LÝ LUẬN     VĂN HỌC     BÌNH LUẬN     PHỎNG VẤN     VỤ ÁN LIÊN QUAN     NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ

"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988

"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993

"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995

Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự

Tiếng vọng lẻ loi và tự do báo chí


Trong mấy năm gần đây, tôi không phải là người đầu tiên và duy nhất công khai bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề chung của đất nước, có quan điểm khác hoặc trái với quan điểm của đảng và nhà nước. Những ý kiến đó không được báo chí trong nước đăng tải nhưng các đài báo nước ngoài đã thông tin rộng rãi trên toàn thế giới. Nhiều người đã biết đến Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lữ Phương, Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu, Nguyễn Văn Trấn ở Sài Gòn, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung thành, Trần Độ, Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến ở Hà Nội, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Minh Thảo ở Đà Lạt, Lâm Đồng và một số người nữa, chưa kể đến ý kiến của các tu sĩ đối với những vấn đề tôn giáo.

Cũng như nhiều người khác, quan điểm của tôi thật rõ ràng:  Ủng hộ dân chủ, không tán thành độc quyền lãnh đạo nhưng không chủ trương bạo động, lật đổ, gây hận thù, đổ máu mà thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đất nước bằng những phương tiện hòa bình, chủ yếu là thông qua việc bày tỏ trung thực và thẳng thắn quan điểm của mình, thực hiện quyền tự do tư tưởng, ngôn luận và báo chí.

Trong ý hướng đó, tôi không coi vấn đề nào là cấm kỵ, không cần lựa lời nói cho dễ lọt tai, vừa lòng lãnh đạo. Cũng như nhiều người khác, tôi không phủ nhận và ít viết về những thành tựu mà tập trung phân tích, phê phán những thiếu sót hay sai lầm. Điều đó dễ hiểu. Đã có gần 500 đài, báo của trung ương và các địa phương do đảng và nhà nước lãnh đạo thông tin về đường lối chính sách và ca ngợi thành tích rồi, chúng tôi không cần thiết phải làm việc đó.

Tôi cho rằng đảng và nhà nước không thể đứng trên nhân dân và luật pháp. Đảng và nhà nước phải lắng nghe và chấp nhận sự phê phán của công luận dù điều này rất khó chịu đối với một đảng đã từng tự cho mình luôn sáng suốt, lãnh đạo xã hội toàn diện, triệt để và tuyệt đối, theo một ý thức hệ "bách chiến bách thắng muôn năm" và không muốn chia sẻ quyền lãnh đạo với ai khác.

Mặc dù hiện nay vẫn có những biện pháp trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến  nhưng tôi cho rằng trong vấn đề này đã có tiến bộ hơn trước. Hai phiên tòa Hoàng Minh Chính-Đỗ Trung Hiếu  và Lê Hồng Hà-Hà Sĩ Phu-Nguyễn Kiến Giang mới đây , với bản án nặng nhất chỉ có hai năm tù ở, người hết hạn tù được trả tự do ngay. Một số người khác bị gây khó khăn bằng nhiều cách như quản thúc, giám sát, thường xuyên gọi lên thẩm vấn ... Bản thân tôi cũng bị giám sát chặt chẽ và từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12/96 tôi đã bị công an mời lên thẩm vấn ba đợt, tổng cộng 12 ngày về những bài viết của tôi đăng tải trên đài báo nước ngoài.

Dĩ nhiên những người trong cuộc không chấp nhận và tôi tin đông đảo người dân cũng như dư luận trong và ngoài nước không đồng tình  nhưng dù sao so với những bản án nặng nề và biện pháp thô bạo trước đây, đó là một bước tiến về phía dân chủ của tình hình. Tuy sự tiến bộ đó còn quá ít ỏi so với yêu cầu của đất nước và nguyện vọng của nhân dân nhưng đó là một dấu hiệu tích cực cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa.

 Vừa qua, trên báo Sài Gòn Giải Phóng số chủ nhật 2/2/97 có bài viết "Tiếng vọng lẻ loi" của Nguyễn Minh đả kích nặng nề và quy chụp chính trị đối với cá nhân tôi. Tronng lá thư gởi Ban Biên tập ngày 9/2/97, tôi đã chứng minh sự vu khống trong bài báo đó, đề nghị Ban Biên tập có thái độ rõ ràng theo đúng luật báo chí và mở cuộc tranh luận công khai về các vấn đề bài báo đã nêu ra.

