LÝ LUẬN     VĂN HỌC     BÌNH LUẬN     PHỎNG VẤN     VỤ ÁN LIÊN QUAN     NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ

"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988

"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993

"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995

Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự

Tôi bày tỏ
Nhật ký trong những ngày bị quản chế 1996 –1998


Phần 2: Chiến dịch bao vây, ngăn chặn, cô lập và giám sát

Thứ sáu 7/2/97 (Chiều mồng một Tết Ðinh Sửu)

Hà Sĩ Phu hẹn ra nhà gặp mặt một số bạn bè uống rượu mừng năm mới. 4g chiều, tôi và Yến chuẩn bị đi thì có điện thoại của một cô bạn trong nhóm Yoga báo có một đoàn khách Ấn Ðộ đến nhà cô, hình như là đoàn của tổ chức Yoga quốc tế. Vì cô không nói được tiếng Anh, không hiểu họ muốn gì nên nhờ tôi sang gặp để tiếp xúc. Chúng tôi rất ngạc nhiên vì đây là một việc khác thường. Khoảng 15' sau tôi đến nhà cô bạn. Cô cho biết đoàn đó đã đi rồi, vì thực ra họ lầm địa chỉ. Họ muốn đến nhà một người quen cùng tên với cô bạn, cùng số nhà nhưng đường khác. Sau khi kiểm tra lại, họ xin lỗi và ra đi. Tôi ngồi nói chuyện với hai vợ chồng cô bạn khoảng nửa tiếng rồi về. Tôi và Yến đến nhà HSP trễ nửa tiếng so với giờ hẹn. Mọi người đã có mặt đông đủ. Cũng là những người đã đi đón HSP trước đây, lúc HSP ở tù về. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ.

Một tuần sau, Yến gặp lại cô bạn trong nhóm Yoga. Cô bạn nói đã phải dằn vặt đấu tranh rất nhiều trước khi quyết định gặp nói chuyện với Yến. Cô cho biết hôm mồng một Tết, chỉ sau khi tôi rời nhà cô 5', một toán CA đã ập vào nhà cô để kiểm tra, mục đích bắt tại trận tôi đang tiếp xúc với đoàn khách nước ngoài. Họ nói chuyện rất nhiều với chồng cô, nguyên là một cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy đã về hưu. Họ cho biết tôi cùng với Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc và cả Mai Thái Lĩnh, Trần Minh Thảo đều là những người chống đối chế độ, có tham gia một tổ chức chính trị phản động ở bên Mỹ mà CA có đầy đủ hồ sơ. Họ đe dọa cô bạn không được báo cho tôi biết sự việc này, không được giao du với chúng tôi. Họ còn trách cô bạn ngày Tết mà không cho họ nghỉ ngơi, bắt họ phải đi làm việc vất vả. Thật nực cười.

Cô bạn tỏ ra rất sợ hãi. Cô nói ban đầu cô không dám báo vì chồng cô cũng răn đe, nhưng vì cô tin chúng tôi là những người tốt, không làm gì sai trái và biết CA đang theo dõi tôi gắt gao nên cuối cùng quyết định nói cho chúng tôi biết. Tuy nhiên cô nói thêm từ đây về sau, có thể khi gặp chúng tôi, cô không chào hỏi hay nói chuyện, xin chúng tôi đừng trách vì cô không muốn liên lụy.

Vậy là chúng tôi vẫn bị CA theo dõi giám sát chặt chẽ, mặc dù sau vụ tôi bị CA mời thẩm vấn 12 ngày hồi cuối năm ngoái, tình hình có vẻ im ắng.

Trong mấy ngày Tết có một việc quan trọng hơn. Mấy người bạn ở Ðà Lạt báo cho tôi hay họ vừa đọc được một bài báo đăng trên tờ Sài Gòn Giải Phóng đích danh viết về tôi với những lời phỉ báng và chụp mũ chính trị nặng nề. Báo này ở Lâm Ðồng hiếm nên gần cả tuần sau khi báo đăng, tôi mới được Mai Thái Lĩnh photo cho một bản, sau đó Quốc Vĩnh em tôi ở Sài Gòn cắt bài báo gởi lên. Ðó là bài “Tiếng vọng lẻ loi” của Nguyễn Minh đăng trên báo SGGP số chủ nhật 2/2/97, chiếm hơn nửa trang lớn.

Tôi và các bạn phân tích kỹ các khía cạnh của trường hợp đăng tải bài báo này. Bài viết thực ra không có sức nặng, nhiều dẫn chứng sai, lý luận thiếu sức thuyết phục, lời lẽ phỉ báng thiếu văn hóa. Những dẫn chứng tuy không chính xác, nhưng cho thấy tác giả là người của CA hoặc được CA cung cấp tài liệu. Tại sao bài này không được đăng trên tờ Nhân Dân mà lại chỉ đăng ở SGGP, có phải do chỉ đạo từ Trung ương? Lần đầu tiên một cá nhân được nêu ra, đả kích đích danh trên báo, đây có phải là một chủ trương mới, muốn công khai dùng các phương tiện thông tin đại chúng phản kích những ý kiến phê phán Ðảng và Nhà nước? Việc này dừng lại trong phạm vi đó hay chỉ là một bước mở đầu nhằm tạo dư luận thuận lợi, sau đó sẽ thực hiện những biện pháp mạnh hơn như bắt giữ, truy tố đối với cá nhân tôi, cũng như đối với những người bất đồng chính kiến khác? Ðây quả là một hiện tượng đáng suy nghĩ và có nhiều nghi vấn chưa giải tỏ được.

Sau khi tham khảo ý kiến bạn bè và gia đình, ngày 9/2/97, tôi viết một lá thư gởi Ban Biên tập báo SGGP, nguyên văn như sau:
 

Kính gởi: Ban Biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng

(Về bài báo “Tiếng vọng lẻ loi”)

Tôi là Bảo Cự, bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự, hiện ở tại 35/1 đường Nguyễn Ðình Chiểu Ðà Lạt. Vừa qua trên báo SGGP chủ nhật 2/2/97 có đăng bài “Tiếng vọng lẻ loi” của Nguyễn Minh nói về tôi. Bài viết này có chủ ý quy chụp chính trị với những lời lẽ hằn học, phỉ báng nặng nề. Tôi không biết Nguyễn Minh là ai, vì sao nhắm vào tôi như vậy, nhưng vì bài viết được đăng trên một tờ báo lớn, cơ quan của Ðảng bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam TP/HCM, có liên quan đến trách nhiệm của Ban Biên tập, nên tôi có một số ý kiến ban đầu về vấn đề này như sau:

Ðể phê phán tôi, Nguyễn Minh đã đưa ra 13 việc làm và lời nói của tôi để làm căn cứ, nhưng trong đó có đến 10 dẫn chứng lại không đúng sự thật, không phải của tôi hay không đầy đủ, cố tình bóp méo để xuyên tạc.

Những sự việc Nguyễn Minh viết sau đây hoàn toàn không có:

 
  • “TDBC đã tự đánh giá hành động của mình trong lời kết bài trả lời phỏng vấn đài Australia phát ngày 6/10/96 “Ðó chỉ là tiếng vọng lẻ loi...” Tôi không hề trả lời phỏng vấn đài Australia vào ngày đó với nội dung trên.

     
  • “Vào lúc 19g thứ ba 10/9/96, TDBC đã đọc cho đài phát thanh SBS tại Australia một bức thư ngỏ gởi đồng bào Việt Nam ở hải ngoại...” Tôi không hề viết thư ngỏ này.

     
  • “Rồi trong bài “Thiên tai, Ðảng và nhân dân” của TDBC do đài CMT phát ngày 19/10/96, TDBC lại tập trung chỉ trích nhà cầm quyền Việt Nam...” Tôi chưa bao giờ viết bài nào có tựa đề như trên và không biết đài CMT là đài gì.

     
  • “Một quyển sách của TDBC được in ở nước ngoài, ngày 6/10/96 đài Australia phỏng vấn TDBC và cái trò nhử cá cắn câu được anh chàng phóng viên của đài Australia tung hứng với TDBC khá ngoạn mục.” Rất tiếc tôi chưa được chơi trò tung hứng với anh chàng phóng viên nào của đài Australia.
Những câu trích dẫn sau đây Nguyễn Minh gán cho tôi trong khi tôi không hề nói hay viết như thế:

 
  • “Giống như những hành động của bọn thực dân thống trị trước đây, chà đạp lên nhân quyền và nhân phẩm con người. Những lời tuyên bố của chính phủ Cộng sản Việt Nam xây dựng một nhà nước pháp quyền để lo cho dân và vì dân đều chỉ là những lời tuyên truyền láo toét.”

     
  • “Trong khi cả nước đang nỗ lực chống bão lụt thì những người Cộng sản Việt Nam lại coi việc xử án ông HSP là quan trọng hơn, lo cho sự tồn vong của Đảng của họ hơn là sinh mạng của người dân.”
Những căn cứ về sự việc và câu nói trên đây không rõ Nguyễn Minh cố tình bịa đặt ra hay do trình độ khi nghe các đài phát thanh của nước ngoài, dù phát bằng tiếng Việt, vẫn không hiểu được nguồn tin xuất xứ từ đâu, không phân biệt được đâu là lời của phóng viên hay người bình luận của đài, đâu là lời của tác giả được trích dẫn, hay Nguyễn Minh đã cố tình đánh lận con đen để thực hiện ác ý của mình.

Một số câu trích dẫn khác Nguyễn Minh đã cố tình cắt ra khỏi văn cảnh hay sửa đổi theo ý mình để dễ suy diễn, quy chụp:

 
  • “Ðó chỉ là tiếng vọng lẻ loi từ một khu vườn yên tĩnh của thành phố Ðà Lạt sương mù bé nhỏ. Nó có ích gì không trong cái thế giới sôi động của những con người đang hận thù, giết chóc và mua bán này?” Ðây không phải là lời kết để tự đánh giá hành động của mình trong bài trả lời phỏng vấn đài Australia phát ngày 6/10/96 mà Nguyễn Minh lấy làm tâm đắc để suy diễn và dùng làm tựa đề cho bài báo, mà là phần cuối của bài nói chuyện với Ðoàn Giao Thủy, cộng tác viên báo Diễn Ðàn ở Pháp, (bài đăng trên báo Diễn Ðàn) khi Ðoàn Giao Thủy hỏi tôi có muốn nhắn gởi gì đến bạn bè khắp năm châu, do cám cảnh trước tình hình chung mà tính chất bạo lực và thực dụng đang chi phối thế giới hiện nay và cũng là cách nói khiêm tốn mang màu sắc văn chương của người viết.

     
  • “Ðảng và Nhà nước không cầm quyền mà là cai trị, không chỉ độc tài mà còn độc ác.” Là một câu trong bài “Hà Sĩ Phu và cuộc hành trình gian nan của dân tộc” tôi viết vào đúng ngày 22/8/96 có phiên tòa xử Hà Sĩ Phu, nguyên văn như sau: “Trước phiên tòa tôi suy nghĩ về 3 khả năng:

     
    1. Tòa tuyên bố vô tội và trả tự do cho ba bị cáo. Ðây là cách tốt nhất để Ðảng và Nhà nước chứng tỏ sự phục thiện của mình, may ra lấy được phần nào niềm tin nơi quần chúng.

       
    2. Một bản án nhẹ để gọi là giữ thể diện cho Nhà nước và thượng tôn pháp luật. Ðây là điều không thể chấp nhận nhưng cũng có thể hiểu được.

       
    3. Một bản án nặng để trấn áp những người đấu tranh cho dân chủ. Ðây sẽ là một tội ác không thể tha thứ. Ðảng và Nhà nước không phải cầm quyền mà là cai trị. Không phải là độc tài mà là độc ác. Một hành động đàn áp trắng trợn không gì có thể biện minh được.”
Lối trích dẫn kiểu đó để suy diễn, quy chụp từ trước đến nay không phải xa lạ gì và Nguyễn Minh đã học tập, áp dụng khá thành thạo.

- “Ðến câu hỏi “Thưa anh, hiện nay công an có để cho anh được yên thân hay không?” TDBC trả lời: “Tôi chỉ sợ là công an theo dõi tôi... tuy nhiên họ chưa có hành động nào trực tiếp” không phải là câu tung hứng với phóng viên đài Australia như đã nói trên mà cũng trong cuộc trò chuyện với Ðoàn Giao Thủy và nguyên văn như sau: “Tôi biết hiện nay công an đang theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi hành vi, quan hệ của tôi, kể cả việc kiểm duyệt thư từ và nghe điện thoại, tuy nhiên họ chưa có hành động nào trực tiếp.”

Tại sao Nguyễn Minh lại cố ý sửa đổi câu nói của tôi về công an, điều này có thể hiểu được, mặc dù đáng ra Nguyễn Minh phải trích đúng nguyên văn để có thể quy chụp, phê phán tôi nặng nề hơn.

Ðiều đó đã trở thành vụng về và “giấu đầu lòi đuôi” khi trong đoạn kế tiếp, Nguyễn Minh, một bạn đọc bình thường như tòa soạn ghi chú trên tựa đề bài viết, lại có thể kể chi tiết về cái gọi là bản kiểm điểm của tôi trước cơ quan công an khi có hành vi sai phạm vì tiếp một người nước ngoài và phải nộp phạt. Việc tường thật này lại càng không đầy đủ và không đúng sự thật. Khi cán bộ công an cố tình ép tôi phải thừa nhận có hành vi sai phạm điều 15 Quyết định 202/QÐUB ngày 24/3/84 của UBND tỉnh Lâm Ðồng, tôi đã phản đối kịch liệt và đã tự tay ghi trong bản tường trình là quyết định đó đã quá cũ, quá lạc hậu với tình hình, trái với chủ trương đổi mới và mở cửa của Ðảng và Nhà nước, trái với tình hình thực tế và cần phải thay đổi. Ðất nước đã mở cửa được 10 năm, Ðà Lạt là một thành phố du lịch, có rất nhiều du khách nước ngoài, mà quyết định trên cấm không cho người dân tiếp xúc với người nước ngoài, ai muốn tiếp xúc phải xin phép và được sự chấp thuận của chính quyền.

Tóm lại, chưa nói đến vấn đề quan điểm, bài báo của Nguyễn Minh là một sự vu khống trắng trợn nhằm chụp mũ chính trị và xúc phạm đến danh dự công dân một cách cụ thể, không phải là một bài báo phê phán chung chung thông thường. Tôi không hiểu Ban Biên tập đã đặt vấn đề và có điều kiện thẩm tra trước khi đăng tải hay chưa.

Do đó, tôi đề nghị Ban Biên tập cho đăng lá thư này của tôi, xem xét lại những vấn đề tôi đã nêu và có ý kiến rõ ràng theo đúng luật báo chí. Ngoài ra, tôi đề nghị Ban Biên tập mở cuộc tranh luận công khai trên quý báo về những vấn đề quan điểm mà Nguyễn Minh đã phê phán tôi trong bài báo trên như thế nào là độc tài và dân chủ, trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước trước hiện tình đất nước. Tôi dành quyền trả lời bài báo Nguyễn Minh, sẵn sàng tham gia cuộc tranh luận và tôi rằng đông đảo bạn đọc sẽ hưởng ứng tham gia để làm sáng tỏ chân lý.

Kính chúc Ban Biên tập mạnh khỏe và quý báo ngày càng có chất lượng tốt, xứng đáng với tên gọi Sài Gòn Giải Phóng và tiêu đề “Tiếng nói của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh”.

Trân trọng,
Ðà Lạt ngày 9/2/97
 

Chuyện bài báo xảy ra trong mấy ngày Tết có tác động phần nào nhưng không làm gia đình chúng tôi mất vui. Hai con về sum họp với bố mẹ bao giờ cũng là niềm vui lớn nhất của gia đình. Mỗi ngày, chúng tôi đều ăn uống, trò chuyện rất lâu vì ít khi có dịp gặp các con. Tết nào chúng tôi cũng không chú trọng việc mua sắm, trang trí xa xỉ, mà chỉ chuẩn bị thức ăn cần thiết, để dành thời gian trò chuyện và đi chơi là chính. Tiêu Dao, con trai lớn của chúng tôi, mới sắm một chiếc mô tô 125 phân khối. Công ty con làm việc đồng ý ứng trước cho nó mượn một năm lương và nó bỏ ra thêm một ít để mua. Nó bảo cần có xe để đi giao dịch và khi cần đi các tỉnh xa công tác không phải đi xe đò bất tiện và không chủ động. Yến không bằng lòng chuyện con mua xe mô tô, vừa tốn kém vừa đi nhanh nguy hiểm, nhất là đi đường trường. Tôi cho rằng con thích cứ để nó làm, đó cũng là yêu cầu và niềm vui của nó, miễn là nó không đua xe bậy bạ. Ðến một lúc nào đó nó sẽ có nhu cầu khác và chiếc xe không phải là vấn đề nữa. Vả lại chúng tôi cũng chỉ có ý kiến thế thôi. Các con đã tự lập và nhiều việc chúng tự làm theo ý mình.

Mấy ngày Tết chúng tôi chỉ đi thăm viếng vài bạn bè thân, còn ngoài ra chúng tôi đi chơi xa. Ðặc biệt năm nay chúng tôi đi Suối Vàng và hồ Dankia, nơi có nhà máy thủy điện. Suối Vàng là một thắng cảnh của Ðà Lạt, nhưng dù ở đây khá lâu chúng tôi vẫn chưa đi vì đường xấu và khá xa. Chung quanh khoảng đường gần thành phố đồi núi đã bị đốn trọc và dân khai thác trồng rau, cây ăn trái nên trông xấu xí, nhưng càng vào sâu rừng thông còn nguyên vẹn và giữ được vẻ hoang sơ. Hồ Dankia rộng mênh mông so với hồ Xuân Hương, khung cảnh khá tĩnh mịch, thu hút cả một số đoàn du khách từ Sài Gòn lên. Chúng tôi lấy thức ăn mang theo ra nhấm nháp và ngồi ngắm hồ, cảm thấy tâm hồn yên tĩnh trước thiên nhiên.

Nghe nói TP/ÐL có liên doanh với nước ngoài xây dựng khu du lịch mới ở Dankia, một Ðà Lạt thứ hai, với kinh phí lớn nhất so với các công trình đầu tư trong cả nước từ trước đến nay. Chương trình nghe rất vĩ đại nhưng không biết đến bao giờ mới thực hiện. Nếu làm được cũng rất tốt, vì Ðà Lạt hiện nay đã trở nên nhỏ bé và ô nhiễm, nhưng tôi chỉ sợ rằng rồi Dankia cũng sẽ không giữ được nét thiên nhiên hoang dã khi một đô thị mới mọc lên với những khu phố và khu vui chơi giải trí kiểu văn minh.

Khi về, chúng tôi ghé vào Trung tâm Nghiên cứu Khoa học, nơi có trưng bày mẫu cây và thú. Ðây trước kia là Dòng Chúa Cứu thế, một lâu đài tuyệt đẹp nằm trên một ngọn đồi cao giữa rừng thông. Thật là tiện lợi cho Nhà nước khi chiếm dụng những cơ sở như thế này. Không biết nhà nước đã viện lý do gì mà đến nay Giáo hội Thiên chúa giáo vẫn chưa đòi lại được cũng như nhiều cơ sở tôn giáo khác. Dù các giáo hội đã phục tòng và hợp tác với Nhà nước cách này cách khác ở những mức độ khác nhau, nhưng trong sâu xa, chắc chắn các giáo hội và giáo dân khó lòng tin tưởng được Nhà nước này khi những việc như thế và những việc khác xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo vẫn còn tiếp tục.

Chuyện bài báo của Nguyễn Minh không ngờ ở nước ngoài cũng biết nhanh chóng. Các bạn bè và người quen của tôi ở Pháp, Mỹ, Ðức tới tấp gọi điện về chúc Tết tôi và hỏi thăm. Một số người đã thu âm qua điện thoại lá thư của tôi gởi BBT báo Sài Gòn Giải Phóng để phổ biến và hứa sẽ phổ biến các bài viết sau này của tôi về vấn đề đó. Thế là công khai gọi công khai. Và tôi lúc nào cũng muốn công khai dù tôi đang bị phỉ báng.

Mấy này Tết trôi qua nhanh chóng. Các con tôi trở về Sài Gòn và chúng tôi lại tiếp tục nếp sống cũ.

Chuyện bài báo của Nguyễn Minh trên SGGP tiếp tục râm ran ở đây. Ngay một số người hàng xóm của tôi làm việc ở các cơ quan có mua báo này cũng biết và họ nhìn chúng tôi với đôi mắt khác lạ. Ban đầu, quả thật chúng tôi không biết Nguyễn Minh là ai, nhưng rồi mọi chuyện rõ dần. Chẳng phải ai xa lạ, chính là một “đồng chí” cũ của tôi, hội viên Hội Văn nghệ Lâm Ðồng, người đã ủng hộ tôi và Bùi Minh Quốc hết mình trong vụ đấu tranh với Tỉnh ủy năm 1988, nhưng sau đó anh ta xoay chiều và đi đầu quân làm việc cho CA. Anh ta được kết nạp Đảng, sau gần 30 năm là đối tượng Đảng, được bố trí làm thường trực tòa soạn của tờ báo CA tỉnh, được tăng lương và cấp một chiếc xe Simpson mang biển số xanh để đi lại. Sau một thời gian được sử dụng, không hiểu sao gần đây anh ta lại bị cho ra rìa và có lẽ việc viết bài báo là một cách lập công. Chính anh ta đã đi khoe bài viết của mình nhiều nơi, nhất là các báo, đài và ban tuyên huấn. Sau khi bài báo đăng ở SGGP, anh ta còn tiếp tục gởi ra cho tờ Người Làm Báo ở Hà Nội, hy vọng sẽ được đăng lại ở một số tờ báo của trung ương và chứng tỏ khả năng của mình. Ðúng là một kiểu ngoi lên điển hình của một loại cầm bút trong thời đại này.

Anh ta chính là nguyên mẫu của một nhân vật trong tiểu thuyết Nửa đời nhìn lại của tôi. Nhân vật này thuộc tuyến tích cực, chỉ có phần kết được nhắc qua là đã trở cờ. Có lẽ vì thế mà anh ta hận tôi chăng? Còn bao nhiêu nhân vật khác sẽ vùng dậy trả thù tôi? Viết văn kiểu như tôi rõ ràng không kém phần nguy hiểm. Anh ta và tôi có mối giao tình một thuở. Anh ta từng đến nhà tôi, cùng câu cá dưới ao lên để chiên nhắm rượu, cùng với Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh và tôi ngồi trước sân uống rượu, nói chuyện sát cánh đấu tranh với hào khí ngất trời. Anh ta đã từng rất thân thiết với Bùi Minh Quốc thời gian anh ta làm việc cho CA và chúng tôi rất hoài nghi vai trò bí hiểm này, và cuối cùng BMQ đã phải quyết định đoạn tuyệt khi thấy mũi dao ló ra trong tay người chiến hữu.

Ðó cũng chỉ là một nhân vật tầm thường. Còn những nhân vật quyền cao chức trọng hơn, những gương mặt điển hình tôi đã khắc họa trong tác phẩm của mình, họ sẽ phản ứng ra sao với tôi? Ðây cũng là cái “họa văn tự” ngàn đời tôi đã biết.

Sau khi gởi thư cho Ban biên tập báo SGGP, tôi chờ 2 tuần không thấy hồi âm. Tôi đã cẩn thận gởi theo cách bảo đảm có hồi báo để họ không thể chối là thư thất lạc được. Ngày 23/2/97 tôi quyết định gởi bài tôi vừa viết “Tiếng vọng lẻ loi và tự do báo chí”, không những chỉ cho báo SGGP mà còn cho nhiều báo và cơ quan văn hóa tư tưởng, văn học nghệ thuật ở Sài Gòn, Trung ương và một số tỉnh. Tôi quyết định mở trận chiến công khai về việc này. Không có tự do báo chí, năm 88, chúng tôi dùng máy ronéo để phổ biến bài viết và được một số bạn văn nghệ đặt cho biệt danh là “trường phái ronéo”. Bây giờ tôi có máy vi tính và việc đi photo dễ dàng nên các bài viết được phổ biến rõ ràng và đẹp hơn trước nhiều.

Tôi không ngờ bài “Tiếng vọng lẻ loi và tự do báo chí” lại là bài chính luận cuối cùng của tôi, vì sau đó bao nhiêu biến cố xảy ra, tôi khó lòng có thể viết tiếp theo kiểu này.
 

Tiếng vọng lẻ loi và tự do báo chí

Trong mấy năm gần đây, tôi không phải là người đầu tiên và duy nhất công khai bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề chung của đất nước, có quan điểm khác hoặc trái với quan điểm của Ðảng và Nhà nước. Những ý kiến đó không được báo chí trong nước đăng tải, nhưng các đài báo nước ngoài đã thông tin rộng rãi trên toàn thế giới. Nhiều người đã biết đến Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lữ Phương, Nguyễn Hộ, Ðỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu ở Sài Gòn, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Trần Ðộ, Phan Ðình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Minh Thảo ở Ðà Lạt, Lâm Ðồng và một số người nữa, chưa kể đến ý kiến của các tu sĩ đối với những vấn đề tôn giáo.

Cũng như nhiều người khác, quan điểm của tôi thật rõ ràng: Ủng hộ dân chủ, không tán thành độc quyền lãnh đạo, nhưng không chủ trương bạo động, lật đổ, gây hận thù, đổ máu, mà thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đất nước bằng những phương tiện hòa bình, chủ yếu là thông qua việc bày tỏ trung thực và thẳng thắn quan điểm của mình, thực hiện quyền tự do tư tưởng, ngôn luận và báo chí.

Trong ý hướng đó, tôi không coi vấn đề nào là cấm kỵ, không cần lựa lời nói cho dễ lọt tai, vừa lòng lãnh đạo. Cũng như nhiều người khác, tôi không phủ nhận và ít viết về những thành tựu mà tập trung phân tích, phê phán những thiếu sót hay sai lầm. Ðiều đó dễ hiểu. Ðã có gần 500 đài, báo của Trung ương và các địa phương do Ðảng và Nhà nước lãnh đạo thông tin về đường lối chính sách và ca ngợi thành tích rồi, chúng tôi không cần thiết phải làm việc đó.

Tôi cho rằng Ðảng và Nhà nước không thể đứng trên nhân dân và luật pháp. Ðảng và Nhà nước phải lắng nghe và chấp nhận sự phê phán của công luận dù điều này rất khó chịu đối với một Đảng đã từng tự cho mình luôn sáng suốt, lãnh đạo xã hội toàn diện, triệt để và tuyệt đối, theo một ý thức hệ “bách chiến bách thắng muôn năm” và không muốn chia sẻ quyền lãnh đạo với ai khác.

Mặc dù hiện nay vẫn có những biện pháp trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến, nhưng tôi cho rằng trong vấn đề này đã có tiến bộ hơn trước. Hai phiên tòa Hoàng Minh Chính - Ðỗ Trung Hiếu và Lê Hồng Hà - Hà Sĩ Phu - Nguyễn Kiến Giang mới đây, với bản án nặng nhất chỉ có hai năm tù ở, người hết hạn tù được trả tự do ngay. Một số người khác bị gây khó khăn bằng nhiều cách như quản thúc, giám sát, thường xuyên gọi lên thẩm vấn... Bản thân tôi cũng bị giám sát chặt chẽ và từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12/96 tôi đã bị CA mời lên thẩm vấn ba đợt, tổng cộng 12 ngày về những bài viết của tôi đăng tải trên đài báo nước ngoài.

Dĩ nhiên những người trong cuộc không chấp nhận, và tôi tin đông đảo người dân cũng như dư luận trong và ngoài nước không đồng tình, nhưng dù sao so với những bản án nặng nề và biện pháp thô bạo trước đây, đó là một bước tiến về phía dân chủ của tình hình. Tuy sự tiến bộ đó còn quá ít ỏi so với yêu cầu của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, nhưng đó là một dấu hiệu tích cực cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa.

Vừa qua, trên báo Sài Gòn Giải Phóng số chủ nhật 2/2/97 có bài viết “Tiếng vọng lẻ loi” của Nguyễn Minh đả kích nặng nề và quy chụp chính trị đối với cá nhân tôi. Trong lá thư gởi Ban Biên tập ngày 9/2/97, tôi đã chứng minh sự vu khống trong bài báo đó, đề nghị BBT có thái độ rõ ràng theo đúng luật báo chí và mở cuộc tranh luận công khai về các vấn đề bài báo đã nêu.

Ở đây tôi không phân tích các vấn đề quan điểm mà Nguyễn Minh đã đưa ra để quy chụp tôi về chính trị như vấn đề độc tài và dân chủ, trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước trước hiện tình đất nước, đặc biệt đối với chuyện tham nhũng và bão lụt, vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội. Những vấn đề đó tôi đã viết khá nhiều trong cuốn tiểu thuyết Nửa đời nhìn lại [Nhà xuất bản Thế Kỷ, Mỹ, xuất bản năm 1994], và hơn 20 bài viết mà gần 20 đài báo ở ít nhất 7 nước trên thế giới đã giới thiệu, đăng tải trong hai năm qua. Ðặc biệt bài “Thư ngỏ gởi những người Cộng Sản Việt Nam” tôi đã viết như một bài góp ý cho Ðại hội 8 của Ðảng CSVN và đã chính thức gởi cho tạp chí Cộng sản hồi tháng 6/96, trong đó tôi nêu nhiều vấn đề chung một cách có hệ thống hay những bài viết về những vấn đề cụ thể, như bốn bài viết về Hà Sĩ Phu kể từ khi ông bị bắt hồi tháng 12/95. Tôi tin sẽ có nhiều bạn đọc lên tiếng tham gia các vấn đề trong bài báo của Nguyễn Minh.

Tôi cũng không trực tiếp tranh luận với Nguyễn Minh vì người ta không thể đối thoại với những bài viết mà ngoài luận điệu chụp mũ chính trị cũ rích lỗi thời, còn có giọng điệu hằn học, lời lẽ thóa mạ như thế. Phê bình, tranh luận trên sách báo bao giờ cũng cần có văn hóa.

Tôi muốn nhân sự việc này tập trung phân tích một vấn đề búc xúc hiện nay là vấn đề tự do báo chí. Có tự do báo chí, tự do tư tưởng và ngôn luận, tất cả mọi vấn đề khác sẽ được đưa ra công luận và làm sáng tỏ chân lý.

Ai cũng hiểu vai trò lớn lao của báo chí trong đời sống xã hội. Ở các nước phương Tây, người ta tôn vinh báo chí là đệ tứ quyền. Dĩ nhiên trong báo chí cũng có những biểu hiện xấu [mà lãnh vực nào lại không có], nhưng không ai phủ nhận vai trò to lớn của báo chí trong các cuộc cách mạng, trong các phong trào dân chủ và trong đời sống chính trị, xã hội của các quốc gia văn minh hiện nay.

Từ khi có báo chí, đất nước ta đã bao giờ có tự do báo chí hay chưa? Trong các hiến pháp xã hội chủ nghĩa từ trước đến nay đều có ghi rõ quyền tự do báo chí, và quyền đó được thực hiện như thế nào?

Khi không có báo chí tư nhân hay báo chí phải được lãnh đạo, được kiểm duyệt thì trên lý thuyết và trong thực tế đã không có tự do báo chí, dù được biện minh lý giải cách nào. Mấy chục năm qua, nhiều sự kiện lớn đã là những mốc dấu khẳng định rõ rệt ta không có tự do báo chí và điều đó đã gây ra biết bao tai họa.

