Một
sự kiện và
mốc dấu lớn
Trong những
ngày Đại lễ
Phật đản Tam
hợp Vesak
Liên Hiệp
Quốc ở Việt
Nam, từ
13-19/5/2008,
trên khắp cả
nước, đặc
biệt ở 8
tỉnh, thành
được lựa
chọn để tổ
chức lớn,
người dân đã
chứng kiến
một số hoạt
động bề nổi
của Phật
giáo gợi lại
một thời
vàng son
trước 1975,
có mặt còn
“hoành tráng”
hơn. Cờ Phật
giáo giăng
đầy phố xá
cùng với
những panô,
áp phích cỡ
lớn được in
tinh xảo
bằng kỹ
thuật vi
tính có hình
ảnh Đức Phật,
các chùa nổi
tiếng, các
câu giáo lý
hàm súc…
Những lễ đài
được xây
dựng bề thế
với tượng
Phật cao vài
chục mét,
các khu
triển lãm
văn hóa Phật
giáo, các
cuộc hội
thảo, những
đóa sen nhân
tạo khổng lồ
được thả
trên sông,
hồ, các buổi
biểu diễn
văn nghệ,
những bong
bóng mang cờ
Phật giáo lơ
lửng trên
không, hàng
đoàn xe hoa
lộng lẫy,
các buổi lễ
quy tụ hàng
ngàn người…
Rồi tin tức,
hình ảnh các
sinh hoạt
được trực
tiếp truyền
hình trên
các kênh
thời sự
chính thức
của nhà nước
ở trung ương
và các tỉnh.
Nói tóm lại,
tính chất
“hoành tráng”
không thua
gì các lễ
trọng của
nhà nước hay
festival của
các địa
phương. Điều
khác biệt là
những hoạt
động này có
phần đóng
góp công sức
rất lớn của
Giáo hội
Phật giáo,
các chùa và
đông đảo
Phật tử bên
cạnh việc
tạo điều
kiện của
chính quyền.
Trước khi
Vesak được
tổ chức, đã
có rất nhiều
ý kiến trái
ngược, ủng
hộ và phê
phán, gây
nhiều tranh
cãi. Nhưng
khi tuần lễ
này qua đi,
việc nhìn
nhận lại ý
nghĩa và tác
động lâu dài
của nó có lẽ
rất cần
thiết vì đây
là một sự
kiện lớn,
một mốc dấu
quan trọng
không chỉ
của Phật
giáo mà của
các tôn giáo
và nhân dân
nói chung
trong bối
cảnh của
cuộc vận
động hòa
giải hòa hợp
dân tộc và
dân chủ hóa
đất nước.
Nhà
nước thắng
lợi hoàn
toàn?
Điều mọi
người có thể
đoán trước
là thắng lợi
của nhà nước
khi đồng ý
và hỗ trợ
việc tổ chức
này.
Với danh
nghĩa là
quốc gia
đăng cai tổ
chức một
hoạt động
mang tính
tôn giáo của
Liên Hiệp
Quốc, với sự
tham dự của
hơn 1000 đại
biểu quốc tế
của hơn 60
quốc gia và
tổ chức Phật
giáo, Việt
Nam đã chứng
tỏ là một
đất nước có
tự do tôn
giáo, bác bỏ
những tố cáo
trước đây về
việc đàn áp
tôn giáo,
đặc biệt vô
hiệu hóa
phần nào các
tố cáo của
Giáo hội
Phật giáo
Việt Nam
Thống nhất.
Đối với
khách nước
ngoài, và
ngay cả đối
với những
người dân
trong nước
ít có thông
tin, thật
khó để nói
rằng Việt
Nam không có
tự do tôn
giáo, mặc dù
thực tế, một
số giáo hội,
một số tu sĩ
đã và đang
bị bức hại,
tù đày, quản
chế, gây khó
khăn, chưa
kể việc
nhiều cơ sở
tôn giáo bị
tịch thu từ
trước chưa
được hoàn
trả cho các
giáo hội.
Mặt khác,
trong việc
tổ chức này,
nhà nước đã
có quan hệ
tốt hơn đối
với Giáo hội
Phật giáo
Việt Nam qua
việc cùng
bàn bạc, hỗ
trợ việc tổ
chức, thăm
viếng nhân
ngày lễ,
đồng thời
tạo ra thiện
cảm nhất
định đối với
Phật tử khi
các cuộc lễ
được tổ chức
rầm rộ và
long trọng.
