Trong mấy năm gần đây, tôi không
phải là người đầu tiên và duy nhất công khai bày tỏ ý kiến của mình
về những vấn đề chung của đất nước, có quan điểm khác hoặc trái với
quan điểm của đảng và nhà nước. Những ý kiến đó không được báo chí
trong nước đăng tải nhưng các đài báo nước ngoài đã thông tin rộng
rãi trên toàn thế giới. Nhiều người đã biết đến Chân Tín, Nguyễn
Ngọc Lan, Lữ Phương, Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu, Nguyễn Văn
Trấn ở Sài Gòn, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung thành,
Trần Độ, Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang,
Hoàng Tiến ở Hà Nội, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Minh Thảo ở Đà
Lạt, Lâm Đồng và một số người nữa, chưa kể đến ý kiến của các tu sĩ
đối với những vấn đề tôn giáo.
Cũng như nhiều người khác, quan điểm
của tôi thật rõ ràng: Ủng hộ dân chủ, không tán thành độc quyền
lãnh đạo nhưng không chủ trương bạo động, lật đổ, gây hận thù, đổ
máu mà thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đất nước bằng những phương
tiện hòa bình, chủ yếu là thông qua việc bày tỏ trung thực và thẳng
thắn quan điểm của mình, thực hiện quyền tự do tư tưởng, ngôn luận
và báo chí.
Trong ý hướng đó, tôi không coi vấn
đề nào là cấm kỵ, không cần lựa lời nói cho dễ lọt tai, vừa lòng
lãnh đạo. Cũng như nhiều người khác, tôi không phủ nhận và ít viết
về những thành tựu mà tập trung phân tích, phê phán những thiếu sót
hay sai lầm. Điều đó dễ hiểu. Đã có gần 500 đài, báo của trung ương
và các địa phương do đảng và nhà nước lãnh đạo thông tin về đường
lối chính sách và ca ngợi thành tích rồi, chúng tôi không cần thiết
phải làm việc đó.
Tôi cho rằng đảng và nhà nước không
thể đứng trên nhân dân và luật pháp. Đảng và nhà nước phải lắng nghe
và chấp nhận sự phê phán của công luận dù điều này rất khó chịu đối
với một đảng đã từng tự cho mình luôn sáng suốt, lãnh đạo xã hội
toàn diện, triệt để và tuyệt đối, theo một ý thức hệ "bách chiến
bách thắng muôn năm" và không muốn chia sẻ quyền lãnh đạo với ai
khác.
Mặc dù hiện nay vẫn có những biện
pháp trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến nhưng tôi cho
rằng trong vấn đề này đã có tiến bộ hơn trước. Hai phiên tòa Hoàng
Minh Chính-Đỗ Trung Hiếu và Lê Hồng Hà-Hà Sĩ Phu-Nguyễn Kiến Giang
mới đây , với bản án nặng nhất chỉ có hai năm tù ở, người hết hạn tù
được trả tự do ngay. Một số người khác bị gây khó khăn bằng nhiều
cách như quản thúc, giám sát, thường xuyên gọi lên thẩm vấn ... Bản
thân tôi cũng bị giám sát chặt chẽ và từ giữa tháng 11 đến giữa
tháng 12/96 tôi đã bị công an mời lên thẩm vấn ba đợt, tổng cộng 12
ngày về những bài viết của tôi đăng tải trên đài báo nước ngoài.
Dĩ nhiên những người trong cuộc
không chấp nhận và tôi tin đông đảo người dân cũng như dư luận trong
và ngoài nước không đồng tình nhưng dù sao so với những bản án nặng
nề và biện pháp thô bạo trước đây, đó là một bước tiến về phía dân
chủ của tình hình. Tuy sự tiến bộ đó còn quá ít ỏi so với yêu cầu
của đất nước và nguyện vọng của nhân dân nhưng đó là một dấu hiệu
tích cực cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa.
