Hơn hai tháng nay, do bận việc riêng,
tôi không có thời gian vào mạng. Gần đây,
mới vào talawas, tôi chú ý đến bài “
Bi
kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường” của
Ngô Minh với hàng loạt ý kiến ngắn đóng
góp. Cùng với những bài viết khác trên
báo chí và các website nhân dịp kỷ niệm
40 năm Tết Mậu Thân, tôi thấy hình như
cuộc chiến tranh Việt Nam sau hơn 30 năm
ngừng tiếng súng vẫn chưa thực sự kết
thúc. Trái lại, cuộc chiến tranh ý thức
hệ và nội chiến ở Việt Nam vẫn còn tiếp
diễn, chủ yếu ở bình diện tư tưởng, thể
hiện trên Internet là chính, giữa những
người trước đây đã từng ở hai bên chiến
tuyến.
Chuyện “thảm sát Tết Mậu Thân” ở Huế và
Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng một số người
có liên quan hầu như năm nào đến dịp Tết,
ở hải ngoại cũng có người nhắc tới. Tuy
nhiên, khi Ngô Minh, một người cầm bút
trong nước, công khai đặt ra vấn đề
trong một bài viết, lập tức dư luận khắp
nơi đã lên tiếng, kể cả kẻ bênh người
chống. Sự việc này cũng có điều hay là
đã có nhiều người, ở nhiều góc độ, làm
rõ thêm nhiều vấn đề, đặc biệt làm hiện
hình một bi kịch, không phải chỉ là “Bi
kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường” mà chính là
“Bi kịch của chúng ta”, trong một cuộc
chiến không mong muốn vẫn chưa kết thúc.
Rõ ràng trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế,
Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là một
nhân vật gì ghê gớm có quyền quyết định
hay trực tiếp can dự đến việc thảm sát (ít
ra là qua các ý kiến từ khi có bài của
Ngô Minh và chưa có ai chứng minh được
gì khác, còn trách nhiệm gián tiếp là
một vấn đề khác ta sẽ bàn sau), nhưng
câu trả lời phỏng vấn của anh trong
Vietnam: A Television History của
Stanley Karnow (dù có bị cắt
xén hay không) đã làm cho nhiều người
tức giận, thậm chí căm phẫn. Tôi có thể
hiểu trong thời điểm đó, với lòng tin ở
chính nghĩa của mình, với hào quang và
lòng kiêu hãnh của người chiến thắng,
rất có thể Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực
sự nghĩ và nói như vậy. Cũng như Nguyễn
Đắc Xuân và nhiều người khác đã thể hiện
quyết tâm, chính nghĩa và lòng kiêu hãnh
trong tập truyện ký
Huế những ngày
nổi dậy (Nhà xuất bản Tác phẩm Mới,
Hội Nhà văn Việt Nam, 1979).
Trong cuộc chiến Việt Nam, hai miền Nam
Bắc đều nhân danh chính nghĩa và cho đến
tận hôm nay, phần lớn những người trong
cuộc đều giữ vững niềm tin đó, cho nên,
những người cộng sản, hằng năm vào những
dịp kỷ niệm, đều tổ chức ôn lại và đề
cao chiến thắng, trong khi những người
thuộc phía Việt Nam Cộng hòa ở hải ngoại
vẫn tổ chức ngày “quốc hận” và tố cáo
tội ác của cộng sản.
Dù đứng trên quan điểm nào, phần đông
mọi người đều phải thừa nhận “chiến
tranh là tội ác”. Trong nhiều loại tội
ác của chiến tranh, việc giết thường dân
là tội ác tàn bạo mang tính phi nhân cao
độ nhất và đối với hai phía, thảm sát
Tết Mậu Thân và thảm sát Mỹ Lai là hai
vụ điển hình trong chiến tranh Việt Nam,
với chỗ khác biệt là vụ Mỹ Lai do người
Mỹ, đồng minh của miền Nam, trực tiếp
gây ra. Tuy nhiên người cộng sản không
hề nhắc đến “thảm sát Tết Mậu Thân” và
người Việt Nam Cộng hòa cũng không mấy
khi nhắc đến “thảm sát Mỹ Lai”. Đó cũng
là một biểu hiện của “hội chứng chính
nghĩa”.