Dịp lễ này
trùng với
dịp tổ chức
kỷ niệm ngày
sinh của cố
Chủ tịch Hồ
Chí Minh và
có thượng
tọa khi được
phỏng vấn
trên tivi đã
phát biểu
cho rằng tư
tưởng Hồ Chí
Minh không
khác gì giáo
lý Phật giáo.
Thật là một
cách tuyên
truyền ngoạn
mục!
Tuy nhiên
nhà nước
không phải
không trả
giá cho hoạt
động này.
Lý thuyết
cho rằng
“tôn giáo là
thuốc phiện
của quần
chúng” dĩ
nhiên đã
phải dẹp bỏ
không kèn
không trống
mà chính
sách thu hẹp,
hạn chế các
tôn giáo
trước đây
cũng không
thể tiếp tục
thực hiện,
ngoại trừ
những việc
và đối tượng
đặc biệt mà
chính quyền
gọi là vi
phạm luật
pháp, mang
tính chất
hình sự và
những chi
phối ở chiều
sâu trong
công tác tổ
chức của các
giáo hội.
Điều này tạo
điều kiện
cho sự phát
triển không
cưỡng được
của Phật
giáo cũng
như các tôn
giáo khác
trong tương
lai. Trong
tuần lễ
Vesak vừa
qua, giáo
hội và giáo
lý Phật giáo
được quảng
bá đã gây
tiếng vang
lớn trong
các tầng lớp
công chúng,
các đoàn thể
Phật tử mặc
đồng phục
công khai
hoạt động
rầm rộ là
một dấu chỉ.
Ở một cách
nhìn nhận
khác, đây là
một bước
tiến về phía
dân chủ trên
lãnh vực tôn
trọng tự do
tôn giáo và
nhân quyền
của nhà nước,
điều bị phê
phán và thực
sự khắc
nghiệt trong
chế độ cộng
sản trước
đây. Đối với
những người
lãnh đạo độc
tài và bảo
thủ, sự kiện
này có thể
được xem là
một bước lùi
của nhà nước
nhưng đối
với những
người lãnh
đạo có đầu
óc cởi mở
hơn và các
tín đồ tôn
giáo, nhân
dân nói
chung, đây
lại là một
bước tiến bộ
cần thiết.
Phật
giáo cũng
thắng lợi
lớn?
Vesak ở Việt
Nam là cơ
hội quý báu
mà Phật giáo
có thể công
khai huy
động lực
lượng, thông
qua sinh
hoạt và các
việc làm cụ
thể để củng
cố tổ chức
và tăng
cường niềm
tin tôn giáo.
Từ nhiều năm
qua, chưa
lúc nào hàng
triệu đồng
bào Phật tử
nô nức đón
chào và tham
dự ngày Phật
đản rầm rộ
như thế. Từ
các thôn xóm
hẻo lánh,
các vùng dân
tộc ít người
xa xôi, tu
sĩ và Phật
tử nam, nữ,
già, trẻ,
mặc áo lam,
áo nâu, áo
vàng chất
đầy các xe
đổ về thành
phố và các
chùa để dự
lễ và tham
gia những
sinh hoạt
khác. Sự
đóng góp
công sức và
tiền bạc của
Phật tử vô
cùng to lớn
mới có thể
hoàn thành
những công
trình tráng
lệ, tốn kém
dường ấy mặc
dù có nơi
thời tiết
không thuận
lợi.
Dù muốn hay
không, rõ
ràng đây là
một dịp phô
trương thanh
thế, biểu
dương lực
lượng và
khẳng định
sự ủng hộ
của quần
chúng Phật
tử đối với
Giáo hội
Phật giáo mà
nhiều năm
nay chưa
được bộc lộ
đúng mức.
Con số Phật
tử thật khó
thống kê cho
chính xác
nhưng với
lượng người
tham dự đông
đảo trong
các cuộc lễ
này, rõ ràng
đó là một
thực lực
không thể
xem thường.
Tuần lễ
Vesak quả là
một cơ hội
thúc đẩy sự
phát triển
của Phật
giáo vô cùng
thuận lợi.
