Tiêu Dao Bảo Cự
Tự thân giao lưu, hội nhập không phải là điều
xấu. Trái lại việc đó còn cần thiết, rất cần thiết trong giai
đoạn hiện nay. Tuy nhiên việc giao lưu, hội nhập nhằm mục đích
gì, trong điều kiện nào, phương thức thực hiện ra sao là những
khía cạnh cần trao đổi để làm sáng tỏ. Cách đặt vấn đề như thế
hi vọng có thể dễ được mọi người chấp nhận.
Cùng một vấn đề nhưng có thể tách thành hai phần
để dễ phân tích: giao lưu giữa các nhà văn và hội nhập
văn học trong và ngoài nước. Hai vấn đề này không tách
rời mà trộn lẫn, tác động lẫn nhau.
Giao lưu ở đây theo cách tôi đặt vấn đề từ nhiều
bài viết trước là những cuộc “gặp gỡ văn nghệ tự
do”. Tự do đương nhiên là… tự do, tùy thích. Trước hết văn
nghệ sĩ vốn thích tự do và “đồng thanh tương ứng đồng khí tương
cầu”. Đây là chuyện hiển nhiên trên toàn thế giới, từ đông sang
tây, tự cổ chí kim. Và từ đó hình thành những xu hướng, trường
phái, những nhóm hội, thi văn đoàn hay chỉ là để… chơi. Ở Việt
Nam, từ xưa đã có những “văn đàn”, “thi xã”; thời tiền chiến có
Tự lực Văn đoàn và một số nhóm khác đã đóng vai trò đặc biệt
trong một giai đoạn văn học. Miền Nam trước 1975 có các nhóm
Sáng Tạo, Ý Thức, Trình Bày, Việt - Đối Diện… quy tụ nhiều văn
nghệ sĩ chung quanh các tạp chí văn học nghệ thuật, chính trị xã
hội. Miền Bắc trước đây và cả nước hiện nay lại khác hẳn, chỉ có
các hội của nhà nước. Văn nghệ sĩ tham gia các hội này vì gần
như bắt buộc, không có chỗ nào khác để sinh hoạt, có một số
quyền lợi nhất định, được nhà nước hỗ trợ nhưng lại không thể có
lựa chọn riêng, không được tự do thể hiện quan điểm sáng tạo của
mình nếu trái với đường lối chính sách. Mặt khác, những chuyện
“đấu đá” phi văn nghệ nhằm tranh giành địa vị, quyền lợi trong
các hội đã làm nhiều hội viên chán ngán.
Mấy năm gần đây, tình hình chung đã trở nên
thông thoáng hơn, đặc biệt với sự phổ biến và tiện ích lớn lao
của Internet, cũng như việc đi lại thuận lợi giữa trong và ngoài
nước, không ít văn nghệ sĩ đã có thể công bố tác phẩm của mình,
trao đổi với nhau trên mạng hay gặp gỡ trong đời thực. Một số
người đã cảm thấy thoải mái trong chuyện này và không cần đặt ra
thành vấn đề để hô hào hay tranh cãi. Tuy nhiên điều gọi là
“gặp gỡ, hội nhập giữa các nhà văn trong và ngoài nước”
không phải là vấn đề “không có thật” như có người nhận
định. Nó vẫn là vấn đề và thực tế đối với đa số không dễ dàng.
Có rất nhiều ngăn trở tự thân và ngoại lai làm người ta không
thực hiện được.
Ngay từ cơ bản của cách đặt vấn đề đã là điều
cần phải trao đổi. Không cần so sánh với tình hình xa xôi ở các
nước khác, ở Việt Nam rõ ràng “thời Tự Đức” khác
“thời Nông Đức Mạnh”. Và tôi không thể, không “nỡ”
so sánh Tôn Thọ Tường – Phan Văn Trị với nhà văn trong nước –
nhà văn hải ngoại như cách lý luận và dùng chữ của Trần Văn Tích
(Ý kiến ngắn ngày 16/1/08). So sánh như thế khác nào bảo các nhà
văn trong nước đều là kẻ bán nước và chỉ có nhà văn hải ngoại
mới là người yêu nước. Ai có thể chấp nhận điều này? Dù đã từng
đứng về hai phía trong cuộc chiến tranh, dù hiện nay kẻ ở trong
guồng máy của chế độ, người ở nước ngoài, có thể nói tuyệt đại
bộ phận các nhà văn bất kể trong hay ngoài nước đều là những
người yêu nước. Điều khẳng định này không cần phải chứng minh.
Không thể đem hận thù quốc – cộng trùm phủ lên mọi giá trị, xóa
nhòa nhận thức đúng sai.
Hiện nay, ngoài các tạp chí mạng, còn có nhiều
trang web và blog cá nhân của văn nghệ sĩ trong và ngoài nước. Ở
đó, người ta mời gọi nhau, giới thiệu cho nhau, gặp gỡ giao lưu
với nhau và đã tìm được ở nhau rất nhiều đồng cảm, hứng thú.
