụi đời.
Tôi chở BY đi hỏi nhiều cửa hàng, vào tận
trong chợ Vinh khá lớn mà vẫn không tìm mua được hộp fromage hiệu con
con bò cười, thứ chúng tôi vẫn mang theo ăn dọc đường với bánh mì. Phong
cách sinh hoạt ăn uống các tỉnh ngoài này bắt đầu khác nhiều với trong
nam. Chúng tôi cần phải thích nghi nhiều hơn.
Một hình ảnh không đẹp của thành phố Vinh là
dãy nhà chung cư cao tầng ngay trên con đường lớn dẫn ra khỏi thành
phố. Dãy nhà gồm nhiều khối hình hộp xấu xí, quét vôi màu vàng bẩn và
quần áo phơi la liệt chăng kín cả mặt tiền nhìn ra đường. Một hình ảnh
rất “chỏi” với nhiều nhà cửa, khách sạn sang trọng mới xây dựng trên
cùng một con đường.
Chúng tôi đi tiếp Thanh Hóa, nơi dự định sẽ
lưu lại lâu hơn để thăm nhà thơ Hữu Loan.
* * *
10.
Càng về phía Bắc quốc lộ 1 hẹp dần và xe cộ
chạy nhiều hơn, đặc biệt là số người đi xe đạp, nhất là các em học sinh
vào giờ học hay tan trường.
Khi bắt đầu mệt chúng tôi chú ý nhìn hai bên
đường để tìm quán vào nghỉ nhưng chưa thấy nơi thích hợp. Tôi nấn ná
chạy tiếp với tốc độ không nhanh lắm, khoảng 50 cây số / giờ. Phía
trước bên phải đường trống, bên trái có một nhóm học sinh đi xe đạp
thành hàng dọc. Cũng bên trái, phía trong cánh đồng có một tấm bảng rất
lớn ghi”Đô thị mới Nghi Sơn - Thanh Hóa”. BY và tôi đều quay qua nhìn
tấm bảng, BY nói gì đó tôi nghe không rõ. Đúng lúc đó, một chiếc xe tải
nhỏ chạy cùng chiều với các em vượt qua che chắn tầm nhìn giữa tôi và
các em. Chiếc xe tải vừa vượt qua, bất thần một em băng qua đường rất
nhanh, đâm sầm vào bánh trước xe tôi. Tôi chỉ kịp thét lên và thắng gấp.
Trong chớp mắt hai xe đụng vào nhau đổ vật
xuống, ba người và đồ đạc trên xe tôi đều văng ra. Tôi và em học sinh
nằm gần nhau. Tôi lồm cồm ngồi dậy đỡ em lên và hỏi em có sao không. Em
lắc đầu đứng lên. Tôi quay lại thấy BY cũng đang cố đứng lên rồi lại qụy
xuống. Tôi đỡ BY dậy, BY kêu đau ở đầu gối nhưng rồi cũng đứng lên
được. Trong lúc lộn xộn, tôi thấy hình như các em học sinh và vài người
trong nhà bên đường xúm lại. Có tiếng người nói ”Thằng nhỏ đi ẩu quá!”,
” Có ai bị gì không?”, “ Đỡ giùm chiếc xe lên đi.” Một phụ nữ giúp tôi
đỡ BY đi vào trong sân nhà. BY vén quần áo lên xem xét, thấy sược nhiều
chỗ ở đầu gối và cánh tay. Tôi quay ra, em học sinh đụng tôi và các em
khác đã kéo nhau đi hết. Có người nói: “ Thôi giải tán đi, không công
an đến làm biên bản phiền phức lắm”. Vài người giúp tôi đem xe và nhặt
đồ đạc vào sân nhà. Phụ nữ đỡ BY vào là chủ nhà bảo BY ngồi xuống bậc
thềm và lấy dầu ra xoa các chỗ sược. Lúc đó tôi mới thấy đau ở hai đầu
gối và bàn tay trái. Tôi kéo ống quần, hai đầu gối cũng bị sược như BY,
gỡ găng tay ra mới thấy ngón tay út đã gãy đốt trong , ngoặt hẳn sang
một bên.
Người chồng chị chủ nhà vừa đi đâu về, xem
xét ngón tay tôi rồi bảo đây không có bệnh viện hay trạm xá nhưng trong
xóm gần đây có một ông thầy bó xương gãy rất giỏi, nếu muốn anh sẽ chở
tôi đi bó giúp. Tôi bảo BY kiểm tra kỹ các vết thương, đi lại, co duỗi
chân tay xem sao. BY bị xây sát, đau ở đấu gối chắc do va đập mạnh
nhưng chắc không gãy. Chúng tôi đều mặc quần áo vải dày khi đi đường nên
các vết xược không sâu lắm. BY còn phát hiện chiếc mũ bảo hiểm có một
vết sược khi va chạm xuống đất nhưng may đầu không bị gì. Anh chủ nhà
cũng nhận xét như thế. Đối với tôi, anh khuyên nên đi bó ngay vì để lâu
sẽ khó chữa. Tôi hội ý với BY và đồng ý nhờ anh đưa đi, dặn BY cứ vào
nhà chờ nghỉ ngơi.
Anh lấy xe tôi chở tôi đi, băng qua quốc lộ,
rẽ vào một con đường mòn chạy khá lâu, có lúc băng qua đường xe lửa hay
những đoạn đường có đá lớn tôi phải xuống xe đi bộ. Cuối cùng anh đưa
tôi đến một căn nhà có vườn rộng rãi trong xóm sâu. Anh vào báo trước,
tôi theo sau. Ông thầy thuốc không gìa lắm, gày, có vẻ hiền lành. Ông
lấy chiếc ghế đẩu để giữa cửa, bảo tôi ngồi xuống. Ông xem kỹ ngón tay
tôi rồi nắn thẳng lại, tôi chỉ thấy hơi đau. Ông lấy ra một gói bột màu
nghệ vàng và một chai bụng lớn đựng rượu ngâm thuốc gì trong đó. Ông đổ
rượu vào một ít bột, trộn cho thấm dẻo rồi đắp vào ngón tay gãy của tôi.
Xong ông dùng một miếng giấy bìa cứng xé ra từ một chiếc hộp nào đó bó
quanh ngón tay thay cho nẹp. Cuối cùng dùng một miếng ga cũ, vàng bẩn
quấn quanh cột chặt lại. Ông còn lấy rượu thuốc xoa vào các chỗ xây xát
ở đầu gối và mu bàn tay của tôi. Xong xuôi ông bảo tôi qua bàn ngồi
uống nước và đi lấy một lọ thuốc viên nhỏ li ti cũng do ông bào chế, đưa
cho tôi uống một nhúm. Ông nói: “Thế là yên chí. Ngày mai nếu có gì bất
thường đến tôi xem lại, còn không cứ để nguyên thế một tuần sau tháo
băng ra sẽ khỏi”. Tự nhiên tôi cảm thấy tin tưởng ở ông.
Sợ BY sốt ruột nhưng vì lịch sự tôi ngồi nói
chuyện một lúc. Vợ và con trai của ông thầy thuốc cũng ra ngồi góp
chuyện. Họ có vẻ rất chân thành và tử tế. Ông thầy thuốc bảo ông dòng
dõi nhà võ, trước đây đi bộ đội, sau làm công nhân, nay về hưu. Trong
chiến tranh và sau này ông đã chữa hàng trăm trường hợp xương gãy, kể
cả những trường hợp khó như gãy vai hay xương vỡ làm nhiều mảnh. Ông bảo
về xem lại vợ tôi có bị gãy gì vào ông chữa luôn cho. Nếu cần cứ ở lại
nhà ông hay chỗ của anh chủ nhà chở tôi đi, là cháu của ông, ông sẽ ra
tận nơi để chữa. Ông nói: “Chúng tôi người nhà quê, thật thà, muốn giúp
đỡ chứ không có ý gì, đừng ngại.”
Trứơc khi về, tôi cảm ơn ông và xin gởi lại
ít tiền để ông làm thuốc. Tôi mở ví. Ví tôi đang để tờ 100 và mấy tờ
tiền lẻ. Tôi đưa ông tờ 100. Ông dẫy nẩy lên: “Làm gì nhiều thế. Tôi
không lấy đâu. Tôi chỉ giúp thôi.” Tôi nài nỉ và anh bạn chở tôi đi cũng
góp lời. Cuối cùng ông nói: “ Vây thì tôi lấy hai chục thôii”. Anh bạn
chở tôi bảo: “ Chú cứ lấy năm chục, để còn làm thuốc giúp người khác”.
Tôi xem lại mấy tờ bạc lẻ, vừa đủ năm chục. Tôi để lên bàn cảm ơn ông và
gia đình lần nữa trước khi ra về cùng anh bạn. Ông còn bảo con trai lấy
chai nhỏ chắt ra một ít rượu thuốc để vợ tôi và tôi xoa các vết xây xát.
Tôi về đến nơi, BY vô cùng mừng rỡ. Vợ
chồng chủ nhà bảo chúng tôi mệt cứ ở lại nghỉ, tối nấu cơm ăn chung và
nghỉ lại sáng mai đi cũng được, đừng ngại gì.
Lúc đó đã 3 giờ chiều, chúng tôi mới cảm
thấy đói bụng. Tôi nói với BY xin phép chủ nhà đi tìm quán kiếm cái gì
ăn rồi sẽ quyết định. Tôi đỡ BY đi cà nhắc theo đường lộ. Ở đây dân cư
thưa thớt chỉ có một quán cháo lòng nhưng buổi chiều không bán. Bà chủ
quán bảo còn ít cơm nguội, nếu muốn sẽ hâm lại và đổ trứng cho chúng tôi
ăn tạm. Chúng tôi đồng ý vì không còn cách nào khác.
BY kể lúc anh chủ nhà chở tôi đi, thấy lâu
quá, BY rất lo. Lúc ở Sàigòn, trước khi đi đã có người nói phía bắc bọn
cướp giật ghê lắm, nhiều khi chỉ vì vài trăm ngàn, một chiếc nhẫn cũng
có thể giết người như chơi. Biết đâu anh ta chở tôi vào núi rồi thủ
tiêu, cướp xe luôn. BY bàn ở lại nhà người ta cũng ngại lắm, nếu gặp
người xâu sẽ không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tốt hơn đón xe đò đi ra thị
xã Thanh Hóa hoặc nếu tôi chạy xe được, cố chạy đến thị trấn gần nhất
tìm nhà trọ ở lại vì ở nhà người ta bất tiện và chắc chắn BY sẽ không
ngủ được. ( Chúng tôi đã hỏi thăm và biết thị trấn Tĩnh Gia cách đây 7
cây số có nhà trọ ).
BY nói thêm là lúc đầu BY rất lo nhưng sau
nói chuyện thấy chị chủ nhà có vẻ tử tế, là người công giáo, trong nhà
có bàn thờ Chúa Giêsu và Đức Mẹ nên BY cũng hơi yên tâm. BY còn nói sau
vụ suýt tai nạn ở Lăng Cô được Đức Mẹ cứu giúp nhưng ra Thánh địa Đức
Mẹ La Vang tôi không chịu tạ ơn nên mới bị Đức Mẹ phạt. Tôi đùa bảo Đức
Mẹ chỉ phạt nhẹ cảnh cáo thôi. Gãy một ngón tay út để kỷ niệm chuyến đi
cũng không có gì ghê gớm lắm. Nói thế chứ Đức Mẹ đâu lại để tâm những
chuyện vặt và đã là Đức Mẹ nhân từ sẽ không hề phạt ai.
Cuối cùng chúng tôi thống nhất sẽ chạy tiếp
ra Tĩnh Gia tìm nhà trọ nghỉ rồi ngày mai tính tiếp. Chúng tôi cám ơn
chủ nhà, đề nghị chụp với họ mấy tấm hình làm kỷ niệm. BY tặng chị vợ
chiếc áo len mới mua mang theo chưa mặc và mấy gói bánh kẹo cho cháu
nhỏ chúng tôi có sẵn trong hành lý.
Chúng tôi tiếp tục đi. Ngón tay gãy tôi để
trên tay lái bị rung nhức nên hầu như tôi chỉ chạy một tay. Vả lại cú
ngã làm tôi chấn động, tay phải cũng hơi run nên tôi chạy rất chậm, hơn
nửa giờ sau mới đến thị trấn Tĩnh Gia trước khi trời tối. Chúng tôi vào
ngay một trong hai nhà trọ kế nhau nằm bên đường và thở phào khi nằm
lăn trên giường.
Đêm hôm đó, chúng tôi ngủ không yên giấc lắm
vì tiếng động lịch kịch suốt đêm. Nửa đêm hình như có tiếng công an đi
kiểm tra nói chuyện vói bà chủ nhà trọ ngoài hành lang nhưng họ không
vào phòng chúng tôi. Buổi chiều, lúc nhận phòng, chúng tôi thấy anh con
trai bà chủ nhà trọ to lớn, mặt mày dữ tợn, râu ria xồm xoàm, ở trần cứ
đi qua đi lại nhìn vào phòng chúng tôi nên chúng tôi cũng hơi ngại,
không biết có rơi vào hắc điếm không. Cuối cùng vì quá mệt nhọc, chúng
tôi cũng ngủ thiếp đi được một giấc. Sáng ra vẫn thấy mình an toàn.
Chúng tôi trả phòng ra thị trấn sửa xe và ăn
sáng. Tay lái xe hơi bị lệch và tôi cần chỉnh lại thắng, thay nhớt nếu
muốn đi tiếp. Chúng tôi có một bữa ăn bánh cuốn thú vị. Trong một quán
nhỏ bên đường, nhiều phụ nữ và trẻ em ngồi trên những chiếc đòn chung
quanh một chiếc bàn thấp chờ chủ quán tráng bánh. Bánh làm xong rắc
nhân, cuốn lại, cắt thành miếng cho vào đĩa, lần lượt mỗi người ăn một
cái rồi chờ tráng tiếp. Chúng tôi cũng sà vào chờ luân phiên như họ. Ai
muốn đặc biệt cho thêm trứng gà, chủ quán sẽ làm theo yêu cầu. BY hỏi cô
chủ làm sao nhớ người nào ăn mấy cái, cô bảo quen rồi, có gì mà không
nhớ. Kể cô cũng tài. Tôi cũng chẳng nhớ mình ăn mấy cái mà lúc đó có gần
chục người khách. Thật đúng hương vị bình dân.
Ăn xong chúng tôi tìm một quán café ngồi
uống và bàn bạc quyết định nên đi xe gắn máy hay đi xe đò. Chúng tôi vẫn
phân vân. Chúng tôi rất ghét đi xe đò, nhất là trong hoàn cảnh xe cộ, đồ
đạc lỉnh kỉnh như thế này và lại đón xe dọc đường, nhất định không có
chỗ ngồi tốt. Đi xe gắn máy tiếp sợ không an toàn. Ngón tay và bàn tay
tôi sau một đêm có vẻ hơi êm nhưng chạy đường xa nhất định bị ảnh hưởng,
tay lái tôi không còn vững như trước và đường ngoài này lại hẹp, rất
nhiều xe cộ chạy ẩu.
Cuối cùng chúng tôi quyết định đi xe đò để
bảo đảm an toàn dù có hai điều đáng tiếc: Không thực hiện trọn vẹn
chuyến đi bằng xe gắn máy, dù chúng tôi đã đi gần 2000 cây số nhưng còn
khoảng 150 cây số cuối cùng lại bỏ cuộc. Không ghé thăm nhà thơ Hữu
Loan, sợ sau này sẽ không còn có dịp vì hình như ông đã ngoài 80 tuối.
