Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự
Hà Sĩ Phu, biểu tượng của trí tuệ và tự do tư tưởng
Hà Sĩ Phu, Sĩ Phu Bắc
Hà, Sĩ Phu nào? Ai là Sĩ Phu? Khi nói chuyện với Hà Sĩ Phu về ý nghĩa
của bút hiệu này, bạn bè thường nêu ra nhiều cách giải thích nhưng anh
chỉ cười, không xác nhận. Tuy nhiên, trong bút hiệu đó nhất định có lý
tưởng và hình ảnh của kẻ sĩ đích thực trong truyền thống văn hoá phương
Đông. Đó là người trí thức hoài bão mang trí tuệ và tài năng của mình ra
phục vụ cho đời, cho đất nước.
Hà Sĩ Phu Nguyễn
Xuân Tụ đến với tạp chí Langbian và Hội Văn nghệ Lâm đồng ở Đà lạt từ
năm 1988 với các bài thơ ngắn ký bút hiệu Tú Xuân. Đó là những bài thơ
trữ tình hay châm biếm với giọng điệu hơi cổ của một nhà Nho.
Đây cũng là điều hơi
lạ làm bạn bè thích thú vì anh vốn là một nhà khoa học tự nhiên. Anh tốt
nghiệp phó tiến sĩ sinh học ở Tiệp khắc vá công tác ở phân viện Đà lạt
của Viện Khoa học Việt nam.
Thời gian này anh
là Viện phó của Phân viện này. Do đấu tranh với những việc làm không
đúng trong khoa học của những người lãnh đạo ở đây, anh bị vô hiệu hoá,
cho ngồi chơi xơi nước.
Anh không thể hoạt
động khoa học được, mặc dù trong lĩnh vực chuyên môn của mình, anh đã có
công trình được quốc tế thừa nhận và ứng dụng. Anh đã cố gắng tự làm
việc ở nhà nhưng làm thế nào nghiên cứu có hiệu quả được khi phải làm
phòng vô trùng trên trần nhà vệ sinh và để chai lọ thí nghiệm trên đầu
giường ngủ trong một căn nhà tối tăm chật chội.
Với đời sống khó
khăn, ứng dụng khoa học của anh chỉ còn là nuôi nấm và đi làm bia thuê
cho tư nhân. Anh còn phải phụ bán quán cho vợ. Thỉnh thoảng tôi đến
thăm, thật buồn cười và đau lòng thấy anh bán hàng, lóng ngóng thối tiền
lẻ cho mấy đứa bé mua bánh kẹo và ngẩn ngơ không biết một món hàng tạp
hóa giá bao nhiêu. Chưa kể có lúc anh còn cặm cụi đóng sách cho thuê
truyện và phụ bưng phở cho vợ bán.
Sự bế tắc trên lĩnh
vực nghiên cứu khoa học tự nhiên đã đưa anh chuyển hướng sang nghiên cứu
khoa học xã hội.
Tháng 9-1988 bạn bè
gần gũi đã chia sẻ với anh những suy nghĩ đầu tiên trong bài “Dắt tay
nhau. đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”. Bài viết sau đó
được hoàn chỉnh và phổ biến trong giới bạn bè. Với một bài viết ngắn gọn
chỉ có 10 trang, anh tập trung phân tích những nghịch lý trong chế độ Xã
hội chủ nghĩa, một chế độ tự nhận là ưu việt nhất nhưng lại làm những
điều tồi tệ nhất, hoàn toàn trái ngược với những điều rêu rao. Anh kết
luận bài viết bằng cách yêu cầu quay ngược các tấm biển chỉ đường của
chế độ, và kêu gọi hãy “dắt tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường
của Trí tuệ”.
Thật lạ lùng, trong
một xã hội độc quyền tư tưởng, độc quyền chân lý, độc quyền ngôn luận,
độc quyền thông tin báo chí, bài viết 10 trang của Hà Sĩ Phu không được
đăng ở đâu lại lan truyền đi khắp nơi trên đất nước, đến tận Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, gây nên một chấn động lớn.
Lập tức, nhà cầm
quyền tung ra một chiến dịch để phê phán, bôi nhọ bài viết và tác giả.
Trong vòng hơn 2 năm có hơn 30 bài đăng trên các loại báo chí của trung
ương và địa phương, và cả sách, mổ xẻ đả kích bài viết của anh. Người ta
đã huy động nhiều nhà nghiên cứu lý luận, phê bình của chế độ, kể cả
giáo sư triết học Trần đức Thảo để làm công việc trấn áp này. Người ta
còn nói trong các hội nghị cán bộ, thông báo trong các bản tin nội bộ,
đưa cả vào trong các văn bản chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 7. Anh
như một võ sĩ bị trói tay để cho một đám đông đối thủ tha hồ quần thảo.
Tuy nhiên, càng về sau, người ta nhắc đến tựa bài viết và tên của anh
như một bóng ma đe doạ chế độ, dù có người chưa hề được đọc bài viết và
họ cũng chưa biết gì về anh. Dù thế, Đại hội Đảng lần thứ 7 cũng phải
lấy khẩu hiệu “Trí tuệ, Dân chủ, Đổi mới, Đoàn kết” , đưa Trí tuệ lên
hàng đầu và chính thức thừa nhận liên minh công-nông-trí.