Vụ Nhân văn - Giai phẩm năm 1956-57 là một vụ án báo chí-văn nghệ thảm khốc, một bi kịch lớn, không những đã hủy hoại tài năng, trí tuệ, tâm huyết và cả sinh mệnh của bao nhiêu văn nghệ sĩ, nhà báo tài năng, trung thực, dũng cảm nhất trong cuộc, đày đọa họ cho đến cuối đời, mà còn làm thui chột óc sáng tạo, tinh thần phản kháng chính trực của cả mấy thế hệ cầm bút, làm cho họ không chỉ mặc đồng phục, xếp hàng đi trong đội ngũ và hướng đi định sẵn, mà còn tự mình nằm trong gọng cùm của chính mình do sự sợ hãi, sự quy phục trong chính đầu óc mình dù tự nguyện hay không tự nguyện. Ðôi người muốn đi ra ngoài hàng, lập tức bị nghiền nát. Ðừng vội giãy nảy lên và cho rằng đây là luận điệu phản động của bọn thù địch. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến là ai khi ông viết về “văn nghệ phải đạo”? Có ai dám nghi ngờ về quan điểm lập trường và lòng trung thành của nhà văn đại tá quân đội Nguyễn Minh Châu khi ông viết “Ðọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ”? Không phải nhiều văn nghệ sĩ đã nói đến ông kiểm duyệt nằm ngay trong đầu mình khi sáng tác, và một vị tổng bí thư đã lớn tiếng hô hào cởi trói cho văn nghệ sĩ đó sao? (Ðáng tiếc chẳng bao lâu cũng chính ông đã cho trói lại).

Vụ Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ TP/HCM xin ra báo Truyền thống kháng chiến không được, đã tố cáo chế độ tự do báo chí của ta hiện nay còn tệ hại hơn thời Pháp thuộc chứng tỏ sự bức xúc như thế nào. (Thời Pháp thuộc, người dân chỉ cần đăng ký là có quyền ra báo chứ không cần xin phép). Ðó không phải là địch nói mà là những nhà cách mạng lão thành, những Đảng viên 40-50 tuổi Đảng lên tiếng.

Kể từ khi có chủ trương đổi mới năm 1986, các vụ báo Văn Nghệ trung ương ở Hà Nội, tạp chí Sông Hương ở Huế, tạp chí Langbian ở Ðà Lạt, báo Ðối Thoại ở Cửu Long bị trấn áp, đình bản, kỷ luật ban biên tập, càng cho thấy rõ hơn đã có tự do báo chí hay chưa. Ðó là chưa nói đến những tổng biên tập mới chỉ cố gắng làm đúng chức năng báo chí đã bị xử lý như Tô Hòa báo Sài Gòn Giải Phóng, Kim Hạnh báo Tuổi Trẻ, Thế Thanh báo Phụ Nữ TP/HCM, Trường Giang báo Giáo Dục và Thời Ðại... Cũng chưa nói đến những nhà văn, nhà báo bị phê phán một cách bất công, xử lý kỷ luật hành chính hoặc “đánh đòn hội chợ” theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hà Sĩ Phu, Ðào Hiếu, Trần Vàng Sao, Hà Văn Thùy, Phạm Thái.

Và nếu lá thư khiếu nại này của tôi không được báo SGGP đăng hay trả lời, không có báo chí nào khác lên tiếng hay được lên tiếng, đăng tải ý kiến của bạn đọc tham gia, ta lại càng thấy rõ luật báo chí được thực hiện như thế nào, cái gọi là tự do báo chí ra sao ở đất nước này.

Nói tự do báo chí nhưng chưa hề có một diễn đàn, một cuộc tranh luận công khai và thẳng thắn về những vấn đề lớn của đất nước, trong đó mọi ý kiến dị biệt đều được tôn trọng và đăng tải. Các diễn đàn trên báo chí thường chỉ có ý kiến một chiều, xuôi theo chỉ đạo, khá lắm là kiến nghị, đề xuất, không mấy khi có ý kiến phản bác, phê phán đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước dù trong nhân dân, đặc biệt trí thức, không thiếu loại ý kiến này.

Công bằng mà nói, gần đây báo chí có cởi mở hơn. Một số báo có mở ra các diễn đàn tranh luận, nhưng thường đề cập những vấn đề không thuộc loại cấm kỵ, đã có phê phán đích danh cán bộ lãnh đạo dù mới chỉ là lãnh đạo của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam, đã đề cập đến các ô dù, các bóng đen đằng sau các vụ tham nhũng tuy chưa dám chỉ rõ ai.

Một số nhà báo tài năng, nhạy bén và thông minh, kể cả một số bạn đọc thông thường, qua các bài chính luận, các phóng sự điều tra, các cuộc phỏng vấn và những bài viết ngắn trong mục ý kiến bạn đọc, đã có cách nói lên sự thực, đưa ra những vấn đề Ðảng và Nhà nước không muốn nêu lên trước công luận, lọt qua được cửa ải biên tập. Ðó là kiểu “viết lách” trong các chế độ độc tài hay thống trị của ngoại bang, không có tự do báo chí, chứ không phải trong chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ gấp triệu lần chế độ tư bản.

Tình hình đó hoàn toàn không tương xứng với yêu cầu đổi mới, dân chủ hóa đất nước và hội nhập vào thế giới văn minh trong thời đại bùng nổ thông tin này.

Quyền được thông tin của người dân như thế nào? Quyền này được ghi rõ trong Hiến pháp Việt Nam. Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên đã cam kết thực hiện, khẳng định mạnh mẽ: “Mỗi người có quyền tự do có ý kiến và phát biểu, quyền này không cho phép bất cứ ai phải lo ngại vì có những ý kiến của mình và bao gồm cả quyền tìm kiếm, thu nhận và truyền bá các thông tin và ý tưởng, bất chấp biên giới, bằng bất cứ phương tiện nào.” [điều 19]. Trong khi các đài báo nhà nước thông tin chi tiết từng giờ về vụ mổ tim của tổng thống Yeltsin ở Nga, về các tai tiếng tài chánh liên quan đến tổng thống Clinton bên Mỹ, về các vụ đình công, biểu tình, bạo động, khủng bố ở khắp các nước và bình luận một cách thích thú, nhưng lại không hề tường thuật các chi tiết xác thực quan trọng về các phiên tòa xử Hoàng Minh Chính - Ðỗ Trung Hiếu, Lê Hồng Hà - Hà Sĩ Phu - Nguyễn Kiến Giang, không nói gì đến bệnh tình của Chủ tịch nước Lê Ðức Anh dù ông đã vào nằm bệnh viện rất lâu, không thông tin khách quan về vụ nông dân đấu tranh giữ đất xung đột với bộ đội, công an ở Kim Nổ, huyện Đông Anh và các cuộc biểu tình đòi dân sinh khác ở Hà Nội...

Vậy thì quyền được thông tin của người dân chỉ là quyền được biết những gì Ðảng và Nhà nước muốn cho biết thôi sao? Nhưng rõ ràng bưng bít thông tin là điều không thể được trong thế giới ngày nay. Từ bất cứ một xó xỉnh nào của núi rừng cũng có thể truyền tin đi khắp thế giới và nằm trên giường ngủ cũng có thể nghe được, xem được đủ mọi thứ trên đời. Bưng bít thông tin chỉ chứng tỏ sự thiếu tự tin, thiếu bản lĩnh và độc đoán của nhà cầm quyền.

Tự do báo chí, quyền được thông tin lúc nào cũng là nhu cầu cần thiết của nhân dân và càng ngày càng trở nên bức xúc. Nguyễn Văn Trấn đã viết cuốn sách Viết cho mẹ và Quốc hội dày hơn 500 trang, cốt chỉ nói một điều là cần phải có tự do báo chí. Mới đây Hoàng Tiến trong nhiều bài viết đã công khai lên tiếng đòi phải có báo chí tư nhân. Và tờ báo Người Sài Gòn xuất bản không cần giấy phép đã ra được mấy chục số... Ðảng và Nhà nước suy nghĩ thế nào về các hiện tượng này?

Quốc hội thông qua luật báo chí không cho phép báo chí tư nhân là vi phạm hiến pháp, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân, trong khi Quốc hội được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân. Trong thực tế, nhiều cơ quan, hội đoàn do Ðảng và Nhà nước tổ chức, chỉ đạo có quyền ra báo, lại giao cho tư nhân làm, thực chất là bán giấy phép. Những tờ báo lá cải chạy theo lợi nhuận, cóp nhặt xào nấu báo chí nước ngoài, viết những bài vô thưởng vô phạt hay linh tinh nhảm nhí đầy dẫy, trong khi đó những người tâm huyết, những trí thức cấp tiến muốn có một cơ quan ngôn luận để bày tỏ quan điểm của mình lại không được quyền ra báo. Ðảng và Nhà nước chủ trương chấp nhận những ý kiến khác nhau, nhưng những ý kiến đó sẽ được nói ở đâu nếu không có tự do báo chí, không có báo chí tư nhân? Người ta chỉ có thể nói trong xó nhà, nơi quán nước hay photocopy để truyền bá quan điểm của mình như tình hình hiện nay và có người bức xúc đi đến chỗ làm báo lậu.

Ở đây còn có vấn đề liên quan đến báo chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Hai triệu người Việt ở nhiều nước trên thế giới xuất bản rất nhiều báo chí thuộc đủ khuynh hướng, trong đó có nhiều tờ báo đứng đắn, trí tuệ của nhiều trí thức và cả những người Cộng sản cũ ở miền Nam, miền Bắc hay ở nước ngoài trước đây chủ trương. Ngoài một số báo chí có xu hướng chống Cộng cực đoan, hô hào lật đổ, không ít báo chí đã đi đến xu hướng hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ, góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, tìm những giải pháp tối ưu cho tình hình đất nước bằng những phương tiện hòa bình, thông qua đối thoại. Chủ trương này xét về tổng quát không khác gì đường lối chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc của Ðảng và Nhà nước hiện nay. Ðảng và Nhà nước đã thừa nhận cộng đồng người Việt ở hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, nhưng trong thực tế tất cả báo chí của người Việt ở hải ngoại đều bị cấm, bị coi là phản động. Rõ ràng thế là không thực tâm. Người Việt ở hải ngoại có nguyện vọng, có quyền nói và truyền bá quan điểm của họ cho đồng bào mình. Ðảng và Nhà nước cũng phải lắng nghe và đối thoại với họ. Tại sao Ðảng và Nhà nước bắt tay, bình thường hóa ngoại giao, quan hệ hữu hảo với các quốc gia là kẻ thù cũ, thậm chí là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù lâu dài, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, lại không thể hòa giải hòa hợp, đối thoại với đồng bào mình ở xa tổ quốc, dù trước đây họ ở bên kia chiến tuyến, hay cùng chiến tuyến nhưng nay bất đồng chính kiến, và đang tha thiết muốn góp phần xây dựng quê hương. Nếu chế độ này tốt đẹp, có chính nghĩa và đang có bộ máy truyền thông đại chúng hùng hậu, hiện đại thì không sợ gì ai, không sợ bất cứ luận điệu sai trái nào.

Nhân dân ta đã rất yêu nước, rất thông minh, làm sao có thể chấp nhận những luận điệu xằng bậy, nhưng nếu có những ý kiến tốt, những lý luận sắc sảo và thuyết phục, những quan điểm đúng đắn thì nhân dân sẽ ủng hộ, Ðảng và Nhà nước cũng phải tiếp thu nghiên cứu nghiêm túc. Tại sao cái gì cũng hô hoán, quy kết là âm mưu “diễn biến hòa bình”. Diễn biến hòa bình không tốt hơn diễn biến chiến tranh sao? Trong diễn biến hòa bình, phần thắng sẽ thuộc về người có chính nghĩa, chinh phục được trái tim và khối óc của người dân. Ðó là cuộc đấu tranh thẳng thắn, công bằng và không đổ máu, tại sao lại không chấp nhận luật chơi văn minh này.

Lịch sử thế giới và Việt Nam đã cho thấy độc quyền dù trong tư tưởng, chính trị hay kinh tế cũng không bao giờ tốt, chỉ dẫn đến sai lầm, độc tài và độc ác như nhiều người đã nhận xét. Phải có đối thoại, đối lập và cạnh tranh một cách hòa bình, lành mạnh mới có thể xây dựng một xã hội, một chế độ tốt đẹp và văn minh, mang lại tự do và quyền lợi cho đa số nhân dân. Trong vấn đề này, tự do báo chí là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất.

Trở lại bài báo “Tiếng vọng lẻ loi” của Nguyễn Minh, gạt qua bên sự vu khống, trích dẫn sai lầm và suy diễn lệch lạc mà tôi đã phân tích trong lá thư gởi Ban Biên tập báo SGGP ngày 9/2/97, tôi cũng muốn nói đôi điều về tâm trạng lẻ loi.

Trong những năm trước đây, những người trí thức bất đồng chính kiến trong nước, khi phát biểu quan điểm của mình và bị trù dập, đôi khi cũng có tâm trạng lẻ loi. Nhưng dần dần số người dám nói tiếng nói của lương tri đã tăng lên, vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn và được nhiều người lắng nghe, ủng hộ, truyền bá. Nhiều người khác cùng nhận thức nhưng không nói trực tiếp và thẳng thắn, cũng đã có cách làm khác hoặc thông qua đài báo nhà nước một cách thông minh và khôn ngoan để biểu lộ. Ðám đông thầm lặng cũng thấy rõ ý kiến nào đúng đắn, tâm huyết, luận điệu nào là tuyên truyền lừa mị dù được nói bởi bất cứ ai, phổ biến bằng bất cứ phương tiện nào. Các cơ quan truyền thông đại chúng nước ngoài đã góp phần quan trọng phổ biến những tiếng nói lương tri ngay trong chính đất nước này và ra năm châu bốn bể.

Nhưng tiếng nói lẻ loi lại có sức nặng ghê gớm của chân lý làm những kẻ nắm quyền lực phải hoảng sợ và ra sức trấn áp.

Trần Vàng Sao (Nguyễn Ðính), một nhà thơ tài hoa, một trong những sinh viên Huế đầu tiên giác ngộ cách mạng, ra bưng kháng chiến năm 1965, bị thương được đưa ra Bắc điều dưỡng năm 1969. Anh chỉ làm thơ và viết nhật ký ghi lại trung thực những suy nghĩ của mình, nhưng do một “đồng chí” phát hiện, báo cáo với tổ chức để lập công, đầu năm 1972 anh bị đưa ra đấu tố. Người ta buộc anh đủ thứ tội: Kêu gọi biểu tình, viết báo chữ to để lật đổ chế độ. Cho triết học Marx-Lênin là một thứ triết học hành chính, không có đối thoại. Nói xấu Bác Hồ và Bác Tôn. Khinh miệt trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc không có óc phản tỉnh và suy nghĩ độc lập, không có tư cách của người cầm bút. Dám nói nếu không có cuộc kháng chiến chống Mỹ thì miền Bắc chỉ là một vũng bùn lộn cứt, thủ đô Hà Nội nhớp nhất thế giới...[ Theo hồi ký của Nguyễn Ðính viết năm 1993 và mới được phổ bến gần đây.] Từ đó anh bị thẩm vấn liên tục, bao vây, cô lập và sống đày đọa cho mãi đến tận ngày nay.

Ba bài giảng Sám hối của linh mục Chân Tín trong ngôi nhà thờ cũ kỹ Dòng Chúa Cứu thế đường Kỳ Ðồng, mấy tập nhật ký riêng tư của Nguyễn Ngọc Lan có gì ghê gớm mà Nhà nước phải đày ải người này, quản thúc người kia trong mấy năm.

Ba bài tiểu luận triết học chính trị hơn 100 trang của Hà Sĩ Phu chuyên chở điều gì mà Ðảng và Nhà nước phải huy động vài chục nhà nghiên cứu lý luận, hàng chục tờ báo đánh phá mấy năm liền, đưa ra phê phán ngay cả trong văn kiện chuẩn bị cho đại hội Đảng và cuối cùng kiếm cớ bỏ tù ông vì một tội tưởng tượng cực kỳ vô lý là “chiếm đoạt, tiết lộ tài liệu bí mật của Nhà nước.”

Các nhà văn Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bùi Minh Quốc, Bảo Ninh, các Đảng viên Cộng sản cũ, các cán bộ về hưu Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Ðỗ Trung Hiếu, Nguyễn Văn Trấn, Trần Ðộ, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Trần Minh Thảo, các nhà trí thức khoa học tự nhiên và xã hội Phan Ðình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Lữ Phương, Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế... và nhiều người khác nữa, viết gì, nói gì mà Ðảng và Nhà nước phải huy động mọi biện pháp trấn áp từ bỏ tù đến quản thúc, xử lý hành chính, phê phán công kích trên nhiều báo chí, nhưng không cho tác giả được trả lời.

Cả Bùi Tín nữa, với tư cách một nhà báo kỳ cựu thông tỏ mọi chuyện cung đình, một người “ở trong chăn mới biết chăn có rận”, đã viết gì trong hai cuốn sách Hoa xuyên tuyếtMặt thật mà người ta chỉ có thể chửi rủa ông là phản bội, phản quốc, chứ không thể bác bỏ được những điều ông viết.

Và buồn cười thay, báo cáo mật của chỉ điểm văn hóa văn nghệ lên án cuốn sách Viết cho Mẹ và Quốc hội của Nguyễn Văn Trấn lại là tài liệu tuyên truyền tốt nhất cho cuốn sách và người ta đua nhau tìm đọc. Quyết định thu hồi và cấm lưu hành cuốn sách lại không dám cho phổ biến công khai dù đó là một cuốn sách in lậu, không có giấy phép.

Ðó là những tiếng vọng lẻ loi ư? Không. Tiếng vọng lẻ loi không còn là tiếng vọng lẻ loi mà đã trở thành tiếng chim báo bão. Ðây không phải là bão tố cuồng nộ của hận thù, máu lửa và áp bức, mà là những ngọn gió phóng khoáng của dân chủ, tự do, của sự thật, bao dung, nhân bản và hòa bình, những giá trị đích thực của con người sẽ chiến thắng trên đất nước và cả hành tinh này.
 


Thứ năm 27/3/97

Tôi và Yến đang ở Sài Gòn. Chúng tôi về đây từ hôm qua để thăm mẹ tôi đang đau nặng và dự giỗ thầy tôi. Thầy là chồng sau của mẹ tôi, bố của Quốc Vĩnh, em trai cùng mẹ khác cha với tôi. Thầy đã nuôi tôi từ nhỏ và tôi coi thầy như cha ruột. Mọi năm tổ chức giỗ thầy tại Quảng Ngãi, nơi mẹ tôi ở, nhưng năm nay mẹ bị tai nạn té gãy xương đùi, phải vào Sài Gòn chữa trị và đang ở nhà Quốc Vĩnh nên chúng tôi tổ chức giỗ tại đây.

Trước khi về Sài Gòn khoảng một tháng, tôi đã gửi thư khiếu nại và bài báo trả lời bài báo của Nguyễn Minh cho BBT báo SGGP, BBT một số tờ báo khác và vài người bạn ở Sài Gòn. Tôi cũng có gởi cho Quốc Vĩnh. Quốc Vĩnh là Tổng thư ký báo Kinh tế Sài Gòn. Tôi hỏi Quốc Vĩnh có nghe dư luận gì về vụ này không, Quốc Vĩnh nói không nghe gì cả, kể cả từ BBT báo KTSG là nơi tôi cũng có gửi các thư, bài trên. Ngay tại báo SGGP, nơi Quốc Vĩnh có nhiều bạn bè vì trước công tác tại đó, cũng không nghe ai nói gì. Tất cả đều rơi vào im lặng. Ðúng là một sự im lặng đáng sợ, đáng buồn và đáng chán ngấy. Thế mà cũng rêu rao là có tự do báo chí, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Chính tờ báo lớn của Ðảng bộ TP/HCM, mang cái tên đẹp đẽ Sài Gòn Giải Phóng, lại là nơi vi phạm luật báo chí nặng nề nhất.

Tôi có gặp NH, một người bạn trước cùng sinh hoạt trong Hội Văn nghệ Lâm Ðồng, nay công tác ở báo Người Lao Động. Những lần trước về Sài Gòn tôi đều có ghé thăm NH và lần nào NH cũng niềm nở, mời đi uống café nói chuyện. Lần này NH tỏ ra dè dặt và lo ngại. Khi người trực tòa soạn báo NH ra gặp tôi, vừa gặp NH nói ngay xin lỗi vì sắp phải đi công tác không nói chuyện nhiều được. Tôi bảo vậy thì gặp nhau vài phút thôi.

Chúng tôi đứng ngay trước cổng tòa soạn nói chuyện. Tôi hỏi NH có nhận được thư và bài báo tôi gởi không. NH nói không nhận được nhưng có nghe tổng biên tập báo NLÐ nói chuyện. Tổng biên tập gọi riêng NH, cho biết tôi có gởi thư và bài báo như thế, nhưng khuyên NH không nên can dự vào. Ðây là một việc lớn liên quan đến Trung ương, để Trung ương xử lý. NH kể chuyện có vẻ hấp tấp, không rõ ràng, tỏ ra bối rối nên tôi cũng không gạn hỏi nhiều và từ biệt ngay để khỏi gây khó xử cho anh. Tôi hiểu NH đã bị răn đe và kiểm duyệt cả thư từ đề tên anh gởi đến tòa soạn. Tôi thông cảm vì NH mới từ Ðà Lạt về đây vài năm, chỗ làm này rất quan trọng và rất dễ bị gây sức ép. Ðảng và Nhà nước đang quản lý toàn xã hội nên mọi người đều nằm trong gọng kềm.

Tôi nói chuyện với THDV, một người bạn thân cũ ở đây về chuyện này. THDV bảo một số người quen cũng biết chuyện và có đọc bài báo của Nguyễn Minh trên SGGP. Dư luận chung có 2 loại ý kiến. Một số bất bình về bài báo của Nguyễn Minh và cho những việc tôi đã làm là dũng cảm, cần thiết. Một số khác cho rằng tôi không nên làm như thế, bẻ nạng chống trời vô ích, không có hiệu quả gì.

Nói chung ở Sài Gòn, ngay trong giới báo chí, trí thức, văn nghệ sĩ, người ta ít quan tâm đến những vấn đề chính trị, chỉ lo làm ăn và chú ý đến các vụ kinh tế nổi cộm. Ðặc biệt thời gian này người ta bàn luận rôm rả vụ Tamexco đang được đưa ra tòa xử và các vụ Epco-Minh Phụng đang được báo chí đưa tin rầm rộ. Ở một quán cóc café, tôi nghe mấy người dân thường vừa đọc báo vừa bình luận. Họ khen báo chí dạo này dám phanh phui, đưa tin nhiều vụ lớn. Họ kịch liệt lên án bọn tham nhũng hàng trăm tỉ đồng, hằng triệu đô la trước đây chưa từng có. Họ cũng phân tích và quy trách nhiệm cho các tổ chức Ðảng và Nhà nước đã bao che, buông lỏng quản lý cho bọn xấu làm bậy. Rõ ràng Ðảng và Nhà nước tỏ ra nghiêm khắc, quyết tâm chống tham nhũng nhưng uy tín của Ðảng và Nhà nước giảm rất nhiều, vì trong mắt người dân, bọn tham nhũng này cũng chính là Ðảng và Nhà nước chứ không phải ai khác, và nguồn gốc của tham nhũng cũng chính là do Ðảng và Nhà nước độc quyền lãnh đạo mà ra.

Trong bữa giỗ ở nhà Quốc Vĩnh, Quốc Vĩnh có mời một số bạn bè giới báo chí, nhưng tôi không ngồi chung bàn với họ, ngại gây cấn cái cho Quốc Vĩnh. Vả lại tôi phải nói chuyện với một số bà con trong gia đình lâu ngày không gặp. Quốc Vĩnh nói có mời L, một người quen cũ, nghe nói hiện là lãnh đạo Cục chống phản gián của Bộ Nội vụ, phụ trách phía Nam, người đã đọc tất cả sách báo tôi viết và nghiên cứu về tôi rất kỹ. Trước đây Quốc Vĩnh có lần gặp anh ta nói chuyện và anh ta đánh giá tôi không xấu nhưng thuộc loại bất mãn. Trước 75 tôi cũng đã từng gặp anh ta một lần khi anh ta hoạt động đội lốt một đoàn thể Phật giáo. Tôi bảo Quốc Vĩnh nếu anh ta đến thì xếp tôi ngồi chung bàn để nói chuyện nhưng tiếc anh ta bận không đến. Tôi chẳng ngại nói chuyện với bất cứ ai.

Trong bàn tôi ngồi có một nhân vật kỳ lạ, người quen của em gái tôi. Anh ta tự xưng là sĩ quan chế độ cũ, nay đang làm kinh tế ở một doanh nghiệp nhỏ. Anh ta bảo có đọc Hà Sĩ Phu và một số bài viết của tôi và đánh giá cao việc làm và các bài viết của chúng tôi. Anh ta mời tôi đi chơi suốt đêm để nói chuyện nhưng tôi từ chối vì chưa hiểu gì về anh ta và còn bận việc khác.

Tội nghiệp mẹ tôi. Bà đã 84 tuổi. Từ mấy tháng nay bà hầu như nằm liệt giường, vì gãy xương đùi và thoái hóa cột sống. Sài Gòn nóng bức mà vẫn phải nằm nệm. Mỗi ngày ông anh tôi dìu ra lan can ngồi mươi phút rồi lại vào nằm. Bà đọc sách báo suốt ngày, đọc nhưng không hiểu gì cả. Mắt bà còn rất tốt, không cần đeo kính. Bà đọc chỉ để giết thời gian. Bà đã bắt đầu lẩn thẩn. Các con tôi đến thăm có khi bà không nhận ra. Nói chuyện với tôi hay bất cứ ai, một vài câu hỏi bà cứ lặp đi lặp lại hàng chục lần. Hình như bà chỉ suy nghĩ bằng một vài ký ức nào đó vẫn còn in đậm trong não bộ. Tuy vậy, bà vẫn cảm thấy buồn và cứ đòi về Quảng Ngãi, dù ở đó chỉ còn em gái tôi và một đứa cháu ngoại. Bà nói ngoài đó nhà cửa, bàn thờ không ai trông coi. Ðó mới chính là nhà của bà, nơi bà đã sống hơn 30 năm cuối của cuộc đời.

Mỗi lần về thăm tôi cố nói chuyện với mẹ. Tôi cảm thấy mẹ vui khi có mặt tôi và có người nói chuyện. Thỉnh thoảng mẹ hỏi tôi bao nhiêu tuổi rồi. Hình như mẹ vẫn coi tôi như hồi còn bé. Tôi thật là một đứa con bất hiếu, suốt đời làm khổ mẹ và chẳng đền đáp cho mẹ được gì. Thời sinh viên tôi đấu tranh, ở tù, mẹ rất buồn nhưng không làm gì được. Lúc ra trường, tôi lại muốn đi giang hồ, không thích ở gần gia đình, có khi mấy năm mới về thăm nhà một lần. Tôi lấy vợ trong một hoàn cảnh đặc biệt không cho mẹ biết. Tôi hoạt động cách mạng mẹ cũng không hay. Năm 75, tôi đã là Đảng viên CS nhưng khi Quảng Ngãi bị tấn công, thầy mẹ đã chạy di tản như bao nhiêu người khác. Thầy đã bị đạp chết mất xác trong đám loạn lạc khi tàu đưa người di tản từ Quảng Ngãi đổ bộ xuống Nha Trang. Mẹ sống như mất hồn trong một thời gian, cố chạy đi tìm tôi và Quốc Vĩnh. Quốc Vĩnh lúc đó cũng là cơ sở cách mạng hoạt động nội thành trong giới sinh viên Sài Gòn. Những ngày đầu sau 75, tôi và Quốc Vĩnh đều bị bận túi bụi vì công tác tiếp quản và xây dựng chính quyền cơ sở vùng mới giải phóng, không ai chăm sóc cho mẹ. Mẹ lại về Quảng Ngãi ở với em gái tôi, buôn bán vặt qua ngày. Sau này tôi viết lách đòi tự do dân chủ, bị chính quyền gây khó khăn, khai trừ Đảng, cách chức, bao vây, giám sát, mẹ nghe lại chép miệng: “Thằng Cự khổ suốt đời vì không biết sợ ai”. Những năm gần đây mẹ đau yếu luôn. May có ông anh tôi tình nguyện ở bên mẹ để chăm sóc. Em gái tôi thường xuyên đi buôn chuyến vắng nhà nên không lo cho mẹ được.

Bây giờ mẹ nằm đó, trên lầu, lắng nghe tiếng ồn ào bên dưới trong buổi giỗ thầy. Tôi ngồi bên mẹ rất lâu và cảm nhận được tất cả nỗi đau và cô đơn của kiếp người.

Tôi về chỗ ở của các con, bất ngờ nhận điện thoại của Bùi Minh Quốc từ Ðà Lạt gọi xuống. Quốc hỏi thăm tôi có gì lạ không và cho biết ở Ðà Lạt, Công an gởi giấy mời Quốc và Hà Sĩ Phu ngày mai 28/3 lên làm việc, hình như cũng có cả tôi nhưng tôi đi vắng. Quốc không nói nhưng tôi hiểu Quốc lo ngại tôi đã bị rắc rối ở Sài Gòn, kiểu như Hà Sĩ Phu ở Hà Nội cuối năm 95. Tôi đề nghị ngày mai, Quốc làm việc xong điện thoại ngay cho tôi biết tình hình.

Tôi và Yến đến thăm Hồ Hiếu nhưng không gặp. Hiếu phải đi dạy kèm nhiều chỗ kiếm sống nên đi vắng suốt ngày. Chúng tôi đến Nguyễn Ngọc Lan, gặp nói chuyện khá lâu. Ông bảo ở Sài Gòn không ai liên lạc được với Nguyễn Hộ vì bị công an chốt trước nhà, ai đến thăm bị chặn lại không cho vào. Ông nói nhiều người coi số công an này như bọn xã hội đen vì thực ra không ai biết họ là ai, làm theo lệnh của ai, căn cứ vào quyết định nào. Chẳng có một chút gì gọi là tôn trọng pháp luật ở đây cả và người ta ngang nhiên dùng sức mạnh của bạo lực để trấn áp.

Chúng tôi tuy mệt nhọc nhưng cũng vui đôi chút vì được thăm mẹ và gần gũi hai con mấy ngày. Hai con tôi đã trưởng thành nhưng Yến vẫn coi chúng như hồi còn bé. Ðúng là “nuôi con mới biết lòng mẹ cha”. Trước khi ra về, Yến còn cố vào giặt nốt mấy quần áo bẩn cho các con. Yến phiền muộn vì chuyện không ai chăm sóc các con và chúng không biết tự chăm sóc, vì thực ra chúng không hề để ý những chuyện vặt vãnh. Hai đứa cùng mấy người bạn hùn hạp thuê nhà mở một cửa hàng mua bán, làm dịch vụ vi tính. Hai đứa không có nhà nên ở luôn tại đây. Ban ngày làm việc không có chỗ nghỉ, ban đêm dọn dẹp bàn ghế trải chiếu ngủ trên sàn nhà. Tụi nó làm việc không có giờ giấc. Khách hàng đến bất cứ lúc nào, kể cả trưa và ban đêm. Khi có việc gấp, lúc nào tụi nó cũng làm, có khi thức suốt đêm. Chúng ăn uống thất thường ở mấy quán chung quanh, thức ăn hầu như không có rau xanh. Yến muốn ở đây chăm sóc chúng nhưng không thể được. Mỗi lần về Sài Gòn, tuy nhà Quốc Vĩnh rộng rãi nhưng chúng tôi không ở mà đến đây với các con. Ban ngày đi thăm viếng bạn bè, đêm về nằm trên sàn nhà, nói chuyện với các con, trong những lúc gần gũi ít ỏi kể từ khi chúng rời nhà về Sài Gòn học đại học từ hơn 5 năm qua. Chúng tôi buồn về cảnh sống này, nhưng tôi và Yến đều thừa nhận trước đây, chúng tôi còn làm khổ bố mẹ mình hơn thế. Ðó là nhân quả hay chính là sự tất yếu của cuộc sống thôi. Dù sao vẫn còn điều may mắn là giữa chúng tôi và các con có sự thông cảm, gần gũi nhiều hơn giữa chúng tôi và bố mẹ mình. Các con có cách nghĩ khác chúng tôi nhưng vẫn có thể chuyện trò, thông cảm được. Chúng sống vất vả nhưng lương thiện, không hư hỏng hay lưu manh, gian dối như một số thanh niên cùng lứa. Ðó là niềm an ủi rất lớn đối với chúng tôi khi chúng tôi biết mình không thể giúp gì cho chúng nữa.