Vừa qua, trên báo Sài Gòn Giải
Phóng số chủ nhật 2/2/97 có bài viết "Tiếng vọng lẻ loi" của Nguyễn
Minh đả kích nặng nề và quy chụp chính trị đối với cá nhân tôi.
Tronng lá thư gởi Ban Biên tập ngày 9/2/97, tôi đã chứng minh sự vu
khống trong bài báo đó, đề nghị Ban Biên tập có thái độ rõ ràng theo
đúng luật báo chí và mở cuộc tranh luận công khai về các vấn đề bài
báo đã nêu ra.
Ở đây tôi không phân tích về quan
điểm các vấn đề mà Nguyỗn Minh đã đưa ra để quy chụp tôi về chính
trị như vấn đề độc tài và dân chủ, trách nhiệm của đảng và nhà nước
trước hiện tình đất nướ, đặc biệt đối với chuyện tham nhũng và bão
lụt, vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội .. Những vấn đề đó
tôi đã viết khá nhiều trong cuốn tiểu thuyết "Nửa đời nhìn lại"
[Nhà xuất bản Thế Kỷ, Mỹ xuất bản năm 1994] và hơn 20 bài viết mà
gần 20 đài, báo ở ít nhất 7 nước trên thế giới đã giới thiệu, đăng
tải trong hai năm qua. Đặc biệt bài "Thư ngỏ gởi những người Cộng
sản Việt Nam" tôi đã viết như một bài góp ý cho đại hội 8 của đảng
Cộng sản và đã chính thức gởi cho tạp chí Cộng sản hồi tháng 6/96,
trong đó tôi nêu nhiều vấn đề chung một cách có hệ thống hay các
bài viết về những vấn đề cụ thể như 4 bài viết về Hà Sĩ Phu kể từ
khi ông bị bắt hồi tháng 12/95. Tôi tin sẽ có nhiều bạn đọc lên
tiếng tham gia các vấn đề trong bài báo của Nguyễn Minh.
Tôi cũng không trực tiếp tranh luận
với Nguyễn Minh vì người ta không thể đối thoại với những bài viết
mà ngoài luận điệu chụp mũ chính trị cũ rích lỗi thời còn có giọng
điệu hằn học, lời lẽ thóa mạ như thế. Phê bình, tranh luận trên
sách báo bao giờ cũng cần có văn hóa.
Tôi muốn nhân sự kiện này tập trung
phân tích một vấn đề rất bức xúc hiện nay là vấn đề tự do báo chí.
Có tự do báo chí, tự do tư tưởng và ngôn luận , tất cả mọi vấn đề
khác sẽ được đưa ra công luận và làm sáng tỏ chân lý.
Ai cũng hiểu vai trò lớn lao của
báo chí trong đời sống xã hội. Ở các nước phương Tây, người ta tôn
vinh báo chí là đệ tứ quyền. Dĩ nhiên trong báo chí cũng có những
biểu hiện xấu [mà lãnh vực nào lại không có] nhưng không ai phủ nhận
vai trò to lớn của báo chí trong các cuộc cách mạng, trong các phong
trào dân chủ và trong đời sống chính trị, xã hội của các quốc gia
văn minh hiện nay.
Từ khi có báo chí, đất nước ta đã
bao giờ có tự do báo chí hay chưa? Trong các hiến pháp xã hội chủ
nghĩa từ trước đến nay đều có ghi rõ quyền tự do báo chí và quyền
đó được thực hiện như thế nào?
Khi không có báo chí tư nhân hay báo
chí phải được lãnh đạo, được kiểm duyệt thì trên lý thuyết và trong
thực tế đã không có tự do báo chí dù được biện minh lý giải cách
nào. Mấy chục năm qua, nhiều sự kiện lớn đã là những mốc dấu khẳng
định rõ rệt ta không có tự do báo chí và điều đó đã gây ra biết bao
tai họa .