Ở đây tôi không phân tích về quan điểm các vấn đề mà Nguyỗn Minh đã đưa ra để quy chụp tôi về chính trị như vấn đề độc tài và dân chủ, trách nhiệm của đảng và nhà nước trước hiện tình đất nướ, đặc biệt đối với chuyện tham nhũng và bão lụt, vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội .. Những vấn đề đó tôi đã viết khá nhiều  trong cuốn tiểu thuyết "Nửa đời nhìn lại" [Nhà xuất bản Thế Kỷ, Mỹ xuất bản năm 1994] và hơn 20 bài viết  mà gần 20 đài, báo  ở ít nhất 7 nước trên thế giới  đã giới thiệu, đăng tải trong hai năm qua. Đặc biệt bài "Thư ngỏ gởi những người Cộng sản Việt Nam" tôi đã viết như một bài góp ý cho đại hội 8 của đảng Cộng sản và đã chính thức gởi cho tạp chí Cộng sản hồi tháng 6/96, trong đó tôi nêu nhiều vấn đề chung một cách  có hệ thống  hay các bài viết về những vấn đề cụ thể như 4 bài viết về Hà Sĩ Phu  kể từ khi ông bị bắt hồi tháng 12/95. Tôi tin sẽ có nhiều bạn đọc lên tiếng tham gia các vấn đề trong bài báo của Nguyễn Minh.

Tôi cũng không trực tiếp tranh luận với Nguyễn Minh vì người ta không thể đối thoại với những bài viết  mà ngoài luận điệu chụp mũ chính trị cũ rích lỗi thời còn có giọng điệu hằn học, lời lẽ thóa mạ như thế.  Phê bình, tranh luận trên sách báo bao giờ cũng cần có văn hóa.

Tôi muốn nhân sự kiện này tập trung phân tích một vấn đề rất bức xúc hiện nay là vấn đề tự do báo chí. Có tự do báo chí, tự do tư tưởng và ngôn luận , tất cả mọi vấn đề khác sẽ được đưa ra công luận và làm sáng tỏ chân lý.

 Ai cũng hiểu vai trò lớn lao của báo chí trong đời sống xã hội. Ở các nước phương Tây, người ta tôn vinh báo chí là đệ tứ quyền. Dĩ nhiên trong báo chí cũng có những biểu hiện xấu [mà lãnh vực nào lại không có] nhưng không ai phủ nhận vai trò to lớn của báo chí trong các cuộc cách mạng, trong các phong trào dân chủ và trong đời sống chính trị, xã hội  của các quốc gia văn minh hiện nay.

Từ khi có báo chí, đất nước ta đã bao giờ có tự do báo chí hay chưa? Trong các  hiến pháp xã hội chủ nghĩa từ trước đến nay đều có ghi rõ quyền tự do báo chí  và  quyền đó được thực hiện như thế nào?

Khi không có báo chí tư nhân hay báo chí phải được lãnh đạo, được kiểm duyệt thì trên lý thuyết và trong thực tế đã không có tự do báo chí dù được biện minh lý giải cách nào. Mấy chục năm qua, nhiều sự kiện lớn đã là những mốc dấu khẳng định rõ rệt ta không có tự do báo chí và điều đó đã gây ra biết bao tai họa .

Vụ Nhân văn-Giai phẩm năm 1956-57 là một vụ án báo chí-văn nghệ thảm khốc, một bi kịch lớn, không những đã hủy hoại tài năng, trí tuệ, tâm huyết và cả sinh mệnh của bao nhiêu văn nghệ sĩ, nhà báo tài năng, trung thực, dũng cảm nhất ở trong cuộc, đày đọa họ cho đến cuối đời mà còn làm thui chột óc sáng tạo, tinh thần phản kháng chính trực của cả mấy thế hệ cầm bút, làm cho họ không chỉ mặc đồng phục, xếp hàng đi trong đội ngũ và hướng đi định sẵn mà còn tự mình nằm trong gông cùm của chính mình do sự sợ hãi, sự quy phục trong chính đầu óc mình dù tự nguyện hay không tự nguyện. Đôi người muốn đi ra ngoài hàng, lập tức bị nghiền nát. Đừng vội dẫy nẩy lên và cho rằng đây là luận điệu phản động của bọn thù địch. Giáo sư Hòang Ngọc Hiến là ai khi ông viết về văn nghệ "phải đạo"? Có ai dám nghi ngờ về quan điểm lập trường và lòng trung thành của nhà văn đại tá quân đội Nguyễn Minh Châu khi ông viết "Đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ"? Không phải nhiều văn nghệ sĩ đã nói đến ông kiểm duyệt nằm ngay trong đầu mình  khi sáng tác và một vị tổng bí thư đã lớn tiếng hô hào cởi trói cho văn nghệ sĩ đó sao? [Đáng tiếc chẳng bao lâu cũng chính ông đã cho trói lại.]