 

Chủ nhật 30/3/97

5g chiều tôi và Yến từ Sài Gòn về đến Ðà Lạt. Hàng xóm cho biết A, CA khu vực mấy ngày qua lại đến tìm tôi và hỏi han rất kỹ chuyện chúng tôi đi Sài Gòn. Mẹ tôi có bệnh thật không, ai báo cho chúng tôi biết... Tình cờ đã hai lần tôi đi Sài Gòn, CA đều đưa giấy mời hụt nên chắc họ đâm nghi ngờ. Thật vô lý vì làm sao tôi biết họ định mời vào lúc nào.

Về nhà cất đồ đạc xong, chúng tôi đến ngay HSP. HSP thuật cho chúng tôi biết nội dung cuộc gặp của HSP và BMQ với CA. Hai người gặp làm việc với các cán bộ khác nhau của CA tỉnh LÐ tại trụ sở CA TP/ÐL. Hai người bị truy hỏi về các bài viết và các buổi trả lời phỏng vấn cho đài, báo nước ngoài. CA đưa cho xem quyết định số 893 ngày 20/7/92 của Bộ Văn hóa Thông tin quy định về việc xuất nhập văn hóa phẩm không thuộc loại kinh doanh và cho rằng họ đã vi phạm quy định này. CA đưa ra một mẫu biên bản đã in sẵn có tiêu đề “Biên bản v/v đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, trong đó ngoài những phần chung in sẵn còn có một chỗ trống ghi bổ sung hành vi cụ thể của từng người. Ðiều đáng chú ý là trong biên bản có chú thích rõ việc thông tin bao gồm cả điện thoại và fax. HSP và BMQ đều ghi ý kiến phản đối của mình vào biên bản trước khi ký.

Chúng tôi bàn bạc và dự đoán thế nào họ cũng cắt điện thoại. Ðây là một hành động nằm trong kế hoạch ngăn chặn của CA đang được thực hiện từng bước.

Chúng tôi từ biệt HSP, ra phố ăn tối rồi về nhà sửa soạn đi ngủ sớm vì suốt ngày đã quá mệt mỏi. 8g30 tối, trước khi chúng tôi đi ngủ, A, CA khu vực và một CA TP ÐL đến đưa giấy mời tôi ngày mai lên CA làm việc. Chúng tôi không ngạc nhiên vì tôi đã biết việc này và biết họ đang sốt ruột chờ tôi về.


Thứ hai 31/3/97

7g30 tôi đến CA TP ÐL, vẫn B và C tiếp và làm việc với tôi. (BMQ và HSP làm việc với những người khác). B và C hỏi thăm về tình hình sức khỏe của mẹ tôi và đính chính việc CA mời lúc tôi Sài Gòn chỉ là tình cờ thôi chứ không có ý gì khác.

B hỏi tôi sơ qua về các bài viết và trả lời phỏng vấn mới nhất của tôi, rồi đưa ra “biên bản v/v đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”. Có lẽ qua phản ứng của HSP, BMQ và cũng biết chắc quan điểm của tôi trong việc gọi là vi phạm pháp luật này nên B nói luôn: Ðây là quan điểm của CA và CA làm để chính thức thông báo đến tôi bằng văn bản về việc này, còn ý kiến của tôi ra sao tôi cứ việc ghi vào biên bản. Tôi đọc lướt qua biên bản và ghi ý kiến của mình bên dưới trước khi ký: Tôi không làm gì vi phạm pháp luật. Tôi chỉ thực hiện quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và quyền được thông tin theo đúng các điều khoản 50, 53, 69, 146 của Hiến pháp Việt Nam và điều 19 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền.

B không tranh cãi gì với tôi về việc này và chấm dứt buổi làm việc sớm, khoảng 10g, khác với 2 buổi làm việc của HSP và BMQ mà tôi nghe kể, suốt buổi sáng và khá căng thẳng.

Tôi về nhà một lúc rồi đến trường đón Yến. Yến thuật lại khi mới vào trường, mấy người trong Ban Giám hiệu xúm lại hỏi vừa qua đi đâu mà CA lại đến kiếm, tra hỏi tùm lum. Họ có vẻ ngại vì bị CA quấy rầy. Tôi đã dự đoán chuyện này nên trước khi đi Sài Gòn tôi đã bảo các con đánh một điện tín lên cho mẹ theo địa chỉ trường, báo tin bà nội đau nặng để Yến kèm theo đơn xin phép nghỉ và Ban giám hiệu trường cũng dễ trả lời với CA.


Thứ ba 1/4/97

Yến được Hiệu trưởng mời lên làm việc. Thành phần tham dự có Ban Giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn và nhân viên văn phòng.

Hiệu trưởng thông báo hôm qua ông được Sở Giáo dục mời lên làm việc. Buổi làm việc này có đại diện Sở Công an và Phòng Giáo dục thành phố. Ðại diện CA thông báo sơ qua về trường hợp của tôi và nói Yến đã giúp tôi bằng cách dùng địa chỉ của trường để nhận thư, báo chí của nước ngoài và dùng điện thoại của trường để liên lạc với nước ngoài 11 lần. Hiệu trưởng nói theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và yêu cầu của CA, Yến phải chấm dứt và cam kết không sử dụng địa chỉ và điện thoại của trường nữa.

Yến tức giận phản ứng mạnh cho rằng CA đã lạm quyền và vu cáo trắng trợn. Yến là giáo viên của trường, có quyền sử dụng địa chỉ và điện thoại của trường như mọi giáo viên khác. Vả lại, người ta gởi thư cho Yến đến trường là quyền của người ta, không ai cấm được. Dù Yến không cho nhưng nhiều người vẫn biết địa chỉ của Yến ở trường và cứ gởi thư. Còn chuyện dùng điện thoại trường để gọi đi nước ngoài 11 lần thật quá vô lý, vì điện thoại này chỉ gọi đi được trong thành phố thôi. Hơn nữa lúc nào nghe hay gọi điện thoại đều có nhân viên văn phòng chứng kiến. Thỉnh thoảng có việc cần nhắn Yến mới gọi về nhà cho tôi hoặc các em ở Bảo Lộc gọi lên nhắn chuyện gia đình.

Nói qua nói lại một hồi, Hiệu trưởng đề nghị Yến làm theo yêu cầu của CA để khỏi gây rắc rối cho nhà trường. Yến rất ức nhưng đành chấp nhận ký vào biên bản sẽ không sử dụng địa chỉ và điện thoại của trường nữa.

Sức ép đã tăng lên và lần này trực tiếp nhắm vào Yến.


Ngày 7/4/97

Gần trưa, lúc Yến đang dạy ở trường, một nhân viên bưu điện đến đưa cho tôi một giấy mời Bạch Yến, khách hàng thuê bao điện thoại, đến Công ty Ðiện báo Ðiện thoại làm việc về hợp đồng thuê bao vào lúc 2g chiều. Khi ký vào sổ giấy mời, tôi thấy có tên và chữ ký của Hiền Thục, vợ của BMQ về việc nhận giấy mời tương tự. Tôi đoán ngay là người ta bắt đầu thực hiện việc cắt điện thoại. Trong tuần vừa qua, sau khi đã làm việc với CA để được chính thức thông báo về việc “đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, nhiều bạn bè và đại diện các đài, báo nước ngoài vẫn gọi điện thoại để hỏi thăm tin tức của chúng tôi và chúng tôi vẫn trả lời họ bình thường như trước, không chút e dè. Chúng tôi vẫn tự cho đây là quyền tự do của mình theo đúng hiến pháp, không có gì gọi là vi phạm pháp luật. Có lẽ CA thấy việc đe dọa của họ không có kết quả nên tiến hành bước tiếp theo.

Tôi gọi điện ngay cho Quốc. Quốc vắng nhà. Thục tiếp điện thoại cho hay Quốc đi chưa về nên chưa biết việc có giấy mời và cho biết thêm giờ hẹn làm việc là 1g chiều, trước Yến 1giờ. Tôi nhờ Thục nhắn lại khi Quốc về nói Quốc gọi điện cho tôi ngay. Tôi gọi tiếp cho HSP nhưng vợ chồng HSP đi vắng. Tôi sực nhớ hôm qua HSP có nói hôm nay, hai vợ chồng phải lên Công ty Nhà đất để giải quyết vụ rắc rối về nhà ở. Có thể HSP cũng được mời về chuyện điện thoại nhưng vắng nhà nên nhân viên bưu điện chưa đưa được.

1g30 chiều, lúc chúng tôi sửa soạn đi thì Quốc gọi điện. Quốc báo vừa làm việc với công ty ÐBÐT xong. Giám đốc công ty tiếp Quốc, có một người ngồi cạnh mà Quốc đoán là CA. Quốc hỏi anh ta là ai, anh ta nói cũng là khách hàng như Quốc thôi. Giám đốc công ty thông báo bắt đầu từ hôm nay sẽ tạm ngưng hoạt động điện thoại của Quốc vì Quốc vi phạm điều lệ bưu chính viễn thông. Quốc chất vấn vi phạm như thế nào, điều khoản gì, nhưng Giám đốc công ty chỉ nói là làm theo lệnh trên, không giải thích được, nếu cần Quốc cứ khiếu nại. Quốc yêu cầu giao quyết định bằng văn bản, Giám đốc công ty hứa sẽ giao sau.

Nghe Quốc thông báo xong, chúng tôi đi lên công ty ÐBÐT. Khi vừa vào phòng Giám đốc, chúng tôi đã thấy C và 1 CA nữa đã ngồi ở đó. Thấy chúng tôi họ lật đật đứng dậy đi ra, C có gật đầu chào tôi. Rõ ràng công ty ÐBÐT chỉ thực hiện quyết định của CA và CA đang cử người giám sát việc này. Giám đốc công ty làm việc với chúng tôi với nội dung y hệt như đối với Quốc. Chúng tôi cũng phản đối, chất vấn như Quốc và dọa thêm sẽ kiện công ty vì vi phạm hợp đồng, Giám đốc công ty cũng một mực nói chỉ làm theo lệnh trên, nếu cần tôi cứ khiếu nại.

Làm việc xong, Yến ra ngoài quầy gọi điện thoại collect call cho anh Lân ở Mỹ. Cô nhân viên trực điện thoại bảo đợi một lúc và sau đó trả lời không gọi được vì số điện thoại đó đã bị gỡ collect call [?]. Thật vô lý nhưng như thế chứng tỏ người ta đã dùng mọi biện pháp để cắt liên lạc của chúng tôi với nước ngoài.

Chúng tôi đến nhà HSP để báo và hỏi xem HSP có được mời không, HSP nói chưa thấy mời. Có lẽ đây là một thủ đoạn trong đối sách với chúng tôi, CA đối phó một người một kiểu, cũng là để ly gián chúng tôi. HSP nói nếu họ chưa cắt điện thoại phải rất thận trọng vì chỗ HSP là nơi duy nhất còn trực tiếp liên lạc được với nước ngoài.

6g chiều Quốc gọi điện báo cho tôi biết Giám đốc công ty ÐBÐT vừa điện cho Quốc. Anh ta có quen biết Quốc. Anh ta bảo Quốc thông cảm, sẽ không có văn bản gì gởi cho Quốc như đã hứa và đúng 7g tối sẽ cắt điện thoại. Ðây là cú điện thoại cuối cùng tôi nhận được vì đến 7g, điện thoại của tôi cũng bị cắt.

Việc cắt điện thoại chắc chắn là một việc được tính toán kỹ. Sau khi BMQ, HSP và tôi bị mời lên CA để lập biên bản “đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, 3 chúng tôi đã hội ý và quyết định ký chung một thư gởi Quốc Hội để phát hiện “hành vi vi phạm pháp luật”, làm trái với Hiến pháp của Bộ VHTT, mà căn cứ vào đó CA đã lập biên bản đối với chúng tôi. Ðáng lý chúng tôi viết một văn bản mạnh hơn, có thể là một bản tuyên bố chung để phản đối việc đàn áp tự do tư tưởng, vi phạm dân chủ và nhân quyền, nhưng xét thấy một văn bản như thế có thể gây phản ứng bất lợi vào lúc này nên chỉ viết dưới dạng thư gởi Quốc hội. Tuy thế, lần đầu tiên đây là một văn bản mang tính tập thể, ký chung 3 người nên chắc CA đánh giá rất nghiêm trọng, do đó họ đã tiến hành ngay một biện pháp ngăn chặn mới là cắt điện thoại của 2 trong 3 chúng tôi.
 

Thư gởi Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam

Kính thưa Quốc hội,

Chúng tôi, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, là những người cầm bút, xin bày tỏ với Quốc hội một số ý kiến.

Trong các ngày 28/3 và 31/3/97, chúng tôi lần lượt bị CA thành phố Ðà Lạt mời tới để gặp các sĩ quan của Sở Công an tỉnh Lâm đồng. Sau gần ba tiếng đồng hồ căn vặn đủ điều về các bài viết, về các cuộc trả lời phỏng vấn của chúng tôi công bố trên các báo đài nước ngoài và sau khi cho chúng tôi đọc một đoạn trong Quyết định số 893 ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hóa thông tin, các sĩ quan Công an đã yêu cầu chúng tôi ký vào một văn bản mang tiêu đề “Biên bản về việc đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”. Tại biên bản, chúng tôi đã khẳng định nội dung các bài viết, bài nói của chúng tôi không liên quan gì đến việc vi phạm pháp luật.

Qua thực tế các buổi bị buộc phải làm việc với Công an chỉ vì các điều mình viết và nói, chúng tôi đề nghị Quốc hội gấp rút rà soát lại các văn bản luật và dưới luật liên quan đến Dân quyền và Nhân quyền trong lĩnh vực tư tưởng và ngôn luận.

Quyết định 893 ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hóa Thông tin quy định ở điều 3 như sau: “Những văn hóa phẩm có danh mục dưới đây trước khi xuất [ra nước ngoài] phải có văn bản xét duyệt đồng ý của thủ trưởng cơ quan ngành chủ quản ở cấp Bộ [ở Trung ương] hoặc cấp tỉnh [ở địa phương] có thẩm quyền quản lý nội dung văn hóa phẩm đó, cơ quan văn hóa có cấp phép để làm thủ tục hải quan.

Nhóm A:

 
  1. Các tài liệu, văn bản và ấn phẩm lưu hành nội bộ, tài liệu thuộc danh mục nhà nước.
     
  2. Các loại tài liệu, văn bản, bài viết, các loại bản vẽ, bản đồ được ấn loát hoặc đánh máy, chép tay, in ronéo, photocopy hoặc sao chép bằng mọi kỹ thuật khác, nội dung thuộc mọi lãnh vực, gửi hoặc mang theo người ra nước ngoài để in, để đăng báo, tạp chí, để phục vụ học tập nghiên cứu, giảng dạy, báo cáo khoa học, tham luận trong hội nghị, hội thảo quốc tế...
     
  3. ...
     
  4. ...
Chính là tại cơ quan Công an thành phố Ðà Lạt ngày hôm ấy, lần đầu tiên chúng tôi mới được biết tới quy định như thế của Bộ Văn hóa Thông tin liên quan đến công việc của mình, và của giới cầm bút nói chung !

Chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên trước quy định này.

Khi Hiến pháp nước ta đã khẳng định công dân có quyền tự do tưởng, tự do ngôn luận thì có nghĩa rằng người dân có toàn quyền viết lên nói lên mọi suy nghĩ của riêng mình, và họ chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung những điều họ viết, họ nói, thế thôi, còn việc họ muốn công bố những điều đó với ai và ở đâu là thuộc quyền của họ.

Tác phẩm do tôi viết ra là thuộc quyền sở hữu của tôi, hiển nhiên quá rồi, và cũng quá hiển nhiên rằng tôi muốn tặng cho ai, gửi cho ai, công bố ở đâu là thuộc quyền của tôi, tại sao lại buộc tôi phải đem nộp cho ông cán bộ nhà nước xét duyệt trước khi gửi ra nước ngoài?

Cơ quan an ninh không thể coi việc đăng tải hay bình luận của các đài và báo nước ngoài đối với một bài viết của một người trong nước như một bằng chứng về nội dung xấu của bài viết ấy, rằng nó để cho bên ngoài lợi dụng, vì rất nhiều bài viết hoặc bài nói của nhiều vị lãnh đạo Ðảng và Nhà nước ta rơi vào trường hợp ấy.

Ðất nước đã mở cửa, đang hàng ngày hằng giờ cố gắng hội nhập vào thế gíới của thời đại thông tin, tại sao chúng ta còn duy trì những quy định quá lỗi thời, đẩy người cầm bút vào một “cái rọ” quản lý cả đến bản thảo viết tay, cả những tham luận hội nghị, hội thảo quốc tế? Chúng ta hãy hỏi những đồng nghiệp nhà văn, nhà báo, nhà khoa học các nước khác khi họ sang thăm hay giao lưu với chúng ta, họ có bị mất quyền làm chủ đối với lời ăn tiếng nói của họ như vậy không?

Bộ Văn hóa Thông tin quy định như vậy, nhưng thực tế những năm qua không ít người cầm bút ở Việt Nam đã cho công bố tác phẩm ở nước ngoài trước khi công bố ở trong nước, không thông qua sự xét duyệt của cơ quan nhà nước. Tình hình đó chứng tỏ quy định của Bộ VHTT đã bị thực tiễn vượt qua một cách mặc nhiên, bởi quy định ấy vẫn nằm trong lề lối quản lý cũ, muốn quản lý sự giao lưu văn hóa tư tưởng của con người giống như quản lý dạ dày họ bằng chế độ tem phiếu trước kia. Một kiểu quản lý lỗi thời phi dân chủ như vậy không thể làm nổi chức năng của một chuẩn mực pháp lý nghiêm túc, trái lại nó chỉ còn giữ vai trò như một công cụ để người ta đem ra gây khó dễ đối với một số người này, và lờ đi đối với những người khác.

Chúng tôi cho rằng, quy định về danh mục 2 (nhóm A) trong điều 3 của quyết định 893 ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hóa Thông tin là trái với Hiến pháp, trái với quyền Tự do ngôn luận của công dân, trái với Quyền Con người, đặc biệt khi đối chiếu với các điều 50, 53, 69, 146 của Hiến pháp và điều 19 của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà Việt Nam đã long trọng ký kết và cam đoan thực hiện.

Chúng tôi xin phát hiện sự vi phạm Hiến pháp như trên với Quốc hội để Quốc hội xem xét và đề nghị sớm bãi bỏ quy định này.

Chúng tôi cũng đề nghị Quốc hội cho thành lập ngay Tòa án Hiến pháp để dân có một cơ quan có thẩm quyền nhận khiếu nại và xét xử các vụ vi phạm Hiến pháp.

Kính chào.

Ðà Lạt, ngày 10-4-1997

Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự
4E Bùi Thị Xuân, Ðà Lạt; 3B Nguyễn Thượng Hiền; 35/1 Nguyễn Ðình Chiểu
ÐT: 823510; ÐT: 821675; ÐT: 823779;
(bị cắt ngày 7/4/97); (bị cắt ngày 7/4/97);
 


15-17/4/97

Bất ngờ tôi nhận được thư của Ðoàn Giao Thủy. ÐGT là Việt kiều đã về Ðà Lạt tìm thăm và phỏng vấn tôi, sau đó bài phỏng vấn đăng trên báo Diễn Ðàn, đã gây cho tôi nhiều hệ lụy.

Trong lần gặp gỡ ÐGT năm ngoái, qua chuyện trò, tôi rất quý anh vì sự cởi mở, chân thành và tấm lòng đối với đất nước. ÐGT là giáo sư tiến sĩ, thành đạt ở nước ngoài, xa quê hương đã lâu nhưng vẫn luôn đau đáu về vận nước. Chúng tôi nhanh chóng hiểu nhau dù thời gian chuyện trò ngắn ngủi. Sau lần gặp đó, tôi không có liên lạc hay thông tin gì của anh.

Lần này ÐGT gởi một thư ngắn, theo lối phát nhanh, báo tin mới về Việt Nam và chỉ ở trong thời gian ngắn, sẽ ở Sài Gòn mấy ngày, sau đó ra Hà Nội, vì để thất lạc số điện thoại của tôi nên gởi thư cho tôi số điện thoại ở Sài Gòn để tôi liên lạc vì anh nóng lòng muốn biết tin tức của tôi. (Anh chưa biết tôi đã bị cắt điện thoại.)

Tôi lập tức viết thư trả lời và gởi kèm theo bài “Tiếng vọng lẻ loi và tự do báo chí” và “Thư gởi Quốc hội” của Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc và tôi. “Thư gởi Quốc hội” này HSP đang đánh máy nên tôi và Yến ra nhà HSP để lấy và sau đó ra bưu điện gởi luôn. Tuy Yến đã cảnh giác tôi nhưng tôi vẫn ngồi ở ghế đợi của bưu điện để cho các tài liệu vào phong bì và ghi địa chỉ. Yến nói hình như có người theo dõi tôi từ ngoài cửa nhưng tôi vẫm mặc kệ. Tôi gởi thư xong, mấy hôm sau nhận được giấy hồi báo có chữ ký của ÐGT nên cũng yên tâm.

Tôi không liên lạc bằng điện thoại với ÐGT được vì nhà không có điện thoại, ra bưu điện gọi giờ giấc không chủ động nên không gặp được. Cho đến ngày ÐGT báo trong thư sẽ rời Việt Nam tôi vẫn không trực tiếp liên lạc được với anh.


Thứ bảy19/4/97

Việc phải đến đã đến. Hôm nay HSP bị cắt điện thoại, cũng cùng một kiểu cách như đối với tôi và Quốc. Trước khi bị cắt, HSP cũng đã rất thận trọng. Khi bạn bè ở nước ngoài gọi về thăm hỏi, HSP vẫn thông tin một cách khéo léo và luôn nhắc nhở: Các anh gọi điện hỏi thăm chuyện sức khỏe và gia đình chúng tôi thì được chứ đừng nói chuyện chính trị. Những người kia đều cười đồng ý. Nhưng trò này làm sao qua mắt được CA. Thế là sau một thời gian ngắn theo dõi, suy tính, họ cắt luôn điện thoại của HSP. Ðây là một thiệt hại rất lớn, vì ngoài 3 chúng tôi ra ở đây đâu có ai dám tự do nói chuyện với người ở nước ngoài.

Quá nhiều thông tin từ trong và ngoài nước, chúng tôi biết thêm tình hình xấu đối với một số người bất đồng chính kiến ở Hà Nội như Nguyễn Thanh Giang và Hoàng Tiến.

Nguyễn Thanh Giang, tiến sĩ địa vật lý, người đã từng viết nhiều bài tham luận gởi các Ðại hội Ðảng rất có sức nặng và được phổ biến rộng, càng về sau sự phê phán của ông càng gay gắt và ngôn từ sử dụng càng nặng nề. Mới đây ông lại viết một bài nữa, trong đó có các ý như tập thể trí thức Việt Nam có trí tuệ cao hơn lãnh đạo của Ðảng và Đảng cần chung sống với đài Á châu Tự do như sống chung với lũ.

Thế là Nguyễn Thanh Giang bắt đầu bị tấn công. Tệ hại nhất là người ta đưa ông ra họp tổ dân phố để đấu tố, gọi ông là phản bội, tay sai cho nước ngoài. Người ta còn đạo diễn cho một số người ném đá vào nhà ông để tỏ lòng phẫn nộ của người dân trước tên phản động. Ông đã nhặt các viên đá này đem đến trước trụ sở UBND phường để trả lại cho Nhà nước. Người ta còn nói sẽ đấu tố cả vợ con ông, ông phải phản ứng bằng cách dọa tự sát người ta mới chịu thôi.

Nhà văn Hoàng Tiến từ cuối năm 1996, sau mấy bài viết về HSP và một số bài khác đã nổi lên như một gương mặt bất đồng chính kiến mạnh mẽ của sĩ phu Bắc Hà. Các đài báo nước ngoài lập tức liên tục gọi về cho ông để thu bài viết và phỏng vấn. Thế là ông bị cắt ngay điện thoại. Hoàng Tiến viết thư tố cáo gởi đi khắp nơi. Văn phòng Quốc hội có mời ông lên làm việc. Theo ông kể lại khi các cán bộ VP/QH tiếp ông, họ có thái độ không đàng hoàng, mời nước uống thì trà nguội, chén bẩn nên ông bỏ về, tuyên bố QH không biết tôn trọng kẻ sĩ.

Dù sao những kẻ sĩ cuối cùng trong thời đại này cũng đã giữ được khí tiết của mình trước quyền lực. Họ ít thôi, quá ít, nhưng rồi lịch sử sau này chắc sẽ ghi nhận vai trò của họ.


Thứ ba 22/4/97

Hôm nay sinh nhật HSP. Không hiểu sao ngày này lại trùng với ngày sinh Lênin. Năm nào HSP tổ chức sinh nhật cũng mời bạn bè tới dự và nói đùa là tổ chức mừng ngày sinh Lênin. Mừng sinh nhật Lênin chắc Ðảng và Nhà nước này không cấm được.

Lần này HSP mời khá đông bạn bè. Ngoài những người đã tham gia đi đón anh cuối năm ngoái lúc anh ở tù về, còn có mấy người bạn cũ không liên quan gì đến việc viết lách, chính trị. Ðặc biệt có hai nhân vật là cán bộ về hưu, một người nguyên là tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục, người kia nguyên là cán bộ Ban Dân vận tỉnh ủy. Hai người này đã từng đọc HSP và tỏ thiện cảm với các bài viết của anh, nhưng chúng tôi biết họ có liên hệ mật thiết với những người đương quyền. HSP có tính toán riêng khi mời họ. Vì nội dung buổi kỷ niệm sinh nhật này anh định chỉ thuần túy nói chuyện tình cảm nên việc họ dự và thông tin lại đầy đủ cho những người cầm quyền cũng là điều hay.

HSP tự tay trang trí chiếc quán nhỏ, nơi tổ chức buổi họp mặt. Anh treo lên một số câu đối cũ và đặc biệt anh viết và dán lên ngay đầu phòng hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
 

Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
 

Có lẽ anh muốn gián tiếp gởi đi một tín hiệu rằng anh đã xong nhiệm vụ, không còn làm gì nữa. HSP không qua mắt được CA và chắc chắn người ta cho đây là tín hiệu giả vì chỉ ba hôm sau, HSP cùng với BMQ và tôi đã đồng loạt bị tấn công.

Buổi kỷ niệm sinh nhật HSP lần thứ 57 này (anh sinh năm 1940) có rất nhiều hoa do bạn bè đưa tới. Nhiều người chụp hình, đặc biệt có cả quay video do một người thợ chuyên nghiệp mà BMQ thuê. Quốc đạo diễn việc quay phim, mở đầu có cảnh HSP đang đứng bán kẹo cho một em bé. Lúc đó chúng tôi không biết, nhưng sau này nghe kể lại, Quốc còn yêu cầu quay cái gara cũ nơi gia đình HSP đang ở và dọa bị đuổi, quay luôn một số biệt thự to đẹp của các cán bộ lãnh đạo CA trên đường Bùi Thị Xuân, cách nhà HSP không bao xa. Thế là chúng tôi không bao giờ được xem cuộn băng đó. Mãi về sau, chúng tôi mới được biết CA đã đến tận nhà người thợ quay video tịch thu cuộn băng và gọi anh ta lên thẩm vấn răn đe nhiều lần.

Thật tiếc, vì trong buổi này, HSP rất tình cảm. Anh kể về gia đình, những kỷ niệm về người bố, về thời thơ ấu, về thời gian học đại học với khuôn mặt ràn rụa nước mắt khi nhắc đến những kỷ niệm buồn. Ðặc biệt anh đã cầm đàn ghita tự đệm và hát một số bản nhạc do chính anh sáng tác đánh dấu những xúc cảm và những khúc quanh lớn trong đời.

HSP tình cảm không thể tách rời khỏi HSP lý luận. Có người đã nói đùa (không phải do anh tự nói) điều tình cờ oái ăm của lịch sử là HSP “người đào mồ chôn chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam” lại cùng ngày sinh với ông tổ của CNCS ở Liên Xô. Và vóc dáng HSP hơi lùn, rất giống vóc dáng Lênin.

Nhưng cuộc đời HSP khốn đốn hơn Lênin nhiều. Gần 60 tuổi, anh vẫn chưa có căn nhà của riêng mình, đang ở nhà thuê của nhà nước và cái gara cũ, gia đình anh mượn của cơ quan để ở tạm vì có thêm mấy người cháu vào ở chung đang bị đe dọa lấy lại. Ðây là một chuyện tủn mủn nhưng phức tạp làm anh rất đau đầu.

Nguyên căn nhà chính anh thuê (thực ra chỉ là một phòng nhỏ chưa tới 20m vuông) là một căn chung cư của cơ quan rất chật hẹp và tối tăm vì nằm lọt giữa các căn khác. Cửa chính lúc nào cũng phải đóng và dù mở ra trong phòng vẫn tối mờ mờ nên lúc nào cũng phải bật đèn. Anh dùng kệ ngăn đôi phòng, bên ngoài là chỗ tiếp khách có một bộ xa-lông gỗ nhỏ và một đi văng. Bên trong là phòng ngủ và cũng là nơi làm việc, để dụng cụ thí nghiệm, sách vở và tủ quần áo. Nhà bếp và toa lét nhỏ xíu bằng lỗ mũi và có dạo anh đã làm phòng vô trùng trên trần toa lét vì không còn chỗ nào khác.

Mấy năm trước khi chị Biên vợ anh về hưu, chị có sang lại một cái quán bên lề đường để buôn bán. Quán này là một căn nhà gỗ tạm bợ nằm phía trước chung cư và thực ra không hợp pháp nên Nhà nước có thể dỡ bất cứ lúc nào.

Phía sau quán là cái gara cũ của cơ quan nhiều năm bỏ không. Ban đầu anh mượn chỗ này làm nơi sản xuất nấm. Sau đó có hai người cháu (1 của anh, 1 của chị) ở miền Bắc vào ở chung, cả hai mới lập gia đình, một người có một con, một người có hai con nhỏ, tổng cộng gia đình anh có tất cả 9 người. Do đó anh làm đơn chính thức xin thuê gara cũ này và sửa sang tạm cho các cháu ở. Ban đầu không ai nói gì nhưng khi con đường Bùi Thị Xuân trước nhà anh được tu sửa lại, nhà phố mới mọc lên nhiều, thấy làm ăn buôn bán được nên nhiều người trong cơ quan nhăm nhe muốn tranh giành cái gara cũ vì nó nằm sát ngay đường, tuy thấp xuống đến vài mét do thế đất. Nếu có tiền cất lên một ngôi lầu thì đây là một địa điểm rất đáng giá. Thế là cuộc chiến tranh giành cái gara cũ âm thầm diễn ra trong mấy năm qua, nhưng do gia đình anh đã sửa sang và có người đang ở nên họ vẫn chưa chiếm được, dù đã dùng nhiều phương cách.

Mới rồi anh vừa ở tù về chưa được bao lâu thì nhận được thông báo của phường cho biết cái gara cũ này không phải do cơ quan quản lý nữa mà đã chuyển giao cho Công ty Nhà đất, và Công ty này đã quyết định giao cho phường làm hội trường của khu phố, trong vòng một tháng, anh phải chuẩn bị để bàn giao. Họ còn gây áp lực bằng cách không cho một người cháu của anh đã nhập hộ khẩu ở đây không được ở nữa, viện lý do người này đã về Bắc thăm nhà khá lâu không vào, còn người cháu kia đang làm thủ tục nhập hộ khẩu không được giải quyết.

Mối lo ngại khác của HSP là khi cái gara cũ này biến thành trụ sở của khu phố, nó sẽ thành một chốt của CA ngay trước nhà anh và cái quán trên lề đường của anh cũng sẽ bị dỡ, lúc đó gia đình anh thật khó sống và khó thở. Do đó anh đã làm đơn gửi đi khắp nơi để khiếu nại việc này. Một số đài báo nước ngoài biết sự việc cũng đã đưa tin nên chính quyền địa phương ở đây có vẻ chựng lại, chưa thực hiện ngay việc đuổi nhà anh, nhưng vấn đề vẫn còn treo lơ lửng ở đó.