Ai phải chịu trách nhiệm về đủ mọi loại
tội ác trong chiến tranh Việt Nam mà
người Việt Nam phải gánh chịu nhiều nhất?
Những tội ác này không chỉ xẩy ra ở Huế
và Mỹ Lai mà còn từ rừng núi, nông thôn
đến thành thị cả hai miền Nam - Bắc,
bằng mọi hình thái từ đánh đập, giam cầm,
tra tấn, đến bắn giết, đặt chông mìn,
dội bom… Ai có thể thống kê hết tội ác
đã xẩy ra trong những trận càn quét vào
những vùng tình nghi, những trận pháo
kích vào trường học, những vụ diệt ác ôn,
những cuộc đàn áp trên đường phố, những
cuộc tra tấn trong nhà tù, những cuộc
tập kích vào thành phố, những phi vụ máy
bay B52 thả bom trải thảm, những chất
độc màu da cam…?
Một bên người ta nhắc đến Johnson,
Nixon…, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu
và “bè lũ tay sai bán nước”, bên kia nêu
đích danh các lãnh tụ Nga, Tàu…, Hồ Chí
Minh và “tập đoàn lãnh đạo cộng sản khát
máu”. Còn ai nữa? Lực lượng quân đội, bộ
máy hành chính, tất cả các tổ chức, đoàn
thể liên quan đến chế độ, kể cả những
văn nghệ sĩ của hai phía đã ủng hộ cuộc
chiến có vô can không? Nếu có chính
nghĩa thì không phải là tội ác ư? Có
thực như vậy không? Nhưng hai bên đều tự
cho mình có chính nghĩa và cái gì, ai
xác nhận điều này? Lịch sử chăng? Lịch
sử là gì, là ai? Lịch sử đâu phải là
người viết sử hay quan điểm về lịch sử
của chính quyền thắng trận hay của những
người bại trận. Hay lịch sử phải là phán
xét của hậu thế mấy trăm năm sau? Còn
bây giờ phần ai cứ nói theo ý mình.
Lịch sử Việt Nam cận đại là một cơn mê
cuồng, một mớ bùng nhùng không dễ gì
phân định cho rạch ròi. Chiến tranh Việt
Nam bắt nguồn từ đâu? Nếu tính xa phải
kể đến từ chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa cộng
sản ở Liên Xô, Trung Quốc, chủ nghĩa tư
bản ở các nước phương Tây, cuộc chiến
tranh lạnh của thế giới; từ việc đi tìm
giải pháp cho dân tộc của những người
Việt Nam yêu nước, kết quả của cuộc Thế
chiến 2, sự suy tàn của đế quốc thực dân
Pháp, sự trỗi dậy của chủ nghĩa thực dân
mới, sự thỏa hiệp của các cường quốc
trên bàn cờ thế giới; từ việc đấu tranh
giành chính quyền của các đảng phái ở
Việt Nam, sự vận hành của hai chế độ ở
hai miền Nam - Bắc… Bằng một lát cắt từ
đâu trong thời gian gần thì nguyên nhân
trực tiếp của chiến tranh sẽ xuất phát ở
đó.
Phần lớn người Việt Nam có liên hệ đến
cuộc chiến còn sống hiện nay sinh ra và
lớn lên trong dòng cuốn đó. Những người
có lý tưởng phải chọn lựa cho mình một
con đường trong thế trận thiên la địa
võng đã thành hình. Và họ đã đứng về một
phía chiến tuyến. Những người không có
lý tưởng hay không muốn lựa chọn cũng
phải chọn lựa hay bị lựa chọn. Không ai
có thể đứng bên lề lịch sử. Và cuộc
chiến cuốn mọi người vào dòng xoáy khốc
liệt của nó, hun đúc nên chính nghĩa của
phe mình và của từng cá nhân từ một bên
chiến trận. Nó giúp cho người ta có thể
sống, chiến đấu, tồn tại trong hận thù
và biện minh cho những việc mình làm,
phê phán phe đối địch.