Tuy nhiên,
việc tổ chức
Vesak lại là
một sự kiện
có thể đào
sâu chia rẽ
giữa hai
giáo hội
Phật giáo,
Giáo hội
Phật giáo
Việt Nam (tạm
gọi là Giáo
hội thân
chính quyền)
và Giáo hội
Phật giáo
Việt Nam
Thống nhất (tạm
gọi là Giáo
hội chống
chính quyền),
kéo theo
những người
ủng hộ một
trong hai
giáo hội. Sự
chia rẽ này
bắt nguồn
ngay từ đầu
khi nhà nước
chủ trương
thống nhất
Phật giáo
dưới sự lãnh
đạo của Đảng,
kéo dài đến
ngày nay và
càng sâu sắc
thêm khi
nhìn nhận
việc tổ chức
Vesak có lợi
hay không
cho giáo hội
và cho nhà
nước. Đây
chỉ là một
trong những
vấn đề liên
quan đến
chính trị đã
chi phối
cách suy
nghĩ và hoạt
động của hai
giáo hội từ
lâu nay.
Nguyên nhân
và kết quả
của tình
hình.
“Win-win”trong
cuộc đấu
tranh cho
dân chủ?
Những điều
đáng suy
nghĩ.
Tình hình
tương đối
cởi mở đối
với tôn giáo
hiện nay,
thể hiện cụ
thể qua việc
tổ chức
Vesak 2008,
cũng như các
quyền tự do
dân chủ khác,
dù còn rất
hạn chế, là
kết quả của
một quá
trình, không
phải tự
nhiên mà có.
Sự đấu tranh
của GHPGVNTN
mấy chục năm
qua, trong
đó vai trò
chủ chốt là
hai hòa
thượng Thích
Huyền Quang
và Thích
Quảng Độ,
cũng như của
các giáo hội
và các thành
phần đấu
tranh cho
dân chủ khác
đã tạo ra
một sức đề
kháng mạnh
mẽ, cùng với
sức ép dư
luận của
cộng đồng
người Việt
hải ngoại và
các quốc gia,
các tổ chức
quốc tế đã
buộc nhà
nước phải
điều chỉnh,
thay đổi các
chính sách
đối với tôn
giáo và các
quyền tự do
dân chủ khác
của nhân dân.
Một nhà nước
độc tài toàn
trị không
khi nào chịu
thay đổi nếu
không bị áp
lực mang
tính sống
còn. Điều
này cũng do
sự chuyển
biến tự thân
của chế độ
để có thể
tồn tại và
hội nhập vào
thế giới văn
minh, nhưng
tốc độ và
mức độ
chuyển biến
rõ ràng tùy
thuộc nhiều
vào sức phản
kháng của
các giáo hội
và các cá
nhân ưu tú
dũng cảm
nhất của xã
hội. Hoạt
động của các
giáo hội,
những tổ
chức và cá
nhân đấu
tranh cho
dân chủ đã
đưa đến các
vụ quản chế,
bắt bớ, các
phiên tòa,
các hình
thức đàn áp
thô bạo làm
dấy lên sự
công phẫn
trong các
tầng lớp
nhân dân,
đặc biệt
trong dư
luận trên
Internet,
báo chí hải
ngoại và các
tổ chức quốc
tế. Tình
hình này có
tác động
thực tế đến
cách suy
nghĩ và sự
điều chỉnh
các chủ
trương của
nhà nước.
Do đó nếu
phân tích
nguyên nhân
của tình
hình hiện
nay mà không
thấy hết vai
trò của
GHPGVNTN và
những hoạt
động đấu
tranh cho
dân chủ khác
là một thiếu
sót lớn, một
nhìn nhận
bất công,
đưa đến sai
lầm trong
các sách
lược vận
động dân chủ.
Mặt khác
GHPGVNTH từ
chỗ có công
đầu và đang
bị trù dập
có thể trở
nên vô hiệu
hay rơi vào
quên lãng,
tạo thêm
“chính nghĩa”
cho nhà nước
khi tiếp tục
đàn áp giáo
hội này,
đồng thời
lại có thể
chi phối
mạnh mẽ hơn
giáo hội
thân chính
quyền, một
nguy cơ tiềm
ẩn lâu dài
cho Phật
giáo.