HSP rất căm giận chuyện này nên khi biết rõ người đứng sau vụ việc để giật dây là nguyên bí thư chi bộ của cơ quan, anh đã nói thẳng vào mặt hắn: Trong hoàn cảnh người ta vừa ở tù về, các cháu mới sinh con nhỏ mà vận động đuổi nhà thì thật là đồ chó chứ không phải người, không còn nhân tính nữa. Chưa lúc nào HSP có lời lẽ nặng nề như thế.

HSP không phải là người Cộng sản, trước đây anh đã không được kết nạp Đảng vì thuộc thành phần tiểu tư sản hay giao động, nhưng anh mới đúng là người vô sản chính hiệu, trong khi những người CS gộc lại càng ngày càng giàu lên, chiếm hữu vô số tài sản của nhân dân làm của riêng mình. Phải chăng hoàn cảnh cá nhân của HSP là một trong những yếu tố đã giúp hình thành tư tưởng và lý luận mà anh đã trình bày trong ba tập tiểu luận gây chấn động. Tự thân cuộc sống của riêng anh cũng đã là một minh chứng hùng hồn cho những nghịch lý của chế độ mà anh đã tố cáo ngay trong tiểu luận đầu tiên, “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”, một cách sáng tỏ và thuyết phục nhất.


Thứ sáu 25/4/97

Một ngày đáng nhớ lâu vì nó mở đầu cho chiến dịch bao vây ngăn chặn đối với tôi, cả HSP và BMQ.

Sáng nay Yến chỉ có một tiết dạy giữa buổi và như thường lệ tôi chở Yến đến trường. Vừa ra khỏi hẻm lập tức có 2 người đi honda bám theo. Ðến ngã tư gần trường, tôi dừng lại cho Yến vào mua mấy ký gạo để tôi chở về vì nhà mới hết. Hai người đi theo dừng lại cạnh tôi để theo dõi. Tôi biết ngay họ là CA vì ở xe của một người tôi thấy có cuốn sổ tay ngoài bìa có in chữ “An ninh nhân dân”. Việc CA theo dõi đối với tôi nào có lạ gì nên tôi không chú ý lắm. Mua gạo xong, Yến đi bộ vào trường và tôi quay về.

Hôm nay tôi định làm vườn nên không đi đón Yến, nhưng khoảng 1 giờ sau cô hàng xóm đứng bên hàng rào gọi tôi bảo Yến mới gọi điện thoại cho cô nhờ nhắn tôi ra đón. Cô còn nói thêm là có một người vào nhà tự giới thiệu với cô là CA, nói cô không được để cho chúng tôi gọi nhờ điện thoại. Nếu ai có nhắn gì cũng chỉ nói lại thôi chứ không được cho chúng tôi trực tiếp nghe, không chấp hành CA sẽ cắt điện thoại nhà cô. Từ khi chúng tôi bị cắt điện thoại, thỉnh thoảng khi Yến đi đâu có việc cần thiết lắm mới gọi điện cho nhà hàng xóm nhờ nhắn lại tôi. Tôi vào nhà thay quần áo lấy xe vừa chạy ra đầu hẻm thì Yến đã đi xe ôm về. Tôi rất ngạc nhiên.

Vào nhà Yến tức giận kể cho tôi nghe chuyện mới xảy ra. Yến dạy học xong, ra không thấy tôi nên vào cửa hàng một người quen nhờ gọi điện thoại cho cô hàng xóm nhắn tôi ra đón, sau đó đi mua sắm mấy thứ. Khoảng 10 phút sau vẫn chưa thấy tôi ra, Yến bắt đầu lo tôi gặp rắc rối với CA vì lúc tôi chở Yến đi, Yến cũng biết có người theo dõi nên trở lại cửa hàng người quen nhờ gọi điện thoại lần nữa. Lần này vừa nhấc máy lên một người từ ngoài xộc vào chặn ngay tay Yến lại và nói lạnh lùng: “Chị không được gọi”. Yến và mấy người quen bán hàng đều sững sờ ngạc nhiên. Yến hỏi: “Anh là ai, quyền gì cấm tôi?” Anh ta lật áo khoác để lộ chiếc thẻ CA và nói: “Tôi là CA. Tôi được lệnh không cho phép chị gọi điện thoại.” Quá bất ngờ và bối rối, Yến đành chào chủ cửa hàng bước ra gọi xe ôm về nhà. Trên đường về Yến bảo người lái xe ôm ghé vào nhà một người quen ở bên lề đường để lấy chục trứng gà ta đã dặn trước, người chặn không cho Yến gọi điện thoại cũng chạy theo và xuống xe vào đứng sát bên cạnh theo dõi. Kể cho tôi nghe xong Yến nói thêm: “Lúc bị chặn không cho gọi điện, em uất ức và xấu hổ quá. Mấy người đều nhìn em và em cứ tưởng như mình phạm tội gì. Sao họ quá quắt thế. Người chặn em là một trong hai người theo dõi mình từ sáng. Hiện họ đang đứng trước quán đầu hẻm”.

Tôi cũng cảm thấy nóng mặt. Ai có quyền làm như thế? Sau vài phút suy tính, tôi quyết định ra quán gặp họ. Yến cũng đi theo. Hai người theo dõi đang đứng nói chuyện với vợ chồng chủ quán. Tôi cố giữ bình tĩnh hỏi họ: “Có phải các anh vừa chặn không cho vợ tôi gọi điện thoại ngoài ngã tư không?” Một người đáp: “Phải”. Tôi hỏi tiếp: “Các anh là ai?” Họ trả lời: “Chúng tôi là CA” và vạch áo khoác cho tôi xem thẻ họ đeo trên ngực áo. Người đã chặn không cho Yến gọi điện thoại còn rất trẻ, chắc khoảng hơn 20 tuổi, mặt non choẹt, tên là M. Người kia lớn tuổi hơn, khoảng 40, hơi gầy, tên N.

Cuộc đấu khẩu giữa tôi và họ bắt đầu, tôi nói càng lúc càng lớn tiếng gần như quát lên làm nhiều người ở các nhà và quán quanh đó đều đổ ra nhìn.

“Các anh đeo thẻ nhưng cũng chưa chắc là CA. Dù là CA các anh cũng không có quyền làm như vậy.”

“Chúng tôi làm theo lệnh.”

“Lệnh của ai? Quyết định, giấy tờ đâu?”

“Lệnh miệng. Không có giấy tờ.”

“Các anh có biết làm như thế là xâm phạm quyền tự do công dân không? Luật pháp đã quy định trước khi bị tòa xét xử tuyên án, bị cáo còn được coi là vô tội, huống chi người bình thường.”

“Chúng tôi có lý do để làm việc này.”

“Lý do gì? Chúng tôi đang là người dân bình thường có đủ mọi quyền công dân. Các anh làm như vậy là thô bạo, vi phạm pháp luật.”

Trong khi tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, M đi ra xa để gọi điện thoại bằng máy bộ đàm nhỏ, chắc là báo cáo cho trung tâm. N tiếp tục đối đáp với tôi. Tôi tấn công dồn dập, N lúng túng rồi nói:

“Anh không phải là người dân bình thường. Anh là đối tượng đang bị theo dõi vì hành vi có hại cho an ninh quốc gia.”

Tôi thật bất ngờ khi nghe anh ta nói câu này và cảm thấy tức giận thực sự. Tôi quát lên:

“Ðối tượng gì? Ai cho phép anh nói đối tượng này đối tượng nọ đối với tôi. Ðó là chuyện anh nói trong cơ quan CA. CA đánh giá thế nào mặc các anh nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn là một người vô tội. Các anh không có quyền gì hết. Anh hiểu chưa? Các anh không có quyền.”

Một người thứ ba chạy xe đến dừng trước quán theo dõi. Chắc là người do M gọi đến. Ðấu khẩu thêm một lúc, cũng quanh quẩn những ý trên, tôi cảm thấy dịu dần và hiểu CA đang bắt đầu một chiến dịch mới đối với tôi và những người này chỉ làm theo lệnh trên.

Tôi dịu giọng nói với N:

“Xin lỗi anh tôi đã to tiếng vì hơi nóng. Nhưng anh thử nghĩ xem, làm như vậy chúng tôi đã bị xúc phạm như thế nào. Chúng tôi là những người tự do chứ có phải tội phạm đâu.”

N cũng dịu ngay:

“Anh thông cảm. Chúng em cũng là lính làm theo lệnh trên thôi. Vừa rồi M còn trẻ, chưa có kinh nghiệm, xử sự hơi quá, anh chị bỏ qua đi.”

Tôi nói trước khi quay vào:

“Tôi không có gì phải sợ và phải giấu giếm. Các anh muốn tìm hiểu gì cứ việc vào nhà tôi nói chuyện, tôi sẵn sàng tiếp. Các anh không nên có những hành động thô bạo xâm phạm quyền tự do cá nhân của chúng tôi.”

Sau đó tôi chở Yến đi dạy mấy tiết cuối, CA vẫn bám theo và chốt luôn ở quán đầu hẻm. Chúng tôi suy đoán CA đang áp dụng biện pháp bao vây ngăn chặn và giám sát chặt chẽ hơn đối với tôi. Có thể do cuộc họp mặt mừng sinh nhật HSP đã làm họ tức giận và đánh giá chúng tôi có ý đồ tập họp lực lượng để làm gì đó mà họ rất ngại, mặc dù buổi kỷ niệm sinh nhật HSP hoàn toàn không có nội dung chính trị.

Buổi chiều chúng tôi quyết định ra phố để thăm dò tình hình của HSP và BMQ. Chúng tôi đến cửa hàng của cô Thục, vợ Quốc ở đường 3/2 để hỏi thăm trước. Có 2 người khác, chắc là CA đổi ca, theo dõi chúng tôi ngay từ đầu hẻm.

Ðến trước cửa hàng của Thục, Yến vào nói chuyện, tôi ngồi trên xe đợi. Hai người theo dõi dừng bên kia đường nhìn sang. Tình cờ, người cháu của HSP đi tới, gặp tôi dừng lại nói chuyện. Tôi hỏi thăm ngay. Cậu ta cho biết từ sáng sớm nhà của HSP cũng bị bao vây. Hai CA vào hẳn trong quán chị Biên ngồi. Họ nói thẳng với vợ chồng HSP là 2 người đang bị giám sát. Họ không cấm hai người đi lại, nhưng khi đi sẽ bị theo dõi và CA sẽ giám sát chặt chẽ người vào ra nhà HSP. Khoảng 8g sáng, BMQ đến nhưng 2 CA ra chặn lại không cho vào. Quốc yêu cầu cho biết lý do và cho xem lệnh nhưng họ từ chối. Quốc yêu cầu lập biên bản nhưng họ không làm. Cuối cùng Quốc đành phải ra về, không nói chuyện được với HSP.

Tôi cũng thông báo vắn tắt tình hình của tôi cho người cháu của HSP biết để cậu ta về nói lại, xong cậu ta chào tôi bỏ đi ngay vì thấy 2 CA đang tiến lại gần. Yến nói chuyện với Thục xong trở ra và tôi chở Yến về nhà luôn, không đến HSP như dự định vì chúng tôi đã biết tình hình và chắc chắn đến HSP sẽ bị ngăn cản. Thục cũng kể cho Yến những việc xảy ra như người cháu của HSP đã kể với tôi, và cho biết CA cũng theo dõi Quốc như đối với tôi và HSP. Dù sao ngay trong ngày đầu tiên này chúng tôi cũng đã biết tình hình của nhau. Ðiều đáng tiếc là sau buổi kỷ niệm sinh nhật của HSP, 3 chúng tôi đã cảm thấy tình hình sắp căng thẳng, dự định gặp nhau để hội ý về cách phản ứng khi tình huống xấu xảy ra nhưng chúng tôi chưa làm được. Từ đây về sau chắc chúng tôi khó gặp nhau.


Thứ bảy 26/4/97

Khoảng 4g chiều tôi nghe tiếng chó sủa và tiếng ồn ào ngoài cổng. Tôi và Yến ra xem. Người đưa thư đang nói chuyện gì đó với M, CA đã chặn không cho Yến gọi điện thoại hôm qua. Tôi hỏi, bưu tá nói anh ta đến đưa thư và báo như thường lệ, nhưng có người xưng là CA chặn không cho, anh ta cũng ngạc nhiên. Lần này lại có một thư bảo đảm gởi cho tôi, đáng lý tôi phải ký nhận. Tôi bảo anh ta đưa cho tôi xem thư. Ðó là một phong bì lớn màu vàng ghi người gởi là ai tôi không biết, nhưng qua tem dán trên phong bì và dấu gửi bảo đảm thì là từ Ðức gửi đến. Tôi nói với bưu tá nếu anh ta không đưa tôi nhận thư anh ta phải chịu trách nhiệm vì không làm tròn trách nhiệm. Trong trường hợp do sức ép anh không dám đưa, anh phải mang thư này về giao lại cho lãnh đạo bưu điện và chúng tôi sẽ khiếu nại sau, bưu tá đồng ý.

Trong khi tôi nói chuyện với bưu tá, M đứng nghe và N cũng từ ngoài vào. N nói CA có lệnh chặn thư từ của tôi và chỉ cho nhận báo. Ðây là báo Tuổi Trẻ tôi đặt mua thường xuyên ở Bưu điện. Bưu tá nói ban đầu M còn chặn không cho đưa báo. Tôi phản ứng với 2 CA này và cuộc đấu khẩu lại nổ ra. Tôi thực sự tức giận và nhớ lại chuyện Nguyễn Hộ bị bao vây ngăn chặn ở Sài Gòn, có lẽ họ đang áp dụng biện pháp đó với tôi. Tôi nói CA làm kiểu này chẳng khác gì bọn xã hội đen vì thực ra chúng tôi cũng không biết các anh có phải là CA hay không. Tôi sẽ kiện các anh vì hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tự do công dân.

Bưu tá có vẻ sợ nên bỏ đi. Tôi dặn theo anh ta phải mang lá thư của tôi về Bưu điện. Chúng tôi cũng bỏ vào nhà vì tranh cãi với 2 CA này chẳng ích gì. Họ tỏ ra kiên quyết làm theo lệnh trên.

Vào nhà chúng tôi bàn bạc và dù đã hơi trễ, gần 5g chiều, chúng tôi quyết định lập tức lên Bưu điện khiếu nại. Chúng tôi thay quần áo lấy xe đi ngay. Không phải M và N mà 2 người khác không biết từ đâu bám theo chúng tôi.

Ðến trước sân Bưu điện, tôi vừa dựng xe thì bưu tá phát thư đường nhà tôi cũng vừa về đến. Tôi hỏi anh ta có mang thư của tôi về không, anh ta bảo lúc đi ra hẻm, 2 CA đã chặn lại buộc anh ta phải giao thư cho họ và họ ký nhận. Anh ta không dám chống lại CA nên đành để cho họ lấy thư. Tôi phản đối việc đó cho rằng bưu tá đã làm sai và phải chịu trách nhiệm. Lúc này nhiều bưu tá khác cũng lần lượt trở về bưu điện cuối buổi làm việc. Họ xúm lại hỏi và bình luận rôm rả. Có người nói CA cũng không có quyền lấy thư người khác và bưu tá cho CA nhận thư là ngu. Họ bảo tôi cứ vào khiếu nại với lãnh đạo Bưu điện. Nhiều người tụ tập làm ầm ĩ trước sân bưu điện. Tôi thấy 2 CA theo tôi đang gọi máy bộ đàm.

Tôi vào trong nói với một nhân viên bưu điện ngồi ở quầy yêu cầu gặp lãnh đạo có việc gấp quan trọng. Lúc này đã muộn, hơn 5g30, cô ta nói có lẽ cán bộ lãnh đạo đã về, nhưng tôi có thể gặp người thường trực. Tôi đồng ý. Cô ta vào báo và lát sau một bà khá lớn tuổi được giới thiệu là thường trực mời tôi vào một phòng nhỏ để nói chuyện. Tôi mới trình bày sơ qua thì cô nhân viên vào báo là bà phó giám đốc vẫn còn đây và mời tôi lên lầu làm việc. Tôi đi ra đã thấy có thêm 2 CA mặc sắc phục đang đứng gần Yến. Tôi bảo Yến đợi và đi theo cô nhân viên lên lầu. M từ đâu xuất hiện cũng đi theo.

Hai bà tiếp tôi tự giới thiệu đều là Phó giám đốc Công ty Bưu chính và Phát hành báo chí. Tôi trình bày sự việc. M xen vào tự giới thiệu, xuất trình thẻ CA và nói Bưu điện cần thiết xin làm việc với lãnh đạo CA. Tôi khẳng định hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật đã bảo đảm quyền tự do thư tín của công dân, CA làm như thế là vi phạm nghiêm trọng và Bưu điện phải làm rõ việc này theo đúng chức năng của mình. Hai bà Phó giám đốc cho biết đã nghe bưu tá báo cáo sự việc và đồng ý rằng trên nguyên tắc, CA không có quyền làm như thế. Tuy nhiên vì không rõ nội vụ nên Bưu điện sẽ làm văn bản yêu cầu CA giải thích và sẽ trả lời tôi sau. Tôi nói tôi đã đến đây trực tiếp khiếu nại, vì gấp nên tôi không làm văn bản được, nhưng tôi yêu cầu sau khi làm việc với CA, Bưu điện phải chính thức trả lời tôi bằng văn bản. Hai bà Phó giám đốc đồng ý. Tôi chào họ ra về.

Xuống lầu, tôi thấy Yến đứng đợi có vẻ hoảng sợ. Tôi chở Yến về. Yến kể hồi nãy Yến có chạy vội vào để gọi điện cho các con ở Sài Gòn định để báo tin cho các con biết, nhưng không hiểu tại sao gọi không được, lại thấy CA gọi máy liên tục và tăng cường thêm một số người mặc sắc phục làm Yến tưởng họ đến bắt tôi luôn. Tôi nói Yến yên tâm vì mình làm công khai theo đúng luật pháp cần gì phải sợ. Tuy nhiên qua vụ này, tôi thấy rõ guồng máy của CA đã chuyển động mạnh, siết chặt hơn, bất chấp luật pháp và họ có thể làm mọi chuyện khi họ cho là cần thiết.


27/4-3/5/97

Trong suốt một tuần lễ, chúng tôi ít khi đi đâu trừ vài lần ra phố mua sắm các thứ cần thiết vì CA giám sát quá chặt chẽ. Chính N tổ trưởng tổ CA chốt trước hẻm nhà tôi, thừa nhận ít nhất có 10 người trực tiếp theo dõi giám sát tôi, chưa kể số trinh sát ngoại vi. Tổ trước nhà tôi có 6 người, chia làm 3 ca, chúng tôi biết rõ tên từng người. Ca 1 có N và M, ca 2 có O và P, ca 3 có Q và R. Tất cả đều là sĩ quan cấp úy. Họ thay ca trực suốt ngày đêm. Ban đêm mắc võng ngủ ngay trong quán. Ðây là tổ trực tiếp, thường xuyên liên lạc với một tổ ngoại tuyến ở đâu đó trên đường Nguyễn Ðình Chiểu trước nhà tôi. Khi chúng tôi đi đâu, vừa ra khỏi hẻm, tổ trực tiếp điện báo, lập tức có 2 người trong tổ ngoại tuyến bám theo ngay. Chúng tôi không đến Quốc và HSP được, bạn bè người quen khác cũng tránh đến thăm vì sợ CA sẽ làm phiền họ, vả lại CA ở trước hẻm chặn không cho ai vào nhà tôi cả.

CA cố tình công khai giám sát chúng tôi. Họ chạy xe theo chúng tôi với khoảng cách gần. Khi tôi dừng xe, họ đậu sát ngay bên cạnh. Tôi đi bộ họ xuống xe đi theo. Cả Yến cũng bị họ theo dõi giám sát chặt chẽ không kém. Hàng ngày Yến vào chợ mua sắm họ cũng theo bén gót, đứng ngay bên cạnh để xem Yến có làm gì khác lạ không. Lúc nào cũng có 2 CA lảng vảng trước cổng trường. Các chủ cửa hàng ở khu chợ trước trường Yến thường đến mua sắm đều được CA răn đe cấm không cho Yến gọi nhờ điện thoại. Trong trường, Yến để ý thấy khi coi học sinh thi học kỳ, buổi đầu Yến được phân công coi chung với một giáo viên đã ghi tên trên lịch, nhưng sau đó lại đổi người khác là Đảng viên của chi bộ trong trường. Các buổi sau, Yến đều được phân công coi chung với các giáo viên là Đảng viên. Yến bực bội không sao chịu nổi.

Thời gian này N, cấp bậc đại úy, tổ trưởng tổ giám sát trước nhà tôi áp dụng phương thức tiếp cận tôi để tìm hiểu và tôi không né tránh. Hôm đầu tiên va chạm với anh ta, tôi có nói nếu cần tìm hiểu gì cứ vào nhà nói chuyện, tôi sẵn sàng tiếp, sau đó vài hôm, Yến đi nhà thờ về một mình, N chặn Yến nhắc lại chuyện đó và nói chị cho em vào thăm anh Cự và cũng để xin lỗi chuyện va chạm hôm trước. Yến trả lời bảo để vào hỏi ý kiến tôi đã. Tôi đồng ý, Yến ra nói lại và N vào ngay.

N khoảng 40 tuổi, cao, hơi gầy, khá đẹp trai, đôi mắt có lông mi dài, hơi giống một tài tử Hàn Quốc trong một bộ phim chúng tôi mới xem. N nói chuyện cởi mở và tỏ ra thân tình. N hỏi tôi có uống rượu không để lúc nào anh ta mang rượu và đồ nhắm xuống nhậu chơi. Tôi nói tôi chỉ uống café. Anh ta đòi uống và tôi sẵn sàng pha mời anh ta một tách.

Chúng tôi nói đủ thứ chuyện và khi đề cập đến những vấn đề chính trị gai góc thì N né tránh không tranh cãi. Anh ta tỏ ra tôn trọng tôi, gọi tôi là “tiền bối cách mạng” và biết rõ quá trình hoạt động của tôi. N cũng tự nói nhiều về mình. Anh ta khoe đã qua đào tạo các lớp trung cấp, đại học CA và nhiều khóa nghiệp vụ khác, công tác trong ngành hơn 20 năm. Vợ anh ta có bằng đại học ngoại ngữ đang làm ở một khách sạn chuyên tiếp khách nước ngoài. Hai vợ chồng có một con còn nhỏ. Anh ta đang dự định xin chuyển ngành. Anh ta không nói rõ nhưng tôi hiểu có lẽ ở lâu trong ngành nhưng không thăng tiến nên muốn chuyển.

N nói anh ta chỉ làm theo lệnh, ngoài nhiệm vụ ra, giữa chúng tôi và anh ta nên đối xử với nhau như giữa người và người, anh ta nhỏ tuổi hơn nên chúng tôi có thể xem anh ta như em. N nói chuyện nhiều và có vẻ thật lòng nhưng Yến nhắc tôi nên cảnh giác. Tôi bảo Yến tôi thấy anh ta có vẻ dễ thương và tôi chẳng sợ gì khi nói chuyện với anh ta cả. Anh ta tìm hiểu tôi khi tôi cũng làm ngược lại và tôi không dễ gì bị khai thác. Có lần anh ta nói nửa đùa nửa thật: Trời mưa gió đứng ngoài quán cũng khổ, chi bằng vào đây vừa được uống café ấm cúng, nói chuyện vui vẻ vừa tiếp cận được đối tượng. Tôi nói ngay tôi chẳng sợ ai tiếp cận.

Một buổi chiều trời sắp mưa thì N vào. Chúng tôi ngồi nói chuyện ở chiếc ghế trước hàng hiên. Anh ta hỏi tôi có ai mới đến thăm tôi không. Tôi bảo không. Trời bắt đầu mưa lắc rắc, tôi mời anh ta vào nhà nhưng anh ta bảo ngồi ngoài này một chút rồi đi ngay.

Nói thế nhưng N ngồi lại khá lâu. Mắt anh ta đỏ ngầu, miệng sặc mùi rượu và cách nói như một người say thật sự. N lảm nhảm mãi một câu: “Em buồn quá anh chị ơi. Em muốn có người tâm sự. Em không biết nói chuyện cùng ai. Em khổ tâm lắm”. Tôi hỏi buồn chuyện gì nhưng N không chịu trả lời ngay, cứ lảm nhảm câu đó.

Trời đổ mưa lớn. Tôi bảo N vào nhà, anh ta định bỏ đi nhưng rồi nghe theo. Anh ta vẫn tiếp tục điệp khúc của mình rồi chợt thố lộ: “Anh chị biết không. Suốt đêm qua em không ngủ vì cãi nhau với vợ. Từ ngày nhận nhiệm vụ giám sát anh chị, ban đêm em ít khi về nhà nên vợ em ghen, tưởng là em đi bồ bịch gì. Em đã giải thích là phải theo dõi giám sát một đối tượng quan trọng, nhưng vợ em không tin, bảo làm gì có nhân vật nào ghê gớm như thế. Chúng em thỉnh thoảng vẫn cãi nhau, nhưng lần này rất nghiêm trọng, vì giải thích gì vợ em vẫn không tin. Mà anh chị biết quá rõ em đang làm gì. Phải chuyện bồ bịch thì cũng cam, đằng này đêm mưa gió nằm võng ngoài quán lạnh thấy mẹ và muỗi cắn ngủ không được. Em sút mất mấy ký rồi đấy”. Ðang kể N bỗng to tiếng như tức giận: “Anh chị ở xó vườn này không hiểu đâu. Chuyện đời phức tạp lắm. Em chán lắm rồi. Em uống rượu suốt từ sáng đến giờ”.

Tôi thấy N có vẻ say thật nên bảo Yến đi pha cho anh ta ly nước chanh để uống giã rượu. Yến qua phòng bên cạnh, nơi vừa là phòng ngủ, vừa là phòng ăn, và là nơi sinh hoạt chính hằng ngày của chúng tôi để pha nước chanh. N lảo đảo đứng lên chạy theo bảo thôi chị Yến, em không uống đâu, rồi quay lại ghế ngồi. Lát sau Yến mang nước chanh ra, N ban đầu từ chối nhưng tôi ép anh ta cũng uống. Uống xong, N có vẻ tỉnh táo hơn. Chúng tôi nói chuyện đời một lúc rồi N cáo từ. Trời vẫn mưa lớn nên tôi cho anh ta mượn chiếc dù. Trước khi đi N còn hỏi lại có ai mới vào thăm không, tôi vẫn nói không có và không hiểu tại sao anh ta lại hỏi chuyện đó.

N đi rồi, Yến bảo tôi coi chừng anh ta giả bộ say để vào kiểm tra nhà mình đó. Anh ta từng khoe là đã tốt nghiệp khóa tình báo mà. Lúc nãy anh ta chạy theo em vào phòng ngủ là để xem có ai trong đó không. Tôi nghĩ chuyện N buồn và uống rượu vì cãi nhau với vợ là có thật, nhưng anh ta cũng có ý kiểm tra xem nhà tôi có người lạ không và điều này hơi khó hiểu.

Khoảng 15 phút sau, nghi vấn này được giải tỏa. N và 1 CA khác đội mưa vào đập cửa nhà tôi. N nói ngay: “Em hỏi thật anh chị nghe. Vừa rồi có ai lạ vào nhà anh chị không? Anh chị trả lời thật đi”. Tôi vẫn nói không. N tỏ ra bực bội: “Thế thì vô lý quá. Trung tâm báo cho em biết là có người vào. Nếu có mà em không báo cáo, Trung tâm sẽ cho là em bao che cho anh chị. Anh chị biết không, ngoài tụi em ra còn có bộ phận khác theo dõi nữa. Người ta nói rõ đó là một người đàn bà, hơi lùn.”

Tôi sực nhớ ra: “Hồi trưa phải không? À thì ra đó là cô hàng xóm. Cô ta sang mượn cái siêu sắc thuốc rồi về ngay, cô ta đâu phải là người lạ”. N thở phào có vẻ nhẹ nhõm: “Vậy thì được rồi. Nếu không tụi em phải chịu trách nhiệm phiền lắm”. N cám ơn và 2 CA lại kéo nhau đi dưới trời mưa. Chúng tôi thấy họ quả thật vất vả vì chúng tôi. Hơn một tuần qua đúng là không ai lạ vào nhà tôi cả. Nếu có chắc họ cũng đã bị chặn lại từ ngoài cổng mà chúng tôi không biết. Chỉ có lần một cậu thanh niên nhà nuôi bò sữa ở trong xóm vào xin cắt cỏ. Từ trước cậu ta vẫn thỉnh thoảng vào cắt cỏ trong vườn nhà tôi. Cậu ta kể cũng bị CA chặn lại, nói cho cậu ta biết tôi là kẻ phản động, viết báo chống đối chế độ cần phải cô lập, không được quan hệ. Cậu ta bảo tôi là trí thức, nhà văn nhà báo viết gì là quyền của tôi, cậu ta không biết, cậu ta chỉ vào cắt cỏ thôi. CA đã để cho cậu ta vào sau khi răn đe thêm một hồi.

Rõ ràng đây là một chiến dịch bao vây, ngăn chặn, cô lập, bôi nhọ, theo dõi và giám sát chặt chẽ, một kiểu quản chế không tuyên bố bằng cách vận dụng sức mạnh của bộ máy trấn áp. Tôi khó lòng phản ứng gì trước tình hình này nên tạm thời “án binh bất động”. Tôi đoán BMQ, HSP chắc cũng nghĩ và làm như thế.

Chủ nhật 30/3/97

5g chiều tôi và Yến từ Sài Gòn về đến Ðà Lạt. Hàng xóm cho biết A, CA khu vực mấy ngày qua lại đến tìm tôi và hỏi han rất kỹ chuyện chúng tôi đi Sài Gòn. Mẹ tôi có bệnh thật không, ai báo cho chúng tôi biết... Tình cờ đã hai lần tôi đi Sài Gòn, CA đều đưa giấy mời hụt nên chắc họ đâm nghi ngờ. Thật vô lý vì làm sao tôi biết họ định mời vào lúc nào.

Về nhà cất đồ đạc xong, chúng tôi đến ngay HSP. HSP thuật cho chúng tôi biết nội dung cuộc gặp của HSP và BMQ với CA. Hai người gặp làm việc với các cán bộ khác nhau của CA tỉnh LÐ tại trụ sở CA TP/ÐL. Hai người bị truy hỏi về các bài viết và các buổi trả lời phỏng vấn cho đài, báo nước ngoài. CA đưa cho xem quyết định số 893 ngày 20/7/92 của Bộ Văn hóa Thông tin quy định về việc xuất nhập văn hóa phẩm không thuộc loại kinh doanh và cho rằng họ đã vi phạm quy định này. CA đưa ra một mẫu biên bản đã in sẵn có tiêu đề “Biên bản v/v đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, trong đó ngoài những phần chung in sẵn còn có một chỗ trống ghi bổ sung hành vi cụ thể của từng người. Ðiều đáng chú ý là trong biên bản có chú thích rõ việc thông tin bao gồm cả điện thoại và fax. HSP và BMQ đều ghi ý kiến phản đối của mình vào biên bản trước khi ký.

Chúng tôi bàn bạc và dự đoán thế nào họ cũng cắt điện thoại. Ðây là một hành động nằm trong kế hoạch ngăn chặn của CA đang được thực hiện từng bước.

Chúng tôi từ biệt HSP, ra phố ăn tối rồi về nhà sửa soạn đi ngủ sớm vì suốt ngày đã quá mệt mỏi. 8g30 tối, trước khi chúng tôi đi ngủ, A, CA khu vực và một CA TP ÐL đến đưa giấy mời tôi ngày mai lên CA làm việc. Chúng tôi không ngạc nhiên vì tôi đã biết việc này và biết họ đang sốt ruột chờ tôi về.