Vụ Nhân văn-Giai phẩm năm 1956-57 là
một vụ án báo chí-văn nghệ thảm khốc, một bi kịch lớn, không những
đã hủy hoại tài năng, trí tuệ, tâm huyết và cả sinh mệnh của bao
nhiêu văn nghệ sĩ, nhà báo tài năng, trung thực, dũng cảm nhất ở
trong cuộc, đày đọa họ cho đến cuối đời mà còn làm thui chột óc sáng
tạo, tinh thần phản kháng chính trực của cả mấy thế hệ cầm bút, làm
cho họ không chỉ mặc đồng phục, xếp hàng đi trong đội ngũ và hướng
đi định sẵn mà còn tự mình nằm trong gông cùm của chính mình do sự
sợ hãi, sự quy phục trong chính đầu óc mình dù tự nguyện hay không
tự nguyện. Đôi người muốn đi ra ngoài hàng, lập tức bị nghiền nát.
Đừng vội dẫy nẩy lên và cho rằng đây là luận điệu phản động của bọn
thù địch. Giáo sư Hòang Ngọc Hiến là ai khi ông viết về văn nghệ
"phải đạo"? Có ai dám nghi ngờ về quan điểm lập trường và lòng trung
thành của nhà văn đại tá quân đội Nguyễn Minh Châu khi ông viết "Đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ"? Không phải nhiều văn nghệ
sĩ đã nói đến ông kiểm duyệt nằm ngay trong đầu mình khi sáng tác
và một vị tổng bí thư đã lớn tiếng hô hào cởi trói cho văn nghệ sĩ
đó sao? [Đáng tiếc chẳng bao lâu cũng chính ông đã cho trói lại.]
Vụ Câu lạc bộ Những Người Kháng
Chiến Cũ TP/HCM xin ra báo Truyền thống kháng chiến không được, đã
tố cáo chế độ tự do báo chí của ta hiện nay còn tệ hại hơn thời Pháp
thuộc chứng tỏ sự bức xúc như thế nào.[Thời Pháp thuộc, người dân
chỉ cần đăng ký là có quyền ra báo chứ không cần xin phép] Đó không
phải là địch nói mà là những nhà cách mạng lão thành, những đảng
viên 40,50 tuổi đảng lên tiếng.
Kể từ khi có chủ trương đổi mới năm
1986, các vụ báo Văn nghệ trung ương ở Hà Nội, tạp chí Sông Hương ở
Huế, tạp chí Langbian ở Đà Lạt, báo Đối thoại ở Cửu Long bị trấn áp,
đình bản, kỷ luật ban biên tập càng cho thấy rõ hơn đã có tự do báo
chí hay chưa. Đó là chưa nói đến những tổng biên tập mới chỉ cố gắng
làm đúng chức năng báo chí đã bị xử lý như Tô Hòa báo Sài Gòn Giải
Phóng, Kim Hạnh báo Tuổi Trẻ, Thế Thanh báo Phụ Nữ TP/HCM, Trường
Giang báo Giáo Dục và Thời Đại.. Cũng chưa nói đến những nhà văn,
nhà báo bị phê phán một cách bất công, xử lý kỷ luật hành chính hoặc
đánh đòn hội chợ theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen như Dương Thu
Hương, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hà Sĩ Phu, Đào Hiếu, Trần Vàng Sao,
Hà Văn Thùy, Phạm Thái…
Và nếu lá thư khiếu nại và
bài viết này của tôi không được báo SGGP đăng hay trả lời, không có
báo chí nào khác lên tiếng hay được lên tiếng, đăng tải ý kiến của
bạn đọc tham gia, ta lại càng thấy rõ luật báo chí được thực hiện
như thế nào, cái gọi là tự do báo chí ra sao ở đất nước này.