Tình hình tự
do tôn giáo
nói chung
đến nay so
với trước đã
có nhiều
tiến bộ,
cùng với
việc chính
thức công
nhận thêm
một số giáo
hội (Tin
lành, Cao
đài, Hòa Hảo)
và trả lại
một số cơ sở
của Thiên
chúa giáo
mới đây cho
thấy tình
hình sẽ diễn
biến theo
chiều hướng
thuận và
không thể
đảo ngược.
Sự thừa nhận
các hoạt
động của các
tôn giáo là
một yếu tố
quan trọng
trong việc
hình thành
một xã hội
dân sự, điều
thiết yếu
cho một thể
chế dân chủ
lâu nay còn
thiếu vắng.
Giáo hội
Phật giáo
thân chính
quyền hoàn
toàn chịu sự
chi phối của
nhà nước hay
chỉ là một
sự hợp tác
bất đắc dĩ
có chủ ý để
duy trì sự
tồn tại và
tìm cơ duyên
phát triển
trong một
chế độ độc
tài khắc
nghiệt đối
với tôn giáo?
Điều này
thật khó kết
luận nếu
không có cơ
hội tìm hiểu
sâu xa về
các vị lãnh
đạo của giáo
hội này ở
từng cấp và
từng địa
phương. Tuy
nhiên rõ
ràng chính
họ đã góp
phần duy trì
sinh hoạt
bình thường
của Phật
giáo lâu nay
trải qua
những hoàn
cảnh khó
khăn. Điều
đó không thể
phủ nhận.
Vậy
thì kết quả
hôm nay phải
chăng chính
là sự tổng
hợp của hai
hoạt động
tưởng như
đối nghịch
giữa hai
giáo hội
thân và
chống chính
quyền. Nếu
cả hai phía
đều có nhìn
nhận rõ rệt
về vấn đề
này, thay vì
chống đối
lại hòa giải,
hòa hợp,
đoàn kết với
nhau, có lẽ
kết quả sẽ
lớn hơn rất
nhiều.
Rõ ràng mục
tiêu chung
là tăng
trưởng giáo
hội chứ
không phải
thân hay
chống chính
quyền, thân
hay chống
chỉ là
phương tiện,
giải pháp,
không phải
mục đích.
Đối với các
tôn giáo
khác và giữa
các tôn giáo,
đặc biệt
giữa Phật
giáo và
Thiên chúa
giáo cũng
thế, nếu
không đoàn
kết được
chính là rơi
vào sách
lược chia để
trị của nhà
cầm quyền.
Bất
cứ tư tưởng
hay hành
động nào vô
tình hay cố
ý gây chia
rẽ trong nội
bộ từng giáo
hội hay giữa
các giáo hội
không có gì
khác hơn là
làm yếu đi
sức mạnh của
các tôn giáo,
của dân tộc
và củng cố
thêm cho chế
độ độc tài
toàn trị.
Tham vọng, ý
tưởng muốn
đưa một tôn
giáo nào trở
thành quốc
giáo cũng là
một ý tưởng
vô cùng nguy
hiểm có thể
gây ra bất
ổn, xung đột.
Cho đến nay
các tôn giáo
đã hình
thành và tồn
tại từ nhiều
chục năm,
nhiều trăm
năm, hàng
ngàn năm
trên đất
nước nên địa
vị độc tôn
hay chiếm ưu
thế của một
tôn giáo sẽ
đe dọa vị
trí của các
tôn giáo
khác và lập
tức tạo ra
sự bất mãn
trong các
giáo hội và
tín đồ các
tôn giáo
khác. Điều
này đã có
tiền lệ và
những hệ lụy
ở miền Nam
trước 1975,
rất may là
tình hình
chỉ mới chớm
khởi phát.
Mặt khác,
trong thời
đại mà vật
chất đã lên
ngôi thống
trị, một
quốc giáo sẽ
nhanh chóng
bị thế tục
hóa bởi
quyền lực,
địa vị, danh
vọng, tiền
bạc và làm
cho nó suy
đồi nhanh
chóng thay
vì tăng
trưởng. Hiện
tượng các
tôn giáo đua
nhau xây
chùa, nhà
thờ hoành
tráng, tổ
chức nghi lễ
rườm rà và
tâm lý nặng
về mê tín
thay vì tâm
linh trong
quần chúng
hiện nay đã
là một hiện
tượng đáng
báo động.