Chuyên mục “Chiến tranh nhìn từ nhiều
phía” của talawas đã đăng tải bao nhiêu
ý kiến khác biệt, đối nghịch và không ai
có thể đưa ra kết luận sau cùng. Mới
đây, có người giới thiệu cho tôi bài
viết của Trần Chung Ngọc đăng trên
Giao điểm Online nói về vấn đề này.
Bài viết có tựa đề “
Tản
mạn xung quanh cuộc chiến ở Việt Nam”
(Chiến tranh nhìn từ một phía: Phía của
không phía) dài đến mấy chục trang, có
đề cập đến quan điểm của tôi và một vài
tác giả khác như
Lê Xuân Khoa,
Trần Trung Đạo trong những
bài viết trước. Hình như đây là lần thứ
hai ông viết về đề tài này. Qua trích
dẫn “bách gia chư tử” của phương Tây,
ông cố chứng minh rằng cuộc chiến tranh
Việt Nam không phải là nội chiến hay
“chiến tranh ủy nhiệm” mà là cuộc chiến
tranh giải phóng của người Việt Nam
chống lại sự xâm lược của đế quốc thực
dân mới là Mỹ. Luận điểm “chiến tranh
giải phóng” không có gì mới mẻ vì những
người cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu,
khẳng định và tuyên truyền từ lâu, qua
suốt cuộc chiến và cho đến tận bây giờ.
Riêng về chủ nghĩa thực dân mới, tạp chí
Đối diện năm xưa từ trước 1975
ở miền Nam cũng đã làm xuất sắc hơn ông
Ngọc nhiều.
Còn chuyện “chiến tranh ủy nhiệm” hay
chiến tranh ý thức hệ và nội chiến?
Chẳng phải hai miền Nam - Bắc trước đây
đều đã từng công khai thừa nhận mình là
“tiền đồn chống cộng của thế giới tự do”
và “vị trí tiền tiêu của phe xã hội chủ
nghĩa”? Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở
miền Nam đã nói đại ý chúng ta đổ xương
máu thì người Mỹ phải đổ tiền vào. Các
nhà lãnh đạo ở miền Bắc từng tuyên bố
chúng ta chiến đấu cho cả phe xã hội chủ
nghĩa. Và hai miền đều nhận tiền bạc, vũ
khí của ngoại bang, đều chịu sự chỉ đạo
của các cường quốc và chiến tranh chỉ có
cơ may chấm dứt khi các cường quốc thỏa
hiệp với nhau trên bàn cờ quốc tế. Những
điều đó không đủ chứng minh cho cuộc
chiến ý thức hệ? Còn nội chiến? Phải
chăng việc người Việt đã cầm súng giết
nhau trên chiến trường, tàn sát nhau
trên quê hương và hận thù nhau trong tim
óc cho đến tận ngày nay vẫn không thể
gọi là nội chiến? Đâu cần gì phải trích
dẫn, lý luận dài dòng. Và chiến tranh
giải phóng? Điều này cũng có lý và ngày
càng có tính thuyết phục khi người Mỹ
can thiệp sâu vào nội bộ chính trường
miền Nam và chiến tranh Việt Nam với sự
hiện diện của hơn nửa triệu quân, bộ máy
cố vấn đến từng đơn vị nhỏ và dội bom ra
miền Bắc.
Thật khó phân định cho rạch ròi tính
chất của cuộc chiến vì nó bao hàm trộn
lộn tất cả. Tách biệt ra hoặc gọi tên
một cách phiến diện là điều không thể
được. Chiến tranh nhìn từ một phía, thậm
chí
“phía của không phía”
|
Tiêu Dao Bảo Cự
bên cầu Hiền Lương mới phục chế |
Khi người dân bình thường nói hay tôi
viết
“Hiệp định Genève chia đôi đất
nước”, không phải tôi không biết,
không đọc, không hiểu nội dung của hiệp
định, mà điều đó chỉ có nghĩa là trong
thực tế, từ khi có Hiệp định Genève, đất
nước bị chia làm hai miền, với hai chính
quyền đối địch nhau, mang lại một sự
phân ly đau đớn cho dân tộc Việt Nam.