Thứ hai 31/3/97

7g30 tôi đến CA TP ÐL, vẫn B và C tiếp và làm việc với tôi. (BMQ và HSP làm việc với những người khác). B và C hỏi thăm về tình hình sức khỏe của mẹ tôi và đính chính việc CA mời lúc tôi Sài Gòn chỉ là tình cờ thôi chứ không có ý gì khác.

B hỏi tôi sơ qua về các bài viết và trả lời phỏng vấn mới nhất của tôi, rồi đưa ra “biên bản v/v đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”. Có lẽ qua phản ứng của HSP, BMQ và cũng biết chắc quan điểm của tôi trong việc gọi là vi phạm pháp luật này nên B nói luôn: Ðây là quan điểm của CA và CA làm để chính thức thông báo đến tôi bằng văn bản về việc này, còn ý kiến của tôi ra sao tôi cứ việc ghi vào biên bản. Tôi đọc lướt qua biên bản và ghi ý kiến của mình bên dưới trước khi ký: Tôi không làm gì vi phạm pháp luật. Tôi chỉ thực hiện quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và quyền được thông tin theo đúng các điều khoản 50, 53, 69, 146 của Hiến pháp Việt Nam và điều 19 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền.

B không tranh cãi gì với tôi về việc này và chấm dứt buổi làm việc sớm, khoảng 10g, khác với 2 buổi làm việc của HSP và BMQ mà tôi nghe kể, suốt buổi sáng và khá căng thẳng.

Tôi về nhà một lúc rồi đến trường đón Yến. Yến thuật lại khi mới vào trường, mấy người trong Ban Giám hiệu xúm lại hỏi vừa qua đi đâu mà CA lại đến kiếm, tra hỏi tùm lum. Họ có vẻ ngại vì bị CA quấy rầy. Tôi đã dự đoán chuyện này nên trước khi đi Sài Gòn tôi đã bảo các con đánh một điện tín lên cho mẹ theo địa chỉ trường, báo tin bà nội đau nặng để Yến kèm theo đơn xin phép nghỉ và Ban giám hiệu trường cũng dễ trả lời với CA.


Thứ ba 1/4/97

Yến được Hiệu trưởng mời lên làm việc. Thành phần tham dự có Ban Giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn và nhân viên văn phòng.

Hiệu trưởng thông báo hôm qua ông được Sở Giáo dục mời lên làm việc. Buổi làm việc này có đại diện Sở Công an và Phòng Giáo dục thành phố. Ðại diện CA thông báo sơ qua về trường hợp của tôi và nói Yến đã giúp tôi bằng cách dùng địa chỉ của trường để nhận thư, báo chí của nước ngoài và dùng điện thoại của trường để liên lạc với nước ngoài 11 lần. Hiệu trưởng nói theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và yêu cầu của CA, Yến phải chấm dứt và cam kết không sử dụng địa chỉ và điện thoại của trường nữa.

Yến tức giận phản ứng mạnh cho rằng CA đã lạm quyền và vu cáo trắng trợn. Yến là giáo viên của trường, có quyền sử dụng địa chỉ và điện thoại của trường như mọi giáo viên khác. Vả lại, người ta gởi thư cho Yến đến trường là quyền của người ta, không ai cấm được. Dù Yến không cho nhưng nhiều người vẫn biết địa chỉ của Yến ở trường và cứ gởi thư. Còn chuyện dùng điện thoại trường để gọi đi nước ngoài 11 lần thật quá vô lý, vì điện thoại này chỉ gọi đi được trong thành phố thôi. Hơn nữa lúc nào nghe hay gọi điện thoại đều có nhân viên văn phòng chứng kiến. Thỉnh thoảng có việc cần nhắn Yến mới gọi về nhà cho tôi hoặc các em ở Bảo Lộc gọi lên nhắn chuyện gia đình.

Nói qua nói lại một hồi, Hiệu trưởng đề nghị Yến làm theo yêu cầu của CA để khỏi gây rắc rối cho nhà trường. Yến rất ức nhưng đành chấp nhận ký vào biên bản sẽ không sử dụng địa chỉ và điện thoại của trường nữa.

Sức ép đã tăng lên và lần này trực tiếp nhắm vào Yến.


Ngày 7/4/97

Gần trưa, lúc Yến đang dạy ở trường, một nhân viên bưu điện đến đưa cho tôi một giấy mời Bạch Yến, khách hàng thuê bao điện thoại, đến Công ty Ðiện báo Ðiện thoại làm việc về hợp đồng thuê bao vào lúc 2g chiều. Khi ký vào sổ giấy mời, tôi thấy có tên và chữ ký của Hiền Thục, vợ của BMQ về việc nhận giấy mời tương tự. Tôi đoán ngay là người ta bắt đầu thực hiện việc cắt điện thoại. Trong tuần vừa qua, sau khi đã làm việc với CA để được chính thức thông báo về việc “đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, nhiều bạn bè và đại diện các đài, báo nước ngoài vẫn gọi điện thoại để hỏi thăm tin tức của chúng tôi và chúng tôi vẫn trả lời họ bình thường như trước, không chút e dè. Chúng tôi vẫn tự cho đây là quyền tự do của mình theo đúng hiến pháp, không có gì gọi là vi phạm pháp luật. Có lẽ CA thấy việc đe dọa của họ không có kết quả nên tiến hành bước tiếp theo.

Tôi gọi điện ngay cho Quốc. Quốc vắng nhà. Thục tiếp điện thoại cho hay Quốc đi chưa về nên chưa biết việc có giấy mời và cho biết thêm giờ hẹn làm việc là 1g chiều, trước Yến 1giờ. Tôi nhờ Thục nhắn lại khi Quốc về nói Quốc gọi điện cho tôi ngay. Tôi gọi tiếp cho HSP nhưng vợ chồng HSP đi vắng. Tôi sực nhớ hôm qua HSP có nói hôm nay, hai vợ chồng phải lên Công ty Nhà đất để giải quyết vụ rắc rối về nhà ở. Có thể HSP cũng được mời về chuyện điện thoại nhưng vắng nhà nên nhân viên bưu điện chưa đưa được.

1g30 chiều, lúc chúng tôi sửa soạn đi thì Quốc gọi điện. Quốc báo vừa làm việc với công ty ÐBÐT xong. Giám đốc công ty tiếp Quốc, có một người ngồi cạnh mà Quốc đoán là CA. Quốc hỏi anh ta là ai, anh ta nói cũng là khách hàng như Quốc thôi. Giám đốc công ty thông báo bắt đầu từ hôm nay sẽ tạm ngưng hoạt động điện thoại của Quốc vì Quốc vi phạm điều lệ bưu chính viễn thông. Quốc chất vấn vi phạm như thế nào, điều khoản gì, nhưng Giám đốc công ty chỉ nói là làm theo lệnh trên, không giải thích được, nếu cần Quốc cứ khiếu nại. Quốc yêu cầu giao quyết định bằng văn bản, Giám đốc công ty hứa sẽ giao sau.

Nghe Quốc thông báo xong, chúng tôi đi lên công ty ÐBÐT. Khi vừa vào phòng Giám đốc, chúng tôi đã thấy C và 1 CA nữa đã ngồi ở đó. Thấy chúng tôi họ lật đật đứng dậy đi ra, C có gật đầu chào tôi. Rõ ràng công ty ÐBÐT chỉ thực hiện quyết định của CA và CA đang cử người giám sát việc này. Giám đốc công ty làm việc với chúng tôi với nội dung y hệt như đối với Quốc. Chúng tôi cũng phản đối, chất vấn như Quốc và dọa thêm sẽ kiện công ty vì vi phạm hợp đồng, Giám đốc công ty cũng một mực nói chỉ làm theo lệnh trên, nếu cần tôi cứ khiếu nại.

Làm việc xong, Yến ra ngoài quầy gọi điện thoại collect call cho anh Lân ở Mỹ. Cô nhân viên trực điện thoại bảo đợi một lúc và sau đó trả lời không gọi được vì số điện thoại đó đã bị gỡ collect call [?]. Thật vô lý nhưng như thế chứng tỏ người ta đã dùng mọi biện pháp để cắt liên lạc của chúng tôi với nước ngoài.

Chúng tôi đến nhà HSP để báo và hỏi xem HSP có được mời không, HSP nói chưa thấy mời. Có lẽ đây là một thủ đoạn trong đối sách với chúng tôi, CA đối phó một người một kiểu, cũng là để ly gián chúng tôi. HSP nói nếu họ chưa cắt điện thoại phải rất thận trọng vì chỗ HSP là nơi duy nhất còn trực tiếp liên lạc được với nước ngoài.

6g chiều Quốc gọi điện báo cho tôi biết Giám đốc công ty ÐBÐT vừa điện cho Quốc. Anh ta có quen biết Quốc. Anh ta bảo Quốc thông cảm, sẽ không có văn bản gì gởi cho Quốc như đã hứa và đúng 7g tối sẽ cắt điện thoại. Ðây là cú điện thoại cuối cùng tôi nhận được vì đến 7g, điện thoại của tôi cũng bị cắt.

Việc cắt điện thoại chắc chắn là một việc được tính toán kỹ. Sau khi BMQ, HSP và tôi bị mời lên CA để lập biên bản “đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, 3 chúng tôi đã hội ý và quyết định ký chung một thư gởi Quốc Hội để phát hiện “hành vi vi phạm pháp luật”, làm trái với Hiến pháp của Bộ VHTT, mà căn cứ vào đó CA đã lập biên bản đối với chúng tôi. Ðáng lý chúng tôi viết một văn bản mạnh hơn, có thể là một bản tuyên bố chung để phản đối việc đàn áp tự do tư tưởng, vi phạm dân chủ và nhân quyền, nhưng xét thấy một văn bản như thế có thể gây phản ứng bất lợi vào lúc này nên chỉ viết dưới dạng thư gởi Quốc hội. Tuy thế, lần đầu tiên đây là một văn bản mang tính tập thể, ký chung 3 người nên chắc CA đánh giá rất nghiêm trọng, do đó họ đã tiến hành ngay một biện pháp ngăn chặn mới là cắt điện thoại của 2 trong 3 chúng tôi.
 


Thư gởi Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam

Kính thưa Quốc hội,

Chúng tôi, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, là những người cầm bút, xin bày tỏ với Quốc hội một số ý kiến.

Trong các ngày 28/3 và 31/3/97, chúng tôi lần lượt bị CA thành phố Ðà Lạt mời tới để gặp các sĩ quan của Sở Công an tỉnh Lâm đồng. Sau gần ba tiếng đồng hồ căn vặn đủ điều về các bài viết, về các cuộc trả lời phỏng vấn của chúng tôi công bố trên các báo đài nước ngoài và sau khi cho chúng tôi đọc một đoạn trong Quyết định số 893 ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hóa thông tin, các sĩ quan Công an đã yêu cầu chúng tôi ký vào một văn bản mang tiêu đề “Biên bản về việc đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”. Tại biên bản, chúng tôi đã khẳng định nội dung các bài viết, bài nói của chúng tôi không liên quan gì đến việc vi phạm pháp luật.

Qua thực tế các buổi bị buộc phải làm việc với Công an chỉ vì các điều mình viết và nói, chúng tôi đề nghị Quốc hội gấp rút rà soát lại các văn bản luật và dưới luật liên quan đến Dân quyền và Nhân quyền trong lĩnh vực tư tưởng và ngôn luận.

Quyết định 893 ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hóa Thông tin quy định ở điều 3 như sau: “Những văn hóa phẩm có danh mục dưới đây trước khi xuất [ra nước ngoài] phải có văn bản xét duyệt đồng ý của thủ trưởng cơ quan ngành chủ quản ở cấp Bộ [ở Trung ương] hoặc cấp tỉnh [ở địa phương] có thẩm quyền quản lý nội dung văn hóa phẩm đó, cơ quan văn hóa có cấp phép để làm thủ tục hải quan.

Nhóm A:

 
  1. Các tài liệu, văn bản và ấn phẩm lưu hành nội bộ, tài liệu thuộc danh mục nhà nước.
     
  2. Các loại tài liệu, văn bản, bài viết, các loại bản vẽ, bản đồ được ấn loát hoặc đánh máy, chép tay, in ronéo, photocopy hoặc sao chép bằng mọi kỹ thuật khác, nội dung thuộc mọi lãnh vực, gửi hoặc mang theo người ra nước ngoài để in, để đăng báo, tạp chí, để phục vụ học tập nghiên cứu, giảng dạy, báo cáo khoa học, tham luận trong hội nghị, hội thảo quốc tế...
     
  3. ...
     
  4. ...
Chính là tại cơ quan Công an thành phố Ðà Lạt ngày hôm ấy, lần đầu tiên chúng tôi mới được biết tới quy định như thế của Bộ Văn hóa Thông tin liên quan đến công việc của mình, và của giới cầm bút nói chung !

Chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên trước quy định này.

Khi Hiến pháp nước ta đã khẳng định công dân có quyền tự do tưởng, tự do ngôn luận thì có nghĩa rằng người dân có toàn quyền viết lên nói lên mọi suy nghĩ của riêng mình, và họ chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung những điều họ viết, họ nói, thế thôi, còn việc họ muốn công bố những điều đó với ai và ở đâu là thuộc quyền của họ.

Tác phẩm do tôi viết ra là thuộc quyền sở hữu của tôi, hiển nhiên quá rồi, và cũng quá hiển nhiên rằng tôi muốn tặng cho ai, gửi cho ai, công bố ở đâu là thuộc quyền của tôi, tại sao lại buộc tôi phải đem nộp cho ông cán bộ nhà nước xét duyệt trước khi gửi ra nước ngoài?

Cơ quan an ninh không thể coi việc đăng tải hay bình luận của các đài và báo nước ngoài đối với một bài viết của một người trong nước như một bằng chứng về nội dung xấu của bài viết ấy, rằng nó để cho bên ngoài lợi dụng, vì rất nhiều bài viết hoặc bài nói của nhiều vị lãnh đạo Ðảng và Nhà nước ta rơi vào trường hợp ấy.

Ðất nước đã mở cửa, đang hàng ngày hằng giờ cố gắng hội nhập vào thế gíới của thời đại thông tin, tại sao chúng ta còn duy trì những quy định quá lỗi thời, đẩy người cầm bút vào một “cái rọ” quản lý cả đến bản thảo viết tay, cả những tham luận hội nghị, hội thảo quốc tế? Chúng ta hãy hỏi những đồng nghiệp nhà văn, nhà báo, nhà khoa học các nước khác khi họ sang thăm hay giao lưu với chúng ta, họ có bị mất quyền làm chủ đối với lời ăn tiếng nói của họ như vậy không?

Bộ Văn hóa Thông tin quy định như vậy, nhưng thực tế những năm qua không ít người cầm bút ở Việt Nam đã cho công bố tác phẩm ở nước ngoài trước khi công bố ở trong nước, không thông qua sự xét duyệt của cơ quan nhà nước. Tình hình đó chứng tỏ quy định của Bộ VHTT đã bị thực tiễn vượt qua một cách mặc nhiên, bởi quy định ấy vẫn nằm trong lề lối quản lý cũ, muốn quản lý sự giao lưu văn hóa tư tưởng của con người giống như quản lý dạ dày họ bằng chế độ tem phiếu trước kia. Một kiểu quản lý lỗi thời phi dân chủ như vậy không thể làm nổi chức năng của một chuẩn mực pháp lý nghiêm túc, trái lại nó chỉ còn giữ vai trò như một công cụ để người ta đem ra gây khó dễ đối với một số người này, và lờ đi đối với những người khác.

Chúng tôi cho rằng, quy định về danh mục 2 (nhóm A) trong điều 3 của quyết định 893 ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hóa Thông tin là trái với Hiến pháp, trái với quyền Tự do ngôn luận của công dân, trái với Quyền Con người, đặc biệt khi đối chiếu với các điều 50, 53, 69, 146 của Hiến pháp và điều 19 của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà Việt Nam đã long trọng ký kết và cam đoan thực hiện.

Chúng tôi xin phát hiện sự vi phạm Hiến pháp như trên với Quốc hội để Quốc hội xem xét và đề nghị sớm bãi bỏ quy định này.

Chúng tôi cũng đề nghị Quốc hội cho thành lập ngay Tòa án Hiến pháp để dân có một cơ quan có thẩm quyền nhận khiếu nại và xét xử các vụ vi phạm Hiến pháp.

Kính chào.

Ðà Lạt, ngày 10-4-1997

Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự
4E Bùi Thị Xuân, Ðà Lạt; 3B Nguyễn Thượng Hiền; 35/1 Nguyễn Ðình Chiểu
ÐT: 823510; ÐT: 821675; ÐT: 823779;
(bị cắt ngày 7/4/97); (bị cắt ngày 7/4/97);
 


15-17/4/97

Bất ngờ tôi nhận được thư của Ðoàn Giao Thủy. ÐGT là Việt kiều đã về Ðà Lạt tìm thăm và phỏng vấn tôi, sau đó bài phỏng vấn đăng trên báo Diễn Ðàn, đã gây cho tôi nhiều hệ lụy.

Trong lần gặp gỡ ÐGT năm ngoái, qua chuyện trò, tôi rất quý anh vì sự cởi mở, chân thành và tấm lòng đối với đất nước. ÐGT là giáo sư tiến sĩ, thành đạt ở nước ngoài, xa quê hương đã lâu nhưng vẫn luôn đau đáu về vận nước. Chúng tôi nhanh chóng hiểu nhau dù thời gian chuyện trò ngắn ngủi. Sau lần gặp đó, tôi không có liên lạc hay thông tin gì của anh.

Lần này ÐGT gởi một thư ngắn, theo lối phát nhanh, báo tin mới về Việt Nam và chỉ ở trong thời gian ngắn, sẽ ở Sài Gòn mấy ngày, sau đó ra Hà Nội, vì để thất lạc số điện thoại của tôi nên gởi thư cho tôi số điện thoại ở Sài Gòn để tôi liên lạc vì anh nóng lòng muốn biết tin tức của tôi. (Anh chưa biết tôi đã bị cắt điện thoại.)

Tôi lập tức viết thư trả lời và gởi kèm theo bài “Tiếng vọng lẻ loi và tự do báo chí” và “Thư gởi Quốc hội” của Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc và tôi. “Thư gởi Quốc hội” này HSP đang đánh máy nên tôi và Yến ra nhà HSP để lấy và sau đó ra bưu điện gởi luôn. Tuy Yến đã cảnh giác tôi nhưng tôi vẫn ngồi ở ghế đợi của bưu điện để cho các tài liệu vào phong bì và ghi địa chỉ. Yến nói hình như có người theo dõi tôi từ ngoài cửa nhưng tôi vẫm mặc kệ. Tôi gởi thư xong, mấy hôm sau nhận được giấy hồi báo có chữ ký của ÐGT nên cũng yên tâm.

Tôi không liên lạc bằng điện thoại với ÐGT được vì nhà không có điện thoại, ra bưu điện gọi giờ giấc không chủ động nên không gặp được. Cho đến ngày ÐGT báo trong thư sẽ rời Việt Nam tôi vẫn không trực tiếp liên lạc được với anh.


Thứ bảy19/4/97

Việc phải đến đã đến. Hôm nay HSP bị cắt điện thoại, cũng cùng một kiểu cách như đối với tôi và Quốc. Trước khi bị cắt, HSP cũng đã rất thận trọng. Khi bạn bè ở nước ngoài gọi về thăm hỏi, HSP vẫn thông tin một cách khéo léo và luôn nhắc nhở: Các anh gọi điện hỏi thăm chuyện sức khỏe và gia đình chúng tôi thì được chứ đừng nói chuyện chính trị. Những người kia đều cười đồng ý. Nhưng trò này làm sao qua mắt được CA. Thế là sau một thời gian ngắn theo dõi, suy tính, họ cắt luôn điện thoại của HSP. Ðây là một thiệt hại rất lớn, vì ngoài 3 chúng tôi ra ở đây đâu có ai dám tự do nói chuyện với người ở nước ngoài.

Quá nhiều thông tin từ trong và ngoài nước, chúng tôi biết thêm tình hình xấu đối với một số người bất đồng chính kiến ở Hà Nội như Nguyễn Thanh Giang và Hoàng Tiến.

Nguyễn Thanh Giang, tiến sĩ địa vật lý, người đã từng viết nhiều bài tham luận gởi các Ðại hội Ðảng rất có sức nặng và được phổ biến rộng, càng về sau sự phê phán của ông càng gay gắt và ngôn từ sử dụng càng nặng nề. Mới đây ông lại viết một bài nữa, trong đó có các ý như tập thể trí thức Việt Nam có trí tuệ cao hơn lãnh đạo của Ðảng và Đảng cần chung sống với đài Á châu Tự do như sống chung với lũ.

Thế là Nguyễn Thanh Giang bắt đầu bị tấn công. Tệ hại nhất là người ta đưa ông ra họp tổ dân phố để đấu tố, gọi ông là phản bội, tay sai cho nước ngoài. Người ta còn đạo diễn cho một số người ném đá vào nhà ông để tỏ lòng phẫn nộ của người dân trước tên phản động. Ông đã nhặt các viên đá này đem đến trước trụ sở UBND phường để trả lại cho Nhà nước. Người ta còn nói sẽ đấu tố cả vợ con ông, ông phải phản ứng bằng cách dọa tự sát người ta mới chịu thôi.

Nhà văn Hoàng Tiến từ cuối năm 1996, sau mấy bài viết về HSP và một số bài khác đã nổi lên như một gương mặt bất đồng chính kiến mạnh mẽ của sĩ phu Bắc Hà. Các đài báo nước ngoài lập tức liên tục gọi về cho ông để thu bài viết và phỏng vấn. Thế là ông bị cắt ngay điện thoại. Hoàng Tiến viết thư tố cáo gởi đi khắp nơi. Văn phòng Quốc hội có mời ông lên làm việc. Theo ông kể lại khi các cán bộ VP/QH tiếp ông, họ có thái độ không đàng hoàng, mời nước uống thì trà nguội, chén bẩn nên ông bỏ về, tuyên bố QH không biết tôn trọng kẻ sĩ.

Dù sao những kẻ sĩ cuối cùng trong thời đại này cũng đã giữ được khí tiết của mình trước quyền lực. Họ ít thôi, quá ít, nhưng rồi lịch sử sau này chắc sẽ ghi nhận vai trò của họ.


Thứ ba 22/4/97

Hôm nay sinh nhật HSP. Không hiểu sao ngày này lại trùng với ngày sinh Lênin. Năm nào HSP tổ chức sinh nhật cũng mời bạn bè tới dự và nói đùa là tổ chức mừng ngày sinh Lênin. Mừng sinh nhật Lênin chắc Ðảng và Nhà nước này không cấm được.

Lần này HSP mời khá đông bạn bè. Ngoài những người đã tham gia đi đón anh cuối năm ngoái lúc anh ở tù về, còn có mấy người bạn cũ không liên quan gì đến việc viết lách, chính trị. Ðặc biệt có hai nhân vật là cán bộ về hưu, một người nguyên là tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục, người kia nguyên là cán bộ Ban Dân vận tỉnh ủy. Hai người này đã từng đọc HSP và tỏ thiện cảm với các bài viết của anh, nhưng chúng tôi biết họ có liên hệ mật thiết với những người đương quyền. HSP có tính toán riêng khi mời họ. Vì nội dung buổi kỷ niệm sinh nhật này anh định chỉ thuần túy nói chuyện tình cảm nên việc họ dự và thông tin lại đầy đủ cho những người cầm quyền cũng là điều hay.

HSP tự tay trang trí chiếc quán nhỏ, nơi tổ chức buổi họp mặt. Anh treo lên một số câu đối cũ và đặc biệt anh viết và dán lên ngay đầu phòng hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
 

Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
 

Có lẽ anh muốn gián tiếp gởi đi một tín hiệu rằng anh đã xong nhiệm vụ, không còn làm gì nữa. HSP không qua mắt được CA và chắc chắn người ta cho đây là tín hiệu giả vì chỉ ba hôm sau, HSP cùng với BMQ và tôi đã đồng loạt bị tấn công.

Buổi kỷ niệm sinh nhật HSP lần thứ 57 này (anh sinh năm 1940) có rất nhiều hoa do bạn bè đưa tới. Nhiều người chụp hình, đặc biệt có cả quay video do một người thợ chuyên nghiệp mà BMQ thuê. Quốc đạo diễn việc quay phim, mở đầu có cảnh HSP đang đứng bán kẹo cho một em bé. Lúc đó chúng tôi không biết, nhưng sau này nghe kể lại, Quốc còn yêu cầu quay cái gara cũ nơi gia đình HSP đang ở và dọa bị đuổi, quay luôn một số biệt thự to đẹp của các cán bộ lãnh đạo CA trên đường Bùi Thị Xuân, cách nhà HSP không bao xa. Thế là chúng tôi không bao giờ được xem cuộn băng đó. Mãi về sau, chúng tôi mới được biết CA đã đến tận nhà người thợ quay video tịch thu cuộn băng và gọi anh ta lên thẩm vấn răn đe nhiều lần.

Thật tiếc, vì trong buổi này, HSP rất tình cảm. Anh kể về gia đình, những kỷ niệm về người bố, về thời thơ ấu, về thời gian học đại học với khuôn mặt ràn rụa nước mắt khi nhắc đến những kỷ niệm buồn. Ðặc biệt anh đã cầm đàn ghita tự đệm và hát một số bản nhạc do chính anh sáng tác đánh dấu những xúc cảm và những khúc quanh lớn trong đời.

HSP tình cảm không thể tách rời khỏi HSP lý luận. Có người đã nói đùa (không phải do anh tự nói) điều tình cờ oái ăm của lịch sử là HSP “người đào mồ chôn chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam” lại cùng ngày sinh với ông tổ của CNCS ở Liên Xô. Và vóc dáng HSP hơi lùn, rất giống vóc dáng Lênin.

Nhưng cuộc đời HSP khốn đốn hơn Lênin nhiều. Gần 60 tuổi, anh vẫn chưa có căn nhà của riêng mình, đang ở nhà thuê của nhà nước và cái gara cũ, gia đình anh mượn của cơ quan để ở tạm vì có thêm mấy người cháu vào ở chung đang bị đe dọa lấy lại. Ðây là một chuyện tủn mủn nhưng phức tạp làm anh rất đau đầu.

Nguyên căn nhà chính anh thuê (thực ra chỉ là một phòng nhỏ chưa tới 20m vuông) là một căn chung cư của cơ quan rất chật hẹp và tối tăm vì nằm lọt giữa các căn khác. Cửa chính lúc nào cũng phải đóng và dù mở ra trong phòng vẫn tối mờ mờ nên lúc nào cũng phải bật đèn. Anh dùng kệ ngăn đôi phòng, bên ngoài là chỗ tiếp khách có một bộ xa-lông gỗ nhỏ và một đi văng. Bên trong là phòng ngủ và cũng là nơi làm việc, để dụng cụ thí nghiệm, sách vở và tủ quần áo. Nhà bếp và toa lét nhỏ xíu bằng lỗ mũi và có dạo anh đã làm phòng vô trùng trên trần toa lét vì không còn chỗ nào khác.

Mấy năm trước khi chị Biên vợ anh về hưu, chị có sang lại một cái quán bên lề đường để buôn bán. Quán này là một căn nhà gỗ tạm bợ nằm phía trước chung cư và thực ra không hợp pháp nên Nhà nước có thể dỡ bất cứ lúc nào.

Phía sau quán là cái gara cũ của cơ quan nhiều năm bỏ không. Ban đầu anh mượn chỗ này làm nơi sản xuất nấm. Sau đó có hai người cháu (1 của anh, 1 của chị) ở miền Bắc vào ở chung, cả hai mới lập gia đình, một người có một con, một người có hai con nhỏ, tổng cộng gia đình anh có tất cả 9 người. Do đó anh làm đơn chính thức xin thuê gara cũ này và sửa sang tạm cho các cháu ở. Ban đầu không ai nói gì nhưng khi con đường Bùi Thị Xuân trước nhà anh được tu sửa lại, nhà phố mới mọc lên nhiều, thấy làm ăn buôn bán được nên nhiều người trong cơ quan nhăm nhe muốn tranh giành cái gara cũ vì nó nằm sát ngay đường, tuy thấp xuống đến vài mét do thế đất. Nếu có tiền cất lên một ngôi lầu thì đây là một địa điểm rất đáng giá. Thế là cuộc chiến tranh giành cái gara cũ âm thầm diễn ra trong mấy năm qua, nhưng do gia đình anh đã sửa sang và có người đang ở nên họ vẫn chưa chiếm được, dù đã dùng nhiều phương cách.

Mới rồi anh vừa ở tù về chưa được bao lâu thì nhận được thông báo của phường cho biết cái gara cũ này không phải do cơ quan quản lý nữa mà đã chuyển giao cho Công ty Nhà đất, và Công ty này đã quyết định giao cho phường làm hội trường của khu phố, trong vòng một tháng, anh phải chuẩn bị để bàn giao. Họ còn gây áp lực bằng cách không cho một người cháu của anh đã nhập hộ khẩu ở đây không được ở nữa, viện lý do người này đã về Bắc thăm nhà khá lâu không vào, còn người cháu kia đang làm thủ tục nhập hộ khẩu không được giải quyết.

Mối lo ngại khác của HSP là khi cái gara cũ này biến thành trụ sở của khu phố, nó sẽ thành một chốt của CA ngay trước nhà anh và cái quán trên lề đường của anh cũng sẽ bị dỡ, lúc đó gia đình anh thật khó sống và khó thở. Do đó anh đã làm đơn gửi đi khắp nơi để khiếu nại việc này. Một số đài báo nước ngoài biết sự việc cũng đã đưa tin nên chính quyền địa phương ở đây có vẻ chựng lại, chưa thực hiện ngay việc đuổi nhà anh, nhưng vấn đề vẫn còn treo lơ lửng ở đó.

HSP rất căm giận chuyện này nên khi biết rõ người đứng sau vụ việc để giật dây là nguyên bí thư chi bộ của cơ quan, anh đã nói thẳng vào mặt hắn: Trong hoàn cảnh người ta vừa ở tù về, các cháu mới sinh con nhỏ mà vận động đuổi nhà thì thật là đồ chó chứ không phải người, không còn nhân tính nữa. Chưa lúc nào HSP có lời lẽ nặng nề như thế.

HSP không phải là người Cộng sản, trước đây anh đã không được kết nạp Đảng vì thuộc thành phần tiểu tư sản hay giao động, nhưng anh mới đúng là người vô sản chính hiệu, trong khi những người CS gộc lại càng ngày càng giàu lên, chiếm hữu vô số tài sản của nhân dân làm của riêng mình. Phải chăng hoàn cảnh cá nhân của HSP là một trong những yếu tố đã giúp hình thành tư tưởng và lý luận mà anh đã trình bày trong ba tập tiểu luận gây chấn động. Tự thân cuộc sống của riêng anh cũng đã là một minh chứng hùng hồn cho những nghịch lý của chế độ mà anh đã tố cáo ngay trong tiểu luận đầu tiên, “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”, một cách sáng tỏ và thuyết phục nhất.


Thứ sáu 25/4/97

Một ngày đáng nhớ lâu vì nó mở đầu cho chiến dịch bao vây ngăn chặn đối với tôi, cả HSP và BMQ.

Sáng nay Yến chỉ có một tiết dạy giữa buổi và như thường lệ tôi chở Yến đến trường. Vừa ra khỏi hẻm lập tức có 2 người đi honda bám theo. Ðến ngã tư gần trường, tôi dừng lại cho Yến vào mua mấy ký gạo để tôi chở về vì nhà mới hết. Hai người đi theo dừng lại cạnh tôi để theo dõi. Tôi biết ngay họ là CA vì ở xe của một người tôi thấy có cuốn sổ tay ngoài bìa có in chữ “An ninh nhân dân”. Việc CA theo dõi đối với tôi nào có lạ gì nên tôi không chú ý lắm. Mua gạo xong, Yến đi bộ vào trường và tôi quay về.