Mặt khác những
người tiến bộ và tâm huyết cũng nhanh chóng chuyền tay nhau bài viết này
mặc dù vào thời điểm đó sự thông tin, sao chụp tài liệu còn rất khó
khăn. Bài viết ngắn nhưng đầy sức nặng đã có tác dụng lớn, lay động nhận
thức và lương tri của nhiều đối tượng, nhất là trí thức, kể cả một số
đảng viên và những người bình thường.
Ma văn Kháng trong
tiểu thuyết “ Đám cưới không có giấy giá thú” đã đưa nội dung bài viết
này vào thành tư tưởng của một nhân vật trong tác phẩm. Trong cuốn tiểu
thuyết “Nửa đời nhìn lại” (viết từ 1988 đến 1992) tôi cũng đã đưa Hà Sĩ
Phu thành một trong 3 nhân vật có bút hiệu hay tên thật ngoài đời vào
tác phẩm của mình (hai nhân vật kia là nhà thơ Hữu Loan và giáo sư
Nguyễn Bạt Tuỵ). Tôi hy vọng nếu tác phẩm của tôi được xuất bản, trường
hợp của Hà Sĩ Phu và hai người kia sẽ được ghi nhận và lưu giữ lâu dài
trong lòng người đọc nếu họ vẫn còn bị vây bủa trong sự bưng bít của chế
độ.
Tháng 4-1991, vụ
rắc rối trực tiếp đầu tiên đến với anh là lúc anh ra Hà nội đến thăm
Dương Thu Hương đúng vào lúc Dương Thu Hương đang bị khám nhà và bắt
giữ. Anh cũng đã bị bắt và một viên chức cao cấp của Bộ nội vụ đã thẩm
vấn anh trong suốt 10 ngày liền nhưng rồi anh được thả. Sau đó anh về Đà
lạt và bị Công an Lâm đồng theo rõi giám sát chặt chẽ.
May mắn thay, trong
một dịp tình cờ, bài “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của
Trí tuệ” được đưa ra nước ngoài, và lần đầu tiên, tháng 5-1993, được
chính thức công bố trên tờ Thông luận ở Pháp và sau đó nhiều báo khác ở
hải ngoại đã đăng lại. Lập tức người đọc ở hải ngoại, nhất là trí thức,
kể cả du học sinh Việt nam ở các nước Đông Au, nhanh chóng hưởng ứng bài
viết của anh, và tên tuổi anh đã bắt đầu ra khỏi vòng rào kiềm toả của
nhà cầm quyền Việt nam, được thế giới biết đến.
Được đông đảo bạn
bè và người đọc khắp nơi cổ vũ, anh tiếp tục viết “ Đôi điều suy nghĩ
của một công dân” (Nhà xuất bản Tin, Paris, xuất bản mùa thu 1993, trong
đó có in lại bài “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của Trí
tuệ” và một số câu đối, thơ và mấy bài chính luận ngắn).
“Nội dung những bài
của Hà Sĩ Phu đều nhằm phê phán đường lối của Đảng cầm quyền và đề nghị
lối thoát cho Việt nam. Nhưng đặc điểm là tác giả dùng phương pháp khoa
học và lý luận để rà soát đến tận gốc của vấn đề. Anh gọi là tư duy
hệ thống. Nói cách khác, anh đặt vấn đề một cách căn bản và toàn
diện. Đi từ khoa học đến triết lý, đối chiếu Đông – Tây để suy nghĩ về
bản chất con người và xã hội, về quy luật tiến hoá của nhân loại, từ đó
đánh giá và vạch ra những sai lầm cơ bản của Chủ nghĩa Xã hội khoa học”
(Tựa của NXB Tin).
Mới đây, tháng
8-1995, anh lại cho công bố bài “ Chia tay Ý thức hệ” dưới dạng bản
thảo, đào sâu thêm suy nghĩ của mình về những vấn đề đã đặt ra từ hai
bài trước.
“ Theo điều tôi nhận
thức được thì…bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về xã hội là dòng tư
tưởng Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng sản nguyên thuỷ (hoặc
ảo tưởng nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền Văn minh công
nghiệp.
… Trào lưu Cộng sản đã
xuất hiện như một tất yếu lịch sử và vô cùng chính đáng, nhưng phải nhận
rằng đó chỉ là một nấc thang văn hoá thấp của tiến trình đấu tranh bất
tận cho Quyền Con người. Muốn tìm lối ra lại phải bắt đầu từ cái nhìn
Văn hoá, ở tầm văn hoá cao hơn.
… Nếu đủ tầm văn hoá,
chúng ta sẽ làm cho Ý thức hệ ấy một dấu son để lại. Bằng không, nếu
chúng ta không đủ tầm văn hoá, Ý thức hệ sẽ được chia tay trong uất hận,
hoặc ngược lại, cứ len lén rút lui khỏi lịch sử không một lời tuyên bố,
như một kẻ khôn vặt hay một tên đại bịp nào đó ra đi, không trống không
kèn, để lại trên non nước này một món nợ.