Mấy năm trước tôi đến cầu Hiền Lương
trên sông Bến Hải, bên cạnh cầu mới, cầu
cũ đang được phục chế, ở bờ bắc thấy có
một tượng đài nho nhỏ đề chữ “Cột mốc
giới tuyến quân sự tạm thời 54 - 75”.
Năm nay tôi lại đến, thấy cầu Hiền Lương
cũ đã phục chế xong, tượng đài “cột mốc
giới tuyến…” đã bị đập bỏ. Thay vào đó,
phía bờ bắc người ta dựng lại cột cờ
giới tuyến rất lớn với nền cao ngất,
cổng chào và giàn loa phóng thanh vĩ đại
trước đây dùng để tuyên truyền phát vào
Nam. Bờ nam trước kia có gì tôi đã quên,
nay chỉ thấy một loại tượng đài kỳ lạ
như những chiếc lá cao vút dựng thẳng
lên trời và tượng mẹ bồng con trông vời
ra Bắc. (Tôi đoán thôi, vì tôi dừng ở bờ
bắc sát với quốc lộ 1A, còn bờ nam xéo
vào bên trong khá xa, nhìn không rõ,
nhưng chắc chắn đó là công trình mới,
không phải được phục chế như bên bờ
bắc.) Con sông Bến Hải này có phải là
một vết chém ngang lưng tổ quốc chia đôi
đất nước từ khi có Hiệp định Genève, bất
kể nội dung nó nói gì hay do ai ký?
Cũng tương tự, Hiệp định Paris có tên là
“Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và
lập lại hòa bình…” ký năm 1973 sau nhiều
năm thương thảo, vừa đánh vừa đàm. Hai
người chủ chốt tham gia soạn thảo hiệp
định là Kissinger và Lê Đức Thọ được
Giải Nobel Hòa bình. Mỉa mai thay, ai
cũng biết hiệp định này cốt để Mỹ rút
quân trong danh dự sau khi đã thỏa hiệp
với Trung Quốc. Chiến tranh chỉ chấm
dứt, hòa bình chỉ lặp lại khi có “cuộc
Tổng tiến công và Nổi dậy mùa Xuân năm
1975” với chiến thắng của miền Bắc và
Tổng thống Dương Văn Minh của miền Nam
tuyên bố đầu hàng chứ không phải do thực
hiện hiệp định.
Tôi đã viết tương tự về những điều này
trong một bài trước nhưng có lẽ ông Trần
Chung Ngọc không đọc hoặc không thèm
quan tâm, tôi không dám nói là ông không
hiểu. Nhưng tôi thấy dù đã rào đón, ông
vẫn là người “tận tín thư bất như vô
thư” vì ông chỉ trích dẫn ông Tây này
nói thế này, ông Tây kia viết thế kia,
hiệp định nọ xác định rằng… để đi đến
kết luận mà không chịu nhìn nhận và suy
nghĩ từ thực tế, hay ông chỉ viết theo
định kiến hoặc kết luận có trước. (Rất
có thể ông Ngọc là người đọc rộng, biết
nhiều nhưng khi ông viết với giọng điệu
rất thiếu văn hóa, luôn phỉ báng những
người đối thoại là “ngu dốt, có đầu
không có óc…”, thiết nghĩ ông chẳng phải
là người đáng để tranh luận.)
Ngày 1 tháng Tư vừa qua là ngày giỗ thứ
bảy của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Theo báo
Tuổi trẻ tường thuật, đêm tưởng
niệm ở hội quán Hội Ngộ trong khu du
lịch Bình Quới ở Sài Gòn có hơn 6000
người dự. Ngày hôm trước, người ái mộ đã
xếp hàng ba dài cả cây số để nhận vé
mời. Tôi tin sự mô tả này là chính xác
vì cách đây mấy năm, có một lần tôi cũng
dự đêm tưởng niệm này, người ta phải gởi
xe máy vào nhà dân hai bên đường dài
hàng cây số và khi chương trình chấm
dứt, tôi phải đợi hơn một giờ đồng hồ
mới có thể lấy xe ra về vì người và xe
ken đặc trên con đường độc đạo vào khu
du lịch này.
