Từ bao năm qua, đã thành thông lệ,
cứ mỗi lần xuất bản một tập thơ, Đông Trình lại gởi tặng cho tôi, và
chắc cho nhiều bạn bè thân khác nữa, một bản đặc biệt với lời đề
tặng rất trân trọng và thân thiết. Đó là thói quen của các tác giả
khi xuất bản sách, nhưng đối với chúng tôi, đây còn là biểu hiện của
tình thân và sự chia sẻ. Tình thân của những người bạn cố tri từ gần
ba mươi năm qua, chia sẻ của mỗi chặng đường sáng tác, trong đó bao
gồm những chuyển biến của nhận thức, tình cảm và tâm trạng.
Tập thơ mới nhất của Đông Trình vừa
gởi tặng tôi trong mùa thu 93 này là một tuyển tập thơ với tựa đề
“Rừng và hoa” do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành. Đây là tập tuyển
những bài thơ viết trước năm 1975 của tác giả bao gồm các bài trích
từ 4 tập thơ đã xuất bản và một số bài đã in trên các báo qua ba
giai đoạn: 1965-68 (Khi mùa mưa bắt đầu, Lót ổ cho đại bác), 1969-72
(Rừng dậy men mùa), 1973-75 (Hoa đã hướng dương). Chỉ đọc tựa đề các
tập thơ, ta cũng có thể hình dung con đường đi của thơ và của chính
tác giả.
Tuyển tập gồm những bài thơ đã xuất
bản, nhưng khi đọc lại, trong hoàn cảnh hiện nay, chúng gợi cho tôi
những gì xưa cũ đồng thời với những suy nghĩ vô cùng mới mẻ.
Xin gió rừng ôn lại cho chúng mày
Về những đêm nằm chung
Không đứa nào còn nhận ra được
chân tay mình
Về những ly cà phê
Trả bằng những đồng tiền kẽm sót
dưới đáy túi mỗi đứa
. . .
Về những mai hội thảo
Về những chiều bàn luận
Về trên Thiên Thai về dưới Cửa
Thuận
Về trong phòng họp về ngoài nhà
thuê
Về những đêm vào tù
Về những ngày ra khám
Về huy hoàng và tủi nhục
Về kiêu hãnh và mọn hèn
Về mặt trời và đom đóm
Về mặt trăng và dế mèn
(Với bạn bè ở
miền núi)
Đó là tình thân
và cuộc sống của những chàng sinh viên rất nghệ sĩ, đa cảm và sục
sôi nhiệt huyết muốn nhận đường, hành động và hiến dâng cho đất nước
trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở Miền Nam Việt Nam.
Bạn bè ta, những thằng nuôi chí
lớn
Luyện văn chương thành một lưỡi
gươm thần
Đứng với ngu phu làm người hảo
hớn
Sống giữa đời hèn mà rất triết
nhân
. . .
Có những chiều vàng ta lên núi
Cùng anh em trích máu ăn thề
Bao giờ quê hương còn lửa khói
Chí cả đường dài ta cứ đi
Tuổi thanh xuân ta hề chất ngất
cao vọng
Thở dài hơi trong một quả tim
hồng
Tuổi thanh xuân ta hề căng như
mặt trống
Như mũi tên chờ trên cánh cung
(Hành ca cho một
tương lai đã nhìn rõ mặt)
Những câu thơ gợi nhớ
về một thời kỳ khó quên, cũng là một mốc dấu lớn trên con đường đi
tới của những người trẻ tuổi sớm ưu tư về vận nước.
Năm 1965, trong một ngày đẹp trời,
hơn 20 sinh viên của các phân khoa thuộc Đại học Huế, trong đó phần
lớn là sinh viên ban Việt văn của trường Đại học Sư Phạm, rủ nhau
lên núi Thiên Thai ở ngoại ô Thành phố Huế họp mặt để “trích máu ăn
thề”. Thực tế không có “trích máu” theo nghĩa đen, nhưng đỉnh núi
Thiên Thai hôm ấy đã chứng kiến sự quyết tâm chủa những chàng trai
20 tuổi sục sôi máu nóng và nung nấu chí khí. Sau đó họ đã hình
thành một tổ chức lấy tên là Hội Hồng Sơn, tổ chức hoạt động văn học
nghệ thuật yêu nước và tiến bộ, ban đầu hoạt động trong phạm vi Đại
học Huế, mấy năm sau đổi tên là Nhóm Việt và dần dần phát triển rộng
ra nhiều tỉnh ở Miền Nam Việt Nam, hoạt động liên tục cho đến năm
1975.
Thế hệ chúng tôi là một thế hệ đầy
ưu tư và chất men lý tưởng. Ở tuổi hai mươi, đang ngồi trên ghế
giảng đường đại học, vẫn học, vẫn yêu và lao vào những cuộc đấu
tranh trên đường phố với tâm trí luôn bị ám ảnh bởi niềm đau của một
đất nước đầy bất hạnh:
Ta đã ngồi chờ bao nhiêu năm
Nhìn cảnh binh đao ruột tím bầm
Sống giữa quê hương làm người đất
trích
Tự gõ mà ca một khúc lưu vong
(Đêm nghe pháo
kích, dậy đọc cổ thi)
Lớn hơn một chút, khi ra trường đi
dạy học hay đi làm bất cứ việc gì, ở bất cứ nơi đâu, dù phải lo
chuyện cơm áo ngày thường, không vô tư về chuyện này như xưa nữa, lo
gia đình vợ con, tương lai sự nghiệp, chúng tôi vẫn không thôi khắc
khoải:
Làm sao kể với em
Tâm trạng anh những buổi chiểu ở
phương xa
Từ một ngôi trường nằm sấp mình
bên quốc lộ
Anh, rác rưởi và học trò
Cúi đầu nhìn nhau nghe đời thối
rữa
Mưa giăng mù trời đốt thuốc liên
miên
Xót xa vô cùng thân anh nhà giáo
Sơn quét đời mình như tấm bảng
đen
. . .
Làm thế nào nói với em về những
đứa học trò
Ban ngày đến trường, ban đêm rước
khách
Gặp thầy ở mỗi ngã ba
Chiếc áo nữ sinh không che sự
thật
(Vô cùng
linh thiêng như nghe theo tiếng gọi)
Tâm trạng này một phần
do hoàn cảnh lịch sử và xã hội tác động mạnh đến những ngưởi có
lương tri và tâm huyết, nhưng thực ra đã có cội nguồn từ sâu xa
trong lịch sử. Hơi thở của lịch sử đã thấm đẫm vào máu thịt của
chúng tôi từ khi nghe mẹ kể chuyện cổ tích, nói tục ngữ, hát ru ca
dao và từ những trang viết vụng dại đầu đời học sử của tiền nhân:
An hạt cơm trời mỗi ngày ba bữa
Có bao giờ em thấy buốt chân
răng?
Bởi máu tổ tiên đã nẩy mầm trong
lúa
Và mồ hôi làm phân bón cho đồng
Trên dòng sông hàng ngày ta vẫn
tắm
Có bao giờ em thấy rợn trong da?
Thuyền độc mộc kiêu hùng như
chiến hạm
Xác quân thù thêm mầu mỡ phù sa
Mỗi đỉnh núi là một đồn phòng ngự
Rừng cho ta bao nhiêu gậy tầm
vông?
Mỗi hang đá là một hầm cố thủ
Gỗ trăm cây đều bát ngát như trầm
(Hạo khí ca)
Do thế, tất cả chúng
tôi dù khi lớn lên sống xa nhau, mỗi người mỗi cảnh, bằng những con
đường và cách thế khác nhau, nhưng hầu hết đều nhập cuộc, chiến đấu
cho cùng một lý tưởng, chính là ước mơ đã hình thành từ thời trẻ
tuổi:
Dù rất xa nhưng đường đi phải tới
Vì đau thương đã nạm ngọc chân
người
Tim đập nhanh theo trăm ngàn bước
vội
Trong đêm buồn đã thấy rõ ngày
vui
Hãy thức dậy cùng tôi chào thành
phố
Gởi lời chia vui đến những con
đường
Sáng nay người về cờ hồng lối gió
Trên đỉnh này ta thắp sáng quê
hương
Xin mở cửa ra nhìn nhau bốn phía
Gọi bà con đem phân phát nụ cười
Đuổi khỏi bóng đêm từ lâu ngự trị
Đuổi lời vu oan hờm sẵn trên môi
(Một thành phố cho
tương lai)
Chúng tôi hòa mình
trong niềm đau chung của tổ quốc, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc
anh hùng nhưng chịu nhiều tai ương. Chúng tôi không sao có thể bình
yên để hưởng thụ cho riêng mình mặc dù chúng tôi có khả năng để
hưởng thụ nếu mình nuốn, như một số người khác ở thế hệ chúng tôi đã
làm:
Sáng hôm nay anh dừng lại bên
đường
Có thấy những mẹ già nón cời áo
rách
Hàng triệu trẻ con tong teo ốm
nhách
Quỳ mọp dưới chân người tìm hạt
cơm rơi
Và có bao giờ trong lịch sử loài
người
Ký giả xuống đường mang theo bị
gậy
Giữa Sài gòn xa hoa lộng lẫy
Trí thức văn nhân … đói áo đói
cơm
. . .
Những người chết hôm nay muôn đời
mắt còn mở
Họ nhìn chúng ta khẩn thiết van
lơn
Họ hỏi chúng ta cây trái Trường
Sơn
Sông rạch biễn ngòi thênh thang
tôm cá
Đồng bằng Cửu Long phì nhiêu mầu
mỡ
Đã thấm nhuần xương thịt cha ông
Họ hỏi chúng ta về những cánh
đồng
Lúa gạo đi đâu không vào kho tổ
quốc
. . .
Người bạn tôi sáu con một vợ
Dạy bốn mươi giờ mà ăn cháo thay
cơm
Đêm về lén vợ đi lái xe ôm
Gặp học trò cúi đầu dưới ánh đèn
thành phố…
(Vì những
người chết không nhắm mắt)
Vì thế, không thể nào
khác, chúng tôi đã lần lượt đến với “cách mạng”, ít nhiều góp phần
mình cho ngày lịch sử 30/4/75, ngày “giải phóng hoàn toàn Miền Nam
Việt Nam, thống nhất tổ quốc”. Ở thời điểm này, chúng tôi tự hào và
kiêu hãnh đứng về phía những người chiến thắng, đứng về phía nhân
dân Việt Nam.
18 năm sau ngày lịch sử ấy, tôi đọc
lại thơ Đông Trình và thấy mọi chuyện như lại mới bắt đầu thuở chúng
tôi tuổi hai mươi, gần 30 năm trước, với những niềm đau và nấu nung
khát vọng mới. “Dù rất xa nhưng đường đi phải tới”. Chúng tôi đã
“tới” nhưng không “đến” được với niềm mơ ước của mình.
Bài thơ “Vì những
người chết không nhắm mắt” có thể viết cho ngày hôm nay, từ nội
dung, tinh thần cho đến từng chi tiết.
Ngày hôm nay, Việt Nam vẫn là một
trong những nước nghèo đói nhất trên thế giới với hàng triệu người
thất nghiệp, hàng triệu trẻ em suy dinh dưỡng, hàng vạn người ăn xin
và gái điếm. Lúa gạo có năm xuất khẩu đứng hàng thứ ba trên thế giới
nhưng trong nước vẫn có người chết đói. Tài nguyên thiên nhiên, rừng
vàng biển bạc bị khai thác vô tội vạ, có thứ đã hầu như cạn kiệt.
Nhiều nơi đã công khai thừa nhận “cơ bản hoàn thành việc phá rừng”.
Thế nhưng tiền bạc không vào tay nhân dân mà chỉ vào túi một thiểu
số lãnh đạo cầm quyền và bọn cơ hội, tư sản mới cả xanh và đỏ trong
một chế độ kinh tế gọi là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa , thực
chất là kinh tế tư bản man rợ mà chủ nghĩa cộng sản đã lên án từ bao
nhiêu năm qua. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra gay gắt. Những người
giàu lên nhanh chóng phần lớn là cán bộ có chức quyền có điều kiện
ăn cắp, tham nhũng, hối mại quyền thế và những kẻ làm ăn bất chính.
Đại bộ phận nhân dân làm việc cơ cực không đủ ăn.
Những nhà giáo vẫn nhận đồng lương
chết đói và “không phải đêm về lén vợ đi lái xe ôm, Gặp học trò cúi
đầu dưới ánh đèn thành phố” mà còn được vợ khuyến khích đi làm thêm
như thế để kiếm tiền. Trước đây người ta xem chuyện đó như một điều
bất đắc dĩ tủi hổ nhưng nhiều người bây giờ xem đó là một lối thoát.
Lái xe ôm, biết nói đôi chút tiếng Anh, tiếng Pháp để chở khách nước
ngoài có thể kiếm được tiền gấp năm, gấp mười lần lương giáo
viên.
“Trí thức văn nhân” vẫn “đói áo đói
cơm” và không hề có một chút tự do ngôn luận, báo chí, xuất bản dù
hiến pháp ghi đầy đủ mọi thứ tự do của con người. Tất cả báo chí đều
là công cụ của Đảng và Nhà nước nói theo một giọng tuyên truyền.
Tháng 2/1989, Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ Thành Phố Hồ
Chí Minh khi xin phép ra báo không được đã gởi văn bản cho Nhà nước
tố cáo chính sách về báo chí hiện nay còn thua xa thời Pháp thuộc.
Thời đó, những người Cộng sản hoạt động chống Pháp còn có điều kiện
ra báo chí, in sách hơn là trí thức, những người làm báo hiện nay. Ở
Miền Nam trước 1975, một mình Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn) cũng ra
nổi một tờ báo. Anh em nhóm Việt chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn
vẫn có sách xuất bản, có thể tự mình ra báo hoặc cộng tác, tham gia
chủ biên nhiều tờ báo đối lập. Ngày hôm nay, những người như anh em
nhóm Việt và nhiều nhà văn, nhà báo khác không đủ tài năng và trình
độ để ra báo hay sao? Trong khi đó, việc độc quyền báo chí, xuất
bản, đã mang lại điều gì tốt đẹp? Sách báo đứng đắn, có giá trị hiếm
hoi. Nạn sách đen, sách dâm ô đồi trụy, kích động bạo lực lan tràn.
Các nhà xuất bản, các tờ báo vẫn chịu sự chi phối của các tay đầu
nậu lắm tiền, chạy theo kinh doanh bất chấp văn hóa. Một số người mù
tịt về văn học nghệ thuật vẫn ngang nhiên quyết định số phận của
những tác phẩm văn học nghệ thuật đầy trí tuệ, lương tri và tâm
huyết.
Không phải nói về mình một cách tự
kiêu nhưng những anh em nhóm Việt đã làm báo và có tác phẩm được
nhiều người đọc và ủng hộ ở Miền Nam trước đây, được đánh giá là
những trí thức, nhà văn yêu nước và tiến bộ, đã được Đài Tiếng Nói
Việt Nam va Đài Phát Thanh Giải Phóng tuyên truyền và ca ngợi, đã
được Nhà Xuất Bản Giải Phóng chọn in thành tuyển tập từ trước 1975,
họ không phải là những kẻ bất tài hay làm cách mạng theo đuôi. Không
phải chỉ anh em nhóm Việt mà còn nhiều nhà văn, nhà báo kỳ cựu ở
Miền Nam ở trong hoàn cảnh tương tự mà người ta thường coi là những
ngưởi thiên tả, thân cộng hoặc yêu nước chân chính như Chân Tín,
Nguyễn Ngọc Lan, Thế Nguyên...
Vậy thì những câu thơ
của Đông Trình ngày nay vẫn còn nguyên giá trị:
Hãy thét cho
tôi triệu tiếng căm hờn
Hãy cứu báo ra khỏi tay bọn phần
thư Tần Thủy
Ngọn bút anh sắc bạo quyền cố bẻ
Nhưng có thể nào che mắt được
nhân dân
Và những câu hỏi lớn nhức nhối vẫn
được đặt ra:
Và tại sao có
những người nhân danh cả nước
Đi kiếm tiền như một bọn ăn xin
Và tại sao trên những buyn đinh
Tiếng rượu sâm banh nổ vang như
pháo tết
Dưới chân thang đồng bào ta gục
chết
Mà tiếng kêu thương không phá vỡ
những trận cười?
(Vì những người
chết không nhắm mắt)
Dĩ nhiên đây là hình
tượng của thơ. Nhưng hình tượng này có đầy đủ sức mạnh, sức tố cáo
và sức khái quát của những câu thơ đã được “mài như kiếm sắc”.
Đất nước ta nhỏ bé,
nghèo thật nhưng quyết không thể hèn hạ hay đi ăn xin. Nói “Không
có gì quý hơn độc lập tự do” mà luôn quỳ gối trước Nga, Tàu, đổi thù
thành bạn, đổi bạn thành thù như chong chóng. Theo Liên Xô, chống
xét lại rồi lại thân Liên Xô, rồi lại chống cải tổ. Tình hữu nghị
“núi liền núi, sông liền sông”, “môi hở răng lạnh”, đổi ngay thành
“kẻ thù truyền kiếp, trực tiếp và nguy hiểm”, rồi lại đổi tiếp thành
“hữu nghị lâu đời”, rồi chưa biết sẽ đổi thành gì nữa. Đế quốc Mỹ là
“kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm và lâu dài” nhưng sau chiến thắng lại
năn nỉ, khẩn cầu Mỹ bỏ cấm vận và thiết lập quan hệ bình thường. Mỹ
bỏ cấm vận là đúng và cần thiết nhưng không phải vì thế mà chỉ biết
van xin một cách hèn hạ.
Hoàn cảnh đất nước ta
cần hết sức đề cao sự nghiệp giữ nước, có chính sách ngoại giao khôn
khéo và thông minh. Đó không phải là điều mới mẻ gì. Những người
lãnh đạo đất nước ta hàng ngàn năm qua đã chứng minh và làm được
điều đó, dù là dưới chế độ “phong kiến thối nát” như cách đánh giá
của những người cộng sản.
Trước hết phải có tinh
thần Phù Đổng, lên ba chưa biết nói biết cười, nhưng khi nghe tin có
giặc, đã vươn vai thành dũng sĩ, nhảy lên ngựa đi cứu nước. Hai Bà
Trưng vì “nợ nước thù nhà”. Bà Triệu phận nữ nhi vẫn “quyết đạp làn
sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi”. Lý Thường Kiệt ngạo nghễ đọc bài
thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” và đem quân đánh Tống. Trần Hưng Đạo
và vua tôi, quân dân nhà Trần ba lần đại phá quân Nguyên là đế quốc
vô địch lừng lẫy thời đó. Nguyễn Trãi và Lê Lợi cùng quân dân cả
nước đánh bại nhà Minh và sang sảng đọc “Bình Ngô đại cáo”. Quang
Trung cho người giả thay mình đi triều cống nhưng vẫn chuẩn bị kế
hoạch xuất quân đòi lại đất Trung Quốc chiếm đóng.
Bản Tuyên ngôn độc
lập thành văn lần thứ nhất của đất nước ta chính là bài thơ của Lý
Thường Kiệt, lần thứ hai chính là bài “Bình Ngô đại cáo”, đâu phải
đến tháng 9/45 lần đầu ta mới có tuyên ngôn độc lập.
Người Việt Nam yêu nước nào không
rung động tâm can khi đọc lại “Bình Ngô đại cáo”:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xây nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc-Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối
đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi
bên xưng đế một phương
Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu
Những bài học lịch sử
sơ đẳng nhưng vô giá đó người Việt Nam mấy người không biết. Những
người cộng sản đừng tự kiêu rằng chỉ có mình mới làm nên những sự
tích thần kỳ và khôn ngoan, tài giỏi hơn cha ông. Chúng ta không bao
giờ bài ngoại, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại mở cửa và
thế giới là một mái nhà chung, nhưng không vì khó khăn mà chịu nhục,
mất quốc thể. Nếu lãnh đạo mà không đủ tài trí để lo cho dân cho
nước, để Việt Nam sau 18 năm “thống nhất, hòa bình, độc lập, tự do”
vẫn là một trong những nước nghèo đói nhất thế giới thì đừng đòi
“độc quyền lãnh đạo”. Dân tộc Việt Nam không thiếu người tài trí và
không nhân dân, lịch sử nào giao phó cho những người cộng sản độc
quyền lãnh đạo. Đó là điều họ tự nhận thôi. Hãy thử trưng cầu ý kiến
nhân dân, hãy có tự do bầu cử đi xem nhân dân sẽ tín nhiệm ai.
Trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc và giành quyền lãnh đạo, ban đầu những người cộng
sản đã chiến thắng nhờ có nhân dân ủng hộ và sách lược đúng. Chiến
thắng này không phải là một lần và mãi mãi. Thuận lòng dân thì còn,
nghịch lòng dân thì mất. Lịch sử đã chứng minh chân lý ấy. Ngày xưa
ông cha ta nói “Được làm vua, thua làm giặc.” Các triều đại phong
kiến ngày xưa cũng tự cho mình là thiên tử, thay trời để trị dân,
cho ai chống lại mình là nghịch mệnh trời, tự tung hô mình vạn tuế
nhưng mấy triều đại quá được trăm năm? Những người cộng sản phê phán
phong kiến sao vẫn tự mình hô muôn năm và đòi mãi mãi độc quyền lãnh
đạo? Hãy tự xem mình còn đủ năng lực và tín mhiệm để lãnh đạo không
chứ đừng tự huyễn hoặc mình và dùng bạo lực đè đầu cỡi cổ nhân dân,
buộc nhân dân phải phục tùng độc quyền lãnh đạo.
Nhân dân ta không chỉ “đói cơm đói
áo” mà vẫn còn “đói hòa bình, độc lập, tự do”. Hiện nay chúng ta có
thể có hòa bình, thực ra có hòa bình bên ngoài mà không hề có hòa
bình trong lòng. Hòa bình sao được khi “Lời vu oan hờm sẵn trên môi”
dành cho những người yêu nước nhưng không phục tùng độc quyền lãnh
đạo, khi lãnh đạo không phải là sáng suốt như mình tự nhận.
Còn độc lập, tự do thật sự đã có
chưa? Và những gì nữa?
Nhân dân ta
không chỉ đói cơm đói áo
Nhân dân ta đói Hòa Bình, Độc
Lập, Tự Do
Anh đói em, chồng đói vợ, thầy
đói trò
Ruộng đói người, đất đói phân,
cây đói trái
Nguồn đói nước, mẹ đói con,
thuyền đói lái
Thầy đói Phật, Cha đói Chúa, đạo
đói lương tâm...
(Vì những người
chết không nhắm mắt)
Đúng là “những người
chết không nhắm mắt” và những người sống lại càng không thể yên
lòng. Cả một sự nghiệp của dân tộc với hàng triệu người hi sinh
trong bao nhiêu năm lại chỉ dẫn đến kết quả y như cũ và còn tệ hơn
cũ hay sao?
Tình cờ lúc tôi đọc tập thơ “Rừng
và hoa” lại nhận được bài viết “Nhức nhối” của Nguyễn Thế Hùng, cán
bộ nghỉ hưu ở Đồng Tháp viết từ năm 1989. Bài viết nêu ba trường hợp
nhà văn, trí thức bị Đảng xử trí oan, không cần luật pháp vào những
năm 60.
Tuân Nguyễn, công tác ở Đài Phát
Thanh Truyền Hình Việt Nam bị bắt giam giữ 6 năm không có án. Sau
khi được tha, hai vợ chồng phải đi dọn hố xí hai ngăn cho nhiều gia
đình ở Hà Nội để kiếm sống. Năm 1983, anh chết vì một tai nạn giao
thông, chưa kịp có thời gian để làm lại cuộc đời. Trong đám tang của
anh, Huy Lam, một người bạn thân thiết đã đọc lời điếu bằng thơ:
Thời đại như ngả ba sông
Anh như con thuyền giữa dòng nước
xoáy
Thuyền anh vượt thẳng, mà sông
lại cong
Chạm bờ sông, nước dìm anh tận
đáy...
Vũ Thư Hiên, công tác
ở ngành điện ảnh, đi học ở Liên xô về, hiểu biết và thông thạo nhiều
lĩnh vực, cũng bị bắt giam 9 năm không có án. (Tiểu thuyết “Miền thơ
ấu” của anh được tặng giải A trong giải thưởng cho những tác phẩm
xuất sắc năm 1988 của Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà Văn Việt
Nam).
Hoàng Minh Chính, hoạt động cách
mạng từ năm 14 tuổi, từng bị Pháp bỏ tù ở Sơn La với án 10 năm khổ
sai, 10 năm biệt xứ, từng làm Bí thư Thanh niên Trung Ương, chỉ huy
trưởng đội “Quyết tử quân” đánh phá sân bay Gia Lâm (Hà Nội), đi học
Trường Đảng cao cấp của Liên Xô, làm Viện trưởng Viện Triết học
thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
Hoàng Minh Chính bị
Đảng bắt giam hai lần, tổng cộng trên 16 năm. Về hai trường hợp của
Tuân Nguyễn và Vũ Thư Hiên, Nguyễn Thế Hùng không nói rõ lý do nhưng
đối với Hoàng Minh Chính nêu lý do rất cụ thể.
Tháng 12/1963, trong hội nghị Trung
Ương Đảng lần thứ 9, Hoàng Minh Chính đã viết hai kiến nghị: Kiến
nghị thứ nhất lý giải và đề nghị tuân thủ trung thành với Tuyên bố
chung của Hội nghị 81 đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ký kết vào năm 1960. (Tuyên bố chung này đã đề
ra các đường lối chính trị, các nguyên tắc và khẩu hiệu rất tiến bộ
như “Chiến tranh không phải là định mệnh. Có khả năng loại trừ chiến
tranh khỏi đời sống xã hội. Chung sống hòa bình giữa các chế độ xã
hội khác nhau”...) Tuy nhiên sau hội nghị năm 1960 này, đã có sự
chia rẽ, do đảng Cộng sản Trung quốc, đứng đầu là Mao Trạch Đông,
lôi kéo một số đảng anh em chống lại bằng các luận điểm tả khuynh
cực đoan trái với tuyên bố mà họ đã ký kết như “Bản chất chủ nghĩa
tư bản đế quốc là xâm lược. Còn đế quốc còn chiến tranh. Chiến tranh
là tất yếu. Liên xô là con ngựa thành Troie, kẻ thù nguy hiễm nhất
của cách mạng thế giới. Khơrút sốp là tên xét lại”...) Kiến nghị thứ
hai lý giải về mặt lý luận Mác-Lênin và sự sai trái, phản động, phản
cách mạng của chủ nghĩa Mao.
Trong hội nghị Trung ương Đảng 9
ngày, phe thân Trung quốc thắng thế nên một số ủy viên Trung ương
Đảng bị treo giò, Hoàng Minh chính và một số người khác do đấu tranh
kiên cường như Đặng Kim Giang (thiếu tướng), Phạm Kỳ Vân (Phó tổng
biên tập tạp chí lý luận của Trung ương), Trần Minh Việt (Phó bí thư
thành ủy Hà Nội)... đã bị quy tội là “xét lại, chống Đảng” và bị bắt
giam ngoài pháp luật.
Sau khi bị bắt giam lần đầu được
tha, đến tháng 6/1981, trong kỳ họp Quốc hội khóa 7, Hoàng Minh
Chính lại viết một bản kiến nghị gởi Quốc hội. Kiến nghị nêu lên một
loạt khuyết điểm nghiêm trọng trên các bình diện chính trị, kinh tế,
quân sự, xã hội, cả đối nội và đối ngoại, trong đó đã mất cảnh giác
với Trung quốc (sự kiện Trung quốc đưa 60 vạn quân đánh vào 6 tỉnh
biên giới phía bắc hồi tháng 2/79), đồng thời phê phán việc đi theo
chủ nghĩa Mao, rập khuôn nhiều cái theo Trung quốc, đẩy đất nước vào
tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng toàn diện như việc hợp tác hóa
nông nghiệp dẫn đến cảnh người nông dân nhiều nơi bị đói, phải đi ăn
xin cả làng (Thanh hóa), nêu những yêu cầu khẩn thiết phải sớm cải
thiện đời sống nhân dân, đổi mới cơ cấu tổ chức, giải quyết các vụ
bê bối nghiêm trọng cấp nhà nước, mở rộng tự do dân chủ cho nhân
dân...
Sau kiến nghị này, Hoàng Minh Chính
lại bị bắt giam lần thứ hai, đưa về giam giữ ở Hải Hưng về tội
“kích động Quốc hội”.
Trong bài viết “Nhức nhối” trên đây,
Nguyễn Thế Hùng còn nói rõ vào năm 1985, tác giả có gặp Chủ tịch Hội
Đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng yêu cầu xem xét và trả tự do cho Hoàng
Minh Chính, ông Phạm Văn Đồng ghi nhận nhưng sau đó không có giải
quyết gì cụ thể.
(Lại một tình cờ lạ lùng, khi tôi
vừa viết xong những dòng trên đây, lại được đọc một đơn kiện của
Hoàng Minh Chính, viết ngày 27/8/93 yêu cầu xét lại vụ án của mình,
với nội dung như trong bài viết của Nguyễn Thế Hùng và tố cáo đích
danh tập đoàn Cộng sản tàn ác lộng quyền do Lê Đức Thọ đứng đầu.
Trong đơn kiện này, ông Hoàng Minh Chính cũng kiến nghị với Quốc hội
khóa 9 loại bỏ điều 4 trong Hiến pháp 1992 về sự áp đặt quyền độc
tôn của dảng. Theo ông, “sự độc quyền đó đã đặt các cấp ủy đảng đứng
trên pháp luật nhà nước, vô hiệu hóa tất cả các bộ máy nhà nước
trước sự lộng quyền của một vài cá nhân và nhóm người nhân danh Đảng
lãnh đạo. Các quyền tự do dân chủ được trịnh trọng ghi trong hiến
pháp và các văn bản pháp luật do đó chỉ còn là những mỹ từ trống
rỗng”.)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi
đọc loại bài như bút ký “Nhức nhối” của Nguyễn Thế Hùng. Tôi nhắc
đến bài viết của Nguyễn Thế Hùng ở đây vì tôi đọc nó cùng lúc khi
đọc lại thơ Đông Trình. Tôi liên tưởng đến vấn đề vào cùng một thời
điểm lịch sử, khi anh em chúng tôi và nhiều trí thức Miền Nam khắc
khoải nhận đường để tìm về với “cách mạng”, “cống hiến cho cách
mạng” với nhiệt tâm cháy bỏng của mình, thì chính “cách mạng” lại
đối xử với đồng chí mình như thế nhưng chúng tôi lúc đó nào có biết.
Cách mạng đối với chúng tôi chỉ là lý tưởng ngời sáng giải phóng dân
tộc, độc lập, tự do, công bằng xã hội. Chúng tôi đã hiểu quá ít về
“cách mạng”.
Những trường hợp Tuân Nguyễn, Vũ
Thư Hiên, Hoàng Minh Chính không phải là những trường hợp cá biệt
trong lịch sử giành và giữ chính quyền của những người Cộng sản.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào, đào
tận gốc, trốc tận rễ” vào năm 1930, chính sách cải cách ruộng đất
năm 1954, vụ án Nhân văn-Giai phẩm vào các năm 1956-57, chính sách
cải tạo đối với “ngụy quân, ngụy quyền”, chính sách cải tạo nông
nghiệp và công thương nghiệp sau l975... Và mới gần đây, sau thời kỳ
gọi là đỗi mới, Đảng và Nhà nuớc vẫn tiếp tục trù dập các nhà văn
Nguyên Ngọc, Dương thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Hà Văn Thùy, Trần
Huy Quang... , ban biên tập các tạp chí Sông Hương, Cửa Việt, Văn
nghệ Nha Trang, cả báo Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ… (Những người
không chịu phục tùng một cách máy móc, nô lệ), dành những bản án
nặng nề cho những người đấu tranh cho dân chủ một cách hòa bình như
các nhóm của Nguyễn Đan Quế, Đòan Viết Họat … , đàn áp thô bạo những
người dám nói tiếng nói của lương tri như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan,
Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu … , trong đó có những
người là cán bộ, đảng viên kỳ cựu hoặc ủng hộ Cộng sản, đã cống hiến
cho sự nghiệp chung bao năm qua. Chính bản thân tôi, cùng với Bùi
Minh Quốc trong vụ Hội Văn Nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian, đã tự
thân cảm nhận sâu sắc điều này về cách đối xử của những người lãnh
đạo Cộng sản đối với những người bất đồng quan điểm.
Tất cả đã mang lại
điều gì cho đất nước, cho dân tộc?
Tôi không phủ nhận
lý tưởng cao đẹp thuở ban đầu, sự hi sinh cống hiến và công lao của
những người Cộng sản trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên,
theo một cách nhìn nhận nào đó, ngay cả những điều này cũng cần xem
xét lại (về phương thức, về cái giá phải trả…) Tôi không bàn điều đó
ở đây. Chính tôi cũng đã từng có thời gian khao khát hướng về chủ
nghĩa Cộng sản, tìm đến những người Cộng sản, đã là đảng viên Cộng
sản trong mười lăm năm cho đến khi bị khai trừ vì bất dồng quan điểm
với những người lãnh đạo Cộng sản hiện nay.
Năm 1966, thuở hai mươi, khi còn là
sinh viên trong cao trào đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chủ của
sinh viên học sinh Miền Nam, tôi kinh tởm khi đọc bài thơ ca ngợi
Stalin “Đời đời nhớ Ông” của Tố Hữu:
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
…
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương
Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy
nhiêu.
Nửa năm sau, khi
phong trào đấu tranh bị đàn áp, trong nhà giam, tôi gặp một người tù
Cộng sản, người chiến sĩ du kích hơn tôi vài tuổi, ở nông thôn, chỉ
mới học hết tiểu học, đã ở tù ba năm, chịu bao nhiêu cuộc tra tấn,
mắt vẫn rực lửa hận thù và lòng tin sắt đá đã chinh phục được tôi.
Người chiến sĩ du kích này không nói với tôi về chủ nghĩa Mác-Lênin
nhưng anh và tôi đã đồng cảm sâu sắc về khát vọng độc lập, tự do,
hòa bình, hạnh phúc cho tổ quốc, cho nhân dân. Tôi đã chia sẻ với
anh từ nửa chiếc khăn mặt, gói muối mè, điếu thuốc trong nhà tù và
cả tâm tình đau đớn của anh khi phải chia tay người vợ trẻ vừa mới
cưới.
Phải chăng chính tình
tự dân tộc và những khát vọng có tính lâu dài, phổ quát mới là những
giá trị vĩnh cửu và đẹp đẽ, trong sáng nhất mà mỗi người có thể cảm
nhận thuở mới vào đời. Còn chủ nghĩa, tất cả các chủ nghĩa chỉ là
phương tiện để đạt tới cứu cánh. Các chủ nghĩa có thể sai lầm và
phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Thực tại biến chuyển không
ngừng và không chủ nghĩa nào có thể có giá trị vĩnh cửu. Lịch sử
nhân lọai không phải đã chứng minh điều đó quá rõ hay sao? Thế tại
sao chúng ta, kể cả các nhà chính trị, các nhà trí thức, các nhà
văn, lại có thể tin tưởng vào một chủ nghĩa, một giáo điều, tự mình
huyễn hoặc làm nhận thức sai lạc đi đến trở thành cuồng tín?
Văn nghệ không phi
chính trị nhưng văn nghệ không thể phục vụ mù quáng, làm công cụ
tuyên truyền cho một chủ nghĩa. Văn nghệ, về một phương diện, phải
là tiếng nói của lương tri. Lương tri phải nhận biết đúng sai, phải
biết phản kháng, phải nói lên sự thật. Nếu văn nghệ có sứ mệnh thì
sứ mệnh của văn nghệ phải chăng là đi theo con đường của tự do và
chân lý, mang lại cái đẹp, cái thiện cho cuộc sống của con người.
Chính trên con đường thênh thang này, văn nghệ mói có thể thể hiện
tài năng của người nghệ sĩ.
Trước Cách Mạng Tháng
Tám, một thế hệ nghệ sĩ đầy tài năng đã xuất hiện, tác phẩm của họ
thời đó đã làm rung động tâm hồn, chiếm lĩnh tình cảm của cả dân tộc
qua mấy thế hệ, cho đến tận ngày hôm nay. Thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính … Văn của Vũ Trọng
Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, nhóm Tự
Lực Văn Đòan … Nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Lê Thương, Cung Tiến, Đặng
Thế Phong …
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
khi người nghệ sĩ với lòng tự nguyện, dấn thân cho sự nghiệp độc lập
dân tộc, với hào khí vinh quang của người chiến sĩ ra trận, các tác
phẩm của họ cũng đã đi vào cuộc sống, trở thành tiếng hát chính trái
tim mỗi người. Nhưng khi người nghệ sĩ đã “giác ngộ”, tôn thờ một
chủ nghĩa, phục vụ cho một chế độ chính trị, tác phẩm của họ chỉ còn
là những bài tuyên truyền gượng gạo, lố bịch, những bản tụng ca một
chiều. Nếu người nghệ sĩ thực sự đầy tài năng thì tài hoa của họ
cũng chỉ phết được lớp sơn màu mè lên một nội dung thô nhám.
Tố Hữu là nhà thơ
cộng sản số 1, rất tài năng nhưng đã tạo nên "quái thai văn học" (
theo kiểu nói của Nguyễn Ngọc Lan ) " Đời đời nhớ ông" khóc Stalin.
Xuân Diệu, nhà thơ đắm
say của tình yêu và tuổi trẻ, những kiệt tác trong tập " Thơ thơ"
của ông đã được chép nắn nót trong sổ tay của hàng triệu thanh niên
qua nhiều thế hệ, sau năm 1954 ông sáng tác được gì ?
Tôi vẫn hoài nghi và chưa kiểm
chứng được không biết những "vần thơ" sau đây có phải thực sự là
của Xuân Diệu ( trích dẫn trong cuốn " Trăm hoa đua nở trên dất Bắc"
do Mặt trận bảo vệ tự do văn hóa xuất bản năm 1959 ở Sài gòn):
Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới
thăm
Nghe lời bác dạy khuyên răn
Chúng con ước muốn theo chân của
người…
Chúng con thề nguyện một lời
Quyết tâm thành khẩn… lột người
từ đây.
Anh em ơi, quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử
thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan
xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm
nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt qùy gục xuống, đọa đày chết
thôi.
Nếu quả đúng thơ Xuân
Diệu thì thật là khủng khiếp khi chính trị chi phối, chỉ đạo trực
tiếp văn nghệ, thật là khủng khiếp cho thơ ca phục vụ chính trị!
Nhưng còn thơ tình Xuân Diệu? Người ta ca ngợi nhiều bài thơ "
Biển" Xuân Diệu viết năm 1962:
… Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã
hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt.
So với những
"Giục giã", "Tương tư, chiều"… trong "Gởi hương cho gió" và "Thơ
thơ" của Xuân Diệu hay những "Ngậm ngùi", "Áo trắng"… trong "Lửa
thiêng" của Huy Cận đã ru hồn bao thế hệ với tình sầu và nỗi cô
liêu của kiếp người, thì các thi sĩ trong "phục vụ nhiệm vụ chính
trị" sau này còn sáng tác được bài thơ nào ra hồn hay đã trở thành
cán bộ, quan chức văn nghệ chỉ biết thảo công văn, đọc báo cáo và
đi dự tiệc?
Chế Lan Viên tài hoa và mê đắm
trong "Điêu tàn" cũng vẫn tài hoa, điêu luyện trong những bài tụng
ca " Người đi tìm hình của nước", " Tổ quốc có bao giờ đẹp như thế
này chăng" nhưng những bài thơ này phảng phất "mùi nghị quyết" và
không che được cái gỉa, cái gượng ép của một người làm thơ muốn
"nịnh đảng, nịnh lãnh tụ" để lập công.
Còn nguyên Hồng sau "Bỉ vỏ", Nguyễn
Công Hoan sau "Kép Tư Bền", Nguyễn Tuân sau " Vang bóng một thời"…,
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tác phẩm của họ còn có gì sẽ đứng
được với thời gian ?
Trong âm nhạc, Văn
Cao làm sao có thể sáng tác nổi thêm một "Thiên thai", một "Tiến
quân ca"… trong chế độ gọi là xã hội chủ nghĩa ưu việt. Và còn bao
nhiêu nhạc sĩ tài hoa khác tương tự như Văn Cao?
Người nghệ sĩ tự hủy hoại chính mình
và tác phẩm của mình khi phục vụ cho một chủ nghĩa, một chế độ chính
trị hay chủ nghĩa và chế độ chính trị đã làm thui chột tài năng,
hay cả hai điều này cộng lại đã tạo nên sự tàn phá khủng khiếp cho
văn học nghệ thuật trong những thời kỳ lịch sử?
Đã đến lúc chưa, chúng
ta tự hỏi và lý giải về điều này một cách nghiêm túc?
Tôi không viết được nhiều như một
số bạn cùng thời nhưng bản thân tôi cũng cảm thấy không thích khi
đọc lại truyện ngắn "Tự do hay là chết" của mình đăng trên tạp chí
Đối diện năm 1972. Cùng với một số bài viết khác có xu hướng tương
tự đăng trên báo chí Miền Nam lúc đó, truyện ngắn này đã được đài
Tiếng Nói Việt Nam, Đài Phát Thanh Giải Phóng tuyên truyền rộng rãi.
Có sự thật ở nơi này nơi khác và tôi đã lắp ghép, cường điệu để vẽ
nên một bức tranh khủng khiếp tố cáo chế độ lao tù của chính quyền
Sài Gòn. Điều đối với tôi vẫn còn nguyên giá trị là ý tưởng "Tự do
hay là chết". Nhưng điều làm ngạc nhiên ( hay không nên ngạc nhiên)
là khi nó được in lại trong tuyển tập " Bút máu" của nhà xuất bản
Giải phóng, người ta tự ý đổi thể loại từ "truyện ngắn" sang " bút
ký" và cắt bỏ một phần đoạn kết. Lúc đưa truyện ngắn này vào tuyển
tập "Mùa xuân chim én bay về" ( Nhà xuất bản Cửu Long 1986 ) và
"Tiếng hát những người đi tới" ( Nhà xuất bản Trẻ 1993 ) những người
biên tập lại tự ý đổi thêm tựa đề thành "Địa ngục trần gian" mặc dù
tác giả đã có ý kiến chính thức phản đối. Văn nghệ đã tự mình gò ép,
thế mà chính trị vẫn còn tiếp tục bóp méo và luôn nghi kỵ, cảnh
giác, sẵn sàng trù dập khi văn nghệ đòi quyền sống với tự do, tự do
đích thực chứ không phải là tự do có điều kiện, tự do có lãnh đạo
theo một chế độ, một chủ nghĩa.
Chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tự đề
cao là chế độ ưu việt nhất, phát huy nhiều nhất gía trị của con
người, nhất là tài năng của người nghệ sĩ nhưng thực tế đã diễn ra
như thế nào? Tôi không phải là người đầu tiên nói về điều này. Tập
thơ " Chân dung nhà văn" của Xuân Sách, một người trong cuộc, đã
khắc họa rất rõ điều đó và đã làm không ít người phẫn nộ (thậm chí
đã làm đơn ký tên tập thể kiện và đòi trừng trị tác gỉa). Họ phẫn nộ
vì không chịu nhìn nhận sự thật, vẫn còn tự huyễn hoặc, vẫn còn mù
quáng. Phẫn nộ vì những bài thơ rất ngắn không tựa đề của Xuân Sách
lại đâm xuyên suốt nhân cách và sự nghiệp của những nhà văn, nhà thơ
bao lâu nay được ngợi ca và tự cho mình là tài năng, vĩ đại.
Hà Sĩ Phu đã nhận ra ngay và khái
quát được điều đó khi làm bài thơ cảm tác nhân đọc chân dung Hoài
Thanh của Xuân Sách:
Hai nửa chân
dung
" Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi
trên"
Nét này vẽ bác Lan Viên?
Bác Hữu ? Bác Cận ? Hay riêng bác
Hoài?
Chân dung các Bác ngời ngời
Chém cha riêng cái nửa đời phía
sau
Cuộc đời hai nửa vì đâu
Nửa say quỷ kế, nửa đau nhân
tình.
Những nhà văn sống dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Miền Bắc trước đây đã có hai nửa chân dung như thế,
còn những người mới sống dưới chế độ chủ nghĩa từ sau 75 có thay
đổi chân dung không? Anh em nhóm Việt chúng tôi và bao nhiêu nhà văn
đầy lòng phản kháng ở Miền Nam trước đây, sau 75 đã viết được gì ?
Một số ít đã có thời gian viết tụng ca (kể cả Đông Trình) hoặc sáng
tác về những đề tài vô thưởng vô phạt, không phải để làm văn nghệ
chân chính mà chỉ để kiếm sống. Trần Duy Phiên viết
" Kiến và người", "Mối và người" (
hai truyện ngắn đăng trên tạp chí Đất Quảng và Sông Hương ) chỉ có
thể dùng bút pháp tượng trưng mà đã bị đe dọa. Đông Trình còn viết
được không những vần thơ tâm huyết đầy lửa như trong " Rừng và Hoa"?
Thế Vũ với " Những vòng hoa ngụy tín", Nguyễn Hoàng Thu với " Người
bắt ruồi", Hàng Chức Nguyên với "Tiếng hát của người thương binh mất
trí" năm xưa nay viết được gì ? Còn Lê Văn Ngăn, Lê Nhược Thủy,
Chinh Văn, Phan Duy Nhân, Nguyễn Tường Văn…? Thế Vũ mới chỉ viết một
bài báo ngắn "Điều dáng sợ nhất của văn học: Đánh mất lòng tin ở độc
gỉa" ( Phụ trang tạp chí Cánh Én 1989 ) phê phán Ban Chấp hành Hội
Nhà Văn Việt Nam trong vụ Nguyên Ngọc và Tuần báo Văn nghệ, đã bị
đánh tơi bời như một " tên ngụy, phản động…", bị mất chức, cho nghỉ
việc rồi đi sửa mo rát, biên tập thuê kiếm sống. Làm sao để giữ được
quan điểm và nhân cách của mình là điều hoàn toàn không dễ dàng.
Các nhạc sĩ sinh viên thời phong
trào đấu tranh đô thị như Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn… và các bài hát
đầy hào khí, lôi cuốn cả một thế hệ thanh niên xuống đường nhập
cuộc đấu tranh, nay khi đã trở thành những quan chức, có bao giờ còn
thao thức như những " đêm không ngủ" năm nào, dù tình hình hiện nay
có nhiều chuyện không khác xưa bao nhiêu và những bài hát cũ của các
anh hát lên bây giờ cũng hoàn toàn phù hợp. Rồi còn nữa, đâu rồi
những bài ca hào hùng của Trương Quốc Khánh, Nguyễn Tuấn Kiệt,
Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Xuân Tân, La Hữu Vang, Trần Xuân Tiến …?
Dù muốn dù không, thời kỳ đổi mới,
cải tổ rồi sụp đổ, suy thoái của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa
trên thế giới đã mang đến cho Việt Nam những thay đổi nhất định về
chính trị và văn nghệ.
Ở Hà Nội, sau những gì đã làm, đã
viết trong bước đầu đổi mới, người ta mong chờ gì ở các nhà văn
Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Xuân Cang, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy
Thiệp, Trần Huy Quang, Lê Lựu, Bảo Ninh…, các nhà nghiên cứu phê
bình Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Hạnh, Ngô Thảo…
các nhà làm điện ảnh như Trần Văn Thủy, Đặng Nhật Minh …?
Ở Miền trung, người ta có thể hi
vọng gì với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khắc Phê,
Trần Vàng Sao, Thanh Thảo, Trần Huyền Ân, Triệu Phong… và lớp trẻ
hơn như Trần Thùy Mai. Nguyễn Quang Lập, Ngô Minh, Trần Thức, Hoàng
Dũng, Phạm Phú Phong…?
Còn Sài Gòn và Nam Bộ ? Vùng đất mới
năng động và rực lửa đấu tranh trong lịch sử trẻ trung của mình với
truyền thống bất khuất đã sản sinh ra bao nhiêu nhà văn, nghệ sĩ tài
năng và đầy lòng phản kháng, lẽ nào chỉ nhạy bén với nền kinh tế
thị trường ?
Ở đây, tôi cũng muốn nói đôi lời về
khía cạnh tổ chức đào tạo, giáo dục của một chế độ đối với hoạt động
văn học. Chế độ xã hội chủ nghĩa có các tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
những ngưởi viết văn, có trường đại học viết văn, trả lương cho
những người viết văn chuyên nghiệp nhưng đã sản sinh ra bao nhiêu
nhà văn, trong đó có bao nhiêu nhà văn lớn? Ý thức phục vụ chính trị
và tính chất rập khuôn đã làm hạn chế tài năng và tinh thần tự do
sáng tạo của nhà văn như thế nào? lại còn các tổ chức văn học nghệ
thuật mang tính chất nhà nước . Những hội gọi là sáng tạo mà cũng
phải gò vào một tổ chức bất kể quan điểm, xu hướng, phong cách sáng
tác. Trong những tổ chức này người ta lại điều hành theo kiểu hành
chính, quan liêu, lôi bè kéo phái, tranh giành quyền lực, chia chác
quyền lợi, đấu đá lẫn nhau, không còn gì gọi là văn học nghệ thuật
nữa. Những người lãnh đạo văn nghệ có khi lại không có khả năng sáng
tác văn nghệ hoặc khi đã trở thành lãnh đạo, những người làm quan
lại không còn khả năng sáng tác.
Văn nghệ sĩ chân chính cần quái gì
các tổ chức này. Cùng xu hướng, tâm đắc với nhau thì tự động tập hợp
lại thành nhóm, thành hội hoặc cứ một mình mà đi trong thênh thang
trời rộng, giữa dân tộc và loài người, cần chi phải chui đầu vào tổ
chức.
Hiến pháp ghi rõ quyền "tự do lập
hội" nhưng mọi hội đoàn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đều là hội đoàn
của Đảng và Nhà nước. Nếu các văn nghệ sĩ tự mình lập hội thì Đảng
và Nhà nước có cấm và cấm được không? Tại sao văn nghệ sĩ không dám
làm điều hiến pháp đã cho phép? Không phải chỉ có quyền tự do này mà
còn bao nhiêu quyền khác đã được ghi rõ trong hiến pháp. Nếu văn
nghệ sĩ, trí thức và nhân dân nói chung không dám thực hiện những
điều đã ghi trong hiến pháp thì phải chăng việc chịu đựng áp bức,
mất tự do là điều tất nhiên, như có người đã nhận định?
Chế độ cũ trước đây ở Miền Nam không
có các cơ chế văn nghệ nhà nước như dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
nhưng vẫn có vô số nhà văn, nhà thơ, trong đó không ít người có tài
năng và khẳng định được phong cách riêng, sự độc đáo của mình. Dĩ
nhiên, nói như thế không phải để ca ngợi chế độ cũ, nhưng để nói đến
một bầu khí như thế nào để văn học có thể phát huy tinh thần sáng
tạo, điều cần thiết đối với văn học nghệ thuật như hơi thở đối với
cuộc sống con người.
Ở thời chúng tôi, chỉ mấy lớp ban
Việt văn của trường Đại Học Sư Phạm Huế bé nhỏ, mỗi lớp chỉ có hơn
10 sinh viên, trong những năm 60, đả sản sinh không ít các nhà văn,
nhà thơ, nhà nghiên cứu, dịch thuật: Ngô Kha, Đoàn Khoách, Phùng
Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Quang Long, Trần Duy
Phiên, Đông Trình, Trần Hữu Lục, Trần Hồng Quang, Tần Hoài Dạ Vũ,
Huỳnh Ngọc Sơn, Ngô Văn Ban… (Chưa nói đến tài năng, chỉ nói đến
việc họ đã sáng tác, nghiên cứu và có tác phẫm xuất bản, đăng trên
báo chí. Một số trong họ được người đọc và các nhà phê bình công
nhận là thực sự có tài năng.)
Tôi nói điều đó không phải để khoe
khoang vì chẳng có gì để khoe khoang mà là để dẫn chứng và so sánh.
Ở thời chúng tôi, phần lớn sinh viên vào các ban văn vì người ta có
"tâm hồn văn chương", ngoài một số người trở thành nhà văn, không ít
người đã học, sống và đi dạy học bằng tất cả say mê và "lý tưởng văn
chương" của mình. Còn ban văn các trường Đại Học Tổng Hợp, Đại Học
Sư Phạm từ sau 1975 đến nay đã thu nhận sinh viên như thế nào và đào
tạo các giáo sư văn chương ra sao, rồi cả mấy thế hệ học sinh đã học
tiếng Việt như thế nào? Điều này báo chí gần đây đã nói đến nhiều và
đưa ra tỉ lệ học sinh yếu kém môn văn một cách báo động trong các
trường học.
Có người nói môn văn là môn học làm
người và ai cũng thừa nhận, nói chung, ngành giáo dục là nơi đào tạo
con người, đào tạo những người chủ tương lai của đất nước. Đào tạo
con người ngoài kiến thức, chuyên môn, kỹ thuật, còn có đạo lý, nhân
cách, bản lãnh. Thế nhưng một điều lạ lùng là trong các chế độ
không phải là xã hội chủ nghĩa, mà là "thực dân phong kiến", "ngụy
quyền tay sai", sinh viên học sinh lại đầy lòng phản kháng, nhận
thức rất rõ và dám đứng lên đấu tranh cho độc lập tự do của tổ quốc,
cho công bằng xã hội (trong đó có nhiều người sau này là lãnh tụ
cộng sản), nhưng sinh viên học sinh trong chế độ xã hội chủ nghĩa ưu
việt ở Miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 1975 lại hầu như tê liệt
lòng phản kháng, chỉ biết phục tùng và sa vào chủ nghĩa thực dụng.
Nếu giải thích điều này bởi chủ nghĩa xã hội ưu việt thực, không có
bất công áp bức và có đầy đủ mọi quyền tự do dân chủ nên không ai
muốn kêu đòi gì nữa, nói như thế chắc chẳng ai tin. Vậy phải chăng
chỉ có thễ giải thích đây chính là sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội
trong việc đàn áp, thống trị tư tưởng và hành động của con người?
Cho đến khi chủ nghĩa cộng sản đã
sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đã bộc lộ những sai lầm nhược
điểm không thể chối cãi, ngay trên đất nước này, những người cộng
sản kiên cường nhất đã làm gì để sửa chữa? Sửa chữa ở đây bao hàm
những thay đổi từ cơ bản của sai lầm.
Dĩ nhiên ai cũng thấy những người
lãnh đạo cộng sản gần đây đã chủ trương mở cửa, chấp nhận kinh tế
thị trường và đã mang lại những thay đổi, kết quả bước đầu, nhưng
mặt khác, lại vì lý do "ổn định chính trị" nên ra sức đàn áp dân
chủ, bóp nghẹt tư tưởng, vi phạm nhân quyền. Thực chất, người cộng
sản phải tự cứu về mặt kinh tế để khỏi sụp đổ và chỉ muốn duy trì
mãi mãi độc quyền lãnh đạo. Nhưng người dân không phải là con vật
chỉ cần được ăn no là đủ. Thực ra con vật cũng không phải chỉ cần
được ăn no và thực tế chỉ một số người no mập, phủ phê, xa xỉ, còn
đại bộ phận nhân dân vẫn cùng cực. Hơn nữa, với nền kinh tế thị
trường, việc nhận viện trợ của các nước ngoài, nếu lãnh đạo không đủ
tài trí, bản lĩnh sẽ mang lại tai họa lâu dài cho đất nước trên tất
cả mọi phương diện từ kinh tế cho đến văn hóa giáo dục, xã hội,
truyền thống, đạo đức…
Bạn hay thù đều phải công nhận Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp là những lãnh tụ cộng sản thông minh, tài
trí, nhưng nay các ông hoàn toàn bất lực dù các ông thấy rõ và như
Phạm Văn Đồng đã công khai nói về sự sasút, xuống dốc của tổ chức bộ
máy Đảng và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng như một "căn nhà
rác rưởi". Nguyễn Hữu Thọ đã tập họp được bao nhiêu người yêu nước
dưới ngọn cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, sau 75 đã nhiều
lần kêu gọi đấu tranh đòi dân chủ, dân quyền, ông có đau xót và hổ
thẹn không khi tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mà ông đứng đầu chỉ
là cái bung xung, vật trang trí dân chủ của một chế độ độc tài? Trần
Độ, một vị tướng yêu văn nghệ, một thời làm trưởng ban Văn hóa Văn
Nghệ Trung ương, người đã làm hết sức mình cho việc ra đời của nghị
quyết 5 về văn hóa văn nghệ, một nghị quyết cấp tiến nhất từ trước
tới nay của đảng Cộng sản Việt nam, để rồi nghị quyết bị vô hiệu
hóa, xóa sổ khi mới chuẩn bị thực hiện. Một số cán bộ cấp cao có tâm
huyết , đau lòng về tình hình cũng chỉ có thể đến mức xin về hưu và
trong chỗ riêng tư, tự nhìn nhận là vì hèn nên không dám tuyên bố ra
khỏi đảng Cộng sản. Những người lãnh đạo cộng sản khác ở mọi cấp đã
thực sự nhận thức như thế nào dù họ vẫn luôn bị guồng máy cuốn đi?
Còn một số người ở Miền Nam trước 1975 được coi là cấp tiến, có tinh
thần phản kháng như bà Ngô Bá Thành, Lý Chánh Trung, trong thời gian
được đảng Cộng sản trọng dụng đã hết sức ca ngợi chế độ, to mồm nhất
trong các cuộc họp quốc hội để đàn áp quyền tự do báo chí, hạn chế
quyền tự do ứng cử và bầu cử khi thông qua các luật , nay bị vứt qua
bên lề, có cay đắng và ăn năn không?
Những điều này có phần nào liên quan
đến bộ máy tổ chức. Đảng Cộng sản của những người đấu tranh cho công
bằng, nhân đạo, giải phóng giai cấp khi trở thành đảng cầm quyền đã
trở thành đảng độc tài, quan liêu, bè phái. Thậm chí gần đây nhiều
người đã nhận định đảng trở thành một tập đoàn mafia, với những thủ
đoạn tinh vi và hiểm độc, tàn bạo để thanh toán nội bộ, bị chi phối
bởi một vài cá nhân hoặc tập thể như tập đoàn Lê Đức Thọ mà Hoàng
Minh Chính đã tố cáo, với sự cám dỗ của quyền lực và quyền lợi, tất
cả đã làm cho những người trong guồng máy hầu như tê liệt lòng phản
kháng hoặc không có khả năng phê phán.
Lúc còn làm Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, Phạm Văn Đồng đã có lần kêu lên về sự bất lực của mình. Võ
Nguyên Giáp một thời gian phải đi làm "kế hoạch hoá gia đình", đến
nỗi trong dân gian đã có câu ca dao mới:
Ngày
xưa đại tướng oai hùng
Ngày
nay đại tướng đặt vòng cho em
Lẽ nào vị đại tướng danh tiếng lừng
lẫy thế giới với hai chiến thắng Điện Biên Phủ và 30/4/75 lại không
có việc gì để làm hơn là kế hoạch hóa gia đình dù việc này cũng rất
quan trọng. Không phải nhân dân mỉa mai đại tướng Võ Nguyên Giáp
nhưng người ta cay đắng hộ cho ông và phê phán, bất bình đối với tổ
chức, bộ máy của đảng Cộng sản không gì khác hơn là một tập đoàn bè
phái, sẵn sàng gạt ra ngoài những người không ăn cánh.
Trên đây, tôi có đề cập đền một vài
người để phân tích theo mạch suy tưởng của mình. Đối với tôi và đối
với nhân dân nói chung, không có ai là bất khả xâm phạm, kể cả những
anh hùng, lãnh tụ vĩ đại nhất. Mọi người, mọi việc đều phải được
nhìn nhận dưới áng sáng của trí tuệ, lương tri và công luận.
Không phải tôi viết lan man cốt động
chạm đến việc này việc khác, người này người khác. Tôi chỉ muốn
chứng minh có một nhận định mà nhiều người thừa nhận là những người
cộng sản độc quyền lãnh đạo đã làm thui chột thay vì phát huy những
phẩm chất tốt đẹp nơi con người như họ vẫn rêu rao trong các nghị
quyết, sắc luật và các khẩu hiệu tuyên truyền. Công bằng mà nói,
chủ nghĩa xã hội cũng phát huy được một số đức tính nào đó nhưng
điều nổi bật là đã làm cho con người trở nên cuồng tín, ngụy tín,
hèn nhát và dối trá. Phan Đình Diệu, một trí thức cỡ lớn do chế độ
đào tạo đã nhiều lần công khai nói về chuyện độc quyền tất sẽ dẫn
đến độc tôn, độc tài, độc ác. Mới đây, trong tháng 9/92, khi trả lời
phỏng vấn một phóng viên nước ngoài, ông đã chính thức kêu gọi đảng
từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và chấp nhận dân chủ đa nguyên. ( Tập san
Bắc Âu nghiên cứu Á Châu số 2/1993, xuất bản tại Đan Mạch.)
Tôi nói đến nhận định trên không
phải vì hận thù. Chủ nghĩa cộng sản đã là niềm mơ ước của hàng triệu
triệu người nhưng cũng đã là niềm cay đắng và tội ác đối với hàng
triệu triệu người trong đó có những người đã mơ ước nó, trong những
người đó có tôi.
Nhận thức được điều này, một số
người đã nghĩ, đã nói đến sám hối.
Nguyễn Minh Châu đã viết " Hãy đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn chương minh họa". Đó là những lời
chân thành và dũng cảm, dù Đảng và Nhà nước, các nhà văn cùng thời
thừa nhận hay không. Tiếc thay, Nguyễn Minh Châu bị mắc cơn bệnh ung
thư máu nan y nên tác phẩm thể hiện sự sám hối của ông còn quá ít,
cho dù đến những giây phút cuối cùng, trên giường bệnh, ông còn viết
bài đấu tranh cho đổi mới trong vụ Nguyên Ngọc và tuần báo Văn nghệ
cuối năm 1988.
Trong những chừng mực và cách thế
khác nhau, những tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn
Huy Thiệp, Phùng Gia Lộc, Hà Văn Thùy, Lê Lựu, Trần Huy Quang, Bùi
Minh Quốc, Nguyễn Quang Lập, Bảo Ninh … cũng là những biểu hiện sám
hối.
Có những người sám hối quá muộn dù
ý thức sám hối đã có từ trước như Chế Lan Viên. Biểu hiện sám hối
chỉ nằm trong di cảo và người ta chỉ có thể suy diễn về tâm trạng
của nhà thơ. Có phải Chế Lan Viên đã biết là bánh vẽ nhưng vẫn cầm
lên nhấm nháp:
Bánh Vẽ
Chưa cầm lên nếm, anh đã biết là
bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi cùng bạn bè
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui…
Bảo anh không còn khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc
Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc, anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người … khác thấy anh ngồi
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm…
( Di cảo, Văn học và dư luận. Tháng
5/ 1991 )
Có phải trong thẳm sâu tâm thức, ông
vẫn biết mình dối trá, che dấu sự thực:
Trừ đi
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu.
Một nửa
Cái cần đưa vào thơ tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng
cười.
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Giết cái cánh sắp bay… trước khi tôi
viết.
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên
ổn trên bờ
Và giết luôn cả mặt trời lên trên
biển.
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa
luôn thể.
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế.
Tôi viết bằng xương thôi, không có
thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải.
Nhưng cũng chính là tôi. Người có
lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.
( Chế Lan Viên. Di cảo )
Có phải Chế Lan Viên thấy rõ tội lỗi
của mình khi đối mặt với hiện thực của đất nước:
Ai ? Tôi
?
Mậu thân 2000 người xuống đồng
bằng.
Chỉ một đêm, còn sống có 30.
Ai chịu trách nhiệm về cái chết
của 2000 người đó?
Tôi ! Tôi, người viết những câu
thơ cổ võ
Ca
tụng người không tiếc mạng mình trong mọi lúc xung phong
Một trong 30 người kia ở mặt trận
về sau 10 năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn
con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được
người lính cũ !
Ai chịu trách nhiệm vậy ? Lại
chính là tôi !
Người lính cần một câu thơ giải
đáp về đời
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi
làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ…
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể
cười.
( Chế Lan
Viên.1987. Di cảo )
Tôi muốn trích dẫn cả ba
bài thơ này của Chế lan Viên vì những bài này ít người biết và
vì con người, cuộc đời và thơ ca của ông là một "phản ánh hiện thực"
rất đặc trưng và đầy bi kịch của một giai đoạn lịch sử có đầy đủ
tính hùng tráng, đau thương, hiến dâng, phản bội, dối trá, ngụy
trang và không thể nào tránh khỏi sám hối.
Sám hối là nhận thức lại và ăn năn
về lỗi lầm của chính bản thân hay của cả một tập thể, một dân tộc đã
đi sai đường, dù chính mình chủ động hay thụ động, tình nguyện hay
bị bó buộc. Ăn năn sám hối vì đã cố tình hay vô ý làm điều sai, điều
ác.
Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan đã sám hối
với sự thừa nhận rõ ràng trong tên gọi của "Ba bài giảng sám hối".
Một số thành viên trong Câu lạc bộ Những người Kháng Chiến cũ thành
phố Hồ Chí Minh những năm 88-89 như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung
Hiếu, Hồ Hiếu cũng đã sám hối. Còn những người lãnh đạo Cộng sản,
có ai đã sám hối không hay chỉ mới dừng lại ở chỗ "sửa sai" nhẹ
nhàng ?
Sám hối phải có cắn rứt lương tâm,
phải đau đớn, tiếp đến có ý thức và hành động chuộc lỗi. Sám hối đó
mới có gía trị tích cực. Sám hối không phải chỉ tự đấm ngực và cầu
xin tha tội. Sám hối là dấn thân vào cuộc đấu tranh chống lại sự hèn
nhát, yếu đuối, sai lầm của bản thân, chống lại thế lực của sự ngu
si, cuồng tín, tàn bạo đã tạo ra tội ác.
Những người không có và không cần
quyền lực, hư danh, những kẻ thất cơ lỡ vận dễ sám hối hơn những
người có địa vị, uy quyền. Đối với loại người sau, ngụy tín dễ hơn
sám hối, biện minh nhiều hơn nhận lỗi, quyền lợi mạnh hơn lương tri,
sám hối thực không dễ dàng.
Nội dung, đề tài của văn nghệ là vô
tận. Văn nghệ ca ngợi tình yêu, thiên nhiên, tuổi thơ, đắm mình
trong huyền thoại, ước mơ về một tương lai viễn tưởng… Không thể
cưỡng bức văn nghệ phải chuyên chở nội dung này, khai thác đề tài
kia như các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản đã làm. Văn
nghệ không phi chính trị nhưng không phục vụ chính trị một cách mù
quáng. Văn nghệ không cần mang tính đảng mà phải phi đảng. Văn nghệ
không tôn thờ chủ nghĩa.Văn nghệ phụng sự cho dân tộc và con người.
Văn nghệ không biên cương quốc gia, biên cương thời gian và biên
cương chủ nghĩa. Nhưng nếu văn nghệ vì con người thì không thể né
tránh thân phận con người, nhất là khi thân phận hàng triệu người bị
quy định, chi phối bởi các chế độ độc tài tàn bạo. Văn nghệ lúc đó
phải biết và dám nói tiếng nói của lương tri. Đó là văn nghệ dấn
thân và phản kháng.
Văn nghệ phải đến được với công
chúng, đối tượng, mục đích, môi trường và đất sống của mình. Các chế
độ độc tài luôn ngăn chặn văn nghệ tự do, chỉ muốn lùa văn nghệ vào
các chuồng nuôi thú làm cảnh. Văn nghệ phải biết cách chiến đấu. Từ
xa xưa, ông cha ta đã biết điều này. Đó là truyện tiếu lâm, câu
đối, ca dao, hò vè, thơ ca châm biếm, sau này còn có cách viết
"lách" trên sách báo hợp pháp, xuất bản sách báo bất hợp pháp, tổ
chức "hát cho đồng bào tôi nghe"… Văn nghệ phải ươm mầm phản kháng,
thức tỉnh lương tri, kêu gọi đấu tranh, đánh thẳng vào mặt cường
quyền, đóng đinh tội ác vào giá của lịch sử.
Chính trị bao giờ cũng cần thiết
cho một dân tộc, một xã hội và toàn thế giới. Đường lối chính trị có
thể đúng hoặc sai. Người làm chính trị có thể tốt hoặc xấu. Làm
chính trị phải nắm được quyền lực. Quyền lực là sức mạnh vạn năng và
là con dao hai lưỡi. Quyền lực xây dựng và cũng quyền lực hủy hoại
con người, hủy hoại ngay chính người làm chính trị. Cám dỗ quyền lực
rất lớn và nguy hiểm.
Dù sao người làm chính trị cũng có
lương tri. Tiếng nói của lương tri và sức mạnh của quần chúng nhân
dân sẽ ngăn chặn được sai lầm và tội ác. Mục đích chính trị có tốt
đẹp tới đâu nhưng phương tiện, con đường đi là độc tài, chà đạp
nhân quyền, vi phạm tự do, khủng bố bằng bạo lực, gây ra nội chiến,
trả gía bằng máu và nước mắt đều không thể tự biện minh, không đạt
đến mục đích.
Văn nghệ và chính trị
đều phải biết sám hối. Tốt hơn là đừng để phải sám hối nhưng đã lỡ
sai lầm thì phải sám hối trước khi quá muộn.
Động hoa vàng
Đà Lạt 12/10/1993
[Báo Đối thoại 1994]