Vụ Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ TP/HCM xin ra báo Truyền thống kháng chiến không được, đã tố cáo chế độ tự do báo chí của ta hiện nay còn tệ hại hơn thời Pháp thuộc chứng tỏ sự bức xúc như thế nào.[Thời Pháp thuộc, người dân chỉ cần đăng ký là có quyền ra báo chứ không cần xin phép] Đó không phải là địch nói mà là những nhà cách mạng lão thành, những đảng viên 40,50 tuổi đảng lên tiếng.

Kể từ khi có chủ trương đổi mới năm 1986, các vụ báo Văn nghệ trung ương ở Hà Nội, tạp chí Sông Hương ở Huế, tạp chí Langbian ở Đà Lạt, báo Đối thoại ở Cửu Long bị trấn áp, đình bản, kỷ luật ban biên tập càng cho thấy rõ hơn đã có tự do báo chí hay chưa. Đó là chưa nói đến những tổng biên tập mới chỉ cố gắng làm đúng chức năng báo chí đã bị xử lý như Tô Hòa báo Sài Gòn Giải Phóng, Kim Hạnh báo Tuổi Trẻ, Thế Thanh báo Phụ Nữ TP/HCM, Trường Giang báo Giáo Dục và Thời Đại.. Cũng chưa nói đến những nhà văn, nhà báo bị phê phán một cách bất công, xử lý kỷ luật hành chính hoặc đánh đòn hội chợ theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hà Sĩ Phu, Đào Hiếu, Trần Vàng Sao, Hà Văn Thùy, Phạm Thái…

          Và nếu lá thư khiếu nại và bài viết này của tôi không được báo SGGP đăng hay trả lời, không có báo chí nào khác lên tiếng hay được lên tiếng, đăng tải ý kiến của bạn đọc tham gia, ta lại càng thấy rõ luật báo chí được thực hiện như thế nào, cái gọi là tự do báo chí ra sao ở đất nước này.

Nói tự do báo chí nhưng chưa hề có một diễn đàn, một cuộc tranh luận công khai và thẳng thắn về những vấn đề lớn của đất nước, trong đó mọi ý kiến dị biệt đều được tôn trọng và đăng tải. Các diễn đàn trên báo chí thường chỉ có ý kiến một chiều, xuôi theo chỉ đạo, khá lắm là kiến nghị, đề xuất, không mấy khi có ý kiến phản bác, phê phán đường lối chính sách của đảng và nhà nước dù trong nhân dân, đặc biệt trí thức, không thiếu loại ý kiến này.

Công bằng mà nói, gần đây báo chí có cởi mở hơn. Một số báo có mở ra các diễn đàn tranh luận nhưng thường đề cập những vấn đề không thuộc loại cấm kỵ, đã có phê phán đích danh cán bộ lãnh đạo dù mới chỉ là lãnh đạo của Liên Đòan Bóng Đá Việt Nam, đã đề cập đến các ô dù, các bóng đen đằng sau các vụ tham nhũng tuy chưa dám chỉ rõ là ai.

Một số nhà báo tài năng, nhạy bén và thông minh, kể cả một số bạn đọc thông thường, qua các bài chính luận, các phóng sự điều tra, các cuộc phỏng vấn và những bài viết ngắn trong mục ý kiến bạn đọc, đã có cách nói lên sự thực, đưa ra những vấn đề đảng và nhà nước không muốn nêu lên  trước công luận, lọt qua được cửa ải biên tập. Đó lại là kiểu "viết lách" trong các chế độ độc tài hay thống trị của ngoại bang không có tự do báo chí chứ không phải trong "chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ gấp triệu lần chế độ tư bản."

Tình hình đó hoàn toàn không tương xứng với yêu cầu đổi mới, dân chủ hóa đất nước và hội nhập vào thế giới văn minh trong thời đại bùng nổ thông tin này.