Cũng trong thời điểm đầu tháng Tư này,
tôi đọc được mấy bài phổ biến trên mạng,
mạ lỵ Trịnh Công Sơn bằng đủ mọi ngôn từ
xấu xa nhất. Ông
Trần Văn Tích, trong ý kiến
ngắn trên talawas về trường hợp Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng nhắc đến Trịnh Công
Sơn:
“Qua bài của tác giả Ngô Minh
(talawas 04.03.08, ‘Bi kịch Hoàng Phủ
Ngọc Tường’), tôi được biết thêm chi
tiết mới là chính Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã đọc lời hiệu triệu của ‘cách mạng’
vào dịp tấn công cố đô. Tôi liên tưởng
đến tiếng hát bài ‘Nối vòng tay lớn’
trên đài phát thanh Sài Gòn sáng hôm
30.04.75. Người nhạc sĩ quá cố chỉ đánh
đàn và hát, nhưng tiếng đàn lời ca đã
trở thành một tác nhân gây ác mộng cho
rất nhiều người dân Sài Gòn, tôi tin
chắc như thế. Phần cá nhân tôi, đến nay
đêm ngủ vẫn thỉnh thoảng còn bị tiếng
hát giọng ca đó trở về gây kinh hoàng
khủng khiếp, lắm đêm vật vã tháo mồ hôi
lạnh”.
Lời hiệu triệu do Hoàng Phủ Ngọc Tường
đọc hay bài hát của Trịnh Công Sơn “gây
ác mộng” cho bao nhiêu người là do ông
Trần Văn Tích suy diễn và “tin chắc như
thế”, cũng có thể đúng nhưng cũng không
sai khi có bao nhiêu người “hồ hởi phấn
khởi” và thực sự xúc động, hạnh phúc
được nghe trong các thời điểm đó. Thực
tế muôn mặt chứ không phải chỉ có thực
tế của chính mình.
Dĩ nhiên người ta không nói đến tài năng
của Trịnh Công sơn, điều người ghét ông
cũng phải thừa nhận, mà nói đến thái độ
chính trị của ông, coi ông như một kẻ
phản bội “lý tưởng quốc gia”, làm tay
sai cho cộng sản. Về thái độ đối với
cuộc chiến tranh Việt Nam, Trịnh Công
Sơn làm rất nhiều bài nhạc nhưng có lẽ
bài nổi tiếng nhất, được nhiều người
thuộc và hát, cũng có nghĩa là đồng
tình, là bài “Gia tài của mẹ” trong đó
có câu “
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu,
một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi
năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ
để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước
Việt buồn”. Nhận định cuộc chiến
tranh Việt Nam là “nội chiến” đã không
làm vừa lòng cả hai chính quyền Nam -
Bắc nên ông gặp khó khăn, tuy mức độ
không lớn lắm, trong cả hai chế độ.
Dưới chế độ Sài Gòn, ông phản chiến và
trốn lính, được đại tá không quân Lưu
Kim Cương bảo trợ. Khi Lưu Kim Cương tử
trận, ông làm bài “Cho một người vừa nằm
xuống”, không mang mầu sắc chính trị mà
chỉ là xúc động trước cái chết và thân
phận con người. Điều kỳ lạ là khi Trịnh
Công Sơn trốn lính, một sĩ quan cao cấp
của chế độ Sài Gòn trân trọng, che chở
ông trong khi hiện nay một số người Việt
Nam Cộng hòa khác phê phán việc ông trốn
lính là hèn nhát, đâm sau lưng chiến sĩ.
Những người sau, nếu lúc đó họ có quyền
và có quan điểm như thế, chắc Trịnh Công
Sơn đã phải đi làm “lao công đào binh”
và số phận ông chưa biết sẽ ra sao.