Ngay trong
Vesak vừa
qua, chính
một số Phật
tử cũng đã
tỏ ra không
hài lòng vì
tính chất
phô trương
hình thức
trong việc
tổ chức ở
một số địa
phương.
Với mục đích
hướng thiện,
giải khổ,
giải thoát
cho con
người, Phật
giáo và các
tôn giáo có
đóng góp rất
lớn trong
việc duy trì
và phát
triển đạo
đức xã hội,
giáo dục con
người biết
làm lành
lánh dữ, mở
rộng tình
yêu thương,
sống hòa
bình và bao
dung cũng
như làm có
hiệu quả các
công tác từ
thiện. Tinh
túy của các
giáo lý cũng
có thể được
vận dụng vào
triết lý
chính trị
của quốc gia
để chính trị
không hoàn
toàn là thực
dụng, kỹ trị,
vụ lợi, tàn
nhẫn… mà
thực sự chăm
lo đến hạnh
phúc của con
người. Một
nền chính
trị có màu
sắc tâm linh
không phải
là một điều
ngớ ngẩn hay
không tưởng
mà là một
vấn đề đáng
suy gẫm. Tuy
nhiên khi
một tôn giáo
trở thành
quốc giáo,
điều đó khác
hẳn và đôi
khi trở
thành tai
họa cho
chính tôn
giáo đó và
cho cả dân
tộc. Một vài
thí dụ về sự
hưng thịnh
của Phật
giáo hay
Thiên chúa
giáo trong
lịch sử Việt
Nam hay các
nước phương
Tây không đủ
để luôn luôn
đi đến một
kết luận
hoàn toàn
tốt đẹp về
vai trò của
một quốc
giáo. Có
không ít thí
dụ lịch sử ở
nhiều nước
mà kết quả
ngược lại.
Trần Kiêm
Đoàn trong
bài “
Nhật
ký Vesak”
(talawas
ngày
20.5.2008)
đã đưa ra
nhận xét rất
đáng chú ý
khi một số
tăng ni,
Phật tử tham
dự Vesak mà
anh tiếp xúc
khẳng định
họ không
thuộc bên
nào cả (thân
hay chống
chính quyền),
họ chỉ là
người con
Phật, đi
theo đường
giác ngộ của
Đức Phật.
Trần Kiêm
Đoàn gọi đó
là “hướng
chánh đạo
phá vô minh”.
Có thể chính
những người
như thế sẽ
hoằng dương
Phật pháp
chứ không
phải là hàng
giáo phẩm
nếu những
người này
còn hệ lụy
vì những mưu
đồ thế tục.
Qua sự kiện
Vesak, cả
hai phía nhà
nước và Phật
giáo đều có
thể tự cho
mình đạt
thắng lợi.
Nhìn bề
ngoài, phải
chăng đó là
một kiểu
“win-win”
đôi bên cùng
thắng? Điều
này có thể
không mâu
thuẫn hay ba
phải, đặc
biệt trong
hoàn cảnh
Việt Nam.
Ở
đây, cuộc
vận động dân
chủ hóa đất
nước, chống
độc tài toàn
trị là một
cuộc đấu
tranh không
có chiến
tuyến rõ
ràng mà diễn
ra trên mọi
lãnh vực,
với từng
người, từng
tôn giáo,
từng tổ chức
xã hội và
thắng bại
xen kẽ nhau
có vẻ như
không rõ
ràng.
Phải lấn
từng bước,
thực hiện
chính phương
châm của
những người
cộng sản
trong chiến
tranh là
“nắm thắt
lưng địch mà
đánh” theo
một cách
thức khác ôn
hòa, bất bạo
động nhưng
khôn khéo,
không sợ hãi,
tỉnh táo và
kiên quyết.
Chỉ khi đại
bộ phận nhân
dân ý thức
và thực hiện
được điều đó,
nền dân chủ
đích thực ở
Việt Nam mới
có cơ may
hình thành.
Tuy nhiên,
ai thắng
thực sự, ai
thắng hình
thức, ai
thất bại và
cuộc đấu
tranh vẫn
còn diễn ra
hay đã kết
thúc là điều
cần nhìn
nhận một
cách thật
tỉnh táo,
chính xác.