… Không biết một khi đã
nhận rõ xu thế của Thời đại và nguyện vọng của nhân dân, thì một Đảng
Cộng sản trưởng thành từ phong trào Dân tộc, giữa lúc đang nắm quyền
trong tay, liệu có thể vì Dân tộc mà vứt bỏ tấm bình phong, công khai từ
bỏ chế độ Phong kiến Đảng trị đầy đặc quyền đặc lợi, để chủ động chuyển
sang một thể chế thật sự tiêu biểu cho tính thống nhất Dân tộc và đa
nguyên Dân chủ hay không?
… “Đổi mới” là gì? Nếu
không phải là cả một Dân tộc thức tỉnh, tự vượt qua mình mà đi lên?
(Trích Lời mở đầu và
Thay lời kết của bài Chia tay Ý thức hệ).
Tôi có hân hạnh cùng
với bạn bè gần gũi nhất của Hà Sĩ Phu ở Đà lạt đọc và tham gia ý kiến
vào bản thảo các bài viết của Hà Sĩ Phu khi các dòng chữ anh mới viết
còn nóng hổi trên mặt giấy.
Hà Sĩ Phu có phong
cách hành văn rất đặc sắc : ngắn gọn, khúc triết nhưng thâm trầm,đôi khi
châm biếm cay độc kiểu sĩ phu Bắc Hà, có lúc hùng tráng hay bàng bạc
chất thơ trữ tình. Anh viết văn chính luận nhưng đọc rất lôi cuốn.
Điều quan trọng hơn
làtư tưởng độc lập, sáng tạo và triệt để trong các bài viết của anh. Anh
không lệ thuộc kinh điển, ít trích dẫn kiểu “tầm chương trích cú”. Anh
lý giải mọi vấn đề dưới ánh sáng của Trí tuệ và Lương tri của một người
trí thức chân chính đi tìm chân lý, gạt bỏ sang bên mọi định kiến, ràng
buộc bất cứ ở đâu tới.
Các bài viết của Hà
Sĩ Phu ngày càng được đông đảo bạn đọc hưởng ứng. Thư từ của nhiều người
không quen biết ở trong và ngoài nước gởi tới bày tỏ cảm tình và sự
ngưỡng mộ đối với anh tới tấp bay đến căn nhà bé nhỏ của anh ở số 4E Bùi
thị Xuân Đà lạt.
Đài, báo nước ngoài
thường xuyên phát thanh, đăng tải các bài viết và nhắc nhở đến tên anh
như một trí thức cấp tiến hàng đầu. Nhà cầm quyền hầu như không thể chịu
nổi. Tên anh thường được nêu ra trong các thông báo nội bộ của Đảng về
vấn đề diễn biến hoà bình và có lúc anh đã được nêu lên hàng đầu trong
danh sách của những người có tư tưởng phản động nguy hiểm.
Cuối tháng 11-1995
Hà Sĩ Phu ra Bắc thăm quê và gia đình, Công an Hà nội theo rõi sát anh
trong những ngày này, và đến 5-12-1995 đã bắt giữ anh tại một địa điểm
đến nay chưa ai biết. 17g30 ngày 6-12-95 Công an Lâm đồng đã thực hiện
lệnh khám nhà của Công an Hà nội, lục soát nhà anh tại Đà lạt cho tới 4
giờ sáng ngày 7-12-95, lấy đi hơn 3000 trang tư liệu và một số đĩa vi
tính, băng vide1o, cát-xét.
Chị Thanh Biên, vợ
anh, đã làm đơn và đến sở Công an Lâm đồng phản kháng. Mấy ngày sau,
thông qua Công an Lâm đồng, Công an Hà nội mới chính thức thông báo cho
chị Thanh Biên biết việc bắt giữ Hà Sĩ Phu với tội danh “có hành vi
chiếm đoạt tài liệu bí mật của nhà nước”.
Thật là khôi hài!
Hà Sĩ Phu tức Nguyễn Xuân Tụ, một cán bộ khoa học 55 tuổi đã về hưu, sức
khoẻ ốm yếu, đủ thứ bệnh tật, lại có khả năng chiếm đoạt cái gì bí mật
của nhà nước Xã hội chủ nghĩa hùng mạnh đang cai trị trên đất nước Việt
nam! Rõ ràng là ngược lại, nhà nước đang chiếm đoạt tự do của công dân
Hà Sĩ Phu. Một điều nghịch lý của chế độ kiểu anh đã phân tích trong bài
“Dắt tay nhau…” nhưng cực kỳ nghiêm trọng và hài hước lại đang được
chứng minh cụ thể và vận vào chính bản thân anh. Nhà nước cũng muốn chơi
chữ và chơi khăm cây bút châm biếm Hà Sĩ Phu chăng?
Tội nghiệp chị
Thanh Biên, người bạn đời của Hà Sĩ Phu.Cả hai anh chị đều đã có một đời
vợ, đời chồng nhưng không có con riêng, và ly hôn. Đến nay, sau gần 10
năm về chắp vá cho nhau, hai người vẫn không có con. Trong nỗi buồn đó,
họ chia sẻ và chăm sóc nhau tha thiết, tận tình. Anh đã từng vất vả lo
cho chị khi chị bị bệnh nặng phải về Sài gòn giải phẫu. Chị tảo tần với
chiếc quán tạp hoá bé nhỏ và chăm lo cho chồng từng miếng ăn thức uống,
tạo mọi điều kiện và ủng hộ chồng trong công việc nghiên cứu, viết lách,
dù chị biết đó là một công việc nguy hiểm. Nhiều lúc chị phải nhốt anh
trong nhà, khoá cửa bên ngoài để anh yên tĩnh viết, không bị quấy rầy.