Nói tự do báo chí nhưng chưa hề có
một diễn đàn, một cuộc tranh luận công khai và thẳng thắn về những
vấn đề lớn của đất nước, trong đó mọi ý kiến dị biệt đều được tôn
trọng và đăng tải. Các diễn đàn trên báo chí thường chỉ có ý kiến
một chiều, xuôi theo chỉ đạo, khá lắm là kiến nghị, đề xuất, không
mấy khi có ý kiến phản bác, phê phán đường lối chính sách của đảng
và nhà nước dù trong nhân dân, đặc biệt trí thức, không thiếu loại ý
kiến này.
Công bằng mà nói, gần đây báo chí có
cởi mở hơn. Một số báo có mở ra các diễn đàn tranh luận nhưng thường
đề cập những vấn đề không thuộc loại cấm kỵ, đã có phê phán đích
danh cán bộ lãnh đạo dù mới chỉ là lãnh đạo của Liên Đòan Bóng Đá
Việt Nam, đã đề cập đến các ô dù, các bóng đen đằng sau các vụ tham
nhũng tuy chưa dám chỉ rõ là ai.
Một số nhà báo tài năng, nhạy bén và
thông minh, kể cả một số bạn đọc thông thường, qua các bài chính
luận, các phóng sự điều tra, các cuộc phỏng vấn và những bài viết
ngắn trong mục ý kiến bạn đọc, đã có cách nói lên sự thực, đưa ra
những vấn đề đảng và nhà nước không muốn nêu lên trước công luận,
lọt qua được cửa ải biên tập. Đó lại là kiểu "viết lách" trong các
chế độ độc tài hay thống trị của ngoại bang không có tự do báo chí
chứ không phải trong "chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ gấp triệu lần
chế độ tư bản."
Tình hình đó hoàn toàn không tương
xứng với yêu cầu đổi mới, dân chủ hóa đất nước và hội nhập vào thế
giới văn minh trong thời đại bùng nổ thông tin này.
Quyền được thông tin của người dân
như thế nào? Quyền này được ghi rõ trong hiến pháp Việt Nam. Bản
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc mà Việt
Nam là một thành viên đã cam kết thực hiện, khẳng định mạnh mẽ:
"Mỗi người có quyền tự do có ý kiến và phát biểu, quyền này không
cho phép bất cứ ai phải lo ngại vì có những ý kiến của mình và bao
gồm cả quyền tìm kiếm, thu nhận và truyền bá các thông tin và ý
tưởng, bất chấp biên giới, bằng bất cứ phương tiện nào." [điều 19]
Trong khi các đài báo nhà nước thông tin chi tiết từng giờ về vụ mổ
tim của tổng thống Enxin ở Nga, về các tai tiếng tài chánh liên
quan đến tổng thống Clinton bên Mỹ, về các vụ đình công, biểu tình,
bạo động, khủng bố ở khắp các nước và bình luận một cách thích thú
nhưng lại không hề tường thuật các chi tiết xác thực quan trọng về
các phiên tòa xử Hoàng Minh Chính-Đỗ Trung Hiếu, Lê Hồng Hà-Hà Sĩ
Phu-Nguyễn Kiến Giang, không nói gì đến bệnh tình của chủ tịch Lê
ĐứcAnh dù ông đã vào nằm bệnh viện rất lâu, không thông tin khách
quan về vụ nông dân đấu tranh giữ đất xung đột với bộ đội, công an
ở Kim Nổ, huyện Đông Anh và các cuộc biểu tình đòi dân sinh khác ở
Hà Nội..
Vậy thì quyền được thông tin của
người dân chỉ là quyền được biết những gì đảng và nhà nước muốn cho
biết thôi sao. Nhưng rõ ràng bưng bít thông tin là điều không thể
được trong thế giới ngày nay. Từ bất cứ một xó xỉnh nào của núi rừng
cũng có thể truyền tin đi khắp thế giới và nằm trên giường ngủ cũng
có thể nghe, xem được đủ mọi thứ trên đời. Bưng bít thông tin chỉ
chứng tỏ sự thiếu tự tin, thiếu bản lĩnh và độc đoán của nhà cầm
quyền.