Tôi cùng đi với Hữu Loan trong chuyến xuyên
Việt năm 1988, giữa ông và tôi có nhiều đồng cảm và tôi rất kính phục
sự cương trực bất khuất của ông. Nghe nói về sau ông được nhà nước tìm
cách o bế, giúp xuất bản thơ, giúp xây lại nhà nhưng ông vẫn tiếp tục
lên án chế độ mạnh mẽ mỗi khi có dịp. Tôi tin ông không bao giờ có thể
khuất phục hay bị mua chuộc. Ông đã đem cả cuộc đời để đánh đổi sự trung
thực, tự trọng và tự do tư tưởng thì chút ân huệ cuối đời chẳng có
nghĩa gì.
Tôi nhớ mãi gương mặt đầy cương nghị, chòm
râu bạc, giọng đọc thơ chân chất và những lời phát biểu sang sảng đầy
chất lửa của ông trong suốt chuyến đi, cả mấy chai rượu tăm ngon tuyệt
uống nóng cả tim gan mà ông đã tặng BMQ và tôi năm ấy.
Bà chủ quán café tử tế dặn chúng tôi lên xe
phải trả giá trước và chọn đúng xe đi Hà Nội để khỏi bị sang khách giữa
đường. Đang ngồi nói chuyện, có chiếc xe đò chạy qua, tôi vẫy lại. Gã lơ
xe nhảy xuống chạy đến hỏi. Bà chủ quán nói trước: “Đi Hà Nội hai người
50.000d, xe gắn máy 20.000d, chịu không?”
Gã lơ xe, một thanh niên cao lớn mặc bộ đồ
quân phục Mỹ còn mới, có nguyên chữ “ US Army” trên ngực. Gã nhìn qua
chúng tôi rồi nói: “Được rồi. Lên xe đi”. BY gặng hỏi: “ Có phải xe đi
Hà Nội không? “. Gã lớn tiếng: “ Sao lại không đi “ Hà Lội”. “ Nghe
giọng “ Hà Lội” còn không biết hả”. Gã xách ba lô của chúng tôi cho vào
cốp sau rồi cùng một người nữa trên xe xuống đưa xe của chúng tôi vào
cửa bên, lấy dây buộc lại. Trên xe hành khách gần kín chỗ. Gã chỉ cho
chúng tôi ngồi vào hai chỗ trống, BY ngồi băng sau, tôi ngồi băng trước
phía cuối xe. BY phản đối nhưng gã bảo đến Thanh Hóa có người xuống gã
sẽ xếp lại chỗ ngồi.
Xe chạy một khoảng ngắn, gã nói với BY:” Cho
tiền xe, 160.000 đồng”. BY ngạc nhiên:”Dưới
kia bà chủ quán trả 70.000 đồng anh chịu
rồi sao bây giờ đòi nhiều thế”. Gã sửng cồ ngay: “ Con mẹ nhà quê đần
độn đó biết cái đ… gì. Đưa tiền xe. 160.000 đồng”. BY nói:” Nhung
mà…”. Gã gạt ngang:” Không nhưng gì hết. 160.000đồng” . Thấy thái độ vô
lễ và hung hăng của gã tôi biết lôi thôi với gã chẳng lợi gì trong hoàn
cảnh này. Tôi bảo BY cứ trả tiền cho gã. BY nghe tôi đưa tiền nhưng rất
ấm ức. Hành khách chung quanh nhìn chúng tôi có vẻ ái ngại nhưng không
ai nói gì.
Khi gã lơ xe chuyển lên phía trên, thanh
niên ngồi bên cạnh bảo tôi:” Lên xe giữa đường là vậy. Nó chém thế chứ
hơn cũng phải chịu. Không nghe nó ném xuống đường”. BY cũng bắt chuyện
than phiền với mấy người ngồi bên. Nhiều người lên tiếng ca thán
chuyện xe đò bát nháo hiện nay.
Lát sau có hai cô gái lên xe. Khi gã lơ xe
đòi tiền, một cô nói:” Chúng em vẫn thường đi đoạn đường này. Bớt cho
chúng em 10 ngàn. Chúng em là sinh viên nghèo.” Gã quắc mắt:”nghèo mặc
cha chúng mày. Sinh viên là cái đ… gì. Chúng mày học cho mày chứ học cho
bố mày đây à. Đưa tiền. Không thì xuống.” Hai cô gái tội nghiệp im thin
thít móc tiền ra trả.
Lại có một bà già có vẻ nhà quê lên xe, cò
kè gía cả, kêu lấy tiền xe quá đắt. Gã to tiếng:” Đắt gì. Bây giờ cái
gì cũng lêngiá , xăng tăng, thuế tăng, lộ phí cầu đường tăng. Không lấy
tiền xe thế chúng ông ăn cái giải gì. Con mẹ nhà quê này biết đếch gì
ngu thấy mẹ. Đúng là dân Lê Khả Phiêu!”. Mọi người đều ngẩng lên nhìn,
không ngờ gã táo tợn chửi xéo luôn cả cựu tổng bí thư.
Đến thị xã, có nhiều người lên xuống, BY
đứng lên đòi đổi chỗ ngồi cạnh tôi. Gã quát: “Cứ ngồi đó.” và lấy tay
ấn BY ngồi xuống, trúng ngay chỗ đầu gối bị thương làm By kêu thét lên.
Gã tỉnh bơ quay đi chỗ khác. Thấy chỗ ngồi của BY chiếc ghế không tốt
bị xóc nhiều nên tôi bảo BY đổi chỗ cho tôi và rán chịu cho qua, đừng
yêu cầu gì nữa.
Trên suốt chuyến đi, rất nhiều bi hài kịch
nữa diễn ra.
Ba thanh niên lên xe trả giá sừng sộ với gã
lơ xe nhưng gã vẫn không chịu lép vế, vẫn chém gấp rưỡi giá thông
thường. Một thanh niên nói:”Đây đâu phải là xe chất lượng cao mà lấy đắt
thế.” Gã cười khẩy:” Muốn chất lượng cao à. Cứ đưa thêm tiền là khắc có
chất lượng cao ngay. Khó gì.” Khi gã quay đi nơi khác, ba thanh niên bàn
nhau cách trả thù gã lơ xe. Một người nói:”Ngày mai xe nó đi ngang đây
tao không cho nó ăn đòn thì tao bú c… cho nó”.
Một người đứng tuổi, ăn mặc có vẻ nghèo khổ
không chịu xuống khi xe dừng ở một thị trấn và bảo còn khoảng 10 cây số
nữa mới đến chỗ muốn xuống. Gã lơ xe kéo tay ông ta lôi ra cửa:”Hết tiền
rồi. Mày không xuống ông đạp xuống bây giờ.”
Một bà buôn chanh chua chửi nhau với gã lơ
xe , có thêm gã lái xe phụ họa hàng nửa giờ liền, hai bên đều tuôn ra
những lời thô tục bẩn thỉu không ai chịu nổi.
Tôi quá ngán ngẩm nhắm mắt lại, không buồn
nhìn ra ngoài xem phong cảnh vì kính xe quá mờ, chỉ thấy loáng thoáng
nhà cửa và các tấm bảng ghi địa danh trên đường. Cũng may chiếc xe chạy
bạt mạng khá nhanh và không gặp tai nạn gì dù có những lúc thắng gấp,
chao đảo, suýt đụng vào xe khác.
Trưa xe đến Hà nội, nghe nói chỉ còn khoảng
mười cây số nữa đến bến xe nhưng gã lái xe không chạy đến bến mà tấp vào
một quán ăn bên đường buộc hành khách vào ăn trưa. Ở đây nhà xe được
chiêu đãi miễn phí và khách tha hồ bị chém đẹp.
Gã lơ xe cho xe gắn máy của tôi xuống. Gã
đứng trên đẩy bừa xe xuống bảo tôi đứng dưới dỡ. Tay tôi bị đau không
đỡ được, một ông khách sốt sắng đến giúp và suýt ngã vì chiếc xe quá
nặng.
Thật quá quắt và không thể tưởng tượng. Gã
lơ xe như một bạo chúa cai trị vương quốc của mình bằng bàn tay sắt,
muốn làm gì thì làm. Tôi chưa bao giờ gặp một gã đê tiện, thô bỉ và vô
văn hóa như thế.
Đúng là một chuyến xe thổ tả. Tuy nhiên mấy
hành khách trên xe nói với tôi đây không phải là chuyến xe đặc biệt mà
hầu như xe nào cũng như thế cả. Hành khách ai cũng bất bình nhưng đi
đường nên không muốn gây sự lôi thôi, có khi rước vạ vào thân, lại không
có cơ quan thi hành luật pháp nào can thiệp. Phải chăng chuyến xe này
cũng là một điển hình của xã hội hiện nay?
* * *
11.
Thế là chúng tôi thoát khỏi chiếc xe thổ tả.
BY còn cằn nhằn mãi nhưng tôi nói đó cũng là một kinh nghiệm hay. Dễ gì
có dịp gặp gỡ một nhân vật điển hình mới của thời đại như “gã lơ xe mặc
quân phục US Army” kia.
Vì chưa có bản đồ, sau khi xuống xe đò, tôi
không biết mình đang ở đâu. Tôi hỏi một người đứng gần đó về Hà nội đi
đường nào. Ông ta bảo đây là Hà Nội. Tôi phải hỏi lại đường vào trung
tâm thành phố, đến Hồ Gươm. Ông ta chỉ đại khái và bảo đi tới hỏi tiếp.
Con đường dẫn vào thủ đô này sao quá ngán ngẫm, có lẽ không phải là
đường chính vì đường nhỏ, bụi mù mịt và chạy dọc một con kênh thối om,
sau này tôi mới biết đó là sông Kim Ngưu. Hình như gã lái xe cố tình
chạy vào đường này để tránh cảnh sát.
Tôi rẽ qua chiếc cầu và đi vào các khu phố
chính. phố Thanh Nhàn, rẽ phố Bạch Mai, tiếp theo là phố Huế, phố Hàng
Bài nằm trên cùng một con đường.
Việc quan trọng của chúng tôi bây giờ là tìm
một quán ăn hay quán giải khát để vào nghỉ ngơi và rửa ráy, đi vệ sinh
vì đã phải giam mình hơn 4 giờ trên xe đò. Không may BY vào hỏi mấy nơi
mà nơi không có toa lét, nơi không có chỗ đậu xe. Tôi chạy ngang một
hiệu sách, bảo BY vào mua ngay tấm bản đồ Hà Nội rồi sau đó gặp một quán
fast food ở phố Hai Bà Trưng. Quán này có mặt tiền rất dài, đặt bàn ở
cả trong nhà và ngoài hàng hiên, lại có chỗ đậu xe rộng rãi. Quán có một
toa lét nhỏ xíu, hơi bẩn, phải dùng gáo dội nước nhưng như thế đã là quá
tốt đối với chúng tôi bây giờ. Fast food ơ đây lại có cả cơm đĩa khá
ngon và gía rẻ bất ngờ.
Sau khi ăn uống nghỉ ngơi xong chúng tôi đi
tìm phòng trọ. Các khách sạn ở những đường lớn đều là khách sạn”có sao”,
tiền phòng tính bằng “đô” nên chúng tôi phải chạy ra khu vực xa hơn.
Cuối cùng tìm được một nhà trọ thích hợp trong một hẻm phố Thanh Nhàn.
BY hỏi chuyện, anh chàng tiếp tân cho biết nhà trọ của anh ta đủ loại
khách, ở xa đến, ở trong thành phố và ngay cả ở khu vực chung quanh.
Khách có thể thuê qua đêm hay thuê giờ. Chúng tôi hơi ngạc nhiên nhưng
khi lên nhận phòng mới hiểu ra. Phòng nào cũng có một tấm gương dài
treo nghiêng ở tường đối diện với bên đặt giường và nằm trên giường có
thể nhìn thấy mình trong gương. Chúng tôi đoán đây là một loại “nhà trọ
tình yêu” theo kiểu Nhật. Thôi cứ ở tạm một hôm rồi mai tính tiếp.
Tắm rửa nghỉ ngơi, ngủ một giấc cho lại sức,
tôi lấy bản đồ ra nghiên cứu và quyết định đến thăm Hồ Gươm trứơc. Trước
đây tôi đã có một lần ra Hà Nội với BMQ, ở một tuần nhưng chỉ lo đi đấu
tranh, hết Văn Phòng Trung Ương Đảng lại đến các ban, các bộ, lại đi
bằng xe ô tô cơ quan nên tôi không nhớ đường và chẳng thưởng thức được
gì. Lần này khác, chúng tôi sẽ tự mình khám phá Hà Nội.
Trứơc đây lần đầu thấy Hồ Gươm tôi rất thất
vọng. Ấn tượng của tôi lúc đó Hồ Gươm chỉ là một hồ nhỏ nươc tù đọng có
vẻ bẩn và không lấy gì làm thơ mộng, có lẽ do tình hình và tâm trạng của
tôi lúc đó. Bây giờ chạy quanh hồ hai vòng, tôi có cảm giác khác hẳn,
hình như hồ và khung cảnh chung quanh được sửa sang chăm sóc nhiều. Nước
vẫn còn có vẻ tù đọng nhưng trông không đến nỗi bẩn, bờ kè xây sạch sẽ.
Hàng cây chung quanh hồ nhiều chủng loại, có nhiều cây cổ thụ tỏa bóng
rợp mát, vài cây nghiêng mình ra mặt nước rất thơ mộng. Bãi cỏ, ghế đá
sạch sẽ. Việc cấm đưa xe đạp, xe máy vào bờ hồ, chỉ dành cho người đi bộ
làm cho khung cảnh trở nên yên tĩnh, thanh lịch, không xô bồ bát nháo.
Chiều muộn, chúng tôi vào quán café Highland
bên bờ hồ. Hình như quanh hồ chỉ có 2 nơi được phép kinh doanh là quán
café này và nhà hàng Thủy Tạ cách đó không xa, cùng ở ven bờ tây. Các
bàn đặt ngoài trời, dưới tàng cây, mỗi bàn có một lọ hoa. Các tiếp viên
nam nữ ăn nói nhỏ nhẹ, lịch sự. Gần một nửa số khách là tây. Gía cả
cũng không đắt lắm nếu so với Thủy Tạ ĐàLạt. Café uống được nhưng không
ngon lắm. Chúng tôi thuộc loại dân sành điệu café vì đã uống đủ các loại
café tây nguyên gần 40 năm nên đến đâu cũng uống café đen để thưởng thức
và so sánh.
Trời tối dần. Gió mát dịu. Phố xá lên đèn
lấp lánh dưới ánh nước. Cảm giác ngồi ở đây thật thư thái, phần nào”lấy
lại cảm tình” của chúng tôi đối với thủ đô sau cảm giác chán ngán và bực
bội lúc mới vào trong một hoàn cảnh không thuận lợi.
Trước khi về nghỉ, chúng tôi gọi điện cho
các con và đến bây giờ mới báo cho chúng biết vụ chúng tôi bị tai nạn.
Các con đều lo lắng và khuyên chúng tôi nên đi kiểm tra và điều trị ở
bệnh viện. Vì BY vẫn đi lại được tuy đầu gối bắt đầu sưng lên và hơi cà
nhắc còn bàn tay tôi khá êm, vẫn có thể chạy xe được, tôi lại tin tưởng
ở ông thấy thuốc ở Thanh Hóa nên chúng tôi quyết định không vào bệnh
viện, sợ mất thời gian phiền phức. Chúng tôi định ở lại đây một tuần và
phải đi đây đó, đợi về lại SàiGòn sẽ kiểm tra một thể.
Đêm ở “nhà trọ tình yêu” hầu như chúng tôi
không ngủ được. Muỗi tấn công chúng tôi liên tục, nhưng nếu để quạt chạy
số lớn lại không chịu được. Nửa đêm chúng tôi phải gọi cho tiếp tân
nhưng anh chàng trực ngái ngủ bảo nhà trọ không có mùng. Đành chịu trận.
Có lẽ”nhà trọ tình yêu“ này cho thuê giờ là chính nên người ta không chú
ý việc này.