Sau 1975, qua một thời gian ngắn khó
khăn, ông đã sống và sáng tác bình
thường như những nhạc sĩ khác. Nhạc của
ông, trừ loại nhạc phản chiến, các bản
tình ca được phổ biến rộng rãi và nhiều
thế hệ đã say mê nghe và hát nhạc của
ông trên khắp mọi miền đất nước. Vào
giai đoạn này ông có sáng tác một số bài
có hơi hướng chính trị và bị những người
chống cộng phê phán là làm tay sai cho
chế độ như “Huyền thoại mẹ”, “Em ở nông
trường, em ra biên giới”…
Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ, một trí
thức. Trong chiến tranh Việt Nam ông có
lập trường phản chiến và dưới hai chế độ
ông có một số sáng tác “theo thời” để có
thể tồn tại. Điều đó không hay lắm nhưng
chưa đến mức tệ hại, bán rẻ nhân cách để
có thể quy là văn nô, bồi bút. Nếu nói
là văn nô, bồi bút, thì dưới hai chế độ
trước đây và cả hiện nay, vô số người
còn “xuất sắc” hơn Trịnh Công Sơn. Trong
dòng xoáy kinh hoàng của cuộc chiến và
sự vận hành tàn bạo của các chế độ chính
trị, giữ được thái độ như Trịnh Công
Sơn, dĩ nhiên chưa hoàn hảo, cũng đã là
một điều đáng quý. Có thể vì thế mà hiện
nay, đông đảo người hâm mộ nhạc Trịnh,
cả trong và ngoài nước, không quan tâm
đến khía cạnh đó mà chỉ quý trọng và
ngưỡng mộ tài năng của ông qua những bản
nhạc về tình yêu và phận người có ma lực
phi thường và sức sống vượt không gian,
thời gian.
Tôi cũng vừa mới đọc hồi ký
Lạc đường của Đào
Hiếu trên trang
talawas chủ nhật.
Đào Hiếu cũng là một trí thức miền Nam
“tham gia cách mạng”. Hồi ký này, với
văn phong tiểu thuyết, có một số trang
có thể nói là tuyệt bút của một nhà văn
tài hoa. Ngoài những hồi ức về chuyện
cũ, phần quan trọng là suy tư của tác
giả về thời thế, về giai đoạn lịch sử mà
tác giả đã sống trải. Đào Hiếu đã thất
vọng và phê phán nặng nề, đôi khi đích
danh hay gần như đích danh một số người
là “đồng chí” cũ, khi làm quan chức, đã
thoái hóa, trở thành những tên cặn bã,
trong một xã hội đầy rẫy những những
điều tệ hại, dối trá. Đặc biệt Đào Hiếu
lên án chính quyền hiện tại và hầu hết
mọi loại chính quyền trên thế giới,
không tin vào các chính trị gia và thất
vọng về cả nhân dân. Tác phẩm còn bộc lộ
nhiều vấn đề tư tưởng, triết lý, chính
trị trên bình diện rộng lớn toàn nhân
loại, nhưng ở đây tôi chỉ muốn chú ý
khía cạnh liên quan đến đề tài bài viết
này là Đào Hiếu không hề có ý phản tỉnh
về chuyện đúng sai của việc mình đã
“tham gia cách mạng” trong quá khứ. Tựa
đề
Lạc đường không nói lên điều
gì rõ ràng so với nội dung tác phẩm. Mặc
nhiên người đọc hiểu tác giả vẫn tự hào
về việc mình đã làm và chỉ thất vọng về
thực tế của ngày hôm nay.
Đây là điều hầu như bình thường đối với
mọi người. Hình như cho đến nay tất cả
mọi người ở hai phía đã tham gia cuộc
chiến trước đây, kể cả thành phần thứ
ba, phản chiến đều tự cho mình có chính
nghĩa và đều tự hào khi hồi tưởng lại
quá khứ. Rất hiếm người có ý tưởng sám
hối về thái độ và hành động của mình khi
tham gia cuộc chiến trước đây. Chính các
tính chất của chiến tranh ý thức hệ, nội
chiến và chiến tranh giải phóng đã hun
đúc, củng cố thêm cho chính nghĩa của
những người tham dự.
Tôi nghe có người trong cuộc nói rằng
trong chiến tranh, một số người lính
Việt Nam Cộng hòa ít có thù hận. Trên
chiến trường là phải nổ súng. Thù hận
chỉ phát sinh sau khi thất trận bị “cải
tạo”, đày đọa, làm nhục và hủy diệt
tương lai. Cũng có người nói dù sao lịch
sử đã sang trang, chỉ cần chính quyền
hiện nay công khai nói một lời xin lỗi
về những việc làm sai trái của mình,
thực sự có hành động hòa giải hòa hợp
dân tộc là mọi người có thể bỏ qua quá
khứ để cùng nhau xây dựng đất nước.