Sau khi bị khám
nhà, thức suốt một đêm căng thẳng làm việc với hơn mười công an, qua
điện thoại chị báo tin cho tôi trong tiếng đầy nước mắt. Giờ đây chị đã
đóng cửa nhà ra Hà nội tìm cách thăm nuôi chồng, nhưng sau 3 tuần anh bị
giữ, công an Hà nội vẫn chưa cho chị gặp mặt chồng. Chị viết thư vào cho
biết, ở Hà nội chị cảm thấy rất đơn độc vì chung quanh ai cũng lo lao
vào làm ăn kinh tế. Chị định nếu phải ở lại Hà nội lâu dài, chị sẽ phải
đi làm thuê cái gì đó để có điều kiện thăm nuôi và đòi thả tự do cho
chồng.
Trước đây, khi nói
chuyện với bạn bè thân về vợ và gia đình, Hà Sĩ Phu thường lẩy Kiều đùa
rằng “Nghĩ mình công ít tội nhiều”. Đó cũng là tâm trạng thực của chúng
tôi, những kẻ bị coi là “bẻ nạng chống trời”, chỉ mang lại cho gia đình
nỗi lo âu phiền muộn hơn là niềm vui và những tiện nghi vật chất như bao
nhiêu người đàn ông khác.
Đối với tôi, và chắc
cũng như nhiều bạn bè thân thiết khác của Hà Sĩ Phu, và cả những người
ngưỡng mộ anh, lên tiếng về việc Hà Sĩ Phu bị bắt là tình cảm, lương tri
và trách nhiệm, dù ở trong nước việc lên tiếng đó có thể phải trả giá.
Làm thế nào có thể
im lặng khi Hà Sĩ Phu, một người trí thức chân chính, chỉ vì phát biểu
tư tưởng của mình về những vấn đề quan trọng của đất nước và thời đại
một cách ôn hoà, đầy tâm huyết lại phải chịu tù đầy?
Những người Cộng
sản tự cho là đã được lịch sử giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, lãnh
đạo đất nước. Thực ra những người Cộng sản đã giành được quyền đó trong
một giai đoạn lịch sử và đã có những đóng góp nhất định cho đất nước (dù
cũng có những người không thừa nhận sự đóng góp này). Tuy nhiên, việc
nắm quyền lãnh đạo đó không phải một lần là mãi mãi. Những người lãnh
đạo phải ngang tầm với đất nước và được sự chấp nhận của đa số nhân dân.
Nếu không thế, sớm hay muộn, nhất định những người lãnh đạo không xứng
đáng sẽ bị loại bỏ. Lịch sử rất công bình và nghiêm khắc. Bao nhiêu
triều đại, chế độ đã hưng phế theo thời gian. Làm sao những người Cộng
sản có thể cứ tự mãi hô muôn năm?
Liên xô là cái nôi
của chế độ Cộng sản, là nước đứng đầu hùng mạnh của hệ thống Xã hội chủ
nghĩa toàn thế giới, sau 75 năm đã xụp đổ tan tành trên đất nước Xô viết
đa số nhân dân đã không còn chấp nhận chế độ Cộng sản, tại sao những
người Cộng sản Việt nam vẫn “bảo hoàng hơn vua”, vẫn còn cố nêu lên định
hướng Xã hội chủ nghĩa khi chưa rõ hình thù nó như thế nào? Tại sao, như
Hà Sĩ Phu nói, những người Cộng sản qua sông rồi vẫn cứ vác thuyền trên
vai mà đi, không chịu can đảm tuyên bố chia tay Ý thức hệ, một Ý thức hệ
ngoại lai tuy có một số đóng góp cho đất nước trong một giai đoạn, nhưng
cũng đã tàn phá đất nước đến tận cùng?
Những người Cộng
sản Việt nam muốn độc quyền chân lý, độc quyền yêu nước nhưng điều đó
không thể được. Bộ máy thông tin tuyên truyền báo chí hùng hậu của cả
chế độ không trấn áp nổi bài viết 100 trang của Hà Sĩ Phu nên phải dùng
tới bạo lực nhà tù . Trấn áp không phải lúc nào cũng chỉ đưa tới sợ hãi
mà còn tạo ra sự căm phẫn và phản kháng. Cai trị bằng sự sợ hãi không
phải là một phương cách lâu bền. Tất cả mọi chế độ độc tài trên thế giới
này đều đã thử nghiệm và cuối cùng đã thất bại. Những người Cộng sản,
trong một giai đoạn, từng đấu tranh cho độc lập dân tộc và công bằng xã
hội tất phải thấu hiểu hơn ai cả về điều này.