Sáng hôm sau, việc đầu tiên là chúng tôi đi
ăn sáng và tìm nhà trọ mới. Con trai lớn chúng tôi từng đi làm ăn qua Hà
Nội mấy lần mách cho chúng tôi tìm nhà trọ ở khu phố cổ. Thế là chúng
tôi đến ngay đó.
Khu phố cổ là khu vực Hà Nội 36 phố phường
xưa ở phía bắc hồ Gươm Chúng tôi chạy vòng vòng và không sao nhớ nổi
hết tên phố: Hàng Bạc, hàng Đào, hàng Lược, hàng Đường, hàng Chiếu,
hàng Gai… Có phố chỉ ngắn chừng trăm mét. Đường nhỏ, lề hẹp và đông đúc
kinh khủng, khách tây đi đầy đường. Nói là phố cổ nhưng nhìn bề ngoài
không thấy cổ lắm vì nhà nào cũng mở cửa hiệu kinh doanh, hàng hóa che
lấp không nhìn thấy rõ kiểu kiến trúc nhà. Đặc biệt khu vực này có hàng
trăm văn phòng dịch vụ du lịch. Một số là khách sạn lớn mới xây dựng làm
luôn văn phòng du lịch, còn lại phần lớn là những cửa hiệu nhỏ, thậm chí
chỉ là một mặt bằng nhỏ xíu vài mét vuông. Nhiều văn phòng lấy tên “Sinh
café” là một công ty du lịch nổi tiếng ở Sài Gòn. Những nơi đó, người ta
bán vé các tour du lịch đi Hạ Long, Hải Phòng, chùa Hương, Tây Bắc… và
đều có tờ quảng cáo in bằng hai thứ tiếng Anh, Việt có nội dung na ná
nhau.
Khách sạn , nhà trọ cũng nhiều không kém.
Ngoài các khách sạn mới xây dựng kiểu hiện đại, phần lớn các nhà ở được
sửa chữa lại để đón khách. BY vào xem có nơi chỉ là mấy căn phòng nhỏ
xíu trên gác nhưng vẫn có khách “tây ba lô” ra vào. Được cái những nơi
này gía cả phù hợp với túi tiền chúng tôi và chúng tôi mặc nhiên trở
thành khách du lịch “ ta ba lô”. BY chọn thuê ở một nhà trọ có lối vào
bên hông dài và hẹp chỉ lọt vừa chiếc xe gắn máy vì mặt tiền được cho
thuê làm cửa hàng kinh doanh nhưng bên trong có 4, 5 tầng và phòng ốc
rộng rãi, tuy hơi cũ. Dù sao cũng tốt hơn nhiều so với “nhà trọ tình
yêu” phố Thanh Nhàn. Nơi đây lại tiện đường đi các tour du lịch.
Thuê phòng xong, chúng tôi về nhà trọ cũ lấy
đồ chuyển sang nơi mới và đi bộ tìm chỗ ăn trưa. Ở đây có nhiều hiệu ăn
dành cho khách tây. Điều đặc biệt là tất cả đều có bản thực đơn để trên
giá đặt ngoài cửa, ngay trên lề đường. Khách tây đi qua đứng lại xem
thực đơn thấy thích thì vào. Đúng là một cách tiếp thị sáng tạo và hữu
hiệu, tuy không có vẻ văn minh lắm. Các tiệm cơm Việt Nam ít hơn và rất
xô bồ đông đúc. Các quán bán những món đặc sản truyền thống của Hà Nội
nhiều vô kể, bán ngay trên lề đường hoặc ở các đầu hẻm. Chúng tôi ăn thử
món bún chả ở một quán loại này.
Bún chả chúng tôi chẳng lạ gì vì ở Sài Gòn
thỉnh thoảng vẫn ăn nhưng ở đây cách ăn có hơi khác. Thay vì nươc mắm để
riêng, ăn đến đâu cho thêm nước mắm đến đó, người ta làm một tô nước mắm
nhạt thật to rồi cứ thế cho bún, chả vào vừa ăn vừa húp. Chúng tôi ăn
mãi không hết “xuất” của mình ( gọi là “xuất” thay vì “tô” như trong
nam). Kiểu ăn này không quen rất khó ăn. Dĩ nhiên đó là đối với chúng
tôi. Còn những khách khác là người Hà Nội, trong đó có mấy cô ăn diện
rất mốt, mắt xanh mỏ đỏ, cứ ngồi húp soàn soạt. Chúng tôi tiếc là đã ăn
đúng kiểu, ngay tại Hà Nội 36 phố phường mà vẫn không thấy ngon bằng ở
Sài Gòn.
Buổi chiều chúng tôi đi thăm cầu Chương
Dương và hồ Tây. Từ khu phố cổ đi ra phía sau không xa, chạy vòng lên đê
là đến cầu Chươgn Dương, chiếc cầu cũ bắc qua sông Hồng. Cầu cao và
không rộng lắm, xe ô tô chạy làn giữa, dưới vài cầu bằng sắt xám, hai
làn bên lộ thiên cũng rộng gần bằng làn giữa dành cho xe gắn máy, chỉ có
lan can thưa che chắn. Chạy trên cầu này mới thấy sông Hồng dữ dội. Sông
rộng, nhiều bãi cát, phía hạ lưu khói sóng cuộn lên mờ mịt. Gió thổi bạo
liệt. Chạy xe gắn máy không vững tay lái có thể bị quăng quật vào lan
can như chơi. Dân Hà Nội đã quen nên họ vẫn phóng xe như bay. Tay tôi
đau nên phải cố sức giữ ghì tay lái. Bây giờ là mùa xuân, không rõ đến
mùa mưa bão người ta sẽ đi như thế nào trên chiếc cầu này. Tôi qua cầu,
chạy thêm một khoảng xem phố xá ở Gia Lâm không thấy gì lạ nên quay lại,
chạy dọc theo đê Yên Phụ tìm đường đến hồ Tây.
Hồ Tây quả là rộng mêng mông. Tôi đọc báo
chí thấy nói về các làng hoa, vườn đào đã bị huỷ hoại nhiều do người ta
bán đất xây dựng các khách sạn và khu nhà biệt thự ven hồ nhưng không có
thời giờ đi xem, chỉ đứng trên đường Thanh Niên giữa hồ Tây và hồ Trúc
Bạch để ngắm cảnh. Hồ Tây có nhiều nhà hàng du thuyền và các trò chơi
dưới nước như chèo pédalo, đạp vịt… Trời chiều gío lạnh nhưng vẫn có
người chơi. Dọc đường ven hồ, nhiều cặp thanh niên nam nữ dựng xe ngồi
tâm tình nhưng hình như ít cảnh âu yếm trắng trợn như ở các công viên
Sài Gòn, tuy cũng có cặp hôn nhau. Bây giờ đối với một số thanh niên,
nơi tình tự an toàn và thơ mộng (?!) lại là chỗ công cộng giữa ban ngày
hay dưới đèn đường sáng trưng. Những người lớn tuổi như chúng tôi dù đã
qua một thời rất lãngmạn, cũng không hiểu nổi những “cảm xúc tình yêu”
như thế.
Ngắm cảnh hồ Tây một lúc chúng tôi vào nhà
hàng phía bên hồ Trúc Bạch để ăn bánh tôm. Gió mạnh và hơi lạnh, chúng
tôi phải ngồi ở góc khuất, không thể ngồi sát mép nước để vừa ăn vừa
thưởng ngoạn cảnh hồ. Bánh tôm hồ Tây nổi danh này chúng tôi ăn vẫn
không thấy ngon lắm, chẳng khác mấy với bánh tôm ở sàigòn. Chất lượng
của các món ăn truyền thống này đã kém đi, không phải chỉ ở Hà Nội mà
còn ở nhiều nơi khác, hay khẩu vị chúng tôi “ có vấn đề”. Lâu nay chúng
tôi đã quen chay tịnh. Một hũ yaourt, một trái chuối, một gói xôi, một
đĩa rau bí xào… đối ới chúng tôi nhiều khi ngon lành hơn các món sơn hào
hải vị.
Khi trở về cuối đường Thanh Niên có một hàng
cây nở hoa vàng rất đẹp, BY thích muốn chụp hình nhưng vì trời đã sụp
tối nên tôi chạy luôn.
*
* *
12.
Chúng tôi đã mua vé tour đi Hạ Long từ chiều
hôm trứơc và sáng nay người ta hẹn sẽ đến tận phòng trọ đón sớm. Việc
đến đón trễ gần một tiếng. Một hướng dẫn viên đi taxi đến đón chúng
tôi, trên xe đã có sẵn hai người khách Nhật. Hướng dẫn viên xuống xe đi
lo việc gì đó, bảo tài xế taxi đưa chúng tôi đến nơi có xe car lớn đậu
gần đê Yên Phụ để cùng đi với đoàn. Tài xế taxi đưa chúng tôi đến đó
nhưng tìm không ra xe car, phài dùng điện thoại di động liên lạc mãi
không được, cuối cùng được hướng dẫn đưa khách về trụ sở của công ty du
lịch ở đường Mã Mây. Tại đây một hướng dẫn viên khác đưa chúng tôi đi bộ
ra nơi đậu xe car ở một địa điểm khác. Quãng đường này không gần lắm nên
BY đi bộ nhiều bị đau đầu gối phải đi rất chậm. Chúng tôi trở thành
những người cuối cùng trong đoàn lên xe car.
Chiếc xe car lớn chở khoảng 50 người, trong
xe chỉ có hai chúng tôi và một cô gái là người Việt, còn lại đều là
khách nước ngoài. Quãng đường từ Hà Nội đi Hạ Long khoảng 170 cây số,
thời gian đi mất gần 4 giờ. Trên đường đi lúc qua địa phận Hải Dương,
khách được mời xuống nghỉ giải lao và mua hàng lưu niệm ở một cửa hàng
lớn mới xây dựng trong đó trưng bày nhiều hàng thủ công mỹ nghệ và bánh
kẹo đặc sản của địa phương. Khu vệ sinh xây dựng riêng cũng rộng rãi và
sạch sẽ. Phần lớn khách chỉ xem, ít mua sắm, có lẽ vì họ đang trên đường
đi tham quan, không muốn mang theo nhiều đồ đạc vướng víu.
Xe đến Bãi Cháy gần thành phố Hạ Long lúc
trưa. Bãi biển này không dài lắm hình vòng cung và bên trên có núi.
Nhiều khách sạn cao tầng mới được xây dựng trông rất bề thế, trong đó có
các khách sạn, theo tên gọi cho thấy liên doanh với Sài Gòn. Khách được
hướng dẫn vào ăn trưa ở một khách sạn. Thức ăn chỉ có món chả giò ăn
được, các món khác là hải sản chế biến nhưng quá dở. Chúng tôi ngồi
cùng bàn với hai vợ chồng gìa người Na Uy đi với cô con gái lớn và một
thanh niên người Pháp rất đẹp trai đi một mình. Chúng tôi nói chuyện xã
giao với họ vui vẻ. Trình độ ngoại ngữ chúng tôi lem nhem nhưng cũng nói
được đại khái tiếng Anh tiếng Pháp và đây là dịp để thực tập. Cô gái Na
Uy không biết bị bệnh gì mà không nói và không tự ăn được , đi lại khó
khăn, bố mẹ cô phải chăm sóc cô rất vất vả. Thấy thế chúng tôi giúp họ
và họ có vẻ cảm kích. Anh chàng người Pháp thấy BY nói được tiếng Pháp
rất thích thú, kể chuyện và hỏi han đủ thứ.
Ăn xong khách được mời lên xe chở ra bến tàu
để đi tham quan Vịnh Hạ Long. Đoàn chúng tôi được tách làm đôi, số
người đi tour một ngày cùng đi với nhau và số người đi tour 2 ngày đi
thành nhóm khác. Hai hướng dẫn viên hướng dẫn hai nhóm tự giới thiệu tên
và yêu cầu khách nhớ mặt họ để khỏi lạc nhóm. Kể cũng hơi khó cho họ vì
mới thoạt nhìn trong đám đông, chúng tôi cũng không phân biệt rõ hai
anh chàng quần áo, tầm vóc tương tự này.
Hướng dẫn viên mua vé lên tàu đưa cho khách
tự giữ để đi qua trạm kiểm soát lên cầu tàu. Từ đây, nơi tàu thuyền đậu
san sát ven bơ, có thể nhìn toàn cảnh Hạ Long.
Từ đất liền vô số hòn núi nhấp nhô chạy ra
giữa biễn trời mênh mông. Những ngọn núi không cao lắm, nhiều hình thù
nhưng vẫn có cái gì đó đồng dạng, hoặc đơn lẻ, hoặc kết thành khối, lô
xô khuất dần trong biển cả, in hình lên nên trời những nét mờ ảo như
trong tranh vẽ.
Chúng tôi xuống thuyền. Thuyền không lớn lắm
nhưng vững chắc. Phần lớn khách ngồi trong khoang phía dưới nhưng một ít
số leo cầu thang lên mái thuyền để tắm nắng và ngắm cảnh từ trên cao. Ở
đây có thể ngồi trên các ghế nhựa nhỏ hay ngồi bệt xuống sàn. Cô gái
Việt, dân Sàigòn ra Hà Nội công tác, chụp hình lia lịa và nhờ người khác
chụp hộ cảnh cô đứng làm dáng nhiều kiểu. Hai vợ chồng người Singapore
thỉnh thoảng trò chuyện với chúng tôi. Hai người khác, hình như là vợ
chồng, nhưng không rõ quốc tịch, ngồi im lặng tắm nắng, không trò
chuyện với ai và cũng không nói với nhau. Hình như họ có một nỗi buồn
nào đó. Một cô gái New Zealand và cô gái Hàn Quốc kéo ghế ra ngồi gần
mép mái thuyền.
Thuyền từ từ tiến sát đến hòn núi gần nhất
rồi len lỏi đi qua các hòn khác. Đây là núi đá vôi giống núi ở động
Phong Nha nhưng ít cây hơn, nhiều hòn chỉ là những khối đá đủ dạng hình
thù nổi lên từ mặt biển, trong đó có hòn Gà Chọi với hình dáng hai con
gà đang sửng cồ đá nhau. Lênh đênh trên biển giữa vô vàn núi đá này
người ta có cảm giác như đi trong một mê đồ trận kỳ ảo ngoài trần the,
rất dễ lạc lối về.
Sau một lúc chạy vòng vèo ngắm cảnh, thuyền
cập bến để khách vào viếng động Thiên Cung. Muốn vào động phải leo
khoảng trăm bậc cấp lên lưng chừng núi mới đến cửa động. Đã đi Phong Nha
nên chúng tôi không thấy ngạc nhiên với động Thiên Cung dù ở đây cũng
rộng, nhiều hình thù kỳ dị không kém. Sự khác biệt và cũng kém hấp dẫn
ở đây là néon quá sáng và dấu vết nhân tạo nhiều quá, người ta làm
nhiều bậc cấp, cả những chiếc cầu gỗ có tay vịn để khách dễ đi lại
nhưng chính vì thế mất đi vẻ mê cung huyền ảo.
Sau khi xem động Thiên Cung, khách được
hướng dẫn đi men sườn núi sang xem hang Đầu Gỗ cách đó khá xa. Con
đường này được sửa sang khá rộng và đi lại an toàn. Hang Đầu Gỗ cũng có
dạng tương tự như động Thiên Cung nhưng nhỏ hơn đôi chút.
Máy ảnh của tôi sắp hết phim, tôi đã mua một
cuộn phim dự trữ nhưng lại để quên trong xắc bỏ dưới thuyền. Cô gái
Sàigòn rất cởi mở và vui vẻ sẵn sàng chụp cho chúng tôi một số kiểu và
hứa về Sàigòn sẽ gởi ảnh cho chúng tôi. BY tuy đau chân nhưng vẫn cố
khập khiễng đi theo mọi người vì không lẽ ra tận đây mà ngồi một chỗ.