Quyền được thông tin của người dân như thế nào? Quyền này được ghi rõ trong hiến pháp Việt Nam. Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền  của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên  đã cam kết thực hiện, khẳng định mạnh mẽ: "Mỗi người có quyền tự do có ý kiến và phát biểu, quyền này không cho phép bất cứ ai phải lo ngại vì có những ý kiến của mình và bao gồm cả quyền tìm kiếm, thu nhận và truyền bá các thông tin và ý tưởng, bất chấp biên giới, bằng bất cứ phương tiện nào." [điều 19] Trong khi các đài báo nhà nước thông tin chi tiết từng giờ về vụ mổ tim  của tổng thống Enxin ở Nga, về các tai tiếng tài chánh liên quan đến tổng thống Clinton bên Mỹ, về các vụ đình công, biểu tình, bạo động, khủng bố ở khắp các nước và bình luận một cách thích thú nhưng lại không hề tường thuật các chi tiết xác thực quan trọng về các phiên tòa xử Hoàng Minh Chính-Đỗ Trung Hiếu, Lê Hồng Hà-Hà Sĩ Phu-Nguyễn Kiến Giang, không nói gì đến bệnh tình của chủ tịch Lê ĐứcAnh dù ông đã vào nằm bệnh viện rất lâu, không thông tin khách quan về  vụ nông dân đấu tranh giữ đất xung đột với bộ đội, công an ở Kim Nổ, huyện Đông Anh và các cuộc biểu tình đòi dân sinh khác ở Hà Nội..

Vậy thì quyền được thông tin của người dân chỉ là quyền được biết những gì đảng và nhà nước muốn cho biết thôi sao. Nhưng rõ ràng bưng bít thông tin là điều không thể được trong thế giới ngày nay. Từ bất cứ một xó xỉnh nào của núi rừng cũng có thể truyền tin đi khắp thế giới và nằm trên giường ngủ cũng có thể nghe, xem được đủ mọi thứ trên đời. Bưng bít thông tin chỉ chứng tỏ sự thiếu tự tin, thiếu bản lĩnh và độc đoán của nhà cầm quyền.

Tự do báo chí, quyền được thông tin lúc nào cũng là nhu cầu cần thiết của nhân dân và ngày càng trở nên bức xúc. Nguyễn Văn Trấn đã viết cuốn sách "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" dày hơn 500 trang cốt chỉ nói một điều là cần phải có tự do báo chí. Mới đây Hoàng Tiến trong nhiều bài viết đã công khai lên tiếng đòi phải có báo chí tư nhân. Và tờ báo Người Sài Gòn xuất bản không cần giấy phép đã ra được mấy chục số… Đảng và nhà nước suy nghĩ thế nào về các hiện tượng này?

Quốc hội thông qua luật báo chí không cho phép báo chí tư nhân là vi phạm hiến pháp, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân trong khi quốc hội được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân. Trong thực tế nhiều cơ quan, hội đoàn do đảng và nhà nước tổ chức, chỉ đạo có quyền ra báo, lại giao cho tư nhân làm, thực chất là bán giấy phép. Những tờ báo lá cải chạy theo lợi nhuận, cóp nhặt xào nấu báo chí nước ngoài, viết những bài vô thưởng vô phạt hay linh tinh nhảm nhí đầy dẫy, trong khi đó những người tâm huyết, những trí thức cấp tiến muốn có một cơ quan ngôn luận để bày tỏ quan điểm của mình lại không được quyền ra báo. Đảng và nhà nước chủ trương chấp nhận những ý kiến khác nhau nhưng những ý kiến đó sẽ được nói ở đâu nếu không có tự do báo chí, không có báo chí tư nhân. Người ta chỉ có thể nói trong xó nhà, nơi quán nước hay photocopy để truyền  bá quan điểm của mình như tình hình hiện nay và có người bức xúc đi đến chỗ làm báo lậu.