Tự do báo chí, quyền được thông tin
lúc nào cũng là nhu cầu cần thiết của nhân dân và ngày càng trở nên
bức xúc. Nguyễn Văn Trấn đã viết cuốn sách "Viết cho Mẹ và Quốc Hội"
dày hơn 500 trang cốt chỉ nói một điều là cần phải có tự do báo chí.
Mới đây Hoàng Tiến trong nhiều bài viết đã công khai lên tiếng đòi
phải có báo chí tư nhân. Và tờ báo Người Sài Gòn xuất bản không cần
giấy phép đã ra được mấy chục số… Đảng và nhà nước suy nghĩ thế nào
về các hiện tượng này?
Quốc hội thông qua luật báo chí
không cho phép báo chí tư nhân là vi phạm hiến pháp, đi ngược lại
nguyện vọng của nhân dân trong khi quốc hội được coi là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn
dân. Trong thực tế nhiều cơ quan, hội đoàn do đảng và nhà nước tổ
chức, chỉ đạo có quyền ra báo, lại giao cho tư nhân làm, thực chất
là bán giấy phép. Những tờ báo lá cải chạy theo lợi nhuận, cóp nhặt
xào nấu báo chí nước ngoài, viết những bài vô thưởng vô phạt hay
linh tinh nhảm nhí đầy dẫy, trong khi đó những người tâm huyết,
những trí thức cấp tiến muốn có một cơ quan ngôn luận để bày tỏ quan
điểm của mình lại không được quyền ra báo. Đảng và nhà nước chủ
trương chấp nhận những ý kiến khác nhau nhưng những ý kiến đó sẽ
được nói ở đâu nếu không có tự do báo chí, không có báo chí tư nhân.
Người ta chỉ có thể nói trong xó nhà, nơi quán nước hay photocopy để
truyền bá quan điểm của mình như tình hình hiện nay và có người bức
xúc đi đến chỗ làm báo lậu.
Ở đây còn có vấn đề liên quan đến
báo chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Hai triệu người Việt
ở nhiều nước trên thế giới xuất bản rất nhiều báo chí thuộc đủ
khuynh hướng, trong đó có nhiều tờ báo đứng đắn, trí tuệ của nhiều
trí thức và cả những người Cộng sản cũ ở miền Nam, miền Bắc hay ở
nước ngoài trước đây chủ trương. Ngoài một số báo chí có xu hướng
chống Cộng cực đoan, hô hào lật đổ, không ít báo chí đã đi đến xu
hướng hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ,
góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, tìm những giải pháp tối ưu
cho tình hình đất nước bằng những phương tiện hòa bình, thông qua
đối thoại. Chủ trương này xét về tổng quát không khác gì đường lối
chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc của đảng và nhà nước hiện
nay. Đảng và nhà nước đã thừa nhận cộng đồng người Việt ở hải ngoại
là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam nhưng trong
thực tế tất cả báo chí của người Việt ở hải ngoại đều bị cấm, bị coi
là phản động. Rõ ràng thế là không thực tâm. Người Việt ở hải ngoại
có nguyện vọng, có quyền nói và truyền bá quan điểm của họ cho đồng
bào mình, đảng và nhà nước cũng phải lắng nghe và đối thoại với họ.
Tại sao đảng và nhà nước bắt tay, bình thường hóa ngoại giao, quan
hệ hữu hảo với cả những quốc gia là kẻ thù cũ, thậm chí là kẻ thù
truyền kiếp, kẻ thù lâu dài, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, lại
không thể hòa giải hòa hợp, đối thoại với đồng bào mình ở xa tổ
quốc, dù trước đây họ ở bên kia chiến tuyến hay cùng chiến tuyến
nhưng nay bất đồng chính kiến và đang tha thiết muốn góp phần xây
dựng quê hương. Nếu chế độ này tốt đẹp, có chính nghĩa và đang có bộ
máy truyền thông đại chúng hùng hậu, hiện đại thì không sợ gì ai,
không sợ bất cứ luận điệu sai trái nào.