Xem xong, chúng tôi xuống thuyền đã đến đậu
sẵn dưới hang Đầu Gỗ để trở về. Sau khi leo trèo mỏi mệt, ngồi trên mái
thuyền, tận hưởng làn gió mát trong biển trời về chiều, ai cũng lim dim
ngây ngất.
Trên đường về, xe chúng tôi phải chở thêm
mấy người khách tây của một đoàn khác gởi đi nhờ một chặng đường để
sang xa khác đi Hải Phòng. Họ phải ngồi ghế “xúp” ở giữa. Đây chắc là
chuyện lạ ở Việt Nam đối với họ. Hai hướng dẫn viên nói tiếng Anh khá
trôi chảy tuy một trong hai người phát âm quá tệ. Họ nói với khách rất
lịch sự, luôn mồm “ I’m sorry”, “ Thank you very much”, “Thanks for your
help”. Nhưng khi nói với nhau bằng tiếng Việt lại chửi thề và văng tục
lia lịa làm chúng tôi và cô gái Sàigòn lắc đầu. Hai xe cũng ngừng giải
lao ở một cửa hàng bán đồ lưu niệm tương tự cửa hàng lúc đi. Đây là sự
kết hợp thuận tiện rất đáng hoan nghênh.
8 giờ tối xe về đến Hà Nội, đổ khách ở trước
rạp múa rối nước đầu Hồ Gươm và khách tự về. Chúng tôi tiếc đã không đi
tour 2 ngày, sẽ được dạo chơi trên biển nhiều hơn và ngủ lại đêm ở đảo
Cát Bà. Tour 1 ngày đi về mất đến hai phần ba thời gian và khá mệt nhọc
trong khi giá vé tour 2 ngày không mắc hơn bao nhiêu ( Tour 1 ngày
180.000đ / người , Tour 2 ngày 230.000đ / người). BY tiếc rẻ nhưng tôi
an ủi nói lần sau sẽ rút kinh nghiệm. Biết đến bao giờ nhưng cứ nói đại
cũng không sao (?!)
13.
Ngày thứ ba chúng tôi tôi tiếp tục đi thăm
thú Hà Nội.
Khu phố cổ quả là đông đúc và chật chội. Đi
bộ phải đi dưới lòng đường vì lề quá hẹp, lại để đầy xe gắn máy. Con
đường nhìn ra Hồ Gươm đang bị công an dọn dẹp, nhiều bảng hiệu đồ đạc
treo lấn ra lề bị giật xuống nhưng phía trong này chắc công an phải chào
thua. Tuy vậy khách tây ba lô có vẻ khoái khu vực này, họ đi nhan nhản
và cùng chen lấn với người Việt rất tự nhiên.
Các tiệm dịch vụ Internet không nhiều lắm. Ở
các đường phía gần hồ giá lên đến 12.000đ/ giờ trong khi cách đó chùng
trăm mét, ở các đường phía sau giá chỉ có 3000đ/ giờ. Dĩ nhiên chúng tôi
phải chịu khó đi xa hơn khách tây.
Sinh hoạt phố phường Hà Nội có nhiều đặc
trưng lạ mắt đối với chúng tôi và có lẽ đối với người ở xa đến, theo
chúng tôi có cái chấp nhận được nhưng có cái không được đẹp mắt hay
không có vẻ văn hóa lắm đối với một thủ đô.
Các quán trà lề đường là một đặc trưng
truyền thống. Chỉ cần một ấm tích, vài chiếc cốc, một giỏ đựng kẹo,
thuốc lá và một ống thuốc lào, một chiếc bàn thấp, vài chiếc ghế đẩu đặt
bên lề đường, các bà hàng đã có thể hành nghề quanh năm. Thậm chí ở
trước chợ Đồng Xuân, tôi thấy tất cả đồ lề của bà hàng chỉ đặt gọn trong
một chiếc giỏ xách. Không cần bàn ghế mà chỉ có mấy chiếc đòn nhựa,
khi có khách bỏ mất chiếc đòn ra, cái làm ghe, cái làm bàn. Phải thừa
nhận uống trà ở những quán này rất tuyệt, nhất là về đêm. Trời lạnh,
uống một cốc trà nóng bỏng miệng thấy ấm cả người, giá lại đặc biệt rẻ,
chỉ có 500đ một cốc, có nơi 200đ, một giá không đâu có.
Buổi sáng chúng tôi đi mua bánh mì nhưng tìm
mãi không thấy. Hỏi và được chỉ ngay trước mắt. Hóa ra mấy bà mấy cô
đi bán rong đội một cái rổ lớn trên đầu trong đựng bánh mì được phủ kín
bằng một một cái bao tải cũ kỹ. Một số khách tây rành hơn chúng tôi ra
hiệu gọi đến mua nhưng một số khác có vẻ ngạc nhiên và xin phép chụp
hình.
Cảnh By không thích nhất là các cô đi xe đạp
chở hoa bán dạo. Phía sau xe người ta buộc một cái mẹt khá lớn và hoa
được dặt trên đó, xếp như rau, nhiều cành héo úa trông rất thảm
thương. Đã quen với các hàng hoa ở chợ Đà Lạt hay các chợ, các tiệm hoa
ở Sài Gòn nên nảy sinh ra sự so sánh không vui. Ở những nơi này hoa
được bỏ trong chậu tưới nước thường xuyên và xếp trông rất mỹ thuật,
chưa kể có loại đã được bọc giấy kiếng sẵn, làm thành lẵng hoa hay đặt
lên những gía nhiều kiểu dáng. Cách bán hoa trên mẹt này giống với cách
bán rau cải rong của một số dân mới nhập cư vào Sàigòn.
Nhiều người lái xe ôm mặc đồ bộ đội, đội nón
cối, một số khác ăn mặc nghiêm chỉnh, mang giày. Những người đạp xích lô
ăn mặc cũng đàng hoàng nhưng nhiều người lại mặc veston, trông không
hợp tí nào với công việc đang làm và chắc cũng sẽ rất vướng víu nóng
nực. Dù là xích lô chuyên dùng để chở khách nước ngoài đi dạo phố, có lẽ
cũng không cần qúa trịnh trọng như thế.
Chúng tôi chạy xe qua hầu hết các đường phố
chính. Vài đường lớn xe cộ đông đúc như ở Sài Gòn nhưng những đường khác
vắng hơn nhiều. Một số đường ở quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng nhiều bóng
cây xanh mát nhưng ở các quận khác, những đường lớn mới mở nắng nóng
không thua gì Sài Gòn.
Chúng tôi cũng đi thăm Văn Miếu và Chùa Một
Cột. Chùa Một Cột nằm lọt trong khu vực lăng Hồ Chí Minh và các cơ quan
bảo vệ, muốn vào phải qua cổng một cơ quan và đi ngõ sau vào chùa. Chùa
này rất nổi tiếng, có gía trị lịch sử và kiến trúc, xây dựng từ đời Lý,
đầu thế kỷ 15, nhưng chỉ là một chùa nhỏ xíu dáng đài hoa sen đứng
trong một cái hồ nước vuông xây bằng xi măng có thả sen cũng rất nhỏ,
mỗi cạnh chừng vài mét.
Chúng tôi chạy ngang qua quãng trường Ba
Đình và lăng HCM nhưng không vào. Quãng trường rộng, nhiều bãi cỏ được
cắt xén chăm sóc kỹ, cách khoảng có lính đứng gác. Một rặng tre lớn phía
trước bên trái đang được tưới bằng vòi nước phun. Đây là rặng tre duy
nhất từ xưa đến nay tôi được thấy chăm sóc kiểu này. Lăng xây bằng đá
đỏ, buổi chiều tắt nắng thẫm lại trông âm u, phía trước có dựng mấy
vòng hoa đã hơi héo.
Khi đi về, ông chủ nhà trọ hỏi chúng tôi có
vào thăm Bác không, Bác đang ngủ yên trong đó. BY nói thôi để bác ngủ
đừng quấy rầy Bác làm gì. Lần trước ra Hà Nội tôi đi qua lại quãng
trường Ba Đình nhiều lần nhưng cũng không vào thăm lăng HCM. Tôi không
tán thành việc xây lăng và không thích nhìn xác ướp, dù là của bất cứ
ai. Vả lại điều này không đúng di chúc của HCM. Ước nguyện của HCM trước
khi mất là
Xét theo văn bản di chúc, đó là một nguyện
vọng thật chính đáng và cao qúy, thể hiện tấm lòng thương dân thương
nước và sự hy sinh tột cùng không nghĩ đến bản thân. Di chúc của người
chết là linh thiêng, nhất lại là của lãnh tụ một nước. Thế nhưng người
ta không tôn trọng, lại làm trái ý nguyện đã được ghi rõ ràng trong di
chúc. Việc xây dựng và bảo vệ lăng làm hao tốn bao nhiêu tiền của nhân
lực của đất nước, không chỉ một lần mà còn về lâu về dài. Việc ướp xác
và bảo quản, càng về sau càng khó khăn khi xác bị phân hủy không thể cứu
vãn, cũng làm mất đi sự tôn kính đối với lãnh tụ. Hình thức tôn kính chỉ
cần một tấm ảnh, một bức tượng, thậm chí không cần đến những biểu tượng
vật chất. Đánh gía đúng mức sự vĩ đại của lãnh tụ, hiều thấu tư tưởng,
học tập việc làm, tiếp tục phấn đấu thực hiện ước vọng của lãnh tụ, đó
là cách tôn kính tốt đẹp và gía trị nhất. Còn viếng thăm hương hoa nhang
khói nhưng không có nội dung trên thì sự tôn kính đó chỉ là hình thức vô
nghĩa, thậm chí giả hình hay mù quáng, hoặc chỉ nhằm mục đích lợi dụng
cho những ý đồ không trong sáng.
Chúng tôi đi thăm hồ Thiền Quang. Gia đình
BY có thời gian sống ở khu vực này lúc BY mới 1, 2 tuổi. Dĩ nhiên BY
không nhớ gì nhưng anh của BY nói nhà cũ của gia đình ở trong một phòng
của một ngôi nhà 3 tầng trên con đường gần hồ. Chúng tôi chạy chầm chậm
quanh hồ, thấy có vài căn nhà 3 tầng có vẻ cổ, hiện đang là trụ sở của
các cơ quan nhà nước, chẳng biết cái nào là nhà xưa còn sót lại trong
khi nửa thế kỷ đã trôi qua. Chúng tôi chỉ còn biết chụp mấy tấm hình ở
bờ hồ làm kỷ niệm.
Chúng tôi cũng trở lại hồ Gươm, gởi xe đi bộ
để cảm nhận hết vẻ đẹp cuả hồ. Công viên ven hồ có ưu điểm là rộng
thoáng, nhiều cây , sạch sẽ làm mặt nước trở nên dịu dàng và trữ tình.
Thỉnh thoảng gặp một đôi trai gái đang ngồi trò chuyện hay một người lớn
tuổi im lặng ngồi hút thuốc trầm tư một mình. Giữa cuộc sống xô bồ căng
thẳng náo nhiệt hiện nay, bờ hồ có thể trở thành nơi tĩnh tâm cho một số
người muốn lắng lòng trở lại với chính mình. BY gợi chuyện một bà lớn
tuổi cũng đang ngồi một mình. Bà nói Hà Nội có nhiều hồ và dân nghèo Hà
Nội sống được nhờ hồ. Họ ra hồ để thở khi ở trong nhà không còn thở nổi.
Chúng tôi chụp hình bên tháp Bút, đền Ngọc
Sơn, cầu Thê Húc. Trong đền chúng tôi chỉ đi lướt qua vì không thích các
mái quá thấp làm những gian thờ trở nên âm u và lại nồng nặc mùi khói
nhang trong khi một nhóm du khách đang kiên nhẫn đứng lắng nghe thuyết
minh. Từ đền Ngọc Sơn có thể chụp một bức hình gần toàn cảnh hồ Gươm
theo hướng bắc – nam với một cái tháp cũ kỹ đứng xa xa giữa hồ.
Trước đền Ngọc Sơn và ở nhiều thắng cảnh
khác của Hà Nội, có nhiều người chụp ảnh dạo, đặc biệt rất nhiều phụ nữ
làm nghề này. Hình như đây cũng là một nét đặc trưng của Hà Nội.
Buổi tối chúng tôi chạy vòng vòng khu phố
cổ tìm tiệm ăn, tình cờ chạy ngang hiệu Chả Cá Lã Vọng ở số 14 phố Chả
Cá. Tôi đã biết về sự nổi tiếng của hiệu ăn và gần đây có đọc mấy bài
báo về hiệu ăn này, nơi đã được thành lập từ 100 năm trước qua 5 đời cha
truyền con nối và chỉ có một cửa hiệu duy nhất ở Hà nội. Chúng tôi đoán
gía cả sẽ rất đắt nhưng quyết định xài sang một bữa.
Hiệu ăn nhỏ, phải leo lên cầu thang gỗ vì
bàn ăn bày trên gác. Căn gác gỗ đèn không sáng lắm vì hình như ám khói
và khói cũng đang nghi ngút ở các bàn vì người ta dùng lò than. Cá được
lóc xương, cắt thành miếng hình chữ nhật dày ướp nhiều thứ gia vị, nấu
trong nồi đất với một thứ nước sền sệt màu vàng nghệ sôi sùng sục trên
lò than. Cá ăn với bún và nhiều loại rau đặc biệt, trong đó hành ngò,
thìa là phải trộn ngay vào cá trong nồi.
Hiệu ăn khách tây nhiều hơn khách ta, chắc
vì được giới thiệu trong các sách hướng dẫn du lịch. Căn gác nóng bức dù
quạt máy đặt nhiều nơi chạy vù vù. Giá quả nhiên đắt: 80.000đ / xuất /
người chưa kể đồ uống nhưng đối với chúng tôi lại không ngon bằng bánh
cuốn ở một tiệm nhỏ trên phố Lò Đúc, nơi chúng tôi ăn sáng khi tình cờ
chạy ngang, gía chỉ vài ngàn một đĩa.
14.
Ngày kế tiếp chúng tôi theo tour du lịch đi
Chùa Hương. Lần này hướng dẫn viên lại đến đón quá sớm, chúng tôi chưa
kịp chuẩn bị xong, anh ta phải đi đón người khách khác ở gần đó rồi quay
lại. Đó là một thanh niên người Anh nhưng hơi giống Ấn Độ, chúng tôi
đóan và sau này nói chuyện anh xác nhận đúng là gốc Ấn.
Cũng khác với lần trước, lần này chúng tôi
được taxi chở đến tận nơi xe car đậu nhưng lại phải chờ những người khác
đến gần một tiếng xe mới khơi hành. Tình trạng này cho thấy cách làm
việc rất linh hoạt nhưng không chu đáo của các công ty du lịch ở đây như
anh chàng hướng dẫn viên thích trò chuyện nói cho chúng tôi rõ. Các văn
phòng dịch vụ du lịch ở nhiều nơi bán vé cho khách rồi báo lại cho công
ty du lịch. Các văn phòng dịch vụ bán vé không trực thuộc và có thể giao
khách cho bất cứ công ty nào. Xe chở khách lớn hay nhỏ lại là xe thuê
từng chuyến tùy theo số lựơng khách. Hướng dẫn viên chia nhau đi đón
khách khắp nới từ 5g sáng, sau đó đi theo đoàn nên rất vất vả nhưng
lương chỉ 50.000đ / ngày, hôm nào nghỉ làm không có lương.
Các chỗ ngồi trên xe đã đầy khách nhưng vẫn
còn một số đứng ở dưới chờ. Có hai người Pháp chúng tôi đoán là hai cha
con, có vẻ bực bội. Ông bố nhỏ con, ria mép dày điểm bạc, anh con trai
cao to, đầu húi trụi. Họ đi lên đi xuống càu nhàu vì không biết ngồi
đâu, cuối cùng được cho ngồi ghế “xúp” ở giữa lối đi mới được lật ra,
cùng với mấy người nữa. Tây sang ta cũng phải “nhập gia tùy tục” thôi.