Hôm nay tôi định làm vườn nên không đi đón Yến, nhưng khoảng 1 giờ sau cô hàng xóm đứng bên hàng rào gọi tôi bảo Yến mới gọi điện thoại cho cô nhờ nhắn tôi ra đón. Cô còn nói thêm là có một người vào nhà tự giới thiệu với cô là CA, nói cô không được để cho chúng tôi gọi nhờ điện thoại. Nếu ai có nhắn gì cũng chỉ nói lại thôi chứ không được cho chúng tôi trực tiếp nghe, không chấp hành CA sẽ cắt điện thoại nhà cô. Từ khi chúng tôi bị cắt điện thoại, thỉnh thoảng khi Yến đi đâu có việc cần thiết lắm mới gọi điện cho nhà hàng xóm nhờ nhắn lại tôi. Tôi vào nhà thay quần áo lấy xe vừa chạy ra đầu hẻm thì Yến đã đi xe ôm về. Tôi rất ngạc nhiên.

Vào nhà Yến tức giận kể cho tôi nghe chuyện mới xảy ra. Yến dạy học xong, ra không thấy tôi nên vào cửa hàng một người quen nhờ gọi điện thoại cho cô hàng xóm nhắn tôi ra đón, sau đó đi mua sắm mấy thứ. Khoảng 10 phút sau vẫn chưa thấy tôi ra, Yến bắt đầu lo tôi gặp rắc rối với CA vì lúc tôi chở Yến đi, Yến cũng biết có người theo dõi nên trở lại cửa hàng người quen nhờ gọi điện thoại lần nữa. Lần này vừa nhấc máy lên một người từ ngoài xộc vào chặn ngay tay Yến lại và nói lạnh lùng: “Chị không được gọi”. Yến và mấy người quen bán hàng đều sững sờ ngạc nhiên. Yến hỏi: “Anh là ai, quyền gì cấm tôi?” Anh ta lật áo khoác để lộ chiếc thẻ CA và nói: “Tôi là CA. Tôi được lệnh không cho phép chị gọi điện thoại.” Quá bất ngờ và bối rối, Yến đành chào chủ cửa hàng bước ra gọi xe ôm về nhà. Trên đường về Yến bảo người lái xe ôm ghé vào nhà một người quen ở bên lề đường để lấy chục trứng gà ta đã dặn trước, người chặn không cho Yến gọi điện thoại cũng chạy theo và xuống xe vào đứng sát bên cạnh theo dõi. Kể cho tôi nghe xong Yến nói thêm: “Lúc bị chặn không cho gọi điện, em uất ức và xấu hổ quá. Mấy người đều nhìn em và em cứ tưởng như mình phạm tội gì. Sao họ quá quắt thế. Người chặn em là một trong hai người theo dõi mình từ sáng. Hiện họ đang đứng trước quán đầu hẻm”.

Tôi cũng cảm thấy nóng mặt. Ai có quyền làm như thế? Sau vài phút suy tính, tôi quyết định ra quán gặp họ. Yến cũng đi theo. Hai người theo dõi đang đứng nói chuyện với vợ chồng chủ quán. Tôi cố giữ bình tĩnh hỏi họ: “Có phải các anh vừa chặn không cho vợ tôi gọi điện thoại ngoài ngã tư không?” Một người đáp: “Phải”. Tôi hỏi tiếp: “Các anh là ai?” Họ trả lời: “Chúng tôi là CA” và vạch áo khoác cho tôi xem thẻ họ đeo trên ngực áo. Người đã chặn không cho Yến gọi điện thoại còn rất trẻ, chắc khoảng hơn 20 tuổi, mặt non choẹt, tên là M. Người kia lớn tuổi hơn, khoảng 40, hơi gầy, tên N.

Cuộc đấu khẩu giữa tôi và họ bắt đầu, tôi nói càng lúc càng lớn tiếng gần như quát lên làm nhiều người ở các nhà và quán quanh đó đều đổ ra nhìn.

“Các anh đeo thẻ nhưng cũng chưa chắc là CA. Dù là CA các anh cũng không có quyền làm như vậy.”

“Chúng tôi làm theo lệnh.”

“Lệnh của ai? Quyết định, giấy tờ đâu?”

“Lệnh miệng. Không có giấy tờ.”

“Các anh có biết làm như thế là xâm phạm quyền tự do công dân không? Luật pháp đã quy định trước khi bị tòa xét xử tuyên án, bị cáo còn được coi là vô tội, huống chi người bình thường.”

“Chúng tôi có lý do để làm việc này.”

“Lý do gì? Chúng tôi đang là người dân bình thường có đủ mọi quyền công dân. Các anh làm như vậy là thô bạo, vi phạm pháp luật.”

Trong khi tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, M đi ra xa để gọi điện thoại bằng máy bộ đàm nhỏ, chắc là báo cáo cho trung tâm. N tiếp tục đối đáp với tôi. Tôi tấn công dồn dập, N lúng túng rồi nói:

“Anh không phải là người dân bình thường. Anh là đối tượng đang bị theo dõi vì hành vi có hại cho an ninh quốc gia.”

Tôi thật bất ngờ khi nghe anh ta nói câu này và cảm thấy tức giận thực sự. Tôi quát lên:

“Ðối tượng gì? Ai cho phép anh nói đối tượng này đối tượng nọ đối với tôi. Ðó là chuyện anh nói trong cơ quan CA. CA đánh giá thế nào mặc các anh nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn là một người vô tội. Các anh không có quyền gì hết. Anh hiểu chưa? Các anh không có quyền.”

Một người thứ ba chạy xe đến dừng trước quán theo dõi. Chắc là người do M gọi đến. Ðấu khẩu thêm một lúc, cũng quanh quẩn những ý trên, tôi cảm thấy dịu dần và hiểu CA đang bắt đầu một chiến dịch mới đối với tôi và những người này chỉ làm theo lệnh trên.

Tôi dịu giọng nói với N:

“Xin lỗi anh tôi đã to tiếng vì hơi nóng. Nhưng anh thử nghĩ xem, làm như vậy chúng tôi đã bị xúc phạm như thế nào. Chúng tôi là những người tự do chứ có phải tội phạm đâu.”

N cũng dịu ngay:

“Anh thông cảm. Chúng em cũng là lính làm theo lệnh trên thôi. Vừa rồi M còn trẻ, chưa có kinh nghiệm, xử sự hơi quá, anh chị bỏ qua đi.”

Tôi nói trước khi quay vào:

“Tôi không có gì phải sợ và phải giấu giếm. Các anh muốn tìm hiểu gì cứ việc vào nhà tôi nói chuyện, tôi sẵn sàng tiếp. Các anh không nên có những hành động thô bạo xâm phạm quyền tự do cá nhân của chúng tôi.”

Sau đó tôi chở Yến đi dạy mấy tiết cuối, CA vẫn bám theo và chốt luôn ở quán đầu hẻm. Chúng tôi suy đoán CA đang áp dụng biện pháp bao vây ngăn chặn và giám sát chặt chẽ hơn đối với tôi. Có thể do cuộc họp mặt mừng sinh nhật HSP đã làm họ tức giận và đánh giá chúng tôi có ý đồ tập họp lực lượng để làm gì đó mà họ rất ngại, mặc dù buổi kỷ niệm sinh nhật HSP hoàn toàn không có nội dung chính trị.

Buổi chiều chúng tôi quyết định ra phố để thăm dò tình hình của HSP và BMQ. Chúng tôi đến cửa hàng của cô Thục, vợ Quốc ở đường 3/2 để hỏi thăm trước. Có 2 người khác, chắc là CA đổi ca, theo dõi chúng tôi ngay từ đầu hẻm.

Ðến trước cửa hàng của Thục, Yến vào nói chuyện, tôi ngồi trên xe đợi. Hai người theo dõi dừng bên kia đường nhìn sang. Tình cờ, người cháu của HSP đi tới, gặp tôi dừng lại nói chuyện. Tôi hỏi thăm ngay. Cậu ta cho biết từ sáng sớm nhà của HSP cũng bị bao vây. Hai CA vào hẳn trong quán chị Biên ngồi. Họ nói thẳng với vợ chồng HSP là 2 người đang bị giám sát. Họ không cấm hai người đi lại, nhưng khi đi sẽ bị theo dõi và CA sẽ giám sát chặt chẽ người vào ra nhà HSP. Khoảng 8g sáng, BMQ đến nhưng 2 CA ra chặn lại không cho vào. Quốc yêu cầu cho biết lý do và cho xem lệnh nhưng họ từ chối. Quốc yêu cầu lập biên bản nhưng họ không làm. Cuối cùng Quốc đành phải ra về, không nói chuyện được với HSP.

Tôi cũng thông báo vắn tắt tình hình của tôi cho người cháu của HSP biết để cậu ta về nói lại, xong cậu ta chào tôi bỏ đi ngay vì thấy 2 CA đang tiến lại gần. Yến nói chuyện với Thục xong trở ra và tôi chở Yến về nhà luôn, không đến HSP như dự định vì chúng tôi đã biết tình hình và chắc chắn đến HSP sẽ bị ngăn cản. Thục cũng kể cho Yến những việc xảy ra như người cháu của HSP đã kể với tôi, và cho biết CA cũng theo dõi Quốc như đối với tôi và HSP. Dù sao ngay trong ngày đầu tiên này chúng tôi cũng đã biết tình hình của nhau. Ðiều đáng tiếc là sau buổi kỷ niệm sinh nhật của HSP, 3 chúng tôi đã cảm thấy tình hình sắp căng thẳng, dự định gặp nhau để hội ý về cách phản ứng khi tình huống xấu xảy ra nhưng chúng tôi chưa làm được. Từ đây về sau chắc chúng tôi khó gặp nhau.


Thứ bảy 26/4/97

Khoảng 4g chiều tôi nghe tiếng chó sủa và tiếng ồn ào ngoài cổng. Tôi và Yến ra xem. Người đưa thư đang nói chuyện gì đó với M, CA đã chặn không cho Yến gọi điện thoại hôm qua. Tôi hỏi, bưu tá nói anh ta đến đưa thư và báo như thường lệ, nhưng có người xưng là CA chặn không cho, anh ta cũng ngạc nhiên. Lần này lại có một thư bảo đảm gởi cho tôi, đáng lý tôi phải ký nhận. Tôi bảo anh ta đưa cho tôi xem thư. Ðó là một phong bì lớn màu vàng ghi người gởi là ai tôi không biết, nhưng qua tem dán trên phong bì và dấu gửi bảo đảm thì là từ Ðức gửi đến. Tôi nói với bưu tá nếu anh ta không đưa tôi nhận thư anh ta phải chịu trách nhiệm vì không làm tròn trách nhiệm. Trong trường hợp do sức ép anh không dám đưa, anh phải mang thư này về giao lại cho lãnh đạo bưu điện và chúng tôi sẽ khiếu nại sau, bưu tá đồng ý.

Trong khi tôi nói chuyện với bưu tá, M đứng nghe và N cũng từ ngoài vào. N nói CA có lệnh chặn thư từ của tôi và chỉ cho nhận báo. Ðây là báo Tuổi Trẻ tôi đặt mua thường xuyên ở Bưu điện. Bưu tá nói ban đầu M còn chặn không cho đưa báo. Tôi phản ứng với 2 CA này và cuộc đấu khẩu lại nổ ra. Tôi thực sự tức giận và nhớ lại chuyện Nguyễn Hộ bị bao vây ngăn chặn ở Sài Gòn, có lẽ họ đang áp dụng biện pháp đó với tôi. Tôi nói CA làm kiểu này chẳng khác gì bọn xã hội đen vì thực ra chúng tôi cũng không biết các anh có phải là CA hay không. Tôi sẽ kiện các anh vì hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tự do công dân.

Bưu tá có vẻ sợ nên bỏ đi. Tôi dặn theo anh ta phải mang lá thư của tôi về Bưu điện. Chúng tôi cũng bỏ vào nhà vì tranh cãi với 2 CA này chẳng ích gì. Họ tỏ ra kiên quyết làm theo lệnh trên.

Vào nhà chúng tôi bàn bạc và dù đã hơi trễ, gần 5g chiều, chúng tôi quyết định lập tức lên Bưu điện khiếu nại. Chúng tôi thay quần áo lấy xe đi ngay. Không phải M và N mà 2 người khác không biết từ đâu bám theo chúng tôi.

Ðến trước sân Bưu điện, tôi vừa dựng xe thì bưu tá phát thư đường nhà tôi cũng vừa về đến. Tôi hỏi anh ta có mang thư của tôi về không, anh ta bảo lúc đi ra hẻm, 2 CA đã chặn lại buộc anh ta phải giao thư cho họ và họ ký nhận. Anh ta không dám chống lại CA nên đành để cho họ lấy thư. Tôi phản đối việc đó cho rằng bưu tá đã làm sai và phải chịu trách nhiệm. Lúc này nhiều bưu tá khác cũng lần lượt trở về bưu điện cuối buổi làm việc. Họ xúm lại hỏi và bình luận rôm rả. Có người nói CA cũng không có quyền lấy thư người khác và bưu tá cho CA nhận thư là ngu. Họ bảo tôi cứ vào khiếu nại với lãnh đạo Bưu điện. Nhiều người tụ tập làm ầm ĩ trước sân bưu điện. Tôi thấy 2 CA theo tôi đang gọi máy bộ đàm.

Tôi vào trong nói với một nhân viên bưu điện ngồi ở quầy yêu cầu gặp lãnh đạo có việc gấp quan trọng. Lúc này đã muộn, hơn 5g30, cô ta nói có lẽ cán bộ lãnh đạo đã về, nhưng tôi có thể gặp người thường trực. Tôi đồng ý. Cô ta vào báo và lát sau một bà khá lớn tuổi được giới thiệu là thường trực mời tôi vào một phòng nhỏ để nói chuyện. Tôi mới trình bày sơ qua thì cô nhân viên vào báo là bà phó giám đốc vẫn còn đây và mời tôi lên lầu làm việc. Tôi đi ra đã thấy có thêm 2 CA mặc sắc phục đang đứng gần Yến. Tôi bảo Yến đợi và đi theo cô nhân viên lên lầu. M từ đâu xuất hiện cũng đi theo.

Hai bà tiếp tôi tự giới thiệu đều là Phó giám đốc Công ty Bưu chính và Phát hành báo chí. Tôi trình bày sự việc. M xen vào tự giới thiệu, xuất trình thẻ CA và nói Bưu điện cần thiết xin làm việc với lãnh đạo CA. Tôi khẳng định hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật đã bảo đảm quyền tự do thư tín của công dân, CA làm như thế là vi phạm nghiêm trọng và Bưu điện phải làm rõ việc này theo đúng chức năng của mình. Hai bà Phó giám đốc cho biết đã nghe bưu tá báo cáo sự việc và đồng ý rằng trên nguyên tắc, CA không có quyền làm như thế. Tuy nhiên vì không rõ nội vụ nên Bưu điện sẽ làm văn bản yêu cầu CA giải thích và sẽ trả lời tôi sau. Tôi nói tôi đã đến đây trực tiếp khiếu nại, vì gấp nên tôi không làm văn bản được, nhưng tôi yêu cầu sau khi làm việc với CA, Bưu điện phải chính thức trả lời tôi bằng văn bản. Hai bà Phó giám đốc đồng ý. Tôi chào họ ra về.

Xuống lầu, tôi thấy Yến đứng đợi có vẻ hoảng sợ. Tôi chở Yến về. Yến kể hồi nãy Yến có chạy vội vào để gọi điện cho các con ở Sài Gòn định để báo tin cho các con biết, nhưng không hiểu tại sao gọi không được, lại thấy CA gọi máy liên tục và tăng cường thêm một số người mặc sắc phục làm Yến tưởng họ đến bắt tôi luôn. Tôi nói Yến yên tâm vì mình làm công khai theo đúng luật pháp cần gì phải sợ. Tuy nhiên qua vụ này, tôi thấy rõ guồng máy của CA đã chuyển động mạnh, siết chặt hơn, bất chấp luật pháp và họ có thể làm mọi chuyện khi họ cho là cần thiết.


27/4-3/5/97

Trong suốt một tuần lễ, chúng tôi ít khi đi đâu trừ vài lần ra phố mua sắm các thứ cần thiết vì CA giám sát quá chặt chẽ. Chính N tổ trưởng tổ CA chốt trước hẻm nhà tôi, thừa nhận ít nhất có 10 người trực tiếp theo dõi giám sát tôi, chưa kể số trinh sát ngoại vi. Tổ trước nhà tôi có 6 người, chia làm 3 ca, chúng tôi biết rõ tên từng người. Ca 1 có N và M, ca 2 có O và P, ca 3 có Q và R. Tất cả đều là sĩ quan cấp úy. Họ thay ca trực suốt ngày đêm. Ban đêm mắc võng ngủ ngay trong quán. Ðây là tổ trực tiếp, thường xuyên liên lạc với một tổ ngoại tuyến ở đâu đó trên đường Nguyễn Ðình Chiểu trước nhà tôi. Khi chúng tôi đi đâu, vừa ra khỏi hẻm, tổ trực tiếp điện báo, lập tức có 2 người trong tổ ngoại tuyến bám theo ngay. Chúng tôi không đến Quốc và HSP được, bạn bè người quen khác cũng tránh đến thăm vì sợ CA sẽ làm phiền họ, vả lại CA ở trước hẻm chặn không cho ai vào nhà tôi cả.

CA cố tình công khai giám sát chúng tôi. Họ chạy xe theo chúng tôi với khoảng cách gần. Khi tôi dừng xe, họ đậu sát ngay bên cạnh. Tôi đi bộ họ xuống xe đi theo. Cả Yến cũng bị họ theo dõi giám sát chặt chẽ không kém. Hàng ngày Yến vào chợ mua sắm họ cũng theo bén gót, đứng ngay bên cạnh để xem Yến có làm gì khác lạ không. Lúc nào cũng có 2 CA lảng vảng trước cổng trường. Các chủ cửa hàng ở khu chợ trước trường Yến thường đến mua sắm đều được CA răn đe cấm không cho Yến gọi nhờ điện thoại. Trong trường, Yến để ý thấy khi coi học sinh thi học kỳ, buổi đầu Yến được phân công coi chung với một giáo viên đã ghi tên trên lịch, nhưng sau đó lại đổi người khác là Đảng viên của chi bộ trong trường. Các buổi sau, Yến đều được phân công coi chung với các giáo viên là Đảng viên. Yến bực bội không sao chịu nổi.

Thời gian này N, cấp bậc đại úy, tổ trưởng tổ giám sát trước nhà tôi áp dụng phương thức tiếp cận tôi để tìm hiểu và tôi không né tránh. Hôm đầu tiên va chạm với anh ta, tôi có nói nếu cần tìm hiểu gì cứ vào nhà nói chuyện, tôi sẵn sàng tiếp, sau đó vài hôm, Yến đi nhà thờ về một mình, N chặn Yến nhắc lại chuyện đó và nói chị cho em vào thăm anh Cự và cũng để xin lỗi chuyện va chạm hôm trước. Yến trả lời bảo để vào hỏi ý kiến tôi đã. Tôi đồng ý, Yến ra nói lại và N vào ngay.

N khoảng 40 tuổi, cao, hơi gầy, khá đẹp trai, đôi mắt có lông mi dài, hơi giống một tài tử Hàn Quốc trong một bộ phim chúng tôi mới xem. N nói chuyện cởi mở và tỏ ra thân tình. N hỏi tôi có uống rượu không để lúc nào anh ta mang rượu và đồ nhắm xuống nhậu chơi. Tôi nói tôi chỉ uống café. Anh ta đòi uống và tôi sẵn sàng pha mời anh ta một tách.

Chúng tôi nói đủ thứ chuyện và khi đề cập đến những vấn đề chính trị gai góc thì N né tránh không tranh cãi. Anh ta tỏ ra tôn trọng tôi, gọi tôi là “tiền bối cách mạng” và biết rõ quá trình hoạt động của tôi. N cũng tự nói nhiều về mình. Anh ta khoe đã qua đào tạo các lớp trung cấp, đại học CA và nhiều khóa nghiệp vụ khác, công tác trong ngành hơn 20 năm. Vợ anh ta có bằng đại học ngoại ngữ đang làm ở một khách sạn chuyên tiếp khách nước ngoài. Hai vợ chồng có một con còn nhỏ. Anh ta đang dự định xin chuyển ngành. Anh ta không nói rõ nhưng tôi hiểu có lẽ ở lâu trong ngành nhưng không thăng tiến nên muốn chuyển.

N nói anh ta chỉ làm theo lệnh, ngoài nhiệm vụ ra, giữa chúng tôi và anh ta nên đối xử với nhau như giữa người và người, anh ta nhỏ tuổi hơn nên chúng tôi có thể xem anh ta như em. N nói chuyện nhiều và có vẻ thật lòng nhưng Yến nhắc tôi nên cảnh giác. Tôi bảo Yến tôi thấy anh ta có vẻ dễ thương và tôi chẳng sợ gì khi nói chuyện với anh ta cả. Anh ta tìm hiểu tôi khi tôi cũng làm ngược lại và tôi không dễ gì bị khai thác. Có lần anh ta nói nửa đùa nửa thật: Trời mưa gió đứng ngoài quán cũng khổ, chi bằng vào đây vừa được uống café ấm cúng, nói chuyện vui vẻ vừa tiếp cận được đối tượng. Tôi nói ngay tôi chẳng sợ ai tiếp cận.

Một buổi chiều trời sắp mưa thì N vào. Chúng tôi ngồi nói chuyện ở chiếc ghế trước hàng hiên. Anh ta hỏi tôi có ai mới đến thăm tôi không. Tôi bảo không. Trời bắt đầu mưa lắc rắc, tôi mời anh ta vào nhà nhưng anh ta bảo ngồi ngoài này một chút rồi đi ngay.

Nói thế nhưng N ngồi lại khá lâu. Mắt anh ta đỏ ngầu, miệng sặc mùi rượu và cách nói như một người say thật sự. N lảm nhảm mãi một câu: “Em buồn quá anh chị ơi. Em muốn có người tâm sự. Em không biết nói chuyện cùng ai. Em khổ tâm lắm”. Tôi hỏi buồn chuyện gì nhưng N không chịu trả lời ngay, cứ lảm nhảm câu đó.

Trời đổ mưa lớn. Tôi bảo N vào nhà, anh ta định bỏ đi nhưng rồi nghe theo. Anh ta vẫn tiếp tục điệp khúc của mình rồi chợt thố lộ: “Anh chị biết không. Suốt đêm qua em không ngủ vì cãi nhau với vợ. Từ ngày nhận nhiệm vụ giám sát anh chị, ban đêm em ít khi về nhà nên vợ em ghen, tưởng là em đi bồ bịch gì. Em đã giải thích là phải theo dõi giám sát một đối tượng quan trọng, nhưng vợ em không tin, bảo làm gì có nhân vật nào ghê gớm như thế. Chúng em thỉnh thoảng vẫn cãi nhau, nhưng lần này rất nghiêm trọng, vì giải thích gì vợ em vẫn không tin. Mà anh chị biết quá rõ em đang làm gì. Phải chuyện bồ bịch thì cũng cam, đằng này đêm mưa gió nằm võng ngoài quán lạnh thấy mẹ và muỗi cắn ngủ không được. Em sút mất mấy ký rồi đấy”. Ðang kể N bỗng to tiếng như tức giận: “Anh chị ở xó vườn này không hiểu đâu. Chuyện đời phức tạp lắm. Em chán lắm rồi. Em uống rượu suốt từ sáng đến giờ”.

Tôi thấy N có vẻ say thật nên bảo Yến đi pha cho anh ta ly nước chanh để uống giã rượu. Yến qua phòng bên cạnh, nơi vừa là phòng ngủ, vừa là phòng ăn, và là nơi sinh hoạt chính hằng ngày của chúng tôi để pha nước chanh. N lảo đảo đứng lên chạy theo bảo thôi chị Yến, em không uống đâu, rồi quay lại ghế ngồi. Lát sau Yến mang nước chanh ra, N ban đầu từ chối nhưng tôi ép anh ta cũng uống. Uống xong, N có vẻ tỉnh táo hơn. Chúng tôi nói chuyện đời một lúc rồi N cáo từ. Trời vẫn mưa lớn nên tôi cho anh ta mượn chiếc dù. Trước khi đi N còn hỏi lại có ai mới vào thăm không, tôi vẫn nói không có và không hiểu tại sao anh ta lại hỏi chuyện đó.

N đi rồi, Yến bảo tôi coi chừng anh ta giả bộ say để vào kiểm tra nhà mình đó. Anh ta từng khoe là đã tốt nghiệp khóa tình báo mà. Lúc nãy anh ta chạy theo em vào phòng ngủ là để xem có ai trong đó không. Tôi nghĩ chuyện N buồn và uống rượu vì cãi nhau với vợ là có thật, nhưng anh ta cũng có ý kiểm tra xem nhà tôi có người lạ không và điều này hơi khó hiểu.

Khoảng 15 phút sau, nghi vấn này được giải tỏa. N và 1 CA khác đội mưa vào đập cửa nhà tôi. N nói ngay: “Em hỏi thật anh chị nghe. Vừa rồi có ai lạ vào nhà anh chị không? Anh chị trả lời thật đi”. Tôi vẫn nói không. N tỏ ra bực bội: “Thế thì vô lý quá. Trung tâm báo cho em biết là có người vào. Nếu có mà em không báo cáo, Trung tâm sẽ cho là em bao che cho anh chị. Anh chị biết không, ngoài tụi em ra còn có bộ phận khác theo dõi nữa. Người ta nói rõ đó là một người đàn bà, hơi lùn.”

Tôi sực nhớ ra: “Hồi trưa phải không? À thì ra đó là cô hàng xóm. Cô ta sang mượn cái siêu sắc thuốc rồi về ngay, cô ta đâu phải là người lạ”. N thở phào có vẻ nhẹ nhõm: “Vậy thì được rồi. Nếu không tụi em phải chịu trách nhiệm phiền lắm”. N cám ơn và 2 CA lại kéo nhau đi dưới trời mưa. Chúng tôi thấy họ quả thật vất vả vì chúng tôi. Hơn một tuần qua đúng là không ai lạ vào nhà tôi cả. Nếu có chắc họ cũng đã bị chặn lại từ ngoài cổng mà chúng tôi không biết. Chỉ có lần một cậu thanh niên nhà nuôi bò sữa ở trong xóm vào xin cắt cỏ. Từ trước cậu ta vẫn thỉnh thoảng vào cắt cỏ trong vườn nhà tôi. Cậu ta kể cũng bị CA chặn lại, nói cho cậu ta biết tôi là kẻ phản động, viết báo chống đối chế độ cần phải cô lập, không được quan hệ. Cậu ta bảo tôi là trí thức, nhà văn nhà báo viết gì là quyền của tôi, cậu ta không biết, cậu ta chỉ vào cắt cỏ thôi. CA đã để cho cậu ta vào sau khi răn đe thêm một hồi.

Rõ ràng đây là một chiến dịch bao vây, ngăn chặn, cô lập, bôi nhọ, theo dõi và giám sát chặt chẽ, một kiểu quản chế không tuyên bố bằng cách vận dụng sức mạnh của bộ máy trấn áp. Tôi khó lòng phản ứng gì trước tình hình này nên tạm thời “án binh bất động”. Tôi đoán BMQ, HSP chắc cũng nghĩ và làm như thế.

Chủ nhật 4/5/97

Hôm nay Yến đi Bảo Lộc để thăm mẹ và các em dưới đó. Ðây là một vịệc rất phức tạp và tế nhị mà chúng tôi đã suy tính mãi. Ðáng lý theo dự tính Yến đã đi từ chủ nhật tuần trước nhưng đột nhiên xảy ra chuyện CA bao vây ngăn chặn nên chúng tôi bàn nhau hoãn lại một tuần xem tình hình ra sao. Yến cần đi vì phải mang tiền và thư của một cậu em bên Mỹ gởi về cho mẹ và các em ở Bảo Lộc. Chúng tôi không rõ khi Yến đi CA có ngăn chặn không, và suy tính xem lúc đó chúng tôi phải phản ứng như thế nào. Dứt khoát khi Yến đi thế nào CA cũng biết và chúng tôi chẳng vịệc gì phải lén lút. Tuy nhiên phải tính cách nào để khỏi lỡ việc. Chúng tôi quyết định trao đổi với N để thăm dò.

Mấy hôm trước trong một lần N vào nhà, tôi nói cho anh ta biết việc Yến dự định đi Bảo Lộc và phân tích: Ðáng lý chúng tôi không cần nói với anh việc này vì đây vẫn là quyền của chúng tôi. Tuy nhiên tôi muốn tránh trường hợp khó xử cho cả các anh lẫn chúng tôi. Giả dụ khi Yến ra bến xe mà các anh chặn lại, dứt khoát chúng tôi phản ứng mạnh. Như thế sẽ xảy ra một chuyện ầm ĩ ở bến xe đông người mà chắc các anh lẫn chúng tôi đều không muốn. Vậy ta xem thử có cách nào tốt hơn không.

N suy nghĩ một lúc rồi nói: Ðúng là không nên để xảy ra chuyện ầm ĩ ở chỗ đông người. Hay là thế này. Ðể em đi theo chị Yến và chị Yến sẽ giới thiệu em là em hay là bạn của anh Cự, em đến thăm cho biết gia đình chị Yến luôn.

Chúng tôi không tán thành giải pháp này vì như thế chúng tôi tự tước mất quyền tự do của mình, đồng tình để CA giám sát, dù thực ra Yến về thăm gia đình chẳng có gì bí mật. N tỏ ra thành thật khi muốn vừa làm được nhiệm vụ vừa không gây thương tổn cho chúng tôi. Trao đổi một lúc, cuối cùng N nói: Thôi để em suy nghĩ thêm và về xin ý kiến cấp trên. Chắc công việc sẽ được giải quyết tốt đẹp thôi, không có vấn đề gì đâu. Khi nào chị đi báo cho em một tiếng là được.

Sau khi bàn với N xong, chúng tôi quyết định là chủ nhật này Yến sẽ đi, không chấp nhận cho người của CA cùng đi, họ muốn theo dõi sao mặc họ và nếu họ ngăn chặn chúng tôi sẽ phản ứng mạnh.

8g sáng Yến đi, đến tối mịt mới về và bất chấp mệt nhọc, Yến kể ngay cho tôi mọi việc xảy ra.

Từ nhà Yến ra đường đang đợi kêu xe ôm thì N đến hỏi: “Chị Yến đi đâu để bảo M chở chị đi”, Yến ngần ngừ: “Bộ muốn chở đi để theo dõi hả?” N cười: “Ðằng nào tụi em cũng phải đi theo chị mà. Chị kêu xe ôm chi mất công”. Yến hỏi tiếp: “Có đi theo tôi xuống Bảo Lộc không?” N nói: “Làm gì có. Tụi em lo trên này thôi.” Yến hiểu là CA đã có cách theo khác.

Thế rồi Yến đồng ý để M chở ra bến xe. Trên đường đi Yến thuyết M một hồi và M chuyện trò tỏ ra hiểu biết, nói việc theo dõi chỉ là do nhiêm vụ bắt buộc thôi. Ðến bến xe, khi Yến lên xe ngồi thấy M gọi máy bộ đàm. Chắc là để báo số xe Yến đi để họ dễ bề theo dõi.

Ðến Bảo Lộc, Yến vừa vào nhà mẹ ngồi mấy phút thì có 2 người vào theo ngay. Một CA mặc sắc phục tự giới thiệu là CA khu vực và một người là tổ trưởng dân phố. Họ nói nghe bà cụ đau nên lại thăm. Họ vào tận giường mẹ Yến để nói chuyện khoảng 15 phút (thật tử tế!) và sau đó người xưng là tổ trưởng khu phố cáo từ, còn người CA kia thì ngồi lại nói chuyện này kia với cô em dâu của Yến. Nửa giờ sau, người tổ trưởng kia lại vào với 2 người nữa mặc thường phục, giới thiệu là bạn của anh ta cũng muốn vào thăm bà cụ (thật quá tử tế!). Yến đoán 2 người mới này là CA ở bộ phận khác. Họ hỏi chuyện Yến chỉ trả lời qua quýt. Họ ngồi khá lâu, quan sát chán rồi mới chào kéo nhau đi.