Tôi tin trong những
người Cộng sản đang cầm quyền hiện nay vẫn có những người có lương tri
và thực tâm yêu nước. Tôi tin trong những người trí thức của bộ máy cầm
quyền, những nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo của hệ thống văn học nghệ thuật,
thông tin báo chí nhà nước hiện nay vẫn có những người thật sự muốn có
tự do sáng tạo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và xuất
bản. Những người này sẽ lên tiếng và bày tỏ thái độ về trường hợp Hà Sĩ
Phu vì Hà Sĩ Phu đã trở thành một biểu tượng của Trí tuệ và Tự do tư
tưởng đang bị vùi dập.
Dù đất nước Việt nam
vẫn còn nghèo nàn lạc hậu, dù đang thời kinh tế thị trường, con người
nhất định không phải chỉ là con vật kinh tế. Dù Đông hay Tây, dù với đặc
thù nào, một quốc gia nói tôn trọng Nhân quyền mà không tôn trọng tự do
tư tưởng và các quyền dân chủ của nhân dân thì thực chất chỉ coi con
người như con vật, nói gì đến việc xây dựng chiến lược con người.
Hà Sĩ Phu tin vào
quy luật của lịch sử và không chấp nhận thái độ đứng bên lề hay ngồi
chờ. Anh tin vào con người và trí tuệ nên đã dồn hết tinh lực và tâm
huyết vào các bài viết của mình. Anh cho rằng việc nâng cao nhận thức
của quần chúng là vấn đề cơ bản để chuyển biến tình thế về lâu về dài.
Anh dấn thân nhưng không làm chính trị chuyên nghiệp. Anh chỉ là lý
luận, bày tỏ quan điểm, phân tích tình hình một cách sáng suốt, sắc bén
và can đảm. Anh đề nghị những giải pháp, lối thoát cho dân tộc và cho cả
Đảng Cộng sản đang cầm quyền chỉ vì thật sự đau lòng và ưu tư cho vận
nước. Hà Sĩ Phu là biểu tượng của Trí tuệ, tự do tư tưởng trong thời kỳ
mới của đất nước và thời đại.
Đàn áp Hà Sĩ Phu và
những người đấu tranh cho tự do dân chủ là biểu hiện của sự thoái hóa,
đi ngược dòng lịch sử, là dấu hiệu suy yếu của một chế độ đã không còn
chính nghĩa để tồn tại.
Đà lạt, cuối
tháng 12-1995
Tiêu
dao BẢO CỰ
NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI
TỪ MỘT PHIÊN TÒA
Phiên toà ngày
22/8/96 xử Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu và Nguyễn Kiến Giang đã được dư luận
trong và ngoài nước bình luận nhiều. Dù nội dung phiên tòa bị bưng bít ,
nhưng qua những thông tin tối thiểu và kết quả chính thức được Thông tấn
xã Việt nam thông báo, dư luận chung đều đánh giá đó là một phiên toà
lúng túng, bất công và không hiệu quả như nhà nước mong muốn.
Sau phiên toà một
số thông tin mới được tiết lộ giúp chúng ta phát hiện thêm một số vấn đề
mới rất hữu ích cho tình hình chung.
Trường hợp Hà Sĩ
Phu bị bắt thế nào là một điều bí ẩn mãi cho đến khi ra toà, Hà Sĩ Phu
mới có dịp công khai nói ra. Trong lúc đi xe đạp trên đường phố Hà nội,
ông đã bị hai người đi xe honda chèn ngã và định giật lầy túi xách. Ông
đã la lên “ăn cướp,ăn cướp!” . Lập tức có Công an đến can thiệp ngay.
Nhưng thay vì bắt kẻ cướp, công an lại đưa ông về đồn, khám xét túi
xách, tìm thấy trong đó cái gọi là “tài liệu bí mật”, tức bức thư của
ông Võ văn Kiệt gởi Bộ Chính trị ngày 9-8-96. Sau đó công an bắt giữ ông
luôn.
Như thế vấn đề đã
rõ và người dân miền Bắc không lạ gì “trò cinéma” cổ lỗ sĩ này, nhưng
người ta ngạc nhiên khi đã đến thời kỳ đổi mới, mở cửa rồi mà bổn cũ vẫn
còn được diễn lại.Thì ra đổi mới cũng không phải dễ dàng. Có nhiều ngón
nghề cũ vẫn phải xài lại. Đây cũng là một loại “bí mật của nhà nước”, vì
từ khi bị bắt, Hà Sĩ Phu không được nói ra và vợ ông hai lần vào thăm
cũng không được hỏi chồng, nhiều lần hỏi công an nhưng công an từ chối
không chịu trả lời.
Khi ông Chánh án hỏi
“trình độ văn hoá” của Hà Sĩ Phu, Hà Sĩ Phu trả lời “ Tôi không biết
trình độ văn hoá của tôi ra sao, trình độ này khó mà nói được. Nhưng
chắc ông hỏi về học vấn thì tôi có học vị Phó tiến sĩ Sinh học tại nước
Cộng hoà XHCN Tiệp khắc”. Thật là cách nói châm biếm kiểu Hà Sĩ Phu
không lẫn vào đâu được. Thế nhưng vị Chánh án lại gặng hỏi : “Như thế
anh đã học hết lớp 10 chưa?” . Toàn thể cử toạ của phiên toà nghiêm
trọng này (mà hầu hết đều là người của nhà nước) đều không nhịn được,
phải cười ồ.