Nếu nhìn
nhận không
đúng, đưa
đến sự chia
rẽ sâu đậm
thêm trong
Phật giáo và
sự lệ thuộc
của Phật
giáo vào
chính quyền
nặng nề hơn
thì nhà nước
đã thắng lớn
và Phật giáo
đã thất bại
dù có được
hình thức
phô trương
rầm rộ bên
ngoài.
Trong việc
tổ chức
Vesak, nhà
nước đã có
sự thích
nghi nhanh
chóng và
khéo léo.
Thực tâm hay
thủ đoạn để
lấy lòng dân?
Dù muốn hay
không, về
lâu dài, một
nhà nước
không được
nhân dân ủng
hộ nhất định
sẽ sụp đổ.
Bài học “chở
thuyền cũng
là dân, lật
thuyền cũng
là dân” đã
là bài học
lớn trong
lịch sử Việt
Nam. Trên
bình diện
nhân loại
cũng chưa
từng có một
chế độ độc
tài toàn trị
nào tồn tại
mãi.
Nguyễn Tường
Bách là một
trí thức
Phật tử đã
dành 10 năm
để đi chiêm
bái các
thánh tích
và vùng đất
tâm linh ở
Ấn Độ, Trung
Quốc, Tây
Tạng và ghi
lại trải
nghiệm của
mình trong
một tập bút
ký hàm súc
nặng chất
suy tư có
tên gọi
Mùi hương
trầm.
Anh nêu nhận
định, Phật
giáo đã diệt
vong từ thế
kỷ 11,12 ở
Ấn Độ, Thiền
tông ở Trung
Quốc đã bùng
lên và tàn
lụi cách đây
nhiều thế kỷ
và nếu sắp
tới nền văn
minh Tây
Tạng chết đi
thì đó là
lúc Phật
giáo suy tàn
trên toàn
thế giới.
Tuy nhiên
anh viết
tiếp:
“
Nhưng,
đức Thế Tôn
cũng đã
chẳng nói,
giáo pháp
của Ngài
cũng sẽ diệt
vong như mọi
chuyện trên
đời. Cái gì
có sinh, cái
đó có diệt,
đó là quy
luật.
… Đạo
Phật có thể
diệt vong
nhưng triết
lý nhận thức
và hành động
của nó vẫn
tồn tại, có
thể dưới một
tên gọi khác,
nó ‘được
khám phá lại
một cách mới
mẻ’.
… Ngày
đó, người
giảng pháp
Phật không
hề mặc áo tu
sĩ mà có thể
là một nhà
vật lý học
hay sinh vật
học.”
(Nguyễn Tường
Bách,
Mùi hương
trầm,
nxb Trẻ, bản
in lần thứ 6
năm 2005,
trang 372)
Sự
minh triết
của Phật
giáo và
nhiều tôn
giáo khác
nằm trên
tầng cao
nhận thức và
tâm linh
nhưng những
hoạt động
của các tôn
giáo, nhất
là thông qua
các giáo hội
lại mang
tính thế tục
và chịu sự
chi phối
mãnh liệt
của các chế
độ chính trị.
Nhìn nhận và
hành xử như
thế nào
trong mối
quan hệ này
chính là vấn
đề sinh tử
của các giáo
hội, gắn
liền với vận
mệnh của các
dân tộc mà
nó đã thâm
nhập và đồng
hành.
Bài viết này
thể hiện
nhận định
của một
người không
phải Phật
tử, không
hiểu lắm nội
tình của
Phật giáo,
cũng không
phải là tín
đồ của tôn
giáo nào
nhưng ngưỡng
mộ sự minh
triết của
giáo lý Phật
giáo cũng
như tinh túy
của các tôn
giáo khác.
Nhận định
căn cứ trên
những gì đã
diễn ra mà
mọi người có
thể thấy
được, có thể
còn phiến
diện, chưa
phân tích
thấu đáo
nhiều khía
cạnh, nhưng
phải chăng
trước những
vấn đề chung
của đất
nước, mọi
người đều có
quyền và
trách nhiệm
bày tỏ quan
điểm của
mình. Hi
vọng các bậc
thức giả sẽ
giúp làm
sáng tỏ thêm
vấn đề rất
phức tạp và
nhạy cảm
này.
Đà Lạt
ngày 25.5.08