Khi Yến từ giã mẹ để về, ra đường thấy họ đứng trong một căn nhà bên đường, có lẽ để giám sát. Khi ra quốc lộ 20 để đón xe đò về Ðà Lạt, họ đứng bên kia đường, trong một quán bán báo để theo dõi cho đến khi Yến lên xe.

Yến khó chịu và rất căng thẳng chuyện họ theo dõi nhưng cuối cùng việc đi Bảo Lộc cũng xong. Ðành vậy chứ biết sao hơn.


9/5/1997

Hôm nay kỷ niệm sinh nhật Yến. Như mọi năm, lần này buổi chiều tôi cũng đưa Yến ra uống café ở nhà hàng Thủy Tạ. CA bao vây, theo dõi giám sát nhưng chưa cấm tôi đi lại nên chúng tôi vẫn đi khi cần. Chúng tôi ra phố mua mấy cái bánh ngọt và vào Thủy Tạ ngồi, gọi 2 tách café sữa. Chúng tôi vẫn thường kỷ niệm những ngày như thế này một cách riêng tư và đơn giản như thế. Chỗ chúng tôi quen ngồi là một bàn nhỏ hai ghế ở góc phải của nhà hàng. Tôi ngồi hướng ra hồ, Yến quay về phía trong nên qua cửa kính thấy rõ vườn hoa và con đường phía trước. Yến nói hai người theo dõi đang chạy lòng vòng bên ngoài quan sát. Thật khó mà thoải mái được trong hoàn cảnh này.

Từ nhiều năm qua, tôi có thói quen cứ đến những ngày kỷ niệm đặc biệt trong cuộc sống gia đình, tôi lại viết cái gì đó vào một cuốn sổ cho Yến đọc, nhưng mấy năm nay có khi lơi đi không viết. Hôm qua tôi lại lấy cuốn sổ cũ ra viết và chiều nay mang theo đưa cho Yến đọc. Yến mở cuốn sổ ra trong khi tôi lặng ngắm mặt hồ lúc hoàng hôn qua khói thuốc.

“Những ngày tháng gần đây là những ngày tháng chúng ta bị vây hãm. Trong hoàn cảnh đó tự nhiên chúng ta có nhau nhiều hơn, kề vai sát cánh, chung sức chung lòng để đối phó với nghịch cảnh.

Sự thực anh rất đau lòng khi có lúc hầu như em chịu đựng không nổi hay tỏ ra bi quan, chán chường. Có khi anh nghĩ hay là mình bỏ hết tất cả những chuyện đấu đá này đi vì thực ra việc mình làm có bao nhiêu hiệu quả. Cuộc sống này vốn vô thường và lịch sử sẽ trôi xuôi theo dòng chảy thiên thu trong đó từng con người chỉ là những hạt phù sa bé nhỏ.

Nhưng rồi anh nghĩ lại, chúng ta nào đã làm gì sai trái và chúng ta sẽ sống ra sao khi không dám trung thực với mình, thấy sai không dám đấu tranh, thấy đúng không dám bảo vệ. Nguyên nhân của hoàn cảnh này không phải tại chúng ta mà chính vì điều ác đang thắng thế và kẻ lương thiện bị đọa đày. Nào phải riêng chúng ta bất bình. Nào phải riêng chúng ta muốn sống cho ra con người.

Dĩ nhiên có nhiều cách sống nhưng mỗi người có cách lựa chọn phù hợp với bản tính và hoàn cảnh, quá trình của mình. Lẽ nào chúng ta nửa đường đứt gánh chỉ vì sợ hãi sức mạnh của bạo lực và ý muốn cầu an cho bản thân. Anh không suy nghĩ cho riêng anh mà cả cho em. Em không phải là người bất khuất sao. Em đâu có im lặng, đầu hàng trước sự bất công áp bức từ chính trong gia đình cho đến ngoài xã hội.

Sống là đấu tranh. Hạnh phúc là đấu tranh. Ðấu tranh theo nghĩa rộng nhất. Ðấu tranh với chính mình, với hoàn cảnh, mãi mãi trên con đường đi đến hạnh phúc và bình an đích thực, dù là con đường xã hội hay tâm linh cũng thế mà thôi.

Ðấu tranh có thể làm người ta căng thẳng và suy sụp hay giúp con người trở nên hào hứng, nhạy bén, mạnh mẽ và cao cả hơn. Ðiều đó tùy thuộc vào bản lĩnh và nhận thức của mỗi người. Xét cho cùng cuộc đời chỉ là một trò chơi lớn, sao ta không chơi cho hết mình đến tàn cuộc, còn kết quả ra sao ta cần gì phải bận tâm. Ðó là cái tất yếu sẽ đến.

Anh mong em có thêm niềm tin và sức mạnh. Một niềm tin nhỏ bằng hạt cát cũng có thể làm dời núi và ý chí con người khi đạt đến tột cùng sẽ trở nên vô địch, không gì khuất phục nổi. Chúng ta không muốn làm vĩ nhân, anh hùng nhưng chúng ta tin vào chân lý và sức mạnh của Ðấng Tối cao. Baba nói “Lực hướng dẫn các vì sao cũng sẽ hướng dẫn bạn” (The force guides stars guides you too). Có lực đó không, có Ðấng Tối cao không? Chúng ta tin là có sẽ có, nếu chúng ta chưa tự mình thể nghiệm được. Không phải là mê tín, cuồng tín. Niềm tin này chắc chắn tốt hơn tin vào quyền lực, tiền bạc hay chủ nghĩa này, lý thuyết nọ. Ðấng Tối cao xét cho cùng chính là điều Thiện, là Chân lý, là Tình thương, là Tự do, là Hạnh phúc đích thực đó thôi, nào phải là gì khác.

Trong những ngày tháng này chúng ta đã chia sẻ nhiều hơn và anh cảm thấy thương yêu em nhiều hơn. Mỗi khi em mỏi mệt, mỗi khi em bơ phờ, mỗi khi em đau đớn, mỗi khi em phiền muộn, mỗi khi em lo âu, mỗi khi em tức giận, mỗi khi em bực bội, anh đều thấy đau lòng dù không nói ra, và thấy mình có lỗi. Dù sao không phải tất cả là lỗi ở anh, dù anh có thể nhận lỗi tất cả về mình.”

Yến đọc xong ngồi lặng lẽ một lúc lâu rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Câu chuyện của chúng tôi chỉ xoay quanh tình hình đang bị bao vây và tình cảm, lo nghĩ đối với các con ở xa, thỉnh thoảng lại bị ngắt quãng khi Yến dõi mắt nhìn ra và nói cho tôi biết 2 người theo dõi đang làm gì bên ngoài.

Chúng tôi về nhà khi trăng mới lên. Trăng non không đủ soi sáng mặt hồ. Chỉ có những ngọn đèn cao áp phản chiếu lung linh dưới đáy nước lạnh lẽo.


Thứ ba 13/5/97

Hôm qua tôi nhận được giấy mời của UBND phường 9 yêu cầu tôi đúng 7g30 hôm nay đến trụ sở UBND phường để “làm việc về một số vấn đề an ninh trật tự ở địa phương có liên quan đến trách nhiệm của ông”.

Yến rất lo ngại trước giấy mời này. Có thể tôi sẽ bị quyết định quản chế theo nghị định 31/CP mới ban hành tháng trước mà đài, báo nước ngoài bình luận nhiều và chúng tôi biết rõ Nghị định đó chỉ nhằm đối phó với những người như chúng tôi. Cũng có thể tôi sẽ bị “đấu tố” theo một kiểu nào đó như người ta đã làm với Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội mà chúng tôi đã được nghe. Cũng có thể người ta sẽ áp dụng một biện pháp nặng nề hơn.

Yến lo có cơ sở vì mới đây, ngày 5/5/97 báo Nhân Dân có đăng một bài đả kích nêu đích danh tôi. Ðó là bài “Những luận điệu xuyên tạc giả dối” của Phan Chí Dũng. Bài báo mạt sát nặng nề các đài nước ngoài, tập trung vào các đài VOA, RFA (Châu Á Tự do) và RFI ([của Pháp) trong đó có đoạn:

“Bên cạnh đó trong những nỗ lực “cố đấm ăn xôi”, đài RFI cũng lải nhải phụ họa bằng cách lôi các nhà “trí thức ly khai” như Tiêu Dao Bảo Cự (in nhầm là Tiên Dao Bảo Lự), Bùi Minh Quốc, Hoàng Tiến... những người muốn quay lưng lại với sự nghiệp cách mạng và quyền lợi chung của nhân dân Việt Nam, những người tự giam trong ốc đảo tuyệt vọng tự coi mình là “rốn của vũ trụ”, những người phát ngôn với động cơ cá nhân - làm những tên lính xung kích chống Cộng”.

Khoảng mấy ngày sau, trong một buổi họp dân ở khu phố mà tôi không được mời dự, CA đã nêu vấn đề an ninh trật tự, nói rõ tôi là một thành phần phản động chống đối chế độ cần phải cảnh giác ở trong khu phố, đồng thời đã photo bài báo trên đây phát cho mỗi người dự họp một bản. Sau đó người ta còn cho đóng một câu khẩu hiệu ở cột điện xế hẻm vào nhà tôi với nội dung: “Cảnh giác phát hiện, kiên quyết đấu tranh, vạch mặt phần tử chống phá công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”.

Trong tình hình đang bị bao vây giám sát chặt chẽ, sự kiện trên cho thấy người ta đang tập trung toàn lực để triệt hạ tôi và rất có thể người ta không ngần ngại trước bất cứ biện pháp nào. Tôi an ủi Yến và nói dù sao tôi cũng đã sẵn sàng để đương đầu với bất cứ chuyện gì có thể xảy đến.

Tôi đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng như thế, nhưng sáng nay trên đường đi đến trụ sở UBND phường, ngang qua chợ và ngã tư Phan Chu Trinh, giữa cảnh ồn ào tấp nập, tự dưng tôi cảm thấy cô đơn vô cùng và thấm thía sự vô tình của đám đông. Chắc chắn không ai có, không ai hiểu và chia sẻ tâm trạng của tôi lúc này. Mọi người đang hối hả đi làm, ăn uống, mua bán, suy tính những chuyện riêng tư, không hề biết tôi đang chịu cảnh gì và vì đâu tôi phải chịu đựng. Ðây là lần thứ ba trong đời tôi có cảm xúc này. Lần đầu năm 1967 ở Huế lúc tôi còn là sinh viên, đang ở tù vì tội tranh đấu và mấy ngày Tết được đặc biệt ra ngoài để thăm bà con khi có người bảo lãnh. Cảm xúc đó chợt đến khi tôi đi một mình trên đường phố, lúc mọi người hối hả về nhà trong đêm giao thừa. Lần thứ hai vào năm 1989 ở Ðà Lạt, sau vụ Hội Văn nghệ Lâm Ðồng, tôi bị khai trừ Đảng và trục xuất ra khỏi cơ quan, một buổi chiều tôi đứng ở rạp Hòa Bình nhìn người xuôi ngược và suy ngẫm về thế sự. Ðó là cảm giác “rất một mình” đẫm vị đắng cay mà tôi đã ba lần nếm trải, nhưng lần này chỉ thoáng qua.

Tôi đến trụ sở UB phường. Tôi chưa nói gì nhưng một cô nhân viên chắc biết tôi nên mời tôi ngồi đợi. Lát sau có người vào mời tôi sang nhà kế bên, hình như là trụ sở của UB Mặt Trận phường, để làm việc, vì trụ sở UB đang lúc sửa chữa, xây dựng lại.

Tôi được đưa vào một phòng khá rộng, đã có hơn 10 người ngồi hai bên mấy chiếc bàn ghép lại. Ðầu phía cửa ra vào, chủ tịch UB phường ngồi. Họ mời tôi ngồi ở một ghế trống ở đầu bên kia. Chủ tịch UB bắt tay tôi và một vài người tôi đi qua cũng đưa tay bắt. Tôi ngồi vào ghế và tự nhiên nói đùa: “Ngồi đây giống chủ tọa hội nghị quá.” Họ nhìn nhau không nói gì. Tôi sực tỉnh nghĩ có lẽ họ coi tôi là bị cáo thì đúng hơn. Tôi đưa mắt một lượt nhìn mọi người. Hình như tất cả đều là cán bộ hưu trí. Tôi biết một số người trong họ. Họ đều nguyên là cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy, các ban ngành của tỉnh và các sĩ quan cấp tá. Có một người nguyên là Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy. Ðây là thành phần nòng cốt gạo cội của Ðảng, khi về hưu vẫn được bố trí giữ các chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương để bảo đảm quyền lãnh đạo của Ðảng ở cơ sở. Trước mặt một số người có đặt một tập tài liệu tôi thoáng thấy có tiêu đề các bài viết của tôi. Trước đây tôi có nghe là Tỉnh đã chỉ đạo cho photo lại tất cả các bài viết của tôi, HSP và BMQ, mỗi người có một tuyển tập dày đến mấy trăm trang và đưa cho các cán bộ từ tỉnh ủy viên trở lên nghiên cứu (kể cả cán bộ tại chức và đã nghỉ hưu). Chúng tôi đã suy đoán là thế nào cũng sẽ có một cuộc đấu giữa họ và chúng tôi, nhưng chưa rõ họ sẽ tiến hành cách nào. Về phần chúng tôi, chúng tôi rất muốn có một cuộc tranh luận công khai về mặt lý luận, nhưng điều này chắc họ không dám làm. Bây giờ có lẽ họ nhắm vào tôi trước và tập trung những cán bộ có cỡ đang ở trong phường để làm việc này.

Sau thủ tục trà nước, chủ tịch UB đứng lên tuyên bố lý do. Ðây là cuộc họp liên tịch của Ðảng, Chính quyền, Mặt trận của Phường 9 và khu phố Nguyễn Ðình Chiểu, nhằm góp ý cho anh Bảo Cự là một công dân ở trong phường. Thời gian vừa qua anh Bảo Cự đã có những hoạt động, chủ yếu là viết bài, trả lời phỏng vấn các đài báo nước ngoài với nội dung có hại cho an ninh quốc gia và CA đã tiến hành điều tra làm rõ. Mới đây, ngày 5/5/97, báo Nhân dân cũng đã có bài viết về việc này. Cuộc họp này có mục đích đóng góp ý kiến xây dựng để mong anh Bảo Cự tiếp thu chân thành và sửa đổi. Việc góp ý đồng thời cũng là cảnh cáo trước khi quá muộn, trước khi xử lý bằng pháp luật. Cách làm là mọi người góp ý trước, anh Bảo Cự sẽ tiếp thu sau.

Chủ tịch UB đưa mắt nhìn tôi khi nhấn mạnh lần nữa về cách làm. Chắc anh ta ngại tôi tranh cãi ngay sẽ gây lộn xộn. Tôi đồng ý. Tôi sẵn sàng ngồi nghe họ nói để xem thái độ và sự quy kết của họ ra sao trước khi phản ứng. Tôi bình tĩnh nghe và ghi vắn tắt ý kiến của từng người vào mấy trang giấy trắng của cuốn lịch nhỏ mang theo. Sau đây là ý kiến của họ:

Cán bộ 1:

Tôi phụ trách khu phố anh Bảo Cự ở, sát tình hình nên xin phát biểu trước. Qua theo dõi, thấy anh BC cũng có đóng góp các mặt cho khu phố nhưng ít khi đi họp nên bà con không đồng tình. Về chủ trương xây dựng cuộc sống mới, bảo vệ an ninh tổ quốc ít tham gia nên ít hòa nhập, ít hiểu dân.

Trước đây anh BC đã từng vi phạm pháp luật trong quan hệ với người nước ngoài. Nghiêm trọng hơn là đã viết nhiều bài đưa ra đăng tải ở đài, báo nước ngoài. Cụ thể là báo Thông Luận 6 bài, báo Thiện Chí 3 bài, báo Tự Do 2 bài, báo Diễn Ðàn 3 bài, đài VNCR 8 bài và làm cộng tác viên cho đài này.

Việc làm này đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, các đài báo nước ngoài là những công cụ chống chế độ, chống dân tộc. Những bài viết của anh BC có sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lịch sử và công sức của nhân dân. Nếu anh BC có thiện chí có thể góp ý xây dựng Ðảng nhưng đây không phải là xây dựng. Anh BC làm như thế là đã tự phủ định quá khứ của mình.

Cán bộ 2:

Anh BC ít tham gia vào cuộc vận chung ở địa phương. Anh viết bài “Hòa giải hòa hợp” là lộn sòng, có tội vì cho rằng ngày 30/4 là ngày quốc hận. Anh còn viết nhiều bài khác nói xấu Ðảng và Bác Hồ. Tuy thế hôm nay chúng tôi đóng góp ý kiến cho anh là trong tinh thần người nhà với nhau.

Cán bộ 3:

Tôi đóng góp cho anh BC với tính chất rất gia đình, có tình thương của những người cùng dòng máu.

Tôi đã từng gặp anh BC cách đây 20 năm lúc tiếp quản thị xã Bảo Lộc tại nhà của đồng chí Bí thư chi bộ nội thành. Theo tôi hiểu, anh là một sinh viên, một trí thức yêu nước, có một ít công lao trong việc giải phóng Lâm Ðồng. Anh đã được Ðảng đào tạo, cất nhắc từ cán bộ xã lên huyện, lên tỉnh. Tại sao từ 1989 anh lại quay ngoắt chống Ðảng một cách ác liệt.

Anh đã viết 4 bài gởi cho báo Người Sài Gòn (?), 1 tờ báo đại phản động đã định lật đổ Nhà nước từ 92-93 (?). Chính anh đề xuất tách người cầm quyền vô đạo ra khỏi đất nước, khỏi sự đồng hóa với đất nước để tiêu diệt. Làm như thế không khác gì luật 10/59 của Diệm để triệt tiêu Cộng sản.

Anh cho 2 cuộc chiến tranh là nội chiến, không thấy ai là kẻ xâm lược, ai yêu nước, ai bán nước. Anh hiểu sai về Bác Hồ, khi người ta nói Bác Hồ là vị cha già của dân tộc, anh chỉ hiểu theo nghĩa đen (?).

Anh là con người vô cùng bội bạc vì trước đây anh đã từng công tác nay lại xoáy vào Bác Hồ, vào đồng chí, vào tim của chúng tôi.

Anh nói gì về ngoại đạo (?). Ðạo chung nhất của dân tộc là đạo làm người. Một sĩ quan chế độ cũ còn đối thoại được với Bùi Tín.

Anh BC ơi, anh hãy quay đầu lại đi.

Cán bộ 4:

Tôi xin phân tích một ý trong bài “Thư ngỏ gởi những người Cộng sản Việt Nam”, anh BC nói rằng Ðảng và Bác Hồ lựa chọn con đường XHCN đã mang lại thảm họa cho dân tộc. Nói như vậy là đổi trắng thay đen, vì con đường đó cũng chính là do nhân dân lựa chọn. Rõ ràng công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN. Nói như vậy là có tội với dân tộc, với những người đã hi sinh.

Anh BC đã thóa mạ, hạ thấp chân dung, hình tượng của Bác Hồ trong khi đề cao HSP là biểu tượng trí tuệ của dân tộc.

Nói như thế là phản bội tổ quốc, phản bội dân tộc, ngay người dân bình thường cũng không nghe được. Anh BC cần thành tâm suy xét, cải sửa.

Cán bộ 5:

Anh BC đã tự mình đối lập với mình nên đi sai đường lối, phản bội đồng chí, những người cưu mang mình và cả dân tộc, trở thành một bồi bút, cộng tác viên cho đài báo nước ngoài.

Anh viết không khác gì Bùi Tín, Bảo Ninh, đánh lộn sòng chiến tranh cách mạng với nội chiến.

Anh nói sai việc không thực hiện di chúc của Bác Hồ vì Ðảng và Nhà nước có miễn thuế cho dân(?). Nếu dân biết anh thóa mạ Bác Hồ sẽ đến hỏi tội.

Anh đã là Đảng viên CS nhưng chưa hiểu CS, là một người dân nhưng chưa hiểu dân. Chúng ta xấu hổ vì có một người dân trong phường như thế. Lập trường tư tưởng không vững vàng đã dẫn đến sai lầm, vợ con cũng không đồng tình. Anh chưa chắc đã là trí thức vì trí thức không làm như thế.

Cán bộ 6:

Tôi có thời gian cùng công tác 2 năm với anh BC ở Bảo Lộc. Thời gian đó anh rất tốt và năng nổ. Bây giờ tại sao anh đi quá xa, phản bội lại bản thân và quá khứ. Tại sao anh cho 2 cuộc chiến là nội chiến, khinh mạn Bác Hồ. Nội dung các bài báo của anh là phản động, kích động. Tôi mong rằng anh đừng để con cái phải ân hận.

6 người trên phát biểu mất hơn một tiếng đồng hồ, người nào cũng có chuẩn bị ý kiến sẵn trên giấy, có người viết hẳn thành bài nói. Tôi bình tĩnh ghi ý kiến của họ và những ý kiến phản bác của mình. Ðến đây 1 cán bộ nguyên có chức vụ cao nhất mà tôi đoán là người thực sự chủ trì buổi gặp mặt này, yêu cầu ngưng góp ý để tôi có ý kiến tiếp thu, sau đó sẽ góp ý kiến tiếp.

Trong khi nghe tôi đã suy nghĩ về thái độ và cách trả lời của mình. Trong số những cán bộ đã phát biểu, chỉ có một người có thái độ và lời nói gay gắt, còn những người khác tuy cũng có những ý kiến phê phán nặng nề nhưng thái độ hòa nhã, có ý coi tôi là đồng chí cũ, nay sai phạm nên muốn cảnh tỉnh, lôi kéo chứ không tỏ ý thù địch. Có lẽ họ đã thống nhất về điểm này. Tôi biết các Đảng viên kỳ cựu này rất tức giận, cảm thấy bị xúc phạm và thương tổn khi đọc các bài viết của tôi, nhất là các bài tôi viết về Ðảng, Bác Hồ và cuộc chiến tranh đối với họ là thiêng liêng, thần thánh. Tôi quyết định vẫn bảo vệ chính kiến của mình nhưng nói với lời lẽ ôn hòa, có tính cách tranh thủ, tránh đối đầu căng thẳng với họ. Tôi nói:

Tôi cám ơn thiện chí và tình cảm của các ông dành cho tôi trong buổi nói chuyện này dù một số ý phát biểu phê phán khá nặng nề. Tôi hiểu các ông tự cho mình là những người yêu nước và tôi cũng tự nhận mình là người yêu nước. Do đó nếu có thể, chúng ta thống nhất với nhau về lòng yêu nước và ý hướng xây dựng tổ quốc. Tuy nhiên tôi với các ông khác nhau về nhận thức. Các ông vẫn giữ quan điểm gọi là chính thống của Ðảng từ trước đến nay, nhưng tôi nhìn nhận lại tất cả, không chấp nhận giáo điều và không né tránh bất cứ vấn đề gì.

Trước khi đề cập những vấn đề chính mà các ông vừa phê phán, tôi muốn đính chính vài điểm mà các ông hiểu về tôi không chính xác khi đọc các bài viết của tôi. Tôi không nói “ngày 30/4 /75 là ngày quốc hận” mà tôi nói đại ý dù ngày 30/4/75 được xem là ngày quốc hận hay ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất tổ quốc, thì ngày đó cũng là một mốc dấu lớn của lịch sử Việt Nam. Tôi không hề hiểu câu “Bác Hồ là vị cha già của dân tộc” theo nghĩa đen mà tôi cho cả nghĩa bóng hay nghĩa đen đều không chấp nhận được. Nghĩa đen vô lý vì khi có câu này, ông Hồ mới hơn 50 tuổi, còn nghĩa bóng cũng không nên nói như thế vì đó là cách nói sùng bái quá đáng. Ðối với các vĩ nhân, theo tôi chỉ nên nói đó là “người con vĩ đại của dân tộc”. Lịch sử Việt Nam có rất nhiều vĩ nhân và ngay cả Tổ Hùng Vương mà cũng chưa ai gọi là “cha già của dân tộc”. Có người nói tôi gởi 4 bài cho báo Người Sài Gòn. Thực ra tôi chỉ giữ 4 tờ báo Người Sài Gòn mà CA đã thu giữ. Theo tôi biết, hình như báo này có đăng một bài của tôi dù tôi không gởi. Tôi không viết gì về chuyện “ngoại đạo” cả mà tôi chỉ đề cập đến khái niệm “nhà cầm quyền vô đạo”.

Các ông đã phê phán tôi về nhiều vấn đề quan điểm. Ở đây tôi chỉ nói những điểm chính vì trong cuộc làm việc này chắc không đủ thời gian.

Trước hết tôi không phủ định quá khứ vì quá khứ là việc đã qua, muốn phủ định cũng không được. Vấn đề là nhìn nhận lại khi đã có độ lùi lịch sử, nếu thấy sai phải biết ăn năn sám hối và sửa chữa.

Về con đường XHCN gây ra thảm họa, sự sụp đổ của CNCS ở Liên Xô và Ðông Âu là một minh chứng. Sự sụp đổ này không phải do các nước đế quốc thù địch đánh phá mà là một sự sụp đổ tự thân, do những mầm mống nội tại. Lịch sử đã cho thấy CNCS ở các nước đó cũng đầy dẫy bất công áp bức, máu và nước mắt. Còn ở Việt Nam chúng ta, để tự cứu, Ðảng CS đã phải chấp nhận chuyển sang kinh tế thị trường là phương thức của CNTB, hoàn toàn đối lập với phương thức chỉ huy, bao cấp của CNCS.

Tôi viết về Bác Hồ ở một vài khía cạnh không phải là để mạ lỵ, bôi nhọ mà là để chống sùng bái cá nhân. Lịch sử loài người từ đông sang tây, từ cổ chí kim cho thấy sùng bái cá nhân chỉ đưa đến độc tài, sai lầm và tai họa. Con người ai cũng có thể có sai lầm, dù là vĩ nhân cũng không phải thần thánh. Những nhân vật lịch sử sẽ được lịch sử phán xét công bằng.

Ðối với cuộc chiến tranh chống Mỹ, tôi không cho đó là nội chiến, nhưng tôi viết dù được quan niệm như thế nào, cuộc chiến tranh đó vẫn có tính cách nội chiến vì người Việt đã giết nhau trên chiến trường và hận thù nhau trong tim óc. Dù lịch sử đã qua nhưng hiện nay chúng ta có quyền suy nghĩ về cách giải quyết và cái giá phải trả cho cuộc chiến đó.

Tôi đã suy nghĩ và lật lại nhiều vấn đề không phải là phản bội bản thân, phản bội quá khứ, mà chỉ là muốn trung thực với mình khi nhìn nhận lại mọi việc, không vì những hào quang quá khứ hay vì sĩ diện, lòng tự tôn tự ái hay quyền lợi mà tiếp tục tự lừa dối mình, lừa dối người khác.

Tôi cộng tác với các đài báo nước ngoài không phải là chống lại dân tộc, chống lại đất nước mà chỉ vì muốn công bố những quan điểm tư tưởng của mình khi trong nước không có tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ðó chính là vì dân tộc, vì đất nước. Hơn nữa lợi ích của dân tộc có nhiều vấn đề chưa chắc đã là lợi ích của Ðảng dù Ðảng vẫn cho là như thế. Thực tế cho thấy đường lối chính sách của Ðảng có nhiều vấn đề khác với thực tiễn và lời nói không đi đôi với việc làm vẫn thường xảy ra.

Tôi chỉ là một cá nhân nhỏ bé, trí tuệ hạn hẹp, những điều tôi viết có thể đúng, có thể sai nhưng viết ra, nói lên quan điểm của mình về những vấn đề chung của đất nước là quyền tối thiểu của mọi người công dân trong một nước dân chủ. Tôi không làm chính trị hiểu theo nghĩa chính trị chuyên nghiệp. Tôi chỉ là một người tự do tư tưởng có quan tâm đến số phận của đất nước mình. Thế thôi. Ðó không phải là tội lỗi gì.

Trong khi tôi nói, có người nhíu mày, có người gật gù tỏ vẻ đồng ý ở một vài điểm. Tôi biết thuyết phục những người này không phải dễ, nhưng họ nói quan điểm của họ, tôi nói quan điểm của tôi và tôi chứng tỏ tôi không hề sợ hay bị khuất phục trước áp lực và lý lẽ của họ.

Sau khi tôi nói xong, chủ tọa đề nghị nghỉ giải lao vài phút trước khi làm việc tiếp. Lúc ra ngoài, cán bộ nói đã gặp tôi hơn 20 năm trước, hồi mới giải phóng, đến nói chuyện với tôi. Ông ta nhắc lại vài chuyện cũ và tôi nhớ ra lúc đó ông là lãnh đạo CA của thị xã Bảo Lộc. Ông năm nay đã hơn 70 tuổi. Ông vỗ vai tôi tỏ vẻ thân tình: “Anh Cự à, đừng vì giận quá mà nói quá lời không hay. Tôi cũng vậy, nhiều khi giận con cái hay bạn bè, tôi nói hay viết thư lời lẽ quá đáng nhưng sau đó nghĩ lại tôi thấy mình không đúng. Cái gì cũng có nguyên nhân và hoàn cảnh của nó. Nhiều khi chủ quan nôn nóng không được đâu. Sống phải biết chờ đợi.”

Tôi chưa hiểu gì về ông ta nhưng tôi thấy đó là lời khuyên chân tình của một người già đã từng trải, có phần có lý. Tôi đồng tình với ông nhưng nói thêm: “Dù sao cũng cần phải nói thật, nói thẳng.”

Giải lao xong, vào làm việc tiếp, cán bộ nguyên có chức vụ cao nhất phát biểu trước. Ông đứng lên và cầm một xấp giấy có bài soạn sẵn nhìn vào để nói.

Cán bộ 7:

Trước hết, tôi hoan nghênh anh BC đã đến và đã chịu lắng nghe chúng tôi nói. Ðó là điều đáng mừng vì tôi lo có thể anh không đến hay không chịu nghe. Những điều chúng tôi nói ở đây là đấu tranh với tinh thần xây dựng. Anh đã ghi nhận tình cảm và thiện chí của chúng tôi nhưng có ý lệch.

Anh tự xưng là người yêu nước, yêu nước tại sao lại viết bài cho đài, báo phản động nước ngoài. Thành tích của Ðảng CS là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước tại sao anh cho là mang lại thảm họa. Nhân dân biết ơn Ðảng, anh lại cho là Ðảng bắt nhân dân tụng đọc, ghi khắc công ơn của Ðảng. Bác Hồ là một vĩ nhân của dân tộc và nhân loại được cả thế giới và UNESCO tôn vinh, anh thấy khó nhưng vẫn xuyên tạc. Anh đã thiếu nhìn thẳng vào sự thật.

Khi trả lời phỏng vấn của báo Diễn Ðàn, anh nói đó là bi kịch lịch sử, tội ác của nhà cầm quyền. Anh thử nghĩ xem, ai là kẻ đày đọa nhân dân Việt Nam? Chính là đế quốc xâm lược. Thế mà anh nói đó là cuộc nội chiến phân ly và bi thảm. Nói như thế là quên mất lịch sử.

Anh viết hai câu đau lòng: “Quốc gia chiêu hồi, CS kêu gọi trở về với nhân dân.” Viết như thế là bênh vực, bao che kẻ thù, phỉ báng dân tộc, vu cáo những người CS. Tại sao anh dám nói những người lãnh đạo VN lưu manh, khôn vặt khi đó là những người đã hi sinh suốt đời mình cho sự nghiệp cách mạng.

Ðảng ta nói khép lại quá khứ chứ không xóa bỏ hận thù (?). Ðảng không nói dân di cư, di tản là phản động nhưng không ai được tiếp tay, nối giáo cho giặc.

Anh xúc phạm Bác Hồ khi cho rằng những câu nói của Bác Hồ người bình thường cũng nói được và so sánh Bác Hồ với vua chúa thời xưa.

Anh nói Ðảng coi nhân dân như một bầy cừu là không đúng, lật ngược chân lý.