Có người ngạc nhiên
không hiểu tại sao nhà nước lại bố trí một Chánh án như thế để chủ toạ
phiên toà xử 3 nhà trí thức nổi tiếng về lý luận. Thật ra đây là một
hiện tượng đáng mừng. Người ta nhớ lại phiên toà xử Hoàng Minh Chính- Đỗ
Trung Hiếu, cách Hoàng Minh Chính đối đáp với Chánh án một cách kẻ cả,
át giọng đến nỗi người nghe nhiều khi không biết ai xử ai. Sau đó mọi
người còn biết đến lá thư của ông Hoàng Minh Chính gửi hai ông Chánh án
sau khi ông hết hạn tù, yêu cầu hai điều :
- Công khai hoá toàn bộ
hai phiên toà xử ông bằng cách cho các nhà báo, các nhà nghiên cứu và
bất cứ ai cũng đều được tự do tiếp cận các băng ghi âm và băng hình mà
toà án đã ghi lại từ A đến Z.
- Công dân Hoàng Minh
Chính sẵn sàng tranh luận công khai với ông Chánh thẩm Nguyễn Quang Đẩu
đã ngồi ghế Chánh án toà sơ thẩm tại Hà nội ngày 8-11-95, và thẩm phán
Vũ khắc Xương ngồi ghế chánh án toà phúc thẩm tối cao kiêm chung thẩm
ngày 18-12-95.
(Cuộc tranh luận nhằm
làm rõ sự thật về tính hợp pháp hay phi pháp của hai phiên toà kể trên.
Toàn bộ chi phí cuộc tranh luận đó công dân Hoàng Minh Chính tự nguyện
đảm nhận hết).
Có lẽ sau sự việc
này, các thẩm phán tử tế không ai dám ngồi ghế Chánh án phiên toà xử Lê
Hồng Hà-Hà Sĩ Phu- Nguyễn Kiến Giang vì sợ sẽ biến thành trò cười cho
thiên hạ. Chỉ có thẩm phán hỏi Hà Sĩ Phu “học hết lớp 10 chưa” thuộc
loại điếc không sợ súng” mới đủ tầm cỡ chủ toạ phiên toà này thôi.
Phiên toà có 3 luật
sư biện hộ cho hai ông Hà Sĩ Phu và Lê Hồng Hà. ông Nguyễn Kiến Giang
tự biện hộ. Các luật sư cũng như ông Nguyễn Kiến Giang đều tập trung
phân tích hai vấn đề : không có gì gọi là tài liệu bí mật và không có ai
cố ý tiết lộ bí mật nhà nước. Các lý lẽ nêu ra đều hết sức thuyết phục.
Thái độ của ba ông
Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang đều hết sức đàng hoàng, đĩnh
đạc, đều khẳng định mình vô tội và bác bỏ những luận điệu buộc tội do
công tố đưa ra.
Sau phiên toà, giới
thạo tin cung đình cho biết Ban tư tưởng văn hoá trung ương đã gửi cho
Bộ Chính trị một báo cáo về phiên toà với hai nhận định quan trọng :
- Chưa có phiên toà nào
các luật sư lại biện hộ một cách hăng hái, nhiệt tình như phiên toà này.
- Các lý lẽ buộc tội nêu
ra đều “đầy sức không thuyết phục” .
Thật là ý nghĩa.Từ
xưa, dưới chế độ này, có luật sư nào dám hăng hái biện hộ cho các bị cáo
bị kết tội phản động về chính trị? Có mà om xương. Và các lý lẽ của luật
sư, bị cáo thì “đầy sức thuyết phục”, trong khi công tố buộc tội lại
“đầy sức không thuyết phục” ! Hà Sĩ Phu khi biết được chắc rất thú vị
với trò chơi chữ này.
Như thế, phiên toà
ngày 22-8-96 xử 3 ông Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang thật là
một hiện tượng đáng mừng.Đây thật sự là một bước tiến của dân chủ. Trong
phiên toà xử những người bất đồng chính kiến với chế độ này, công lý và
sức mạnh thuộc về các bị cáo chứ không thuộc về toà án của nhà nước.
Đúng như dư luận chung đã nhận định, phiên toà lúng túng, lố bịch và
không hiệu quả như nhà nước mong muốn.
Tốt nhất là hãy công
khai hoá mọi chuyện, thực hiện nhà nước pháp quyền, thực hiện công lý
của nhân dân chứ không phải công lý của nhà nước độc tài. Chỉ có một chế
độ dân chủ thực sự mới đưa quốc gia đến tiến bộ và phồn vinh, trong đó
những người trí thức tài năng và nhiệt tâm với đất nước như Lê Hồng Hà,
Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu và nhiều
người khác nữa sẽ góp phần xứng đáng của mình chứ không phải mất bao
nhiêu thời gian vào ngồi trong nhà đá.