Việc đó là cần hay không cần, nên hay không nên hô hào và nhân
rộng?
Có người cho là không cần, vì tự họ đã làm. Điều
đó quá tốt. Có người thích làm và cổ võ mọi người cùng làm. Nào
có gì sai. Mỗi người làm theo cách của mình, đâu có gì mâu thuẫn
để chống đối hay khích bác nhau. Hơn nữa, mục tiêu lại gần như
đồng nhất. Gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ, đối thoại, tranh
luận nhất định sẽ làm người ta hiểu thêm, thông cảm nhau, đi đến
đồng thuận, kết tình thân, chung sức cho tương lai. Lẽ nào những
điều này là vô ích? Lẽ nào lại không“được”gì?
Hội nhập văn học Việt Nam trong và ngoài nước
nhất định là cần thiết. Văn học Việt Nam bao gồm toàn bộ tác
phẩm văn học của người Việt Nam bằng tiếng Việt, bất kể ở đâu,
trong hay ngoài nước, bất kể thời đại nào, ngay cả những sáng
tác viết bằng chữ Hán ngày xưa, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
của dân tộc, đã được đương nhiên thừa nhận. Trên nguyên tắc,
đồng thời cũng là nguyện vọng chính đáng của người đọc, người
Việt Nam có quyền đọc bất cứ tác phẩm nào trong nền văn học Việt
Nam.
Thế nhưng hiện nay người trong nước không được
đọc hầu hết tác phẩm văn học của miền Nam trước 1975 và của hải
ngoại. Ngược lại, ở hải ngoại, mấy ai được đọc tác phẩm của tác
giả trong nước. Đó là một sự thiếu sót, phi lý, què quặt. Làm
sao sách dịch của các tác giả nước ngoài tràn ngập mà sách của
người Việt lại bị cấm? Nếu văn chương là tâm tình, là suy tưởng,
là cảnh đời, là hoài niệm mang chứa diện mạo và nội tâm của con
người, nhưng cùng là người Việt đồng bào, không đọc nhau làm sao
hiểu được nhau, nói chi đến hòa giải hòa hợp. Chưa kể do đặc
điểm của lịch sử trong giai đoạn đất nước phân ly, còn biết bao
điều trong nội dung các tác phẩm này cần được nhìn nhận lại,
trong bao dung và tỉnh thức. Chế độ này có thể ngăn cấm trong
một thời kỳ nào đó nhưng chế độ nào cũng sẽ thay đổi, mất đi và
văn học, dân tộc sẽ mãi trường tồn.
Dĩ nhiên ai cũng biết rằng có tình trạng trên
trong văn học cũng như những ngăn trở trong vấn đề hòa giải hòa
hợp dân tộc có cốt lõi nguyên nhân nằm ở chỗ khác. Nói rõ ra đó
là do đường lối chính sách của Đảng và nhà nước hiện nay, và cả
sự chi phối của một số người có ảnh hưởng trong “Cộng đồng người
Việt Tự do” “chống văn hóa vận cộng sản” như có người đã phân
tích (Ý kiến ngắn của Phạm Quang Tuấn ngày 11/1/08). Trong khi
chưa thay đổi được đường lối chính sách và sự chi phối đó chẳng
lẽ không còn con đường nào khác để thoát ra tình trạng què quặt,
phi lý nói trên?
Vẫn dưới chế độ toàn trị nhưng trong 30 năm qua,
có hai sự kiện lớn làm thay đổi tình hình đất nước, đó là việc
khoán trong nông nghiệp và sự thắng thế của kinh tế thị trường.
Hai sự kiện này đã giúp đưa đất nước ra khỏi nạn đói và sự suy
thoái bên bờ vực thẳm, khơi dậy tiềm lực của nhân dân và từng
bước hội nhập vào thế giới. Kết quả này, Đảng Cộng sản nói nhờ
Đảng lãnh đạo đổi mới nhưng thực tiễn là do chính nhân dân xé
rào, chống lại các chủ trương giáo điều, duy ý chí của Đảng,
buộc Đảng phải đi theo thực tiễn, ý chí và trí tuệ của nhân dân.
Việc giao lưu, hội nhập văn học
nằm trong ý nghĩa đó. Bằng mọi cách sáng tạo của mình,
các nhà văn và người đọc hoàn toàn có thể “xé rào” để hội nhập
văn học trong và ngoài nước, góp phần vào việc hòa giải hòa hợp
dân tộc, dân chủ hóa đất nước. Làm được như thế, chúng
ta sẽ “được” rất nhiều, cho nhà văn và cho nhân dân mà
không cần ai “phát vé” (chữ dùng của Trần Trọng Hoàng
Bách). Trong tinh thần tự do, “xé rào” này, ai đâu muốn
vào nhà hát, hội trường nào mà cần đến vé.