Quãng đường từ Hà nội đi Chùa Hương thuộc
tỉnh Hà Tây chỉ có 70 cây số nhưng rất xấu nên xe đi mất gần 2 tiếng.
Không hiểu sao một tuyến đường du lịch đông khách như thế mà người ta
không chịu sửa sang cho đàng hoàng. Gần tới nơi, xe dừng lại cho hướng
dẫn viên vào mua vé mới được vào. Khi xe dừng, có mấy người đến mời đổi
tiền lẻ. Họ cầm từng xấp tiền loại 200 đ. Sau này chúng tôi mới hiểu là
khách hành hương cần tiền lẻ để cúng trong các chùa. Mỗi chùa có rất
nhiều chỗ cúng nên khách phải có tiền lẻ để cúng khắp lượt.
Xe vào đậu trước mấy quán ăn bên bến thuyền
gọi là Bến Đục đợi hướng dẫn viên sắp xếp thuyền đi. Ở đây không có nhà
vệ sinh sạch sẽ như chuyến đi Hạ Long, khách phải xếp hàng dài trước toa
lét chật chội của quán ăn. Nơi đây cũng có nhiều hàng quán bán bánh kẹo
đặc sản và đồ lưu niệm. Hướng dẫn viên khuyên chúng tôi nên mua nón rộng
vành bày bán ở đây để đội vì phải ngồi thuyền đi 3 cây số hơn một giờ
dưới nắng gay gắt. Từ bến thuyền nhìn dọc theo suối Yến (thực ra là sông
vì khá rộng nhưng người ta quen gọi là suối ) thấy cơ man nào là thuyền
nhỏ đậu san sát như lá tre, không phải hàng trăm mà là hàng ngàn, chỉ
chừa một lối trống nhỏ ở giữa. Mỗi thuyền của đoàn chúng tôi chở tối đa
10 khách nhưng những thuyền khác của khách hành hương có đến hơn 20
người, họ ngồi chen chúc sát nhau trong khoang và cả hai bên mạn thuyền
làm mép thuyền chìm xuống xấp xỉ mặt nước. Phần lớn khách là phụ nữ
trong đó có nhiều bà gìa và trẻ em.
Trừ hai chúng tôi, cả đoàn còn lại đều là
khách nước ngoài, chia ra ngồi bốn thuyền. Thuyền của chúng tôi ngồi có
một cô gái Mỹ gốc Hàn Quốc, cô gái New Zealand mà chúng tôi đã gặp trong
chuyến đi Hạ Long, thanh niên Anh gốc Ấn, anh chàng Pháp “con” và mấy
người nữa. Chúng tôi chuyện trò vui vẻ.
Cô gái Mỹ gốc Hàn lúc trên xe ngồi cạnh tôi
yêu cầu tôi dạy cô nói một số câu tiếng Việt tỏ ra rất thích thú và
thực tập liên tục. Cô nói trước khi đến cô không ngờ dân Việt Nam dễ mến
như thế.
Anh chàng Pháp “con”, khoảng 30 tuổi, nói
luôn mồm. khi tiếng Pháp khi tiếng Anh, có vẻ hơi ba trợn. Anh ta tán
tỉnh cô gái Mỹ gốc Hàn và dám hỏi” Voulez - vous coucher avec moi ce
soir? “. BY cảnh cáo anh ta nếu nói với gái Việt Nam như thế sẽ bị ăn
bạt tai. Anh ta cười nói chỉ đùa cho vui thôi.
Thuyền do hai người chèo tay, một người đàn
ông và một phụ nữ đứng ở hai đầu thuyền. Họ chèo khá vất vả và dù cẩn
thận thuyền vẫn luôn va chạm với các thuyền đậu hai bên hay đi ngược
chiều vì lối trống ở giữa quá chật. Hình như đây là chuyện quá bình
thường nên khi va chạm mọi người đều cười xòa vui vẻ chứ không ai cáu
gắt. Càng vào sâu, cảnh vật hai bên càng đẹp, nhiều cây xanh và xóm làng
thưa thớt, thỉnh thoảng có vài ngọn núi nhỏ. Thuyền đi hơn một giờ mới
đến bến trong, đúng là một lối vào thắng cảnh độc đáo.
Dọc theo sông ở bến trong lại thấy vô số
thuyền đậu và trên bờ hàng quán san sát. Ở đây ngoài bánh kẹo đặc sản,
hàng lưu niệm, người ta còn bán thức ăn uống, đồ cúng, thuôc chữa bệnh (
các loại thuốc nam cây cỏ, củ) và cả gậy tre để chống. BY cũng mua một
chiếc gậy vì chân đau và đường lên núi đá dốc trơn trợt.
Từ dưới bến thuyền lên khỏi dốc đá đến một
mặt bằng khá rộng phía trước chùa Thiên Trù, một chùa lớn. Ở mặt bằng
này người ta lại dựng hàng quán, có quán ăn rộng với năm, bảy chục bàn.
Ngoài ra còn có nhiều nhà trọ cho khách nghỉ qua đêm, nhìn vào thấy
giường, sạp để san sát dưới các mái tôn hay ni lông che tạm bợ. Ngày hôm
nay lúc chúng tôi đi khách không đông lắm. nhưng nhìn quang cảnh này
cũng biết vào mùa lễ hội hay ngày nghỉ khách hành hương sẽ tấp nập như
thế nào, nghe nói lên tới hàng chục vạn.
Hướng dẫn viên thông báo sẽ dẫn khách đi
viếng động Tiên Sơn, động Đại Bình, trở về chùa Thiên Trù, sau đó sẽ
viếng chùa Hương Tích là chùa chính ở sâu trong núi. Các động đều có
chùa và chùa thường ở trong động. Các chùa, động này nằm rải rác trong
một vùng núi rừng rộng lớn.
Leo các bậc cấp và dốc đá lên chùa Tiên Sơn,
chúng tôi và một vài khách lớn tuổi phải dừng lại mấy lần để nghỉ. Điểm
độc đáo của chùa Tiên Sơn ở chỗ lối vào là một khe đá hẹp chỉ vừa một
người đi lọt nhưng vào trong động mở rộng ra thành nơi thờ cúng của một
ngôi chùa. Chùa này nằm lưng chừng một ngọn núi.
Sau chùa Tiên Sơn, chúng tôi theo đường dốc
đá đi xuống một thung lũng phía sau khá sâu để đến động Đại Bình. Vào
động này phải leo xuống hang đá tối om nhưng bên dưới động mở ra rộng
rãi có nhiều ngăn. Tượng Phật được đặt trên các bệ, các hốc đá tự nhiên
và nhang khói nghi ngút. Đi vòng hết động, khách sẽ trở lên trên theo
một cửa hang khác.
Từ động Đại Bình, chúng tôi lại trèo ngược
lên đường cũ một quãng rồi theo một đường khác vòng quanh sườn núi trở
về chùa Thiên Trù. Giữa đường có một chỗ bằng rộng người ta dựng quán
bán nước giải khát, có sạp, võng cho khách dừng nghỉ chân.
Về đến trước chùa Thiên trù, đoàn khách được
hướng dẫn viên đưa vào một quán ăn và phải chờ khá lâu mới được ăn một
bữa không lấy gì làm ngon miệng. BY lui phía sau tìm một toa lét và trở
ra lắc đầu nói nếu vào bếp rồi sẽ không dám ăn vì người ta làm quá bẩn,
thấy phát sợ. Chúng tôi phải đi tìm nhà vệ sinh cho thuê cách quán ăn
khá xa. Đúng là vấn đề vệ sinh ở đây quá kém và trong những ngày số
khách hành hương đông đảo không hiểu người ta sẽ giải quyết thế nào.
Khách tây đi một lần chắc tởn tới gìa.
Ăn uống xong, hướng dẫn viên tuyên bố: Khách
tiếp tục xem chùa Thiên trù, sau đó ai muốn vào chùa Hương Tích tự đi
nhưng phải có mặt ở quán ăn trước 3g chiều để kịp trở về. Anh ta dọa
nếu dẫn khách vào chùa Hương Tích phải đi mất vài tiếng và leo trèo rất
mệt nhọc, không phải ai cũng đi nổi. Theo chúng tôi thấy một phần do
thời gian ít, phần khác hai hướng dẫn viên này, hai thanh niên cũng rất
mệt nhọc. Một trong hai người đang bị ho,sổ mũi. Kể cũng tội cho họ. Nếu
ngày nào cũng dẫn khách đi tuyến du lịch này sẽ không chịu nổi vì rất
mệt và nhàm chán.
Trước hoàn cảnh đó, chúng tôi cũng không
muốn đi xa nữa, nhất là BY đang bị đau chân. Chúng tôi vào xem và la cà
trong khu vực chùa Thiên Trù , một chùa rộng, trước sân có nhiều bậc
thềm và có hàng cây râm mát bao quanh. Động Thủy Sơn ở sau chùa không có
gì đặc sắc so với động Tiên Sơn và Đại Bình vì động nhỏ, phần lộ thiên
nhiều hơn.
Người ta cúng dường bằng cách để tiền lẻ vào
các bát nhang trong chùa sau khi cầu xin van vái. Trước hiên chùa có đặt
một bàn làm việc, ở đó ai cúng dường nhiều tiền được ghi sổ và cấp một
giấy chứng nhận công đức. Ở đây hình như tín ngưỡng, mê tín và sự tham
lam vị kỷ lẫn lộn trong một hình thức buôn thần bán thánh khá kỳ quặc,
thể hiện tâm lý và trình độ của khách hành hương. Trước đây báo chí còn
nói đến việc làm chùa giả và các hình thức bịp bợm để làm tiền. Những
việc làm quá lố đã bị ngăn cấm nhưng nói chung các hình thức mê tín dị
đoan, các trò lễ lạt rườm rà gọi là phục cổ, về nguồn, văn hóa dân tộc
vẫn tiếp tục phát triển và còn được khuyến khích.
3giờ chiều, đoàn chúng tôi trở về. Hướng dẫn
viên yêu cầu ai đi thuyền nào về lại thuyền đó. Ngồi với nhau trong
khoang thuyền hẹp một thời gian khá lâu, nói chuyện nhiều, chúng tôi hầu
như trở thành bạn. Thanh niên Anh gốc Ấn nói từ nhỏ đến nay chưa lần nào
về thăm Ấn Độ dù bố anh về nhiều lần. Anh mới tốt nghiệp đại học và gia
đình cho đi du lịch suốt một năm liền, anh hy vọng trong dịp này sẽ về
thăm Ấn Độ. Anh có vẻ ngạc nhiên khi biết chúng tôi đã từng học Yoga với
những ông thầy Ấn trong khi anh biết về yoga rất lơ mơ. Chụp ảnh chung
với chúng tôi bằng máy ảnh kỹ thuật số, anh hứa khi về anh sẽ gửi tặng
cho chúng tôi qua email.
Anh chàng Pháp “con” làm nghề kinh doanh địa
ốc, có vẻ ba trợn nhưng lại thích nói chuyện chính trị. Anh ta bảo đến
Hà Nội nói chuyện với sinh viên khi đề cập đến vấn đề chính trị họ đều
tỏ ra sợ hãi lãng ra vì sợ bị nghe lén. Khắp nơi đều có tai vách mạch
rừng. Tôi gặng hỏi anh ta đến Hà Nội lâu chưa và có tiếp xúc với nhiều
sinh viên không mà biết chuyện đó. Anh ta bảo những điều đó anh chỉ mới
đọc thấy trong một số sách báo ở nước ngoài thôi. Anh ta bảo anh ta ghét
chính trị, không ưa các lãnh tụ vì phần đông chuyên nói dối và chỉ vì
quyền lợi của mình, không ưa cả chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư
bản. Tôi nói tôi cũng không ưa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản,
tôi còn không ưa chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa bá quyền nước lớn
và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Tôi thích chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa
vũ trụ. Nghe tôi nói, hai anh chàng Anh gốc Ấn và Pháp “con” đều kêu lên
tán thành: “Chúng tôi cũng thế”. Sau đó anh chàng Pháp “con” còn làm bộ
chỉ tay sang các thuyền đi gần bảo coi chừng có các lỗ tai đang lắng
nghe.
Trước khi rời thuyền, có chuyện không hay là
bà chèo thuyền đòi tiền bồi dưỡng ( dù công ty du lịch đã trả tiền
thuê tính trong vé ). Ai cho ít bà ta đều cằn nhằn, nói những câu khó
nghe. Điều này cũng chứng tỏ việc tổ chức tour còn nhiều bất ổn.
Trên chuyến xe về, tình cờ ông Pháp “bố” lại
ngồi gần chúng tôi. Ông này rất thích nói chuyện, cứ ba hoa luôn mồm.
Ông bảo ông thích Hà Nội hơn Sài Gòn vì Sài Gòn có nhiều ăn mày quá. BY
giải thích Sài Gòn có nhiều ăn mày vì dân đông và phần lớn ăn mày đều là
dân mới nhập cư, trong đó có khá nhiều dân miền Bắc vào. Ông ta gật gù
có vẻ hiểu ra. Chúng tôi nhớ lại hôm đi Hạ Long, hai anh bạn Nhật bảo
thích phong cách người Sài Gòn hơn Hà Nội. Đối với người nước ngoài,
những cảm nhận này tùy thuộc vào tâm lý, sự hiểu biết và hoàn cảnh tiếp
xúc của họ, khác nhau là chuyện thường.
Trên đường về, trời đã gần tối, ngang qua
thị xã Hà Đông, nhiều người tình cờ nhìn qua cửa kính thấy trong một cửa
hàng một phụ nữ đang nhảy chồm chồm lên la hét xỉa xói vào mặt một người
đàn ông. Anh chàng hướng dẫn viên buột miệng nói: “Sư tử Hà Đông đó”.
Khách nhao nhao lên hỏi sư tử Hà Đông là gì làm anh chàng bối rối phải
giải thích rất dài dòng mà có người vẫn tỏ ra không hiểu.
Lại cũng đến gần 8 giờ tối xe mới về đến Hà
Nội, đỗ trước nhà múa rối nước cạnh hồ Gươm. Đi tour trong ngày mà đi xa
quả thật mệt.
Khi về nhà trọ, ông chủ hỏi chúng tôi có vào
động Hương Tích chưa, chúng tôi bảo chưa, ông tỏ ra tiếc rẻ. Ông nói đi
chùa Hương mà chưa vào động Hương Tích cũng như chưa đi. Chúng tôi cũng
biết điều đó vì đã nghe Hương Tích là “Nam thiên đệ nhất động” nhưng
trong hoàn cảnh tour du lịch vừa qua đành chịu. Tuy nhiên đã đi Phong
Nha và Hạ Long xem động nên chúng tôi cũng không tiếc lắm. Đọc trong
sách thấy mô tả động Hương Tích cũng tương tự, chỉ khác là có chùa.
15.
Ngày cuối trước khi gĩa từ Hà Nội, chúng tôi
quyết định đi thăm mấy người quen đặc biệt. Đó là những người được gọi
là bất đồng chính kiến hay nhóm dân chủ ở Hà Nội. Trong quá trình hơn 10
năm trước, qua các bài viết, chúng tôi đã quen biết theo nhiều hình thức
một số người ở đây.
Tướng Trần Độ đã gặp chúng tôi nhiều lần ở
Đà Lạt nhưng ông đã mất năm ngoái. Nhà vật lý địa cầu, tiến sĩ Nguyễn
Thanh Giang tôi cũng đã gặp một lần ở ĐàLạt, thỉnh thoảng có điện thoại
và năm nào ông cũng gởi thiệp chúc Tết cho chúng tôi. Thủ lĩnh “Xét lại
chống đảng” Hoàng Minh Chính thường xuyên thăm hỏi, gởi quà cho chúng
tôi nhân những ngày lễ tết lớn trong năm. Nhà văn Hoàng Tiến vẫn gởi
những bài viết mới cho chúng tôi đọc. Cựu đại tá quân đội , nhà sử học
Phạm Quế Dương có lần vào Lâm Đồng đến thăm chúng tôi trong thời gian
tôi bị quản chế, bị công an canh gác chặn lại không cho vào. Nhà thơ Tú
Sót đã viết tặng tôi một bức thư pháp bài thơ “Đăng U Châu đài ca” của
Trần Tử Ngang…
Nói chung chúng tôi quen họ trong tinh thần
“ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” và nhiều người chỉ là “văn
kỳ thanh bất kiến kỳ hình”. Tuy nhiên tình cảm chúng tôi dành cho họ và
họ dành cho chúng tôi rất đặc biệt. Chúng tôi gặp nhau, đồng cảm trong
tư tưởng đấu tranh cho tự do dân chủ giữa một bối cảnh đất nước đã độc
lập thống nhất nhưng lại nằm dưới sự cai trị của một đảng độc quyền, sau
gần 30 năm vẫn là một trong những nước nghèo đói lạc hậu nhất thế giới.
Chúng tôi là một thiểu số quá ít, chỉ chừng vài mươi người trong một đất
nước gần 80 triệu dân và tất cả chúng tôi đều đã bị đàn áp bằng nhiều
cách.
Ra Hà Nội, đi thăm những ngừơi này là một
việc làm khá nguy hiểm. Đặc biệt trong thời gian gần đây, nhà nước đang
gia tăng việc đàn áp. Đưa ra tòa xử tù nặng hai người trẻ là luật sư Lê
Chí Quang và nhà báo Nguyễn Khắc Toàn. Bắt giam một loạt mấy người trẻ
khác như bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình… Gần hơn bắt Phạm
Quế Dương và Trần Khuê lúc PQD vào thăm TK ở Sàigòn. Mới nhất trước Tết
bắt Trần Dũng Tiến.
Chúng tôi quá hiểu rõ tình hình bao vây
phong tỏa thường trực những người bất đồng chính kiến vì đã trải qua
tình trạng đó trong nhiều năm. Chúng tôi đi thăm họ, nhất định không
qua khỏi mắt công an và việc chúng tôi gặp họ rất dễ bị công an suy diễn
hay quy chụp là liên lạc bàn bạc kế hoạch, móc nối hình thành tổ chức…
và lấy đó làm cớ để gây khó khăn cho chúng tôi. Tuy nhiên nếu đã ra Hà
Nội mà không thăm họ, chúng tôi thấy lòng áy náy không yên, thấy mình có
lỗi và hình như quá hèn nhát. Chuyến đi du lịch của chúng tôi đã gần
hoàn tất, chúng tôi quyết định đi thăm vài người một cách công khai, chỉ
với mục đích thăm hỏi tình cảm và công an có biện pháp thế nào sẽ hạ hồi
phân giải. Tôi rất cám ơn BY vì đã hết sức ủng hộ tôi trong việc này.
Tôi nói đùa nếu công an bắt áp giải chúng tôi về Sàigòn như BMQ trước
đây, chúng tôi sẽ đỡ tốn tiền đi xe lửa.
Chúng tôi quyết định đi thăm HMC trước. Ông
này ở ngay trong một ngõ đường Lý Thường Kiệt là một phố lớn ở quận Hoàn
Kiếm. Địa chỉ cụ thể chúng tôi đã mất lúc ở Huế nên chỉ dựa vào trí nhớ.
Đường Lý Thường Kiệt có mấy ngõ có bảng ghi số nhưng hình như không phải
nơi HMC ở vì BY vào xem qua thấy không có số nhà như chúng tôi nhơ.
Trước các ngõ này đều là các quán nước có công an mặc sắc phục ngồi và
đối diện với một ngõ là trụ sở của cơ quan công an. Chúng tôi đành đi
tìm Hòang Tiến trước, sẽ hỏi rõ địa chỉ của HMC rồi đến thăm ông sau.
Nhà HT ở tập thể cao tầng Thanh Xuân Bắc,
quận Thanh Xuân ở phía Nam thành phố. Theo bản đồ, chúng tôi chạy khá
lâu và bất ngờ khi thấy bảng chỉ dẫn đã tới địa phận tỉnh Hà Tây. Hóa ra
Hà Tây giáp giới với quận Thanh Xuân. Hỏi thăm mãi chúng tôi mới vào
được khu tập thể cao tầng Thanh Xuân Bắc. Nói là cao tầng nhưng đây chỉ
là khu chung cư chừng 4, 5 tầng bao gồm nhiều dãy, giữa là những con
đường nhỏ, nhiều chợ búa, quán xá. Khu chung cư này xem ra đã khá cũ kỹ
và người ta cơi nới, phơi phóng lung tung nên nhìn có vẻ hơi nhếch nhác.
Đầu lối vào khu nhà của HT có một quán vừa
bán giải khát vừa sửa xe, có mấy người đang ngồi uống nước. Chúng tôi
rất dị ứng với các lọai quán này vì biết quá rõ đây là nơi có chỉ điểm
hay trinh sát làm việc. BY lên lầu hỏi thăm trước và xuống báo HT có
nhà. Tôi gửi xe ở quán để lên lầu. Xe tôi mang biển số 52 của Sài Gòn
nên dĩ nhiên nếu có công an họ sẽ biết ngay. Tôi có thể gửi xe nơi khác
đi bộ đến nhưng tôi đã quyết định công khai nên chẳng việc gì phải che
giấu.
HT hình như đã hơn 70 tuổi nhưng vẫn còn
tráng kiện và linh họat. Ông mừng rỡ bắt tay tôi nói: “Quý hóa quá! Quý
hóa quá!”. Ông tiếp chuyện chúng tôi nơi bàn vừa làm việc vừa tiếp
khách. Trong khi ông pha trà ô long, chỉ là mấy cọng dài đen thui mà ông
bảo là một lọai trà đắng đặc biệt dùng tiếp khách quý, chúng tôi quan
sát căn hộ của ông. Căn hộ này có lẽ chưa đến 30 m2. Ngay cửa
vào một bên là toa lét, bên kia là cầu rửa chén bát, tiếp theo là phòng
khách, trong cùng là phòng ngủ, tất cả đều nhỏ xíu. BMQ đã từng nói với
tôi. trước đây dân Hà Nội ai được phân một căn hộ 24m2 được
xem là một hạnh phúc nhất trên đời.
HT nghe nói chúng tôi đi xe máy và đã rời
Sài Gòn gần một tháng nay vội hỏi ngay đã biết tin về HSP chưa?. Chúng
tôi nói đã biết vì trên đường đi thỉnh thoảng có điện về Đà Lạt hỏi
thăm. Một lần HSP trực tiếp trả lời, báo anh đã chính thức tự do sau một
thời gian căng thẳng làm vợ chồng anh gầy rộc cả người. Người ta đã đưa
anh ra tổ dân phố để đấu tố 2 lần nhưng lần sau anh từ chối không dự.
Quyết định chứng nhận anh chấp hành xong quản chế ký đúng ngày hết hạn
nhưng họ bày trò răn đe gây căng thẳng và mãi 10 ngày sau mới đưa vì
phải “xin ý kiến cấp trên”. Sau đó HSP đã có thể đi bộ tập thể dục buổi
sáng quanh hồ Xuân Hương.
HT tầm vóc vừa phải, trán cao, tóc hoa râm,
nói năng khúc chiết, đúng phong thái “sĩ phu Bắc hà”. Ông cho chúng tôi
biết tình hình liên quan đến “nhóm dân chủ” ở Hà Nội.
Trước Tết Nhà nước tung tin đã lên danh sách
và sẽ” khuân 30 cụ vào kho” ( lần đầu tôi nghe kiểu nói này - cũng thú
vị ). Mọi người nghĩ có lẽ những người lãnh đạo Nhà nước này đã điên lên
rồi và có thể dám làm mọi chuyện nên ai cũng chuẩn bị sẵn tinh thần và
vật chất, ổn định gia đình trước khi bị bắt. Riêng HT, ông đã dặn dò
trấn an vợ con, lúc nào cũng để sẵn một ba lô với vài bộ quần áo và mấy
đồ dùng thiết yếu. Tiền bạc ông không cần vì đã quen sống đạm bạc, có
thể chịu đựng được hoàn cảnh sống trong tù. Nghe ông nói thường chỉ có
mấy trăm ngàn trong túi, mấy người bạn tặng thêm tiền để phòng khi chi
dùng nhưng ông kiên quyết từ chối.
Thế nhưng qua Tết vẫn không thấy Nhà nước
động tĩnh gì. Các cụ bảo nhau hay là Nhà nước còn “nhân đạo” để các cụ
ăn Tết xong mới bắt. Qua tháng giêng, vẫn không thấy gì, các cụ lại bảo
có thể Nhà nước cho các cụ qua lễ rằm tháng giêng. Cuối cùng đến nay vẫn
chưa có gì. Hóa ra họ chưa đến nỗi điên lắm, chỉ cốt hù dọa thôi. Tuy
nhiên không phải vì thế mà tình hình căng thẳng.
Trong vụ bắt Phạm Quế Dương và Trần Khuê,
Nhà nước tung tin sẽ đưa hai người này ra xử thật nặng về tội làm gián
điệp, tổ chức chống phá nhà nước. Sau mấy tháng hai ông bị bắt và đưa ra
giam ở Hà Nội, gia đình đã lùng hỏi khắp nơi nhưng vẫn không biết được
hai ông bị giam ở đâu. Riêng PQD, Nhà nước tung tin có bằng chứng ông
nhận tiền của nước ngòai để họat động gián điệp làm những người thân và
quen biết ông cũng đâm ra hoang mang. Trước đó PQD đã từng nói đùa: ”Sợ
gì không nhận tiền. Hồ Chí Minh nhận tiền của nước ngòai để làm cách
mạng. Đỗ Mười nhận tiền hối lộ của một công ty Hàn Quốc. Tôi cũng nhận
tiền để làm cách mạng, phục vụ nhân dân có gì là xấu”. Nghe đâu vì câu
nói này mà Đỗ Mười rất giận dữ, đòi đưa PQD ra xử bắn. Thực tế PQD có
công khai quyên góp tiền để làm qũy cho họat động của hội chống tham
nhũng mà ông và TK đã chính thức công bố thành lập. Lúc ông bị bắt,
trong người ông có một số tiền “đô” và vì thế người ta mặc sức vu vạ.
Trần Dũng Tiến, cựu chiến binh, nguyên quyết
tử quân, một ông già ăn nói phang ngang bổ củi không nể nang bất cứ ai,
đã từng lên tiếng tố cáo đích danh tội trạng của nhiều nhà lãnh đạo, sau
khi ông công bố một bài viết về vụ bắt PQD và TK, ngay trước Tết ông
cũng bị bắt và cho đến bây giờ gia đình cũng không biết ông bị giam ở
đâu. Nhà nước này chẳng cần tôn trọng gì các luật pháp quy định này nọ
do chính họ đặt ra.
Tôi nhân định sự dũng cảm đấu tranh của các
cụ rất đáng quý và có hiệu quả nhất định nhưng tình hình chỉ có thể xoay
chuyển khi có sự góp sức, chuyển động của tòan xã hội, trong đó có sự
thay đổi của nhà cầm quyền cùng với sự thay đổi của tình hình thế giới,
sức ép từ bên ngòai. Ai hi vọng sẽ có sự thay đổi nhanh chóng hay cho
rằng họat động của một nhóm nhỏ sẽ mang lại kết quả quyết định chỉ là ảo
tưởng và sẽ dễ trở nên bi quan. HT đồng ý với nhạn định này.
HT còn kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện về
giới văn nghệ sĩ ở thủ đô. Chuyện nào ông cũng nói rành rọt, phân tích,
lý luận chặt chẽ tỏ rõ là một người rất am hiểu tình hình.
Chúng tôi nói chuyện với HT cũng khá lâu, có
lẽ đến hơn mất tiếng đồng hồ nên cáo từ sau khi hỏi rõ địa chỉ của HMC
và đường đi đến làng Hà Hồi, quê ngọai của BY.
HT đưa chúng tôi xuống lầu. Ông bảo đã quá
trưa rồi nên mời chúng tôi ăn bún ở quán phía trước chung cư. Quán này
nhỏ, bình dân nhưng ăn được và theo ông ra Hà Nội phải ăn theo kiểu
“bụi” mới thưởng thức hết hương vị của các món ăn truyền thống. Bà hàng
sắp dẹp tiệm nhưng thấy HT là khách quen vào nên nán lại và may bún còn
mấy tô đủ cho ba chúng tôi. Quán bán bún riêu và bún ốc. Chúng tôi sợ ốc
nên chỉ ăn bún riêu. Theo chúng tôi bún riêu ở đây quá tệ nhưng vì lịch
sự và sự nhiệt tình của HT chúng tôi phải khen ngon. Dù sao lần đầu gặp
chúng tôi, HT đã tỏ ra rất vui vẻ, cởi mở, quý mến và chu đáo.
Từ gĩa HT, chúng tôi đi luôn về làng Hà Hồi,
thuộc huyện Thường Tín Tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khỏang 20 cây số. Con
đường đi Hà Hồi có đọan chạy song song sát đường xe lửa với những đường
bộ cắt ngang khá nguy hiểm. Thỉnh thỏang chúng tôi lại thấy có tấm bảng
đề”coi chừng cướp:, “ coi chừng cướp xe ôm” nhưng vì đi ban ngày, xe cộ
đông đảo nên chúng tôi không ngại.
Làng Hà Hồi nằm gần ga xe lửa Thường Tín là
một làng khá đẹp. Lối đi trong làng tuy nhỏ nhưng đều tráng nhựa và đủ
cho một xe ô tô chạy. Đình làng Hà Hồi kiến trúc theo kiểu cổ, bề thế và
được xếp hạng di tích văn hóa lịch sử. Bà ngọai của BY ngày xưa ở đây
cách hơn 50 năm, bà con không còn ai nhưng khi hỏi thăm về mấy người
quen của bà ngọai cũng có người biết. Mấy người quen đó đã mất nhưng còn
một vài con cháu họ đang ở làng này. Rất tiếc khi tìm đến họ đều vắng
nhà. BY cũng hỏi thăm thế thôi chứ không bà con thân thuộc gì với họ,
chỉ muốn đến thăm nơi ngày trước bà ngọai và mẹ đã từng ở nhân có dịp ra
đây.
Trở về Hà Nội, chúng tôi hỏi đường đi theo
một lối khác, ra xa lộ mới mở về thẳng Hà Nội chứ không qua Hà Tây. Xa
lộ này là cửa ngỏ của thủ đô về phía Nam, gần giống với xa lộ Sài Gòn -
Biên Hòa nhưng đúng tiêu chuẩn đường cao tốc. Đường có con lươn phân
cách ở giũa, rào chắn hai bên và tuyệt đối không có đường cắt ngang. Mấy
đường cắt đều phải chạy vòng lên cầu vượt. Do đó lái xe đường này có thể
chạy nhanh hết tốc lực. Tuy nhiên tôi lại không thể chạy nhanh vì một
phần tay đau, phần khác trời bỗng trở lạnh và lất phất mưa, gió rét thổi
mạnh và đường lại trống trải. Chúng tôi lấy áo khóac ra mặc nhưng áo của
tôi mỏng và ngồi trước nên lạnh không chịu nổi. Tay tôi tê cứng , hàm
răng nghiến lại nhưng vẫn run lập cập. Tôi gồng mình cố gắng hết sức mới
chạy về tới Hà Nội.
Loi vào thủ đô lần này là đường chính có tên
là đường Giải Phóng khá rộng, đọan đầu song song với đường xe lửa. Chúng
tôi ngặc nhiên khi thấy ở đây cũng có bảng cảnh báo”coi chừng cướp”.
Thật không ra sao khi ngay cửa ngõ thủ đô tình hình an ninh lại như thế
và lại có bảng công khai nhắc nhở thiên hạ.