Đà lạt cuối
tháng 9-1996
Tiêu Dao BẢO
CỰ
HÀ SĨ
PHU VÀ NHÂN CÁCH CỦA
NGƯỜI TRÍ THỨC DÁM
SỐNG TRUNG THỰC
Hà Sĩ Phu viết không
nhiều. Ba tiểu luận triết học-chính trị của ông chỉ khoảng 200 trang mà
nhiều người đã biết : Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của
trí tuệ, Đôi điều suy nghĩ của một công dân và Chia tay Ý thức hệ. Sự
sâu sắc, tính trí tuệ, tính thuyết phục, tính triệt để, tính tiền phong
thể hiện rõ trong nội dung những bài viết. Vì thế nhiều người, đặc biệt
là giới trí thức trong và ngoài nước đã chia sẻ, kính phục và ngưỡng mộ
ông.
Uy tín và tình cảm
công chúng dành cho ông ngày một cao. Trong nước, những bài viết của ông
dù bị cấm đoán vẫn được nhân bản, chuyền tay nhau đọc ngày càng nhiều. Ở
hải ngoại, toàn tập tác phẩm của ông được xuất bản, các cơ quan truyền
thông giới thiệu về ông một cách rộng rãi và giới trí thức tìm đọc,
ngưỡng mộ ông ngày càng đông đảo. Việc ông bị bắt, bị đưa ra toà xét xử
đã làm dấy lên một làn sóng phản ứng mạnh mẽ trong nước và nhiều nơi
trên thế giới. Lúc ông hết hạn tù được trả tự do, bạn bè đã đi đón ông,
ở Hà nội từ trại giam, rồi ở Sài gòn và Đà lạt với hoa và tình cảm nồng
nhiệt. Bạn bè ở nhiều nước gọi điện về chia vui
và hỏi thăm sức khoẻ,
các đài báo nước ngoài liên tục phỏng vấn và đưa tin. Đó là sự kiện chưa
từng có ở đất nước này mấy chục năm qua.
Hà Sĩ Phu có được
những điều trên trước hết là do giá trị tư tưởng của ông. Mặt khác không
kém phần quan trọng là do nhân cách và thái độ hành xử của ông trước
những tình huống hiểm nghèo để giữ vững quan điểm và cách sống của mình.
Đó là đức tính và khí phách của kẻ sĩ chân chính phương đông. : Phú quý
bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Đó là cách
vượt qua thử thách của người trí thức trung thực trong hoàn cảnh Việt
nam hiện nay mà sự lựa chọn và cách sống, về một mặt, còn khó khăn hơn
trong thời kỳ chiến tranh ác liệt.
Từ khi công bố bài
viết đầu tiên “Dắt tay nhau…” năm 1988, Hà Sĩ Phu đã trải qua nhiều thử
thách. Năm 1991 ở Hà nội, lúc đến thăm Dương Thu Hương, ông đã bị gọi
thẩm vấn suốt 10 ngày.Năm 1993, vụ một người bạn mượn tài liệu của ông
đi photo ở Đà lạt ông cũng bị gọi lên thẩm vấn. Như mọi người đã biết,
bài viết của ông bị báo chí nhà nước liên tục đả kích trong mấy năm
liền. Ông thường xuyên bị giám sát và đôi khi được “tranh thủ” bằng cách
tặng quà trong dịp tết, mời đi ăn với cán bộ lãnh đạo của ngành Công an.
Dù thế, ông vẫn tiếp tục viết, tiếp tục dòng tư tưởng trào sôi của mình
trước vận nước.
Những bài viết của
ông, ban đầu có tính cách lý luận cơ bản, mang tính tổng kết chung,
nhưng dần dần khi đi vào những vấn đề cụ thể, cần phải đụng chạm đến cá
nhân một số người lãnh đạo, ông cũng đã không do dự mặc dù đã có bạn bè
khuyên là việc đó rất nguy hiểm.
Từ khi bị bắt, cho
đến lúc ra toà, vào trại giam và ngay cả khi được trả tự do, ông vẫn
thường xuyên đối diện với những thử thách ngày càng gay gắt.
Lúc mới bị bắt,
người ta hỏi ông có phải viết vì muốn nổi tiếng không, ông trả lời : Tư
tưởng triết học tôi ôm ấp mấy chục năm qua, nếu nội dung không có giá
trị thì người viết ra muốn nổi tiếng cũng không được mà chỉ là một thằng
hề, nếu nội dung có giá trị thì không muốn nổi tiếng cũng không được.
Người ta hỏi bài viết của ông gửi cho ai, ông đáp : Tư tưởng là phải có
giao lưu. Tôi tiếc không có điều kiện để in 70 triệu bản cho 70 triệu
người Việt nam nên xin đừng hỏi tôi gửi cho ai. Khi lần đầu vợ vào thăm,
ông cảm động ứa nước mắt nhưng đã trấn tĩnh ngay , nói với công an : Tôi
khóc vì thương vợ tôi chứ không phải Hà Sĩ Phu khóc với Công an đâu nhé!
Lúc ra toà, nơi
quyết định số phận của cá nhân, thái độ của bị cáo sẽ bộc lộ bản lĩnh,
nhân cách và khí phách của con người, không ai che dấu được.
Khi nghe bản cáo
trạng buộc tội ông đã có hành vi “chiếm đoạt tài liệu bí mật của nhà
nước”, ông bình luận một cách mỉa mai : Tôi nghe và hình dung thấy mình
có dáng dấp của một tên gián điệp đột nhập vào cơ quan lưu trữ của Nhà
nước, uy hiếp người bão vệ và bẻ khoá để lấy tài liệu. Ay thế mà bây giờ
toà lại cải tội danh thành “cố ý tiết lộ bí mật nhà nước”, tuỳ tiện như
thế là tự mâu thuẫn và chứng tỏ việc trên chỉ là vu cáo.