Nhân dân ta đã rất yêu nước, rất
thông minh làm sao có thể chấp nhận những luận điệu xằng bậy, nhưng
nếu có những ý kiến tốt, những lý luận sắc sảo và thuyết phục, những
quan điểm đúng đắn thì nhân dân sẽ ủng hộ, đảng và nhà nước cũng
phải tiếp thu nghiên cứu nghiêm túc. Tại sao cái gì cũng hô hoán,
quy kết là âm mưu "diễn biến hòa bình". Diễn biến hòa bình không tốt
hơn diễn biến chiến tranh sao. Trong diễn biến hòa bình phần thắng
sẽ thuộc về người có chính nghĩa, chinh phục được trái tim và khối
óc của người dân. Đó là cuộc đấu tranh thẳng thắn, công bằng và
không đổ máu, tại sao lại không chấp nhận luật chơi văn minh này.
Lịch sử thế giới và Việt Nam đã cho
thấy độc quyền dù trong tư tưởng, chính trị hay kinh tế cũng không
bao giờ tốt, chỉ dẫn đến sai lầm, độc tài và độc ác như nhiều người
đã nhận xét. Phải có đối thoại, đối lập và cạnh tranh một cách hòa
bình, lành mạnh mới có thể xây dựng một xã hội, một chế độ tốt đẹp
và văn minh, mang lại tự do và quyền lợi cho đa số nhân dân. Trong
vấn đề này, tự do báo chí là một trong những phương tiện hữu hiệu
nhất.
Trở lại bài báo "Tiếng vọng lẻ loi"
của Nguyễn Minh, gạt qua bên sự vu khống, trích dẫn sai lầm và suy
diễn lệch lạc mà tôi đã phân tích trong lá thư gởi Ban Biên tập báo
SGGP ngày 9/2/97 tôi cũng muốn nói đôi điều về tâm trạng lẻ loi.
Trong những năm trước đây, những
người trí thức bất đồng chính kiến trong nước, khi phát biểu quan
điểm của mình và bị trù dập, đôi khi cũng có tâm trạng lẻ loi. Nhưng
dần dần số người dám nói tiếng nói của lương tri đã tăng lên, vững
vàng hơn, mạnh mẽ hơn và được nhiều người lắng nghe, ủng hộ, truyền
bá. Nhiều người khác cùng nhận thức nhưng không nói được trực tiếp
và thẳng thắn cũng đã có cách làm khác hoặc thông qua đài báo nhà
nước một cách thông minh và khôn ngoan để biểu lộ. Đám đông thầm
lặng cũng thấy rõ ý kiến nào là đúng đắn, tâm huyết, luận điệu nào
là tuyên truyền lừa mị dù được nói bởi bất cứ ai, phổ biến bằng bất
cứ phương tiện nào. Các cơ quan truyền thông đại chúng nước ngoài đã
góp phần quan trọng phổ biến những tiếng nói lương tri ngay trong
chính đất nước này và ra năm châu bốn bể.
Những tiếng nói
lẻ loi lại có sức nặng ghê gớm của chân lý làm những kẻ nắm quyền
lực phải hoảng sợ và ra sức trấn áp.
Trần Vàng Sao-Nguyễn Đính, một nhà
thơ tài hoa, một trong những sinh viên Huế đầu tiên giác ngộ cách
mạng, ra bưng kháng chiến năm 1965, bị thương được đưa ra Bắc điều
dưỡng năm 1969. Anh chỉ làm thơ và viết nhật ký ghi lại trung thực
những suy nghĩ của mình nhưng do một "đồng chí" phát hiện, báo cáo
với tổ chức để lập công, đầu năm 1972 anh bị đưa ra đấu tố. Người ta
buộc anh đủ thứ tội: Kêu gọi biểu tình, viết báo chữ to để lật đổ
chế độ. Cho triết học Marx-Lénin là một thứ triết học hành chính,
không có đối thoại. Nói xấu bác Hồ và bác Tôn. Khinh miệt trí thức
và văn nghệ sĩ miền Bắc không có óc phản tỉnh và suy nghĩ độc lập,
không có tư cách của người cầm bút. Dám nói thủ đô Hà Nội nhớp nhất
thế giới… [Theo hồi ký của Nguyễn Đính viết năm 1993 và mới được phổ
biến gần đây.] Từ đó anh bị thẩm vấn liên tục, bao vây, cô lập và
sống đày đọa cho mãi đến tận ngày nay.
Ba bài giảng Sám hối của linh mục
Chân Tín trong ngôi nhà thờ cũ kỹ Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng,
mấy tập nhật ký riêng tư của Nguyễn Ngọc Lan có gì ghê gớm mà nhà
nước phải đày ải người này, quản thúc người kia trong mấy năm.
Ba bài tiểu luận triết học-chính trị
hơn 100 trang của Hà Sĩ Phu chuyên chở điều gì mà đảng và nhà nước
phải huy động vài chục nhà nghiên cứu lý luận, hàng chục tờ báo đánh
phá mấy năm liền, đưa ra phê phán cả trong văn kiện chuẩn bị cho đại
hội đảng và cuối cùng kiếm cớ bỏ tù ông vì một tội tưởng tượng cực
kỳ vô lý là chiếm đoạt, tiết lộ tài liệu bí mật của nhà nước.
Các nhà văn Dương Thu Hương, Phạm
Thị Hoài, Bùi Minh Quốc, Bảo Ninh, các đảng viên Cộng sản cũ, các
cán bộ về hưu Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu, Nguyễn Văn Trấn,
Trần Độ, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Trần Minh Thảo, các nhà trí
thức khoa học tự nhiên và xã hội Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang,
Nguyễn Thanh Giang, Lữ Phương, cả Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế và
những người khác nữa, viết gì, nói gì mà đảng và nhà nước phải huy
động mọi biện pháp trấn áp từ bỏ tù đến quản thúc, xử lý hành chính,
phê phán công kích trên nhiều báo chí nhưng không cho tác giả được
trả lời.
Cả Bùi Tín nữa, với tư cách một nhà
báo kỳ cựu thông tỏ mọi chuyện cung đình, một người "ở trong chăn
mới biết chăn có rận", đã viết gì trong hai cuốn sách "Hoa xuyên
tuyết" và "Mặt thật" mà người ta chỉ có thể chửi rủa ông là phản
bội, phản quốc chứ không thể bác bỏ được gì những điều ông viết.
Và buồn cười thay, báo cáo mật của
chỉ điểm văn hóa văn nghệ lên án cuốn sách "Viết cho Mẹ và Quốc
hội" của Nguyễn Văn Trấn lại là tài liệu tuyên truyền tốt nhất cho
cuốn sách và người ta đua nhau tìm đọc. Quyết định thu hồi và cấm
lưu hành cuốn sách lại không dám cho phổ biến công khai dù đó là một
cuốn sách in lậu, không có giấy phép.
Đó là những tiếng vọng lẻ loi ư?
Không. Tiếng vọng lẻ loi không còn là tiếng vọng lẻ loi mà đã trở
thành tiếng chim báo bão. Đây không phải là bão tố cuồng nộ của hận
thù, máu lửa và áp bức mà là những ngọn gió phóng khoáng của dân
chủ, tự do, của sự thật, bao dung, nhân bản và hòa bình, những giá
trị đích thực của con người sẽ chiến thắng trên đất nước và cả hành
tinh này.
Đà Lạt
ngày 23/2/97