Chính quyền Đức đã xin lỗi người Do
Thái. Chính quyền Nhật đã xin lỗi các
dân tộc châu Á… Đảng Cộng sản và chính
quyền miền Bắc năm 1956 đã xin lỗi nhân
dân sau các sai lầm chết người và có thể
gây nguy hiểm cho chính chế độ trong
cuộc cải cách ruộng đất, nhưng sau chiến
tranh và những sai lầm khác trong thời
kỳ hậu chiến tranh, họ đã không làm như
thế. Niềm kiêu hãnh về chính nghĩa và
nỗi lo lắng củng cố địa vị lãnh đạo đã
không cho họ làm điều đó. Nhà cầm quyền
chỉ hành xử đúng khi đó không phải là
một chính quyền độc tài toàn trị và đại
diện được cho nhận thức và ý nguyện của
toàn dân.
Trong dịp kỷ niệm 40 năm vụ thảm sát Mỹ
Lai tổ chức ở Sơn Mỹ, Quảng Ngãi ngày
15.3.08, Kenneth Schiel, một cựu binh Mỹ
từng tham gia cuộc thảm sát đã đến nơi
để hối lỗi và ông đã được người còn sống
sót năm xưa tha thứ. (Báo
Tuổi trẻ
ngày 16.3.08) Ông Võ Văn Kiệt cách đây
mấy năm, khi hồi tưởng lại ngày 30.4.75
có nói đại ý ngày đó một triệu người vui
thì cũng có một triệu người buồn nhưng
năm nay, nhớ lại ngày đó, ông Trần Văn
Tích cũng vẫn chỉ thấy
“kinh hoàng
khủng khiếp”. Ông Tích đã từng bị
mất mát trong chiến tranh nhưng ông là
người dân thường ở về phía bại trận. Ông
Kiệt trong chiến tranh cũng bị mất mát
không kém phần đau thương nhưng ông là
một lãnh đạo của phía chiến thắng và ông
chỉ phát biểu điều đó khi đã về hưu. Đó
là lý trí, đồng thời cũng là tâm trạng.
Lý trí khi đã được củng cố bởi chính
nghĩa và tâm trạng là một điều gần như
phản ứng tự nhiên nên thật khó lòng cho
việc thuyết phục lẫn nhau.
Do hoàn cảnh và trải nghiệm, tâm trạng
con người khác nhau. Gần đây, tôi có dịp
đi cùng mấy người bạn cũ và mới về thăm
Quảng Trị. Họ đều là cựu sĩ quan của một
binh chủng nổi tiếng thiện chiến và dữ
dằn của quân lực Việt Nam Cộng hòa được
tăng viện bảo vệ “địa đầu giới tuyến”
vào những năm cuối của cuộc chiến. Người
bị thương đã giải ngũ trước 75, người di
tản qua Mỹ, người bị bắt làm tù binh.
Khi đứng trước những bức tường còn dày
đặc vết đạn của Trường Bồ Đề năm xưa,
chứng tích duy nhất còn sót lại của thị
xã sau “mùa hè đỏ lửa” năm 1972, tất cả
nổi gai ốc, như sống lại thời khắc kinh
hoàng và bi thảm ngày ấy và một nỗi buồn
chung dấy lên. Thành cổ Quảng Trị trong
cuộc chiến tàn khốc năm đó được mệnh
danh là “cối xay thịt” vì cả hai phía
đưa quân tiếp viện vào nhiều đợt, mỗi
đơn vị sau khi vào chỉ còn vài người
sống sót trở về. Giành giật một mảnh đất
bằng xương máu như thế nhưng ngày nay
Quảng Trị chỉ là một thị xã nhỏ đìu hiu
với những dãy phố buồn được xây dựng lại
trên đống gạch vụn, gần như bị bỏ quên.