Ở đây còn có vấn đề liên quan đến báo chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Hai triệu người Việt ở nhiều nước trên thế giới xuất bản rất nhiều báo chí thuộc đủ khuynh hướng, trong đó có nhiều tờ báo đứng đắn, trí tuệ của nhiều trí thức và cả những người Cộng sản cũ ở miền Nam, miền Bắc hay ở nước ngoài trước đây chủ trương. Ngoài một số báo chí có xu hướng  chống Cộng cực đoan, hô hào lật đổ, không ít báo chí đã đi đến xu hướng hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ, góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, tìm những giải pháp tối ưu cho tình hình đất nước bằng những phương tiện hòa bình, thông qua đối thoại. Chủ trương này xét về tổng quát không khác gì đường lối  chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc của đảng và nhà nước hiện nay. Đảng và nhà nước đã thừa nhận cộng đồng người Việt ở hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam nhưng trong thực tế tất cả báo chí của người Việt ở hải ngoại đều bị cấm, bị coi là phản động. Rõ ràng thế là không thực tâm. Người Việt ở hải ngoại có nguyện vọng, có quyền nói và truyền bá quan điểm của họ cho đồng bào mình, đảng và nhà nước cũng phải lắng nghe và đối thoại với họ. Tại sao đảng và nhà nước bắt tay, bình thường hóa ngoại giao, quan hệ hữu hảo với cả những quốc gia là kẻ thù cũ, thậm chí là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù lâu dài, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, lại không thể hòa giải hòa hợp, đối thoại với đồng bào mình ở xa tổ quốc, dù trước đây họ ở bên kia chiến tuyến hay cùng chiến tuyến nhưng nay bất đồng chính kiến và đang tha thiết muốn góp phần xây dựng quê hương. Nếu chế độ này tốt đẹp, có chính nghĩa và đang có bộ máy truyền thông đại chúng hùng hậu, hiện đại thì không sợ gì ai, không sợ bất cứ luận điệu sai trái nào.

Nhân dân ta đã rất yêu nước, rất thông minh làm sao có thể chấp nhận những luận điệu xằng bậy, nhưng nếu có những ý kiến tốt, những lý luận sắc sảo và thuyết phục, những quan điểm đúng đắn thì nhân dân sẽ ủng hộ, đảng và nhà nước cũng phải tiếp thu nghiên cứu nghiêm túc. Tại sao cái gì cũng hô hoán, quy kết là âm mưu "diễn biến hòa bình". Diễn biến hòa bình không tốt hơn diễn biến chiến tranh sao. Trong diễn biến hòa bình phần thắng sẽ thuộc về người có chính nghĩa, chinh phục được trái tim và khối óc của người dân. Đó là cuộc đấu tranh thẳng thắn, công bằng và không đổ máu, tại sao lại không chấp nhận luật chơi văn minh này.

Lịch sử thế giới và Việt Nam đã cho thấy độc quyền dù trong tư tưởng, chính trị hay kinh tế cũng không bao giờ tốt, chỉ dẫn đến sai lầm, độc tài và độc ác như nhiều người đã nhận xét. Phải có đối thoại, đối lập và cạnh tranh một cách hòa bình, lành mạnh mới có thể xây dựng một xã hội, một chế độ tốt đẹp và văn minh, mang lại tự do và quyền lợi cho đa số nhân dân. Trong vấn đề này, tự do báo chí là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất.

 Trở lại bài báo "Tiếng vọng lẻ loi" của Nguyễn Minh, gạt qua bên sự vu khống, trích dẫn sai lầm và suy diễn lệch lạc mà tôi đã phân tích trong lá thư gởi Ban Biên tập báo SGGP ngày 9/2/97 tôi cũng muốn nói đôi điều về tâm trạng lẻ loi.

Trong những năm trước đây, những người trí thức bất đồng chính kiến trong nước, khi phát biểu quan điểm của mình và bị trù dập, đôi khi cũng có tâm trạng lẻ loi. Nhưng dần dần số người dám nói tiếng nói của lương tri đã tăng lên, vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn và được nhiều người lắng nghe, ủng hộ, truyền bá. Nhiều người khác cùng nhận thức nhưng không nói được trực tiếp và thẳng thắn cũng đã có  cách làm khác hoặc thông qua đài  báo nhà nước một cách thông minh và khôn ngoan để biểu lộ. Đám đông thầm lặng cũng thấy rõ ý kiến nào là đúng đắn, tâm huyết, luận điệu nào là tuyên truyền lừa mị dù được nói bởi bất cứ ai, phổ biến bằng bất cứ phương tiện nào. Các cơ quan truyền thông đại chúng nước ngoài đã góp phần quan trọng phổ biến những tiếng nói lương tri ngay trong chính đất nước này và ra năm châu bốn bể.

Những tiếng nói lẻ loi lại có sức nặng ghê gớm của chân lý làm những kẻ nắm quyền lực phải hoảng sợ và ra sức trấn áp.

Trần Vàng Sao-Nguyễn Đính, một nhà thơ tài hoa, một trong những sinh viên Huế đầu tiên giác ngộ cách mạng, ra bưng kháng chiến năm 1965, bị thương được đưa ra Bắc điều dưỡng năm  1969. Anh chỉ làm thơ và viết nhật ký ghi lại trung thực những suy nghĩ của mình nhưng do một "đồng chí" phát hiện, báo cáo với tổ chức để lập công, đầu năm 1972 anh bị đưa ra đấu tố. Người ta buộc anh đủ thứ tội: Kêu gọi biểu tình, viết báo chữ to để lật đổ chế độ. Cho triết học Marx-Lénin là một thứ triết học hành chính, không có đối thoại. Nói xấu bác Hồ và bác Tôn. Khinh miệt trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc không có óc phản tỉnh và suy nghĩ độc lập, không có tư cách của người cầm bút. Dám nói thủ đô Hà Nội nhớp nhất thế giới… [Theo hồi ký của Nguyễn Đính viết năm 1993 và mới được phổ biến gần đây.] Từ đó anh bị thẩm vấn liên tục, bao vây, cô lập và sống đày đọa cho mãi đến tận ngày nay.

Ba bài giảng Sám hối của linh mục Chân Tín trong ngôi nhà thờ cũ kỹ Dòng Chúa Cứu Thế  đường Kỳ Đồng, mấy tập nhật ký riêng tư của Nguyễn Ngọc Lan có gì ghê gớm mà nhà nước phải đày ải người này, quản thúc người kia trong mấy năm.

Ba bài tiểu luận triết học-chính trị hơn 100 trang của Hà Sĩ Phu chuyên chở điều gì mà đảng và nhà nước phải huy động vài chục nhà nghiên cứu lý luận, hàng chục tờ báo đánh phá mấy năm liền, đưa ra phê phán cả trong văn kiện chuẩn bị cho đại hội đảng và cuối cùng kiếm cớ bỏ tù ông vì một tội tưởng tượng cực kỳ vô lý là chiếm đoạt, tiết lộ tài liệu bí mật của nhà nước.

Các nhà văn Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bùi Minh Quốc, Bảo Ninh, các đảng viên Cộng sản cũ, các cán bộ về hưu Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Trần Minh Thảo, các nhà trí thức khoa học tự nhiên và xã hội Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Lữ Phương, cả Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế và những người khác nữa, viết gì, nói gì mà đảng và nhà nước phải  huy động mọi biện pháp trấn áp từ bỏ tù đến quản thúc, xử lý hành chính, phê phán công kích trên nhiều báo chí  nhưng không cho tác giả được trả lời.

Cả Bùi Tín nữa, với tư cách một nhà báo kỳ cựu thông tỏ mọi chuyện cung đình, một người "ở trong chăn mới biết chăn có rận", đã viết gì trong hai cuốn sách "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" mà người ta chỉ có thể chửi rủa ông là phản bội, phản quốc chứ không thể bác bỏ được gì những điều ông viết.

Và buồn cười thay, báo cáo mật của chỉ điểm văn hóa văn nghệ  lên án cuốn sách "Viết cho Mẹ và Quốc hội" của Nguyễn Văn Trấn lại là tài liệu tuyên truyền tốt nhất cho cuốn sách và người ta đua nhau tìm đọc. Quyết định thu hồi và cấm lưu hành cuốn sách lại không dám cho phổ biến công khai dù đó là một cuốn sách in lậu, không có giấy phép.

Đó là những tiếng vọng lẻ loi ư? Không. Tiếng vọng lẻ loi không còn là tiếng vọng lẻ loi mà đã trở thành tiếng chim báo bão. Đây không phải là bão tố cuồng nộ của hận thù, máu lửa và áp bức mà là những ngọn gió phóng khoáng của dân chủ, tự do, của sự thật, bao dung, nhân bản và hòa bình, những giá trị đích thực của con người sẽ chiến thắng trên đất nước và cả hành tinh này.

Đà Lạt ngày 23/2/97

LÝ LUẬN    VĂN HỌC    BÌNH LUẬN    PHỎNG VẤN    VỤ ÁN LIÊN QUAN    NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