Không phải chỉ cần giao lưu, hội nhập trong văn
học mà trên tất cả mọi lãnh vực. Chúng ta nói đến văn học ở đây
vì chúng ta là những người cầm bút và vì văn học nghệ thuật là
lãnh vực nhạy cảm nhất, dễ có hiệu quả nhanh nhất, trong việc
tiến đến hòa giải hòa hợp của toàn dân tộc.
Nghe nói đến “hòa giải hòa hợp”, “giao lưu, hội
nhập trong ngoài”, một số người chỉ coi đó là chiêu bài của cộng
sản. Đúng là đã có những chiêu bài lừa bịp nhưng không phải tất
cả đều là chiêu bài và tất cả đều là độc quyền của người cộng
sản. Qua kinh nghiệm lịch sử, cho đến nay, người dân đã có thể
phân biệt cái gì đúng, cái gì giả và cần làm gì để cho cái đúng
được thực hiện.
Trên lãnh vực chính trị, hiện nay vẫn còn những
người “chống cộng đến cùng”, “không đội trời chung với cộng
sản”, thậm chí “thề tiêu diệt đến người cộng sản cuối cùng”.
Nhưng nếu lật đổ cộng sản không được, không muốn hòa giải hòa
hợp với người cộng sản, những người chống cộng này sẽ nuôi dưỡng
lòng thù hận cho đến hết đời. Trong kinh nghiệm thất bại của
mình, họ còn mặc cảm sợ bị “sập bẫy cộng sản” đối với những
chiêu bài hòa giải hòa hợp. Đó là nhận thức, lựa chọn của một số
người, có lý do và là quyền của họ, không ai can thiệp được nếu
họ không tự nhìn nhận ra vấn đề.
Có quan niệm cho rằng việc ứng xử của con người
nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng trước hoàn cảnh lịch sử cần
tuân theo một số nguyên tắc phổ quát, nhưng nguyên tắc là do con
người đặt ra, lựa chọn, có thể thay đổi theo thời gian, hoàn
cảnh, con người…, chứ không phải bất di bất dịch. Rõ ràng châu
Âu không phải là Việt Nam, thời Tự Đức khác hẳn với thời đại
hiện nay, một tình hình chưa hề có tiền lệ trong lịch sử. Chân
lý cũng rất tương đối. Chỉ có thực tiễn kiểm nghiệm chân lý chứ
không ai có thể tự mình tuyên bố chân lý.
Có người nói nguyên tắc là khi đã ra đi “tị
nạn” thì không thể trở về khi “nạn” vẫn còn. Một
nguyên tắc quá đơn giản, không đáp ứng được những nhận thức đa
dạng về thực tiễn lịch sử phức tạp hiện tại. Đối với đại đa số
người Việt, dù hiện nay những người cộng sản đang cầm quyền,
nhưng đất nước này không phải là của riêng những người cộng sản
và mọi người cần làm những gì có thể làm được để dân chủ hóa đất
nước, làm cho nhân dân bớt khổ, cho đất nước ngày thêm phát
triển, hùng mạnh. Riêng đối với tôi, và một số người khác trong
nước, có lúc đã có tâm trạng là kẻ lưu vong ngay trên chính đất
nước mình (Hà Sĩ Phu và tôi đã từng nói ra điều này trong các
bài viết của mình), nhưng không phải vì thế mà buông xuôi tất cả
hay tìm cách bỏ nước ra đi. Những người vượt biên tỵ nạn cộng
sản sau năm 1975 ở trong hoàn cảnh khác, nhưng cho đến nay,
nhiều người trong số họ vẫn về nước thăm gia đình, đi du lịch,
làm công tác từ thiện…, không ít người muốn trở về sống hẳn và
chết trên quê hương mình. Những việc làm và ước nguyện đó có gì
sai trái, “sai nguyên tắc”? Ngược lại, chính những việc làm đó
đã góp phần từng bước vào việc hòa giải hòa hợp dân tộc, đi đến
“giải nạn”.
Mỗi người sống theo nguyên tắc của mình nhưng
không nên, không thể áp đặt, buộc người khác phải làm theo, dù
chỉ trên lý luận. Chỉ có những chế độ độc tài toàn trị làm như
thế. Và rõ ràng điều đó chẳng hay ho gì.
“Đáy địa ngục được lót bằng những thiện chí tốt
đẹp”. Nhiều trường hợp đã là như
thế, nhưng nếu không có thiện chí, bao dung, chia sẻ và yêu
thương, cả thế giới này chắc chắn đã trở thành địa ngục.
Chỉ tranh cãi trên câu chữ, bắt bẻ tiểu tiết,
cuộc tranh luận sẽ bất tận và không có kết quả gì nên tôi nghĩ,
tốt hơn để cho cuộc sống trả lời.
Hầu như mọi người cầm bút đều biết và hiểu giá
trị của câu nói nổi tiếng: “Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”.
Đà Lạt 24/1/2008