Rét quá tôi phải tấp vào một quán nước lề
đường, uống liền hai cốc trà nóng và cảm thấy sự ấm áp tuyệt thú của
lọai trà này. Có lẽ vì trời trở rét bất ngờ nên mấy người nữa chạy xa
như chúng tôi cũng ghé vào uống trà và súyt soa vì lạnh. Bây giờ là mùa
xuân mà còn thế cho thấy cái rét của Hà Nội không phải chuyện đùa dù
chúng tôi cũng đã quen với xứ lạnh ở Đà Lạt.
Buổi tối chúng tôi đến thăm Hòang Minh
Chính. Nhà ông ở khu tập thể phía sau của Thư Viện Khoa Học Xã Hội,
trứơc kia là trụ sở của Viện Triết Học Mác - Lênin thời ông còn làm viện
trưởng. Trước ngõ vào nhà lại cũng có một quán nước lề đường và mấy
người đang ngồi. Tôi đậu xe ở ngòai, BY vào trứơc hỏi, ra báo ông đang
có nhà. BY nói đó là một ông gìa mặc đồ ngủ, trùm mũ len, tai có vẻ như
nghễng ngãng, cứ hỏi đi hỏi lại. Khi nghe ra có tôi đến thăm ông mừng rỡ
bảo BY ra mời tôi vào ngay. Chúng tôi vào, ông ra mở cửa, không bắt tay
mà ôm chầm lấy tôi, miệng không ngớt súyt soa” Qúy hóa quá!”.
Sau này BY kể lại, do ông đã thay quần áo
đàng hòang, bỏ mũ trùm đầu, nói năng rổn rảng nên hầu như trở thành một
người khác hẳn. Ông đã gần 80 tuổi, nhỏ người nhưng trông vẫn còn khỏe,
mặt xương, mắt sáng và đặc biệt giọng nói vang, đầy chất lửa. Trước cửa
nhà ông là con hẻm nhỏ chạy sâu vào trong, thỉnh thỏang có xe gắn máy
vụt qua. Nếu có người đứng nấp ngòai cửa, chắc chắn sẽ nghe rõ mồn một
lời ông nói nhưng hình như ông không thèm để ý chuyện đó. Ông mời chúng
tôi uống trà, ăn chuối hỏi thăm vài câu về sức khỏe và chuyến đi của
chúng tôi rồi nói ngay vào những vấn đề chính trị.
Ông xưng “anh” và gọi chúng
tôi là “hai em” một cách thân mật. Ngay câu đầu tiên đã làm BY hơi
hoảng:
“ Căng thẳng! Tình hình vô
cùng căng thẳng! Hiện nay chúng nó đang bao vây giám sát anh 24 trên 24”
Tình hình ông nói với chúng tôi cũng
tương tự những gì Hoàng Tiến đã nói nhưng có tính chất khái quát, ít chi
tiết. Ông nói anh em dân chủ ở đây thương và nể anh nên thường gọi ông
là “Anh Cả”, có chuyện gì cũng hỏi ý kiến “ Anh Cả”. Chủ trương của ông
hiện nay là tạm thời yên lắng, không làm gì để chính quyền cảm thấy bị
khiêu khích, sẽ phản ứng không có lợi. Chúng tôi hầu như chỉ ngồi nghe,
không phát biểu gì nhưng cuối cùng ông nói: “Thế nhé. Sau này gặp anh em
ở đây anh sẽ nói với anh em là hai em ở Sài Gòn ra cũng đồng ý với chủ
trương của anh nhé”.
Chúng tôi hơi buồn cười nhưng cũng không tỏ
ý phản đối vì chuyện đó không quan trọng và chủ trương như thế cũng tốt.
Cách nói của ông có tác phong của lãnh tụ, nhiệt tình, đam mê, thân mật
và hơi có vẻ áp đặt. Đây là buổi gặp mặt sơ giao, thời gian ít và hòan
cảnh khá đặc biệt nên tôi khôgn góp ý gì với ông, chỉ nhắc lại nhận định
đã nói với HT về diều kiện chuyển hóa của tình hình. Ông cũng tán thành
nhận định đó.
Khi ra về, tôi chạy xe cố ý dừng lại vài lần
để quan sát nhưng không thấy ai theo. Có thể do chúng tôi đến bất ngờ
nên người ta không chú ý, cũng có thể công an đã biết nhưng không can
thiệp ngay để theo dõi tiếp. Dù sao cho đến khi chúng tôi lên xe lửa và
khởi hành, chúng tôi mới yên chí không bị rắc rối ở đây. Còn về sau thế
nào sẽ hạ hồi phân giải. Chúng tôi luôn hiểu rằng công an có thể hành
động bất cứ khi nào họ muốn và cảm thấy cần thiết.
* *
*
16.
Từ bắt đầu chuyến đi, chúng tôi đã quyết
định sẽ trở về bằng tàu lửa. Thời gian, tiền bạc, nhưng nơi đến theo dự
tính đã hết, tới lúc chúng tôi phải trở về, có điều càng đi, tuy meat
nhọc, chúng tôi lại càng muốn đi, muốn đến, muốn thấy nhiều nơi hơn
nhưng rõ ràng thực tế không cho phép. Đành tự hẹn đến một dịp khác nào
đó mơ hồ trong tương lai thường gọi là “ hạ hồi phân giải”.
Chúng tôi đã mua vé một ngày trước hôm khởi
hành. Vé thuộc lọai trung bình, gọi là “ghế mềm” thấp hơn lọai “giường
nằm” và cao hơn lọai “ghế cứng”. Giá mỗi vé HàNội – Sàigònchỉ hơn
500.000đ. Đây là lọai tàu tốc hành E1 nhanh và hiện đại nhất của ngành
giường sắt Việt Nam, với thời gian 30 giờ cho tuyến đường dài 1700 cây
số.
Chiếc xe gắn máy tôi phải gởi theo một
chuyến tàu chở hàng khác và nhận sau ở Sài Sòn. Việc gởi xe gắn máy có
một chuyện hơi lạ. Nếu để nguyên chiếc, bó giấy bìa cứng gửi đi gía cước
hơn 400.000 đồng. Nếu tháo rời một số bộ phận, đóng thùng, công việc
phức tạp và tốn công sức hơn, gía cước lại chỉ có hơn 300.000 đồng, kể
cả công tháo và đóng thùng. Từ trước ai muốn gửi theo cách nào cũng
được, tùy ý khách. Nhưng đến hôm chúng tôi đi mới có thông báo việc gởi
xe gắn máy bắt buộc phải tháo đóng thùng, không cho gửi nguyên chiếc.
Tuy theo thông báo quy định này còn mấy ngày nữa mới áp dụng nhưng những
người phụ trách đã sốt sắng thực thi ngay vì việc này có lợi cho họ. Họ
có sẵn một đội ngũ chuyên tháo gỡ và đóng thùng để lấy tiền công. Việc
tháo gỡ và đóng thùng này mất khỏang một giờ và khi vào Sài Gòn lại phải
trả tiền công ráp lại, chưa kể phụ tùng có thể bị mất mát. Chúng tôi
không muốn cũng đành chịu. Đúng là một kiểu cửa quyền.
Trong khi chúng tôi chờ đóng thùng có ba,
bốn thanh niên cũng mang xe đến gửi. Khi các công nhân giở một yên xe
lên, phát hiện có một con dao lớn to bản ở bên trong. Ai cũng giật mình
và nghi ngờ các thanh niên này thuộc nhóm băng đảng xã hội đen gì đó
chuyển địa bàn họat động. Chuyện băng nhóm tội phạm cướp của giết người
và thanh toán nhau không còn xa lạ trên báo chí hàng ngày.
Tàu khởi hành lúc 11 giờ đêm, giờ không mấy
thuận lợi. Chúng tôi phải trả tiền phòng trọ thêm một đêm dù không ở tuy
ông chủ có bớt đôi chút khi BY đặt vấn đề. Dù sao chúng tôi cũng đã ở
phòng trọ của ông gần một tuần và 9 giờ tối chúng tôi đã rời phòng trọ
để ra ga.
Ga Hàng Cỏ ở ngay trung tâm Hà Nội nên việc
đi lại cho khách cũng khá thuận tiện. Nơi phòng chờ đông đảo chỉ co vài
khách nước ngòai là mấy cô tây bụi đời, mỗi người khóac đến ba, bốn ba
lô sau lưng và trước ngực, đúng là “tây ba lô”.
Giờ tàu khởi hành rất chính xác, đúng 11
giờ. Mỗi toa tàu có 4 ghế ở giũa xếp ngồi đối diện nhau, sử dụng một bàn
ăn chung. Các ghế khác ngồi nhìn về một hướng, có bàn ăn nhỏ gấp sau
lưng ghế phía trứơc. Tình cờ vé chúng tôi mua lại đúng số ở giữa, ngồi
đối diện với hai thanh niên. BY giật mình khi nghe họ nói họ từ Sài Gòn
ra công tác ở Bộ Công an, lại còn khoe được Bộ cấp xe cho đi biên giới
mua hàng Trung Quốc. BY tìm cách hỏi kỹ mới biết họ là công nhân của một
công ty ở Sài Gòn, ra Hà Nội để lắp đặt máy in cho Bộ Công an. Thật
không hiểu tại sao Bộ lại phải đặt hàng tận Sài Gòn.
Họ đi một nhóm không phải chỉ hai người mà
là bốn người. Một người nói bọn họ biết, định mua bốn vé ở giữa toa để
ngồi chung với nhau nhưng cô bán vé bán nhầm. Chúng tôi đang không thỏai
mái vì phải ngồi đối diện với người lạ nên tôi lập tức đề nghị đổi chỗ
cho hai người kia. Họ đồng ý ngay và còn cám ơn rối rít vì cũng định đề
nghị với chúng tôi như thế nhưng chưa dám nói. Thế là đôi bên đều vui
vẻ. Đúng là không dễ chịu chút nào khi phải ngồi đối diện suốt 30 giờ và
ngủ gà ngủ gật trước mặt người khác, nhất là đối với BY.
Quá nửa đêm nhưng chúng tôi không ngủ được
vì đèn để sáng trưng và tàu lắc lư kinh khủng. Đã lâu chúng tôi không đi
tàu lửa, cứ nghĩ tàu chạy sẽ rất êm nhưng không ngờ lại quá lắc lư như
thế. Có lẽ do khỏang cách hai đường ray hẹp. Đường ray này có từ thời
Pháp thuộc, chỉ được gia cố sửa chữa chứ không phải làm lại theo tiêu
chuẩn hiện đại. Dù sao đi tàu cũng thỏai mái hơn đi xe đò vì chỗ ngồi
rộng hơn, có thể ngả ghế ra nằm và thỉnh thỏang đi lại cho đỡ mỏi chứ
không phải ngồi bó giò chịu trận như đi xe đò.
Đêm mọi người ngủ lơ mơ. Có người có lẽ quen
đi tàu đã mua sẵn chiếu đem theo trải ra dưởi gậm bàn để nằm cho thẳng
lưng, tuy phải thò chân ra lối đi. Đó cũng là một trong những biểu hiện
thiếu văn minh mà ta có thể thấy ở khắp nơi của một quốc gia nghèo nàn
laic hậu, cứ mãi được gọi là “đang phát triển”.
Ấy là chiếc tàu tôi đang đi được quảng
cáo là tàu hiện đại nhất của ngành đường sắt. Dù sao so với 10 năm trước
đây cũng đã có bước tiến khá dài. Lúc đó tàu chỉ có ghế bằng gỗ, sàn tàu
ngổn ngang hàng hóa và hành khách nằm ngồi vật vã khắp nơi, đi lại có
thể dẫm đạp lên nhau.
Bây giờ, các toa tàu này đều lắp máy điều
hòa nhiệt độ. Ghế ngồi, giường nằm khá thỏai mái, sạch sẽ, có cả chăn
đắp cho mỗi hành khách. Hai đầu mỗi toa có phòng rửa mặt và nhà vệ sinh
với hai lọai bồn xí kiểu phương tây và kiểu ngồi xổm, nước cung cấp đầy
đủ. Các thiết bị thóat hiểm trong trường hợp có tai nạn được bố trí sẵn
sàng để hành khách sử dụng khi có sự cố. Lại có cả máy đun nước nóng
dành cho hành khách muốn tự pha trà, cà phê. Việc phục vụ ăn ( tính
trong tiền vé) sạch sẽ, chu đáo với chất lượng “tạm được” trong điều
kiện đi tàu. Ai muốn ăn ngon, nhà tàu có bán thêm các món đặc biệt tận
toa hay đến toa ăn dành riêng gọi theo thực đơn.
Những thông tin về giờ giấc, thiết bị an
tòan và các nhắc nhở cần thiết khác đều được thông báo trên bảng chữ
điện tử ở hai đầu mỗi toa bằng hai thứ tiếng Việt, Anh, thỉnh thỏang
xuất hiện trong suốt chuyến đi. Gần đến các ga giữa đường, nhà tàu lại
có loa thông báo, nhắc nhở hành khách chuẩn bị lên xuống. Đặc biệt khi
tàu qua mỗi tỉnh, loa phát bài giới thiệu sơ lược về địa phương đó, chú
trọng lịch sử và các địa danh du lịch bằng hai ngôn ngữ Việt, Anh, kèm
theo một số bài hát nổi tiếng liên quan đến địa phương. Điều này nghe
cũng thú vị và hành khách được cung cấp thêm thông tin.
Với hành trình hơn 1700 cây số, qua hai đêm,
một ngày, trong điều kiện như trên có thể nói là quà dễ chịu so với đi
xe đò, nhất là các lọai xe đò “chất lượng cao dỏm” đang “hành” khách
hiện nay.
Tuy nhiên trong cố gắng cải thiện tiện nghi
và điều kiện của việc đi tàu, có một số việc đáng lý phải và có thể làm
tốt hơn.
Trong một chuyến đi dài, nhà vệ sinh là nhu
cầu thiết yếu, đã được thông báo trên tàu là xây dựng theo công nghệ mới
hiện đại nhưng vẫn còn khuyến điểm quan trọng. Bồn xí kiều ngồi xổm
thiết kế hệ thống nước dội thế nào mà khi sử dụng nước bắn mạnh văng lên
ướt cả quần hành khách. Mặt sàn nhà vệ sinh không đủ độ nghiêng cần
thiết và lỗ thóat nước có gờ hàn làm nước đọng vũng, hành khách vào ra
dẫm nhớp nháp làm bẩn cả các lối đi lại. Điều này thật sự muốn sửa chữa
không mấy khó khăn.
Việc giới thiệu về các địa phương trên loa
có nơi bị bỏ qua, không những các tỉnh nhỏ như Quảng Trị, Quảng Ngãi, mà
cả Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi có tiềm năng du lịch lớn, dù giờ tàu đi qua
nơi đó là ban ngày. Không rõ vì nội dung giới thiệu các nơi này chưa có
hay người phụ trách quên. Các bài hát phát không đúng chỗ, vào địa phận
Nam Trung bộ rồi vẫn còn nghe “câu hò Nghệ Tĩnh”. Vấn đề là phải thường
xuyên bổ sung tư liệu mới, chọn thêm bài hát phù hợp và người phụ trách
việc này có cách làm việc chính xác, khoa học hơn. Đã không làm thì
thôi, khi làm phải đến nơi đến chốn vì họat động này là một ưu điểm lớn
cần hòan thiện đến mức tối đa, sẽ gây ấn tượng rất tốt nơi hành khách.
Toa giường nằm lọai phòng có giường ba tầng
rất bất tiện. Tầng áp nóc quá sát trần và hai tầng dưới chỉ nằm chứ
không ngồi được. Muốn ngồi, người ở tầng giữa phài xuống tầng dưới và
lật giường lên để ngồi chung với người tầng dưới chứ không có chỗ ngồi
nào khác. Nếu trong 30 giờ mà chỉ nằm không ngồi cũng khó lòng chịu nổi.