Khi nói lời cuối
cùng trước phiên toà, ông đã tố cáo việc bắt ông là một kịch bản vụng
về, tố cáo quá trình tố tụng không đảm bảo nguyên tắc và luật pháp như
cố tình trì hoãn việc mời luật sư ( ông chỉ được gặp luật sư 10 phút
trước phiên toà), không trao cho ông các văn bản đúng thời gian quy
định.
Chủ toạ phiên toà đã
cắt lời ông và hỏi có tính cách gợi ý : Có phải anh định nói mong toà
xét xử công minh không? Đây là câu hỏi mà ông hiểu, và sau này có người
xác nhận, là tuỳ cách trả lời của ông mà ông sẽ được trả tư do ngay hay
phải ở tù thêm 3 tháng. ( Vì trước đó Viện Kiểm sát đã đề nghị mức án 9
tháng đến một năm tù, để hợp pháp hoá việc ông đã bị tạm giam 9 tháng
). Tuy nhiên, phản ứng của ông hoàn toàn trái ngược với ý muốn của chủ
toạ phiên toà. Trước hết, ông phản đối chủ toạ đã cắt lời bị cáo trong
lời nói sau cùng (điều đó sai luật).Tiếp đó ông nói : Việc xử nặng hay
hay nhẹ đối với tôi không phải điều quan trọng. Vấn đề là tôi phải nói
sự thật, phải là một người trung thực!
Chủ toạ còn hỏi ông
có nguyện vọng cá nhân gì không. Ông trả lời : Tôi không có nguyện vọng
gì về cá nhân, nhưng ngay từ khi mới bị bắt, tôi chỉ có nguyện vọng là
đất nước đang cần đoàn kết để xây dựng thì đừng nên gây ra những tổn
thất không đáng có.
Sau này, khi về
trại giam, một tù thường phạm biết chuyện đã bảo ông nói thế làm gì cho
thiệt thòi. Ông đáp: Một câu nói ở nơi đó có giá trị hơn một trăm câu ở
nơi khác. Ba tháng chứ hơn nữa tôi vẫn nói.Ông đùa thêm : Một miếng giữa
làng hơn một sàng xó bếp !
Ở trại giam có một
chuyện tưởng như đơn giản nhưng làm ông rất khó nghĩ. Trại tổ chức cho
phạm nhân làm báo tường và yêu cầu ông tham gia viết bài. Thật oái oăm.
Người đã viết “Chia tay Ý thức hệ”, đòi những người cầm quyền từ bỏ chủ
nghĩa Cộng sản, sẽ viết gì trong tờ báo tường của trại giam xã hội chủ
nghĩa này. Và trại giam không phải là chỗ có thể đùa được. Cuối cùng ông
nói : Tôi là người có tư tưởng phi mácxít nên không thể viết gì phù hợp
với báo tường của trại giam xã hội chủ nghĩa (các trại giam phải đem báo
tường đi thi để chấm giải!). Tuy nhiên tôi cũng có khiếu viết chữ, tôi
sẽ đảm nhận trình bày toàn bộ phần hình thức thật đẹp cho tờ báo.
Ông dự tính nếu bị
ép quá hay bị đối xử thô bạo ông sẽ tuyệt thực để phản đối và đưa ra lời
tuyên bố “Người cầm bút chỉ có thể viết trong tự do!”. Nhưng việc đó rồi
cũng qua.
Và bây giờ, khi ông
đã trở về căn nhà bé nhỏ của mình ở 4E Bùi thị Xuân Đà lạt, tình hình
không phải đã dễ dàng. Ông vẫn bị giám sát chặt chẽ, và nhiều báo –đài
nước ngoài liên tục gọi điện thoại về phỏng vấn. Ông sẽ không nói hay sẽ
nói gì. Có những việc mà người ngoài, nhất là hải ngoại, khó thông cảm
được. Ở một đất nước như Việt nam hiện nay, đấu tranh cho tự do không
phải là tự do muốn nói gì thì nói. Nói thế nào để Hà Sĩ Phu vẫn là Hà Sĩ
Phu mà nhà nước không xem là khiêu khích, và bạn bè khắp nơi trên thế
giới không đánh giá sai hoặc hiểu lầm. Đó không chỉ là nghệ thuật mà
chính là trí tuệ và nhân cách.
Có lẽ tôi đã viết
khá nhiều về Hà Sĩ Phu, nhưng tôi vẫn còn muốn viết về ông, và vẫn chưa
viết hết những điều tôi đã hiểu và cùng ông chia sẻ.
Thực ra , ông chỉ là
một người trí thức trung thực, luôn băn khoăn về vận nước, và muốn đem
trí tuệ của mình góp phần soi sáng đường đi của đất nước. Ông phát biểu
ý kiến của mình thẳng thắn, nhưng ôn hoà.
Hà Sĩ Phu , cũng
chỉ đơn giản có thế !.
Tiêu Dao BẢO CỰ
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |