Với thông tin muộn màng, tác giả
"Nửa đời nhìn lại" cũng đã đọc được một số bài báo, thư ngỏ viết về
tác phẩm của mình của độc giả hải ngoại. Đó là niềm vui và hạnh phúc
lớn của tác giả. Có biết bao nhiêu điều để trao đổi thêm vì tác phẩm
được "viết trong nghịch cảnh" mà độc giả hải ngoại chưa thể thông
cảm hết được. Nhưng có lẽ tác giả cần phải nén lòng vì chắc sẽ còn
nhiều ý kiến khác, nhất là của bạn đọc trong nước mà tác giả đang
rất mong đợi. Đến một lúc nào đó thuận tiện, hi vọng tác giả sẽ có
dịp nói thêm điều gì đó về tác phẩm của mình.
Ở đây, tôi chỉ
muốn trình bày đôi điều về một vấn đề gần như nằm ngoài tác phẩm,
chỉ được nêu ra bằng một ý, một câu, trong phần kết của tác phẩm
nhưng lại được nhiều người quan tâm, vấn đề "hòa giải hòa hợp dân
tộc", và đặt vấn đề trong mối quan hệ với việc giao lưu văn học.
Mặc dù dân tộc Việt
Nam có một lịch sử rất lâu dài với bao nhiêu bài học quý giá nhưng
có lẽ mỗi người, mỗi thế hệ chỉ có thể nhận ra được điều gì thật sâu
sắc khi chính mình có một độ lùi lịch sử của chính thời đại mình.
Trong những cuộc chiến gần đây của đất nước, dù ai dùng ngôn từ nào,
với bất cứ lập luận nào, đứng trên bất cứ lập trường nào, những cuộc
chiến đó đều mang tính nội chiến, vì người Việt đã nổ súng vào nhau
trên chiến trường, đã hận thù nhau trong tim óc. Đó là một giai đoạn
lịch sử phân ly và bi thảm.
Những người quốc gia
đã kêu gọi cộng sản "chiêu hồi, trở về với chính nghĩa quốc gia".
Những người cộng sản đã hô hào những người quốc gia "bỏ hàng ngũ
địch, trở về với nhân dân". Chưa kể những người quốc gia với nhau,
cộng sản với nhau, cũng đã từng đấu tranh, hận thù, truy bức, hủy
diệt nhau.
Dấu mốc 30/4/75 dù
quan niệm đó là "ngày chiến thắng, giải phóng hoàn toàn Miền Nam
Việt Nam, thống nhất tổ quốc" hay "ngày quốc hận" thì đó cũng là một
việc đã có , đã rồi và là một dấu mốc, một cơ hội lớn của dân tộc.
Sau ngày đó, người cộng sản đã tuyên truyền một cách đại lượng:
"Trong cuộc chiến này, người Việt Nam không có kẻ thắng người bại,
chỉ có dân tộc Việt Nam chiến thắng". Dĩ nhiên câu nói đó những
người quốc gia khó lòng chấp nhận. Nhưng nếu câu nói đó được thực
hiện đúng tinh thần của nó , nghĩa là không có tước đoạt, truy bức,
cải tạo… mà thực hiện ngay hòa giải hòa hợp dân tộc, rõ ràng dân tộc
Việt Nam đã chiến thắng và đất nước đã đi lên mạnh mẽ trong 18 năm
qua chứ không phải vẫn còn là một trong những nước nghèo đói nhất
thế giới. Câu nói đó không được thực hiện, dân tộc Việt Nam chỉ là
kẻ chiến bại và chỉ có nhân dân Việt Nam là đau khổ.
Có lẽ nhận thức như
thế nên đến nay nhiều người Việt Nam đau lòng vì số phận dân tộc
mình, dù là quốc gia hay cộng sản hay thuộc bất cứ thành phần nào,
đã nghĩ và nói đến hòa giải hòa hợp dân tộc. Muộn còn hơn không.
Muộn nhưng vẫn vô cùng cần thiết.
Tôi nghe thời gian
trước đây ở nước ngoài đã có nhiều cuộc tranh luận về hòa giải hòa
hợp dân tộc nhưng vì thiếu thông tin nên không rõ các cuộc tranh
luận đó đã diễn ra như thế nào và có đi đến kết luận nào không. Tuy
nhiên, tôi nghĩ vấn đề vẫn còn đó và phải được tiếp tục giải quyết.
Cần tiếp tục mở ra những cuộc trao đổi về vấn đề này giữa trong và
ngoài nước, đi đến sự thống nhất từ nhiều phía để từng bước thực
hiện. Đó chính là lối ra của dân tộc sau bao nhiêu máu lửa, phân ly,
hận thù và khổ nhục.
Hòa giải hòa hợp dân
tộc chỉ có thể được thực hiện khi đó là niềm thôi thúc, là sự
nghiệp của cả dân tộc chứ không phải chỉ là vấn đề của một số cá
nhân. Nếu nhiều người cộng sản còn nghĩ rằng: Ta đang nắm quyền lực
(và quyền lợi), tội gì phải hòa giải hòa hợp với ai, lơ mơ sẽ bị lật
đổ. Nếu nhiều người quốc gia ở nước ngoài còn nghĩ: Ta đang giàu có,
sống thoải mái, đâu có thể hạ mình xin nói chuyện hay về nước để
lọt vào vòng kềm tỏa của bọn cộng sản độc tài. Nếu nhiều người khác
còn nghĩ: Ta chỉ cần yên ổn làm ăn sinh sống, dại gì dính vào những
chuyện chính trị… Nếu đa số người Viêt Nam còn nghĩ như thế, rõ ràng
khó có hòa giải hòa hợp dân tộc.
Nhưng nếu đối với
nhiều người, đất nước nghèo đói là niềm đau, nỗi nhục của mọi người
Việt Nam; sự phân ly, hận thù là vết thương, căn bệnh nặng nề của
cả dân tộc; thiếu dân chủ tự do là sự phản tiến hóa, bầu khí ngột
ngạt nhiễm độc của toàn xã hội… Đó vẫn còn là cơ may cho hòa giải
hòa hợp dân tộc.
Khó khăn và trở ngại
lớn nhất là nếu toàn bộ hay một bộ phận chủ chốt những người đang
cầm quyền không muốn hòa giải hòa hợp, hay họ chỉ làm theo những
điều kiện mà họ bắt buộc người khác phải chấp nhận.
Thực ra chưa có quyền
lực chính trị, quyền lực thế gian nào là vĩnh viễn, bất khả chiến
bại. Ý chí của một người phát huy đến mức cao nhất cũng rất mãnh
liệt và tác động đến toàn xã hội, đè nặng lên số phận hàng triệu
người. Lịch sử thế giới đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên, một mình họ
không đủ, sau lưng họ còn là cả một tập đoàn. Nhưng một tập đoàn
không thể mạnh hơn một dân tộc, mạnh hơn cả nhân loại. Vậy thì tại
sao đa số người cùng chung một nguyện vọng, một ý chí lại sợ hãi,
bất lực trước một tập đoàn.
Những người cầm
quyền thường lộng hành và chế ngự nhân dân bằng cách dùng bạo lực
gây ra nỗi sợ. Muốn chống lại cái ác, mỗi người bằng cách nào đó của
mình, phải "vượt" qua nỗi sợ để làm một cái gì đó. Ý chí của đám
đông lương thiện, nếu được thể hiện và tập hợp lại, dù dưới hình
thức bất bạo động, nhất định sẽ gây sức ép, chuyển hóa và buộc
thiểu số phải chấp nhận hòa giải hòa hợp, dù thiểu số đang nắm quyền
lực, được tổ chức và trang bị bằng bất cứ vũ khí nào. Đó là hòa giải
hòa hợp đi đôi với việc chống lại cái ác bằng những phương tiện
hòa bình,
Nhận thức đó nhất
định mở ra nhiều con đường mà văn học có thể là một trong những con
đường đầu tiên.
Văn học trong những
hoàn cảnh bi thảm của lịch sử không chỉ mô tả, phản ánh số phận bị
đày đọa của con người, hàng triệu người, tạo nên sự đồng cảm sâu sắc
trong nỗi đau mà còn khơi gợi khả năng chống lại cái ác.
Chính trị chi phối
tất cả nên dù không thích ta cũng không thể từ chối chính trị.
Trong những hoàn cảnh lịch sử đó, văn học đích thực có thể không hề
có những vấn đề chính trị, người viết vẫn bị thôi thúc bởi một điều
gì khác hơn, vượt lên trên chính trị. Viết một tác phẩm văn học đích
thực không phải hay không chỉ là một hành động chính trị mặc dù
tác dụng đầu tiên của nó đôi khi có thể là tác dụng chính trị. Chính
trị của tác phẩm văn học cũng không phải chỉ là chính trị thời sự
mà là một thứ chính trị mang tính lâu dài. Và tác phẩm văn học đích
thực nhất định phải chuyên chở cái gì rộng hơn, sâu xa hơn, tinh tế
hơn trong mọi ngõ ngách tâm hồn và số phận con người.
Văn học tự bản thân
không biên cương không gian va thời gian nên dễ vượt qua một rào
cản, ràng buộc, hạn chế của những thế lực cầm quyền và của cả lòng
người. Giao lưu văn học là một giao lưu chiều sâu đưa con người lại
gần nhau, xóa dần những dị biệt. Hiện nay, ở trong nước người ta đã
chính thức nói đến văn học Việt Nam hải ngoại là một bộ phận không
thể thiếu của văn học Việt Nam. Tác phẩm bị cấm ở trong nước bắt đâu
xuất hiện ở nước ngoài. Văn học Việt Nam hải ngoại bằng nhiều cách
đang tìm về với độc gỉa trong nước. Nghĩa là đã đến lúc văn học Việt
Nam trước hết phải dành cho mọi người Việt Nam, không phân biệt vì
bất cứ lý do gì. Sự giao lưu này nhất định sẽ mang lại một cái gì
tích cực trên con đường hòa giải hòa hợp dân tộc.
Việc trao đổi bước đầu
vừa qua chung quanh tác phẩm "Nửa đời nhìn lại" phải chăng là một
dấu hiệu đáng mừng không phải chỉ cho riêng tác gỉa mà là cho tình
hình chung khi những khái niệm về "quốc gia - cộng sản, kẻ thù, đối
cực" đã được hóa giải một cách nhẹ nhàng và những người đã từng ở
trong thế đối nghịch nhau lại có thể nói với nhau, về nhau một cách
hết sức mở lòng và thân ái.
Tôi vẫn nhớ những
giọt lệ chảy dài trên má mình lúc còn bé đọc "Tâm hồn cao thượng"
của E.D. Amicis và cả về sau mỗi khi đọc lại. Tôi vẫn không sao quên
được cảm giác đau đớn lạ lùng khi ở trong tù thời sinh viên đọc "Giờ
thứ 25" của C.V Gheorghiu mà tác phẩm chảy dạt dào trong tôi như
một cơn nước lũ. Bây giờ và chắc cả về sau này nữa, tôi vẫn ứa nuớc
mắt khi đọc một trang sách, xem một cảnh phim cảm động, không sao
cầm giữ và cũng không muốn cầm giữ. Điều gì đó của phận người đã
rung lên trong tôi như một sợi tơ đàn tạo nên hòa điệu. Đằng sau
những giọt nước mắt là cái gì sâu xa hơn giúp tôi đi suốt cuộc làm
người một cách mạnh mẽ, tốt đẹp và hạnh phúc hơn.
Tôi hiểu như thế nên
khi viết về một tác phẩm, tôi ước ao và mong chờ một điều gì đó
tương tự nơi người đọc tác phẩm của mình, những người đọc "có tâm
hồn" và tự do đối với bất cứ tù ngục tinh thần và cụ thể nào.
Tôi tin tưởng giao lưu
văn học sẽ tạo nên sự đồng cảm và nối kết có vẻ mong manh nhưng lại
hết sức bền vững và có khả năng công phá, bền vững hơn và có thể
công phá được cả những bức tường sắt thép, kẽm gai hay những rào cản
của hận thù và ý thức hệ.
Đà Lạt 28/5/1994
[Thông Luận (Pháp) 9/1994, Ngày Nay
(Mỹ) số 304 ngày1/9/94, Thế kỷ 21 (Mỹ) 9/94]
dòng lịch sử, là dấu hiệu suy yếu
của một chế độ đã không còn chính nghĩa để tồn tại.
Đà Lạt, cuối tháng 12.1995
[Báo
Thông Luận, Đài Chân Trời Mới 1995]