Anh chống tham nhũng, đòi dân chủ là đúng, nhưng làm phải có nguyên tắc, không được bừa bãi.

Anh nói chính sách đại đoàn kết của Ðảng là bánh vẽ, lừa mị, vậy thì anh nghĩ sao về trường hợp Ðảng đối xử với các ông Phan Kế Toại, Huỳnh Thúc Kháng.

HSP là một người phạm tội đã bị tù anh lại cho là thần tượng, ở tù về anh còn viết bài khuyến khích.

Viết về tình hình xã hội, bão lụt, anh đã lợi dụng để vu cáo, nói xấu Ðảng và Nhà nước. Anh có quyền đấu tranh nhưng không được lợi dụng, không được lấy hiện tượng đè lên bản chất để nói xấu chế độ.

Nhiều người có công như Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính nhưng sai trái vẫn bị trừng trị. Nhà nước cắt điện thoại, không cho anh tự do đi lại là cốt để ngăn chặn hành vi sai trái của anh.

Anh đã nhận một số tiền của các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài. Anh không chủ trương bạo động, lật đổ nhưng âm mưu diễn biến hòa bình như ở Liên Xô, Ðông Âu.

Anh không phải yêu nước mà là có tâm địa độc ác. Anh nói anh trung thực, yêu nước tại sao lại nhận 4 tờ báo Người Sài Gòn. Anh không những vi phạm pháp luật mà còn quay lưng lại với bản thân. Ðó không phải là yêu nước và trung thực.

Chúng tôi mong anh có những suy nghĩ mới. Ðảng sẵn sàng khoan dung độ lượng nếu anh biết ăn năn hối cải.

Cán bộ 8:

Cuộc họp hôm nay là việc làm cần thiết thể hiện tình nghĩa và truyền thống dân tộc đối với anh. Ý kiến anh tiếp thu vừa rồi chưa thể hiện được mục đích yêu cầu của cuộc họp.

Anh đã lẫn lộn bản chất với hiện tượng, làm nhiễu dư luận xã hội.

Anh có nhận thức mơ hồ chung quanh sự sụp đổ của Liên Xô và Ðông Âu. Ðó là sai lầm của các Ðảng CS đó.

Kinh tế thị trường là phương thức vận dụng chứ không phải bản chất của CNXH. Anh cho rằng đổi mới phải tự lột xác. Nói như thế là không xây dựng. Ta đổi mới chứ không đổi màu.

Anh viết nhiều về HSP có hàm ý gì. HSP do chế độ đào tạo, nuôi dưỡng nhưng lại phạm sai lầm. Anh cho rằng Ðảng không phải là Ðảng trí tuệ, tất yếu sẽ bị đào thải. Bề ngoài anh có vẻ xây dựng Đảng nhưng động cơ không phải vậy. Anh bất mãn dẫn đến sai lầm từ khi không còn là Đảng viên.

Cán bộ 9:

Cuộc họp này là tiếng nói của nhân dân ở cơ sở, cho thấy những người dân bình thường cũng hiểu được tâm địa của anh.

Anh chống sùng bái cá nhân nhưng gắn với Bác Hồ là không đúng.

Mong anh có thể tiếp thu những ý kiến trong cuộc họp này và có thể có nhiều cuộc họp nữa.

Cán bộ 10:

Anh nói có nhiều bài anh không gởi ra nước ngoài nhưng bạn hữu của anh gởi. Trong các bài viết anh không nêu cái tốt, chỉ nêu cái xấu là có ý đồ. Anh đã từ sai lầm này dẫn đến sai lầm khác. Anh nên dừng lại, tự kiểm điểm và nhận lỗi với nhân dân khu phố.

Cuộc họp đã kéo dài đến gần trưa. Cán bộ nguyên có chức vụ cao nhất yêu cầu tạm dừng và sau này có thể sẽ tổ chức gặp nữa. Ông nói thêm: “Chúng tôi không coi anh là phản động như Bùi Tín nên sẽ còn tiếp tục đối thoại với anh.”

Mọi người muốn chấm dứt, nhưng ông yêu cầu tôi phát biểu tiếp thu tiếp trước khi ra về sau khi mới nghe thêm một số ý kiến nữa.

Tôi đã biết rõ thái độ và ý đồ của họ trong cuộc họp này. Họ muốn vừa trấn áp vừa thuyết phục lôi kéo, đồng thời nói cho hả giận vì họ rất phẫn nộ khi nghiên cứu các bài viết của tôi.

Tôi nói:

Nhận thức hiện nay của tôi không phải mới có mà đã có từ năm 89 sau vụ Hội Văn nghệ Lâm Ðồng, ngay từ khi còn ở trong Ðảng.

Tôi không phải nói xấu tất cả những người CS. Tôi biết vẫn có những người CS tốt và hiện nay Cán bộ, Đảng viên vẫn còn những người khổ.

Tôi chỉ thực hiện quyền tự do tư tưởng của mình, không có gì vi phạm pháp luật và tôi không bao giờ khuất phục trước bạo lực, tôi chỉ khuất phục chân lý.

Những ý kiến của tôi mà các ông trích dẫn để phê phán, nhiều ý đã không được trích dẫn trong toàn văn cảnh để hiểu đúng ý của người viết.

Tôi yêu cầu sự lãnh đạo của Ðảng phải thông qua bầu cử dân chủ thực sự, được sự chấp nhận của nhân dân.

Tôi không còn là Đảng viên, tôi không đấu tranh trong Ðảng nữa mà thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Tôi sẵn sàng tham dự những cuộc đối thoại khác nếu thực sự có đối thoại.

Vì đã hết giờ tôi không tiện nói nhiều. Mọi người sửa soạn ra về. Một số bắt tay chào tôi vui vẻ.

Tôi nghĩ cuộc họp này như thế cũng tạm được. Họ chưa làm kiểu đưa ra dân để “đấu tố” tôi. Nếu họ làm kiểu đó tôi sẽ phản ứng khác. Còn nếu họ tiếp tục mời tôi nữa theo kiểu này tôi sẽ nói nhiều hơn, đối đáp tức khắc với ý kiến từng người, sẵn sàng đối phó với kiểu xa luân chiến của họ. Tôi không bao giờ sợ tranh luận, ngay cả khi với đa số.


Nửa sau tháng 5/97

Vài ngày sau buổi làm việc tại UB phường trên đây, CA thay đổi phương thức theo dõi, giám sát. Chốt trực tiếp trước cổng được giải tỏa, nhưng họ lại lập một chốt mới ở nhà phía trước nhà tôi, bên kia thung lũng nhỏ. Từ nhà đó có thể nhìn sang nhà tôi rất rõ, quan sát thuận lợi việc chúng tôi đi lại cũng như khách khứa vào nhà. Mỗi lần chúng tôi đi đâu, người ở bên nhà phía trước gọi máy thông báo và một tổ khác ở trên đường Nguyễn Ðình Chiểu lập tức cho người bám theo.

Một lần tôi đi trên đường NÐC gặp ông Huyên. Ông này trước là Phó Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, sau đó chuyển sang làm Giám đốc Ðài Phát thanh và Truyền hình Lâm Ðồng, nay mới về hưu. Tôi biết ông từ lúc mới lên Ðà Lạt làm ở Hội Văn Nghệ vì cùng sinh hoạt chi bộ ở Ban Tuyên huấn lúc HVN chưa có đủ Đảng viên để thành lập chi bộ riêng. Ông Huyên tính tình hiền lành và tư tưởng khá cởi mở. Mấy năm trước, tôi biết ông đã từng đọc cuốn Nửa đời nhìn lại của tôi.

Tôi đứng nói chuyện với ông Huyên bên đường một lúc. Ông nói Ban Tuyên huấn có đưa cho ông xem bài “Tiếng vọng lẻ loi và Tự do báo chí” của tôi để tham khảo ý kiến của ông. Ông trả lời họ: “Ðọc bài đó xong, không hiểu bản chất thế nào chứ hiện tượng thì Bảo Cự nói đúng”. Ông cho biết thêm mới rồi có người lại yêu cầu ông tham gia vụ “đấu” tôi. Ông từ chối và nói: “Việc gì phải làm vậy. Cứ mời lên làm việc và trao đổi thẳng thắn. Nếu Bảo Cự nói đúng thì Ðảng nên nghe, nếu nói sai thì thuyết phục, như thế có phải hay không?” Ông mời tôi lúc nào rảnh vào nhà ông chơi. Nhà ông ở trên đường NÐC, cách nhà tôi khoảng vài trăm mét nhưng lâu nay tôi ít khi đến thăm ông. Tôi cảm thấy yên lòng khi gặp được một cán bộ như ông, tiếc là ông đã về hưu.

Có lần Yến và tôi gặp chị Ðức, vợ anh bạn Võ Quang Nghĩa của chúng tôi đã qua đời, người đã cùng đi đón HSP cuối năm ngoái. Chị Ðức vẫn thường lui tới với chị Biên, vợ HSP và cô Thục, vợ BMQ. Chị Biên cho biết HSP và BMQ thời gian qua cũng bị giám sát chặt chẽ tương tự như tôi. Riêng HSP, thỉnh thoảng lại được lãnh đạo Sở CA mời lên gặp để “tâm sự”.

Chị Ðức có một cô bạn là cán bộ ở gần nhà tôi. Cô này nói với chị Ðức những chuyện về tôi như CA đã tuyên truyền trong khu phố và cho biết CA có lần đã lẻn vào nhà tôi nhưng không tìm thấy gì. Ðiều này làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Trước đó có người trong xóm cũng đã kể nghe CA nói chuyện với nhau cũng nói về việc họ lẻn vào nhà tôi, nói rõ cả cách họ cạy cửa mở khóa như thế nào lúc chúng tôi đi vắng. Tôi thấy chuyện này thật vô lý. Họ lẻn vào nhà tôi để làm gì khi họ có thể công khai lấy lệnh khám xét. Ðây lại là một việc làm phi pháp, gây tai tiếng, tại sao họ lại còn nói ra cho mọi người biết. Hay chỉ là một cách tung tin để hù dọa chúng tôi? Chúng tôi không thể hiểu hư thực như thế nào. Yến đã xem xét lại các cửa nhưng không thấy dấu vết cụ thể, tuy vậy mỗi lần chúng tôi đi đâu vắng nhà Yến lại làm các dấu ở các cửa.

Hồi trước ngày sinh nhật HSP, tôi và BMQ nói chuyện, cảm thấy tình hình căng thẳng, chúng tôi định sẽ soạn thảo một văn bản chung, nếu chúng tôi bị trấn áp, sẽ tung ra dư luận. Tuy nhiên chúng tôi chưa kịp làm thì đã bị chia cắt, bao vây, ngăn chặn. Bây giờ tôi nghĩ riêng mình cũng phải chuẩn bị một cái gì, nếu không lúc tôi bị bắt sẽ không trở tay kịp. Tôi thảo sẵn 2 văn bản “Tôi bày tỏ” và “Tôi phản đối” sau đây để sử dụng khi cần thiết nhưng trước mắt tôi giữ kín không công bố.
 


Tôi bày tỏ

Trong thế giới ngày nay, mọi quốc gia đều phụ thuộc vào nhau, mọi thông tin từ bất cứ nơi đâu đều có thể đến với mọi người và tất cả mọi vấn đề đều được đặt ra trước lương tri của toàn nhân loại.

Tôi là Tiêu Dao Bảo Cự, công dân Việt Nam, một người cầm bút tự do, một con người nhỏ bé trong cộng đồng nhân loại, nhận định về tình hình thế giới và đất nước Việt Nam:

 
  • Các nhân quyền và dân quyền được Liên Hiệp Quốc thừa nhận là những giá trị đích thực của con người mà con người cần phải đấu tranh để có được, bảo vệ và phát huy, không phân biệt màu da, dân tộc, trình độ hay truyền thống. Hòa bình, hạnh phúc là ước mơ của nhân dân toàn thế giới. Nhân đạo, thiện chí là tinh thần; đối thoại, hợp tác là con đường tốt đẹp nhất để đi đến tương lai.

     
  • Trong thế giới văn minh này, vẫn còn nhiều dân tộc, nhiều con người đau khổ vì thiếu thốn vật chất, chịu áp bức về tinh thần, khủng hoảng về lẽ sống. Thế giới không thiếu lương thực, tiền bạc, tài nguyên thiên nhiên, tiện nghi vật chất, nếu mọi người đều được chia sẻ. Không dân tộc nào có quyền sống sung sướng trên sự đau khổ và lầm than của dân tộc khác. Không thể hi sinh thế hệ hôm nay cho bất cứ một chủ nghĩa, một viễn tượng tương lai nào.

     
  • Mọi loại tội ác chà đạp và làm hủy hoại con người vẫn tiếp tục diễn ra dưới mọi hình thức, từ xung đột vũ trang, khủng bố bằng bạo lực, đàn áp chính trị, đến bóc lột sức lao động, xâm lăng về kinh tế, chiếm đoạt đặc quyền đặc lợi bằng mọi thủ đoạn... Nhiều tổ chức quốc tế về chính trị, xã hội, nhân quyền, văn hóa nghệ thuật, tôn giáo, tâm linh và các cá nhân thiện chí đã ra sức hoạt động cho hạnh phúc con người nhưng cho tới nay, cái ác vẫn mạnh hơn điều thiện, quyền lợi vẫn lấn áp lương tri và con người vẫn tiếp tục đau khổ. Mọi loại bạo lực không phải là giải pháp tốt nhất. Mục đích biện minh cho phương tiện là phát kiến đáng sợ nhất của con người cần phải hủy bỏ.

     
  • Lịch sử và đất nước Việt Nam trong suốt thế kỷ 20 mang chứa đầy đủ những bi kịch của nhân loại và thời đại, đang vùng vẫy tìm đường giải thoát và vươn lên, hơn bao giờ hết, người Việt Nam cần tỉnh táo nhận đường và tìm ra giải pháp tốt nhất.
Từ nhận thức trên, tôi bày tỏ ý kiến như một lời kêu gọi:

 
  1. Mọi quốc gia phát triển đất nước bằng trí tuệ và sức lao động của nhân dân mình, thương lượng và hợp tác với các quốc gia khác trên cơ sở bình đẳng và hữu nghị, với tinh thần chia sẻ giữa các dân tộc, giữa con người với con người, trên con đường kiến tạo một thế giới nhân đạo không biên cương, một ngôi nhà chung thực sự ấm cúng của toàn nhân loại.

     
  2. Từng bước tiến tới thủ tiêu mọi loại vũ khí, trước hết là vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học,và mìn bẫy sát thương, mọi hình thức bạo động và đàn áp chà đạp con người. Chống tội ác bằng sức mạnh của tình thương, bằng những phương tiện hòa bình, bằng sự liên đới, liên kết của những người tốt trên toàn cầu.

     
  3. Ngăn chặn tham vọng bất chính và tội lỗi của những người làm chính trị, những người lãnh đạo thiếu lương tâm, những cá nhân và tập đoàn kinh tế thống trị bóc lột, những tập đoàn và băng Đảng tội ác ở từng quốc gia và trên toàn thế giới.

     
  4. Ðối với Việt Nam:

     
    1. Ðảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thực sự tôn trọng các quyền tự do dân chủ của người dân, bức xúc hiện nay là quyền tự do làm ăn sinh sống, tự do ngôn luận và báo chí, tự do bầu cử và ứng cử, trả tự do cho các tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm; chấm dứt đàn áp những người bất đồng chính kiến; từng bước tiến đến từ bỏ độc quyền lãnh đạo, thực sự trao trả quyền lực lại cho nhân dân.

       
    2. Xóa bỏ nghi kỵ, hận thù, thực tâm hòa giải, hòa hợp dân tộc, đặc biệt là giữa những người Cộng sản và cộng đồng người Việt ở nước ngoài cũng như những người bất đồng chính kiến ở trong nước, để cùng nhau góp phần xây dựng đất nước, phát huy hết tiềm lực của toàn dân tộc. Không ai được độc quyền yêu nước theo cách của mình. Người cầm quyền không được cai trị nhân dân bằng bạo lực.

       
    3. Tạo điều kiện phát triển đồng đều cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi vùng của đất nước. Dùng tiền của do tham nhũng, hối lộ, xa hoa lãng phí của bộ máy cầm quyền thay vào một phần sức đóng góp của nhân dân.

       
    4. Các quốc gia, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài đến Việt Nam hoạt động, làm ăn, hợp tác cùng có lợi hay vì thiện nguyện, không làm gì tổn hại đến đất nước và nhân dân Việt Nam, không cấu kết với kẻ xấu, nhất là kẻ xấu nắm quyền lực, cùng với nhân dân Việt Nam xây dựng cuộc sống hạnh phúc và phồn vinh mà dân tộc này xứng đáng được hưởng sau bao nhiêu đau khổ.
Chi phối từng đất nước và cả thế giới này không phải chỉ là việc của những người lãnh đạo chính trị mà chính là do từng con người nếu từng người nhận thức đầy đủ, biết quyết định số phận của cá nhân và cộng đồng, trong sự liên đới và sức mạnh của tình đoàn kết. Trong tinh thần đó, tôi viết lời bày tỏ này gởi đến nhân dân Việt Nam và toàn nhân loại khi con người chuẩn bị bước sang thế kỷ 21 với niềm tin và hi vọng vào một ngày mai nhất định sẽ tươi sáng hơn hôm nay.

Ðà Lạt, Việt Nam ngày 20/5/97


Tôi phản đối

Tôi là Bảo Cự, bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự, hiện ở tại 35/1 Nguyễn Ðình Chiểu, Ðà Lạt, điện thoại số 823779. Trong nửa năm qua, tôi đã bị nhà cầm quyền gây sức ép về nhiều mặt.

Từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12/96, tôi bị Công an thành phố Ðà Lạt (kết hợp với Công an Lâm Ðồng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ lãnh đạo Bộ Nội vụ) mời lên thẩm vấn ba đợt, tổng cộng 12 ngày về lý do các bài viết của tôi được đăng tải trên một số đài báo nước ngoài.

Ngày 9/2/97 báo Sài Gòn Giải Phóng ở thành phố Hồ Chí Minh đăng bài “Tiếng vọng lẻ loi” của Nguyễn Minh đả kích và chụp mũ chính trị đối với tôi bằng những lời lẽ vu khống và thóa mạ. Tôi đã viết thư khiếu nại, viết bài trả lời gởi Ban Biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng, và sau đó gởi nhiều cơ quan văn hóa tư tưởng, thông tin đại chúng khác nhưng không nơi nào trả lời hay lên tiếng.

Ngày 31/3/97 Công an thành phố Ðà Lạt mời tôi lên làm việc và lập biên bản “đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật” cũng vì lý do những bài viết và trả lời phỏng vấn của tôi mặc dù tôi chẳng làm gì gọi là vi phạm pháp luật. Tôi đã ghi ý kiến phản đối của mình vào biên bản.

Ngày 7/4/97 Công ty Ðiện báo Ðiện thoại Lâm Ðồng cắt điện thoại của gia đình tôi mà không hề giải thích lý do, khi chúng tôi khiếu nại bằng miệng và bằng văn bản, Công ty Ðiện báo Ðiện thoại chỉ nói là làm theo lệnh trên.

Mới đây nhất, từ ngày 25/4/97 đến nay, Công an đến bao vây, kiểm soát và ngăn chặn mọi hoạt động, quan hệ của tôi và cả của vợ tôi. Hai tổ công an, ít nhất 10 người thay phiên nhau canh gác, giám sát trước nhà tôi 24/24 giờ. Họ công khai theo dõi, giám sát khi chúng tôi đi bất cứ đâu, chặn không cho gọi điện thoại, không cho nhận thư từ do nhân viên Bưu điện mang đến, không cho người ngoài vào nhà tiếp xúc. Khi chúng tôi phản đối và chất vấn, họ nói chỉ làm theo lệnh trên. Về việc chặn thư, ngày 26/4/97 khi Công an ngang nhiên chặn nhân viên Bưu điện để tịch thu một thư bảo đảm đề tên tôi từ nước ngoài gởi về (họ còn định chặn cả báo chí tôi đặt mua ở Bưu điện), tôi đã lập tức đi gặp cán bộ lãnh đạo của Công ty Bưu chính và Phát hành Báo chí Lâm đồng để phản đối. Cán bộ Công ty này thừa nhận việc làm đó không đúng và hứa sẽ làm văn bản can thiệp với Công an và sau đó trả lời tôi, nhưng cuối cùng tất cả đều rơi vào im lặng. Sau vụ đó, tôi tiếp tục được nhận thư và báo (không rõ có đầy đủ hay không vì tôi biết thư tôi thường xuyên bị mất), nhưng tôi phát hiện có một thư bảo đảm của một nhà xuất bản từ Pháp gởi về cho tôi, nội dung bị đánh tráo vì trong đó chỉ có một bài giảng tôn giáo không đầu không đuôi, chẳng liên quan gì đến mối quan hệ của tôi với nhà xuất bản này.

Theo tôi biết, các biện pháp lập biên bản “đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật”, cắt điện thoại và bao vây ngăn chặn cũng được áp dụng trong cùng thời gian đối với hai người bạn thân của tôi là Hà Sĩ Phu và Bùi Minh Quốc, cũng ở Ðà Lạt.

Chúng tôi là những người cầm bút, đã công khai bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề chung của đất nước, trong đó có những quan điểm khác hoặc trái với quan điểm của Ðảng và Nhà nước hiện nay. Chúng tôi không hề kích động bạo lực, khêu gợi hận thù hay kêu gọi lật đổ mà chỉ phát biểu chính kiến của mình một cách ôn hòa. Ðó là quyền cơ bản và cũng là trách nhiệm của người công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Các cơ quan đài, báo nước ngoài đăng tải bài viết của chúng tôi, cũng như khi chúng tôi trả lời phỏng vấn các đài báo này chỉ là thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được thông tin mà luật pháp Việt Nam và quốc tế đều thừa nhận. (Cụ thể qua các điều 50, 53, 69, 146 của Hiến pháp Việt Nam và điều 19 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.)

Chính các hành động của ngành Công an, báo Sài Gòn Giải Phóng, Công ty Ðiện báo Ðiện thoại, Công ty Bưu chính và phát hành Báo chí Lâm đồng mới là vi phạm pháp luật, vi phạm nhân quyền và dân quyền một cách trắng trợn. Ngay cả khi những hành động trên căn cứ vào quyết định bằng văn bản của các cấp có thẩm quyền cũng không chấp nhận được, vì dù nại bất cứ lý do nào, thực chất cũng chỉ là đàn áp tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, đằng này tất cả đều được thực hiện theo lệnh miệng, không cần giải thích cho chúng tôi biết lý do và căn cứ gì.

Tôi cực lực phản đối và yêu cầu chấm dứt ngay các hành động vi phạm trên đối với tôi, với gia đình tôi, với các bạn tôi và cả đối với một số người khác nữa có hoàn cảnh tương tự mà tôi được biết.

Ðất nước này không của riêng ai. Mọi công dân đều có quyền và trách nhiệm đóng góp ý kiến vào việc xây dựng đất nước. Ðộc quyền tư tưởng, độc quyền chân lý, bóp nghẹt tự do ngôn luận và báo chí, cai trị bằng sức mạnh bạo lực chỉ đưa đất nước đến bên bờ hố thẳm của lạc hậu, trì trệ và suy vong.

Ðà Lạt, ngày 20/5/97

Người phản đối
Tiêu Dao Bảo Cự
 

Khoảng cuối tháng 5/97, một người học trò cũ đến thăm tôi. Lần đầu cậu ta vào bị chặn. Hai ngày sau cậu ta lại vào nữa, lúc trời tối và lọt lưới. Cậu ta kể lần đầu vừa mới quẹo xe vào đầu hẻm cậu đã bị chặn và hỏi có phải định vào nhà tôi không. Cán bộ CA xuất trình thẻ đàng hoàng và đưa ra một văn bản quyết định về tôi. CA cầm bản quyết định nhá nhá trước mặt và cậu chỉ được liếc thoáng qua, đại khái đó là quyết định v/v cách ly và ngăn chặn đối với tôi của Sở CA/LÐ.

Ðây là lần đầu tiên tôi nghe cụ thể về một quyết định như vậy. Có thể đó chỉ là quyết định sử dụng trong nội bộ CA và dùng để đối phó trường hợp muốn ngăn chặn người vào tôi và bị chất vấn. Họ chưa có quyết định trực tiếp đối với tôi hay họ sợ một văn bản như thế được công bố sẽ bất lợi cho họ? Dù có hay không, thực tế tôi đã bị bao vây, ngăn chặn và giám sát hết sức chặt chẽ, chưa kể những biện pháp có tính cách tổng lực và toàn diện khác như dùng báo chí, tổ dân phố, cán bộ hưu trí, tuyên truyền miệng, cả khẩu hiệu treo trước đường để trấn áp, cô lập và bôi nhọ tôi trước quần chúng. Thật quá hao tổn tâm huyết và công sức của Ðảng và Nhà nước để đối phó với những cá nhân đơn độc chỉ có ngòi bút trong tay như chúng tôi.

Thời gian này, một lần tôi nghe đài Châu Á Tự Do và Chân Trời Mới có nhắc đến trường hợp của chúng tôi, tuy không cụ thể lắm. Dù sao trong thời đại thông tin này khó mà ngăn chặn được tin tức.


Tháng 6/97

Với việc bao vây giám sát chặt chẽ, sự hiểu biết tình hình bên ngoài đối với tôi cũng rất hạn chế. Tuy nhiên qua nguồn này nguồn khác, thỉnh thoảng tôi cũng biết được một số tin, đặc biệt là cuộc họp ở Hội Văn nghệ Lâm đồng về việc của chúng tôi.

Ðây là cuộc họp của các văn nghệ sĩ là Đảng viên và trưởng các chi hội của Hội. Sau khi nghe Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy trình bày về trường hợp của HSP, BMQ và tôi, người ta yêu cầu mọi người tham gia ý kiến về biện pháp để đối phó với chúng tôi. Có người đề xuất tổ chức họp để đưa chúng tôi ra “đấu”, nhưng nhiều người không đồng tình, kể cả một số người chúng tôi biết lâu nay họ không ưa chúng tôi. Họ nói biện pháp xử lý là việc của Nhà nước, văn nghệ sĩ với nhau không nên làm thế. Ðặc biệt Nguyễn Minh, người đã viết bài “Tiếng vọng lẻ loi”, yêu cầu đưa vụ việc của chúng tôi lên báo Ðảng của tỉnh để phê phán. Chính trưởng Ban Tuyên huấn không đồng ý biện pháp này vì cho rằng làm như thế chẳng khác gì tuyên truyền không công cho chúng tôi. (Chắc Nguyễn Minh ức vì sau khi tôi phản ứng gởi bài công khai đi nhiều nơi, tất cả đều thấy kẹt, không lên tiếng và cho chìm xuồng luôn nên Nguyễn Minh muốn lên tiếng tiếp cũng không được.)

Nguyễn Minh còn yêu cầu xem xét lại tư cách giáo viên của vợ tôi vì một giáo viên không thể có chồng có hành vi và tư tưởng như tôi (?!). Người kể chuyện cho tôi về cuộc họp ở Hội Văn nghệ kể đến đây đã bình luận: “Thật là vô lương tâm!” (Ấy thế mà trước đây, khi tôi bị trục xuất ra khỏi Hội Văn nghệ, Nguyễn Minh đã nhiệt tình bênh vực tôi và lên án Tỉnh ủy là “đem con bỏ chợ”. Ôi, đã hơn 50 tuổi, tôi vẫn ngây thơ không thấu hiểu được lòng người).

Cuộc họp ở Hội Văn nghệ không có kết quả gì cụ thể. Ðó là điều đáng mừng vì anh em văn nghệ sĩ dù sao phần lớn vẫn còn lương tri và khí tiết dù trong hoàn cảnh bị bức bách.

Trong tháng 6 này, chúng tôi ít đi đâu vì bị bám quá sát. Chúng tôi biết rõ mình gặp, tiếp xúc với bất cứ ai, lập tức người đó bị điều tra nên không muốn làm liên lụy đến người khác. Chúng tôi bị cô lập và cũng phải tự mình cô lập.

Có hôm hai con chúng tôi từ Sài Gòn về thăm, lập tức số người canh gác bên ngoài được tăng cường, hai con tôi đi phố họ cũng theo. Buổi tối 11g30 đêm, CA khu vực vào kiểm tra hộ khẩu và kiểm tra cả giấy tờ xe honda dù xe đang để trong nhà. May mà hai con chúng tôi có hộ khẩu thường trú ở nhà và giấy tờ đầy đủ.

Hôm 20/6, bất chợt BMQ đến. Quốc bước vào cửa cười cười: “Tôi đến theo yêu cầu của Quốc hội” và chìa cho tôi một tờ giấy. Thì ra đó là giấy báo của Văn phòng Quốc hội báo cho chúng tôi biết đã nhận được “Thư gởi Quốc hội” của chúng tôi hồi tháng 4/97. Giấy báo này gởi cho Quốc với ghi chú nhờ Quốc báo lại cho HSP và tôi. Dù sao thế cũng còn lịch sự, chỉ tiếc giấy báo cho biết đã chuyển thư của chúng tôi cho Bộ Nội vụ để yêu cầu giải quyết. Thật tức cười. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, chúng tôi gởi tới QH để khiếu nại Bộ Văn hóa Thông tin và Bộ Nội vụ “vi phạm pháp luật”, họ lại chuyển cho Bộ Nội vụ. Thực ra, chúng tôi biết quá rõ việc này nên gởi là cốt để lên tiếng thôi chứ trông mong gì chuyện ai giải quyết.

Quốc và tôi trao đổi tình hình cho nhau nghe. Ðại khái cả 3 người HSP, BMQ và tôi đều bị bao vây, ngăn chặn và giám sát như nhau. Trước 3 nhà chúng tôi đều có khẩu hiệu. Khẩu hiệu trước nhà HSP giống khẩu hiệu trước nhà tôi, còn khẩu hiệu trước nhà Quốc khác một chút. Cả 3 phường nơi 3 chúng tôi ở đều có họp dân phát động quần chúng đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật của chúng tôi. Một việc khác là chỉ có tôi được mời lên làm việc với cán bộ hưu trí tại phường và chỉ có HSP thỉnh thoảng được lãnh đạo Sở CA mời lên “tâm sự”. Thế cũng là phong phú và sáng tạo lắm rồi.

Mấy hôm sau, đi ngoài đường, chúng tôi cũng gặp Mai Thái Lĩnh và đứng nói chuyện mươi phút. Lĩnh không có tin gì mới và thời gian này không tiện đến thăm HSP, BMQ và tôi.

Tôi cũng nghe tin về Ðoàn Giao Thủy, trong lần về Việt Nam hồi tháng 4/97, lúc ra Hà Nội, anh đã bị CA tạm giữ 3 ngày, bị truy hỏi và đe dọa đủ thứ, sau đó bị trục xuất ra khỏi Việt Nam vì có quan hệ với những người bất đồng chính kiến trong nước. Không hiểu vì anh có liên lạc với tôi hay còn với ai khác nữa. Anh về nước cốt để dạy và giúp một vài trường đại học trong lãnh vực chuyên môn. Thật đáng buồn.

Nói chung thời gian này chúng tôi đành và cũng chủ trương “án binh bất động” tránh gặp nhau. Ngoài nhiều biện pháp tổng lực, Ðảng và Nhà nước đang huy động bộ máy CA khổng lồ để trấn áp. Ít nhất có 30 sĩ quan CA trực tiếp và nhiều cán bộ lãnh đạo cấp trên và cấp trên nữa, chưa kể nhiều ban ngành chuyên trách của CA Ðà Lạt, Lâm Ðồng, ở trung ương và các địa phương khác cùng hợp tác, để đối phó với 3 người cầm bút, chúng tôi chịu “lép vế” là phải thôi. Chỉ có tư tưởng chúng tôi là không bao giờ chịu khuất phục.

 


LÝ LUẬN    VĂN HỌC    BÌNH LUẬN    PHỎNG VẤN    VỤ ÁN LIÊN QUAN    NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