Có nên thiết kế quá tiết kiệm và “thiếu văn minh” như thế khôngkhi hành
khách mua lọai giường nằm phải là người có tiền. Đã tốn tiền mà còn khổ
thì hơi vô lý.
Thời gian 30 giờ cho chuyến đi xuyên Việt so
với xe đò Việt Nam đã là nhanh nhưng so với tàu lửa bình thường các nước
khác còn quá chậm, chưa nói đến các lọai tàu siêu tốc. Dù ghế, giường êm
cỡ nào mà ngồi mà hay nằm suốt hai đêm một ngày, hành khách nào cũng quá
“oải”. Không biết đến bao giờ ngành đường sắt nói riêng và đất nước nói
chung mới có thể đồng hành cùng thế giới chứ không mãi “tụt hậu”.
Trên hành trình trở về bằng tàu lửa này, vào
ban ngày tàu chạy từ Quảng Bình cho đến Quy Nhơn, các nơi khác tàu chạy
về đêm. Co những khỏang đường sắt song song và sát quốc lộ 1 nên chúng
tôi có thể nhìn lại những nơi mình đã đi qua bằng xe gắn máy. Nhìn từ
trên tàu, hai nơi có phong cảnh đẹp gây ấn tượng là vùng núi Kẽ Bàng -
Phong Nha và đèo Hải Vân. Đặc biệt trên đèo Hải Vân, tàu nhiều lần qua
hầm và khi uốn khúc theo triền núi, khách nhìn qua cửa sổ có thể thấy cả
con tàu uốn lượn trườn mình như một con trăn khổng lồ trên cao, phía
dưới là vực sâu hay bãi cát lặng lờ, ngòai xa là biển khơi ngăn ngắt.
Đêm thứ hai trên tàu, để đỡ chán và có chút
không khí lãng mạn , tôi rủ BY đến toa ăn dành riêng để uống cà phê.
Đáng lẽ điều này sẽ rất thú vị khi cùng ngồi chuyện trò bên cửa sổ của
con tàu đang lướt nhanh trong màn đêm nhưng không khí ở toa này đã làm
chúng tôi mất hứng. Toa tàu hẹp, người đông, chúng tôi phải ngồi chung
bàn với người khác. Phần lớn khách đến đây đều nhậu. Mùi thức ăn, mùi
bia, khói thuốc lá nồng nặc và bia vào lời ra rôm rả. Nhiều người đã ngà
ngà say, mặt đỏ gay hay tái nhợt, nói chuyện bằng cách gào lên thi đua
với tiếng tàu xình xịch làm chúng tôi đinh tai, nhức óc. Hai người khách
đối diện lại cứ nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Đành chịu thôi và chúng
tôi phải kết thúc sớm buổi cà phê đêm lãng mạn bị thất bại.
Dù sao tàu chạy cũng khá đúng giờ. Suốt hành
trình chỉ dừng đỗ khỏang 6 ga lớn, nơi lâu nhất nửa giờ và nơi nhanh
nhất chỉ một phút. Giờ dừng đỗ ở các ga dọc đường có xê dịch đôi chút so
với lịch thông báo nhưng đến Sài Gòn, ga cuối cùng lại rất đúng giơ -
5giờ sáng.
Thế là chúng tôi kết thúc chuyến đi gần một
tháng. Tại ga Sài Gòn, chúng tôi lại gặp một chút bực mình. Vì không
muốn chen lấn, chúng tôi hầu như rời tàu sau cùng nhưng ở bậc lên xuống
vẫn bị xô đẩy thô bạo. Những hành khách mang nhiều hành lý, xuống rồi
lại lên lấy tiếp cứ tông thẳng vào chúng tôi để dành lối đi, không hề có
một chút tối thiểu lịch sự. Xuống sân, các taxi đợi sẵn đã đi hết, các
taxi mới vào bị khách dành giật. Chúng tôi không muốn đi xe ôm vì nhiều
đồ và đi giờ này sợ không an tòan nhưng những người chạy xe ôm cứ bám
riết, làm như chúng tôi nợ họ không bằng. Dĩ nhiên là họ kiếm sống lương
thiện, nhưng cũng như những người bán vé số hay bán hàng lưu niệm, cách
làm việc của họ quá gây phiền nhiễu cho người khác, điều chỉ có thể thấy
ở những nước nghèo đói và thiếu văn minh như Việt Nam hôm nay. Chúng tôi
phải xách đồ đi một khỏang khá xa ra ngòai sân ga mới thóat khỏi họ và
tìm được taxi. Hai mươi phút sau chúng tôi có mặt ở nhà, chấm dứt cuộc
hành trình.
LỜI KẾT
Sau chuyến đi, cuộc hành trình của chúng tôi
chưa thực sự kết thúc vì chúng tôi vẫn còn nhiều dịp để hồi tưởng, kể
lại và suy ngẫm về những gì đã trải qua. Đó chính là hành trình nội tâm
song hành và tiếp diễn hành trình thực tế.
Với tư cách người đi du lịch xuyên suốt từ
Nam ra Bắc trong một chuyến đi, tuy thời gian ít, nhiều nơi chỉ là “cỡi
ngựa xem hoa” nhưng cùng với ký ức và những hiểu biết đã có, chúng tôi
cũng có được một cái nhìn toàn cảnh, tuy chưa sâu sắc, về tình hình đất
nước.
“Giang sơn gấm vóc”, “đất nước tươi đẹp” là
những từ có tính cách ước lệ, tuy có một phần thực chất nhưng có lẽ
chúng nói lên sự yêu mến và lòng kiêu hãnh của chúng ta về đất nước
nhiều hơn. Quả thực chúng ta có những phong cảnh đẹp, đặc trưng, nổi bật
là vô số bãi biển dọc dài theo đất nước và những di sản văn hóa, thiên
nhiên thế giới được Unesco công nhận nhưng cũng không ít nới đất đai cằn
cỗi, đồng khô cỏ cháy, phong cảnh đơn điệu nhàm chán. Trên thế giới biết
bao quốc gia có phong cảnh thơ mộng , hùng vĩ, kỳ lạ và phong phú hơn
đất nước ta. Dĩ nhiên về tình cảm, đất nước quê hương bao giờ cũng đẹp
hơn cả nhưng so sánh thực tế phải có lý trí tỉnh táo, không thể cứ tự
hào suông.
Các công trình kiến trúc, điêu khắc của ta
có gía trị riêng, mang dấu ấn lịch sử dân tộc, có nơi khá xa xưa nhưng
không có tính hoành tráng, tinh tế hay trình độ nghệ thuật, thẩm mỹ cao
như nhiều nước phương tây. Các đền, chùa, tượng nhiều nơi phong cách gần
giống nhau, ít tính sáng tạo và đa dạng. Các công trình mới xây dựng
mang màu sắc hiện đại, hào nhoáng bên ngòai nhưng lại có một vẻ đơn điệu
mới, chưa thấy gì gọi là đặc sắc. Đặc biệt các tượng đài thể hiện sự
nghèo nàn, rập khuôn, gò bó trong tư duy sáng tạo. Không ít công trình
chỉ là sự thể hiện thô thiển những tư tưởng chính trị chỉ đạo cũng thô
thiển không kém.
Về góc độ khai thác du lịch, sự quan tâm và
đầu tư, tôn tạo được thể hiện ở nhiều nơi, tạo ra các điểm đến thú vị
cho khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên điều nổi bật là trình
độ nhận thức ( đặc biệt về thẩm mỹ) và khả năng tổ chức quản lý của
những người, cơ quan có trách nhiệm còn quá yếu kém. Nhiều nơi điều này
đã không tạo ra được sự hài hòa giữa thiên nhiên và công trình nhân tạo
mà ngược lại là sự đối chọi, phản cảm. Tệ hại nhất là sự bát nháo, mất
vệ sinh, thiếu an toàn cộng với cơ sở vật chất tồi tệ đã gây ấn tượng
rất xấu lên du khách, một lần trải qua là mất hết thiện cảm. Các điểm
đến du lịch chính là một phần của khuôn mặt đất nước trình diện với thế
giới trong thời kỳ hội nhập toàn cầu nên cần phải được chăm sóc nhiều
hơn nữa với sự đầu tư nhiều hơn cả tiền bạc lẫn những con người có tài
năng, trình độ và tầm nhìn trên lĩnh vực này.
Nếp sống đô thị hóa là điều nổi bật nhất
trên tất cả các thành phố, thị trấn tập trung dọc đường quốc lộ 1 từ Nam
ra Bắc. Đây là xu thế áp đảo của thời hiện tại, một nhu cầu bức xúc
nhưng không phải là tối ưu đối với đất nước. Mục đích của người dân
trong cơn sốt đô thị hóa này là kiếm sống, làm giàu cho cá nhân chứ
không phải phát triển đất nước một cách toàn diện, cân bằng. Vì thế nó
diễn ra một cách hỗn độn, bừa bãi, tự phát vô tổ chức mà nhà nước không
thể quản lý nổi. Người dân có thu nhập khá hơn, sống tiện nghi hơn, sử
dụng nhiều thành quả khoa học kỹ thuật và vui chơi giải trí của thời đại
văn minh hơn nhưng cùng song song là sự tranh sống quyết liệt, đôi khi
tàn bạo, thiếu nhân tính. Trong cuộc tranh sống đó, sự bất công lớn
nhanh hơn sự phát triển kinh tế với quy luật mạnh được yếu thua, cá lớn
nuốt cá bé. Ở đây kẻ mạnh, cá lớn chính là những kẻ có quyền, có tiền,
và thường kẻ có quyền là kẻ có tiền. Những công ty lớn nhất, những khách
sạn sang trọng nhất, những biệt thự hào nhoáng nhất, những xe hơi đời
mới đắt tiền nhất, những ngôi nhà to dẹp mới xây dựng, không của ai khác
hơn là các cơ quan nhà nước, các quan chức đảng và nhà nước ở mọi cấp và
gia đình, bà con họ hàng. Còn lại là những kẻ làm ăn móc ngoặc, phi pháp
hoặc những người có sẵn tiền của. Người giàu lên nhờ có năng lực và làm
ăn lươmg thiện rất hiếm. Người dân thường làm ăn chân chính chỉ đủ
sống, đa số đổ mồ hôi sôi nước mắt chỉ để lo ngày hai bữa.
Tình trạng đó kéo theo sự sa đọa về lẽ sống,
lối sống và nhân cách. Nổi bật nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng ở tất
cả mọi cấp, từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tham nhũng hoành hành ở
tất cả các ngành, các lãnh vực, từ kinh tế đến công an kiểm sát, tòa án;
từ xây dựng, cầu đường đến hội chữ thập đỏ, bảo hiểm y tế, cứu đói giảm
nghèo, các chương trình dành cho đồng bào miền núi; từ Mặt Trận Tổ Quốc
cho đến Đoàn Thanh Niên, Hội Sinh Viên , Hội Nhà Báo, các trường học…
nghĩa là bất cứ ai có chút quyền, dù lớn hay nhỏ đều có thể muốn và có
thể lạm dụng chức quyền để kiếm lợi bất chính. Dĩ nhiên đó là những quan
chức.
Người làm ăn họat động kinh doanh muốn có
lãi phải hối lộ, móc ngoặc với quan chức để giành lợi thế, trốn lậu thuế
hay bóc lột lừa đảo khách hàng. Người dân lương thiện khi cần công việc
gì liên quan đến thủ tục hành chính đều phải chạy chọt lo lót. Các tệ
nạn xã hội “phát triển phi mã” với đủ mọi loại dạng từ mãi lộ, trộm
cắp, cơm tù xe cướp, xì ke, ma túy, mại dâm, hiếp dâm, phá thai, nhiễm
HIV - AID đến hành hung, giết người, kể cả con giết cha mẹ, cha mẹ giết
con, vợ chồng anh em bạn bè giết nhau, mẹ nấu dầu sôi tạt lên con gái,
trò đánh thầy… đến lường gạt tình, tiền, bằng cấp gỉa, thi thuê, rải
đinh ra đường, ném đá lên xe lửa, lái xe không biết luật, xả rác phóng
uế bừa bãi…
Có lẽ không có đất nước nào mà các lọai tội
ác, tội phạm, thói hư tật xấu lại đa dạng, phong phú và đê tiện, bẩn
thỉu đến thế, lại còn diễn ra thường xuyên, hàng ngày, nhiều thứ gần như
công khai trứơc mắt mọi người. Tình trạng đó làm xói mòn những tình cảm
tốt đẹp, sự phản kháng chính trực, niềm tin vào cuộc sống và tương lai
đất nước. Đây mới chính là nguy cơ lớn nhất trong mọi nguy cơ. Vì đến
khi một dân tộc không còn niềm tin, đánh mất nhân cách thì còn cơ sở nào
để xây dựng tương lai.
Nói như thế không phải là xã hội không có
những mặt tích cực và con người tốt. Nổi bật nhất là những họat động từ
thiện. Đông đảo các tổ chức và cá nhân đã nhanh chóng hưởng ứng đóng góp
công sức, tiền của để cứu trợ những người xấu số khi có thiên tại, hỏa
họan, tai nạn hoặc gặp hoàn cảnh thương tâm. Những lúc đó tình nhân ái,
lòng trắc ẩn đã được khơi dậy, thể hiện một cách mạnh mẽ và có hiệu quả
đích thực. Rồi còn bao nhiêu gương tốt con ngoan, trò giỏi, các thầy
thuốc, giáo viên phục vụ vùng sâu vùng xa, cán bộ chiến sĩ công an tận
tụy xả thân hy sinh khi chống buôn lậu, bắt cướp… kể cả ở lực lượng cảnh
sát giao thông vốn nhiều tai tiếng.
Tuy nhiên, trong bức tranh xã hội cả về mặt
thực tiễn lẫn tinh thần, màu xám nặng nề ảm đạm lấn át màu xanh, màu
hồng tươi sáng. Có phải như thế không? Có phải đó là cảm xúc cá nhân
mang nặng chủ quan ( dĩ nhiên cảm thức cá nhân nào cũng mang nặng chủ
quan), nhuốm màu bi quan và chưa phản ánh chân thực hiện trạng cuộc
sống? Tôi cũng rất mong là như thế. Nhưng tôi tự thấy mình không phải
là người chỉ nhìn đời qua cặp kính màu đen hay nặng thành kiến một
chiều. Tôi vốn lạc quan và muốn công bằng trong mọi việc.
Nhiều người đã khẳng định dân chủ là chiếc
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Điều đó đúng. Nhưng vấn
đề trong vấn đề là dân chủ ở đâu ra. Dân chủ không được ban phát. Dân
chủ không do nhập khẩu. Dân chủ chỉ có được bằng đấu tranh, không phải
chỉ của một vài người, một số nhóm người mà phải là của toàn dân tộc.
Nếu đa số nhân dân chưa khao khát dân chủ, còn mải mê gục đầu xuống
miếng cơm manh áo, còn khiếp sợ trước bạo lực và chỉ muốn bình an kiếm
sống, chưa thực sự đấu tranh, ngay từ những vấn đề nhỏ hằng ngày trong
cuộc sống thì dân chủ của toàn dân tộc chưa thể có được. Nếu ai cũng cứ
đợi chờ, dân chủ sẽ không tự đến nhưng nếu ai quá sốt ruột cũng sẽ dễ đi
đến thất vọng. Thiểu số người có ý chí mạnh nhất đấu tranh tích cực nhất
sẽ góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trình dân chủ hóa dù bản thân họ sẽ
chịu nhiều thương tổn. Tuy nhiên số phận của dân tộc tùy thuộc vào mọi
người dân chứ không phải chỉ một nhóm người. Với trình dộ dân trí và sự
thờ ơ với dân chủ như hiện nay, sự chờ đợi không thể tránh khỏi, dù đó
là một chờ đợi đau lòng và đầy bi kịch.
Ghi
xong tháng 7/2003
Tiêu
Dao Bảo Cự
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|