Thú vui giải trí duy nhất của thanh niên
ở đây chỉ là ngồi quán café trong những
cửa tiệm đèn mờ chật hẹp trong phố hay
dưới những chiếc dù xanh đỏ dựng dọc bờ
sông Thạch Hãn. Ngược lại, Đông Hà, tỉnh
lỵ mới của Quảng Trị, phát triển với tốc
độ nhanh, phố xá hoành tráng hai bên
quốc lộ 1A dài đến 5 cây số và rất nhiều
đường mới mở sâu vào bên trong, so với
ngày xưa chỉ có hai con đường với hàng
quán xác xơ. Đường lên Khe Sanh, Lao Bảo
ngày trước chỉ có cỏ cây, đá sỏi, bom
mìn, bây giờ nhà cửa đông vui, sinh hoạt
sầm uất. Những cựu binh thiện chiến thất
trận ngày nào trở về chiến trường xưa,
có người đã nói thật lòng, dù sao đi nữa
họ cũng vui mừng khi thấy nơi đây phát
triển, cuộc sống của người dân yên bình,
giàu có hơn xưa. Chẳng một ai bày tỏ
lòng thù hận, dù là khi họ ôn lại những
trận đánh đẫm máu hay những ngày bị đày
đọa trong trại cải tạo.
Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc hỗn mang
của lịch sử, từ đầu cho đến tận dư vang
của nó ngày hôm nay. Khó ai có thể nhìn
nhận cho rạch ròi và có thái độ gọi là
khách quan, đúng đắn, nhất là đối với
người trong cuộc, dù tất cả có thể rất
chân thành khi nói ra. Vì thế, bài thơ “
Nếu”
của Nguyễn Đức Tùng tặng Hoàng Phủ Ngọc
Tường với mấy câu cuối gây tranh cãi có
thể được hiểu một cách rộng hơn, cho mọi
người chứ không phải chỉ cho riêng Hoàng
Phủ Ngọc Tường:
Nếu nước thật trong xanh
Anh mới đúng là anh
Nhưng nước không trong xanh.
Trên các con sông cuồn cuộn của đời sống
ở đất nước đau thương và đầy bi kịch
này, nước mấy khi trong xanh.
Khi tôi có ý định viết bài về đề tài
này, có bạn đã cản không nên viết vì
chẳng giải quyết được gì mà lại phải đi
giữa hai lằn đạn. Chính quyền không hài
lòng vì cho rằng đã đánh đồng đúng -
sai, chính nghĩa - phi nghĩa. Những
người chống cộng lại cho nói như thế là
xúc phạm “chính nghĩa quốc gia”, gián
tiếp bênh vực cho cộng sản. Dù sao đi
nữa, tôi vẫn giữ vững lập trường hòa
giải hòa hợp dân tộc theo quan niệm
riêng của mình vì nếu nó chưa có hiệu
quả tức thời thì ít ra cũng không gây
thêm thương tổn. Tôi tin chỉ có sự chân
thành mới giúp người ta hiểu nhau và
ngồi lại bên nhau.
Trong một bài hát, Trịnh Công Sơn viết:
“Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài
người”. Tôi nghĩ khác. Không phải Chúa,
Phật đã bỏ loài người mà chính loài
người bỏ Chúa, Phật. Năm nào trong dịp
lễ Phục sinh người ta cũng ôn lại câu
chuyện Chúa Jésus bị hành hình tàn khốc
trên cây thánh giá nhưng đã cầu nguyện
xin tha thứ cho những kẻ giết hại mình
vì những người đó không biết mình làm
gì. Phật đã dạy hãy tự mình thắp đuốc
lên mà đi và “quay đầu là bờ”. Con người
mấy ai học được bài học tha thứ và tỉnh
thức dù họ tự nhận theo Chúa, theo Phật
và không ngừng đọc kinh, cầu nguyện.
Bài học tâm linh không hề xa vời mà
chính là một thái độ sống hàng ngày góp
phần giải quyết những nan đề của cuộc
sống. Trong lĩnh vực chính trị, bài học
này cũng không phù phiếm nhưng dĩ nhiên
không phải vì thế mà thủ tiêu cuộc đấu
tranh với những chính quyền độc tài toàn
trị gây tội ác và coi nhân dân như nô
lệ. Tuy nhiên nếu lẫn lộn, đánh đồng mọi
thứ thì chỉ rơi vào bi kịch của cuộc hỗn
mang lịch sử.
Đà Lạt giữa tháng 4.2008