(Suy nghĩ nhân việc một số “Nhân văn”
được nhận Giải thưởng Nhà nước.)
Việc một số nhà văn trong nhóm “Nhân văn
– Giai phẩm” (NVGP) được nhận Giải thưởng Nhà nước (sẽ được trao vào
đầu tháng 3/07) là một bước tiến mới và chứng tỏ thiện ý của nhà
nước trong cách đối xử với những người đã tham gia nhóm NVGP năm xưa
kể từ năm 1988 sau khi họ được khôi phục hội tịch Hội Nhà văn và
sống, làm việc bình thường như những nhà văn khác. Tuy nhiên sự việc
này diễn ra quá chậm, quá muộn và chưa đáp ứng được đòi hỏi của công
luận và yêu cầu của tình thế.
Vụ án “Nhân văn – Giai phẩm” chấn động
xã hội mang lại nhiều tai họa, tai tiếng và tranh cãi là một vụ như
thế nào chưa hề được xem xét lại sau gần nửa thế kỷ. Đây không phải
là một vụ hòan tòan đã qua, đã mất mà vẫn còn là một vấn nạn lịch sử
và hệ quả của nó vẫn còn tồn tại, nhức nhối trong đời sống văn học
và xã hội hiện tại.
Mới đây, trong đám tang của ông Nguyễn
Hữu Đang, một nhân vật chủ chốt của nhóm và bị đày đọa nhiều nhất,
dù được một vài cơ quan nhà nước tham gia ban lễ tang nhưng trong
điếu văn bên cạnh việc ca ngợi những thành tích của ông vẫn có câu
nhắc đến việc tham gia nhóm NVGP là một khuyết điểm.
Việc những tác giả của nhóm NVGP lần này
được trao giải cũng chỉ căn cứ vào một số tác phẩm cụ thể của họ
được nêu lên chứ không phải tòan bộ tác phẩm và chắc chắn là không
phải những tác phẩm đã từng đăng trên NVGP.(Hòang Cầm với các tập
thơ Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông, 99 thình khúc; Trần Dần vơi
các tác phẩm Bài thơ Việt Bắc, Cổng tỉnh, Người người lớp lớp; Phùng
Quán với Vượt Côn Đảo, Tuổi thơ dữ dội, Tiếng hát trên địa ngục Côn
Đảo; Lê Đạt với Bóng chữ, Ngó lời, Hèn đại nhân) Điều óai ăm là một
số những tác phẩm của họ được người đọc ngưỡng mộ nhất không phải là
những tác phẩm đó, lại là những tác phẩm đã từng đăng trên các tờ
báo “tội lỗi” năm xưa. Có phải nhắc đến Phùng Quán là người ta nghĩ
ngay đến “Lời mẹ dặn” và Trần Dần gắn liền với hai câu thơ “Tôi bước
đi không thấy phố không thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ”?
Hòang Cầm và Lê Đạt, hai người còn sống
đã trên 80 tuổi được giải thưởng, khi được báo chí phỏng vấn đã bày
tỏ là “vui” và cảm ơn nhà nuớc vì đã có “cử chỉ đẹp tuy hơi muộn”.
(Phát biểu được đăng tải trên báo Tuổi trẻ số chủ nhật 25-2-07) Tuy
nhiên có lẽ niềm an ủi và hạnh phúc lớn nhất của họ chính là sự thừa
nhận của người đọc, của nhân dân đã từ lâu chứ không phải của nhà
nước. Hữu Loan, người duy nhất trong nhóm NVGP trước đây không chịu
những hình thức kiểm điểm, cải tạo mà bỏ về quê thồ đá kiếm sống và
sau này không làm đơn xin khôi phục hội tịch Hội Nhà văn, lần này
cũng được đề cử nhận giải nhưng không được chấp thuận. Cách đây khá
lâu, một công ty đã mua bản quyền bài thơ “Mầu tím hoa sim” của ông
với giá một trăm triệu đồng và có người đã đánh giá đây là bài thơ
tình hay nhất thế kỷ. Bài thơ đã từng bị cấm đóan nhưng nó vẫn được
phổ biến không ngừng trong 50 năm qua, nhất là qua phổ nhạc, hàng
triệu người đã nghe, đã hát và yêu thích. Vậy thì việc trao giải
thưởng của nhà nước lần này chỉ là chạy rất sau thực tế, bị thực tế
vượt qua và hơn nữa còn chứng tỏ một sự trì trệ rất đáng lo ngại.
Ở Việt Nam, có hai từ rất đẹp đã bị
những vụ án chính trị làm hoen ố. Đó là từ “nhân văn” và “xét lại”.
Đã có một thời gian dài hai từ này bị hiểu như là cái gì xấu xa,
phản trắc, phản động, chống lại đảng cộng sản, chống lại tổ quốc. Ai
bị quy là “bọn nhân văn”, “bọn xét lại” hay có liên quan, dây mơ rễ
má với “bọn” này thì chỉ có nuớc bị đi tù, cải tạo, trù dập hay
không ngóc đầu lên nổi. Nhưng “nhân văn” chính là phẩm cách cao quý
nhất của một nền văn hóa và cả chính trị, “xét lại” là động lực phát
triển của khoa học và cũng của chính trị. Khi hô hào xây dựng một xã
hội “công bằng và văn minh” thì đó chính là “nhân văn” và “đổi mới”
có khác gì “xét lại”. Như thế không phải đảng và nhà nước không hiểu
rõ giá trị của hai từ này nhưng đảng và nhà nước không cho ai “nhân
văn” và “xét lại” nếu việc này đe dọa đến sự độc quyền lãnh đạo của
mình. Đây là một mâu thuẫn lớn đã gây ra bi kịch và sự “tụt hậu” của
Việt Nam trong thời hiện đại nói chung và trên hai lãnh vực văn hóa,
chính trị nói riêng.
Qua vụ NVGP, vói các tài liệu liên quan
mới được công bố lại trên talawas, ta thấy những nhà văn, nhà báo đã
trở thành công an, mật vụ, chỉ điểm và trở mặt nói xấu, quy chụp,
đưa bạn bè, đồng nghiệp vào chỗ tù đày, thân bại danh liệt như thế
nào. Những người cần có nhân cách nhất lại vì vụ “nhân văn” trở
thành những người mất nhân cách tệ hại nhất. Mà các tác phẩm đăng
trên NVGP có gì khác hơn là đòi tự do tư tưởng, tự
do sáng tác, chống quan liêu, chống tham ô
lãng phí và không ít tác phẩm khẳng định sự ủng hộ đối với
đảng để diệt trừ những tệ nạn xấu xa làm hại đến nhân dân, đến đất
nước và cả đến đảng khi đảng đã nắm được quyền lực.
Không dừng lại ở đó, sau vụ NVGP, tất cả
nhà văn khi sáng tác đều chịu hai cái vòng “kim cô”, một ở bên ngòai
do chính sách kiểm duyệt của nhà nước khi biên tập, cho đăng báo,
xuất bản, một ở bên trong đầu từng nhà văn khi luôn luôn nghĩ mình
phải sáng tác như thế nào để khỏi phạm vào những điều cấm kỵ có thể
đưa mình đến chỗ thân bại danh liệt. Vậy là có tác phẩm “phải đạo”,
“đồng phục”. Nhiều người đã băn khoăn tại sao Việt Nam không có tác
phẩm lớn đạt tầm nhân lọai khi hòan cảnh Việt nam là một hiện thực
lớn vô cùng phong phú và văn nghệ sĩ Việt Nam không thiếu tài năng.
Phải chăng tình hình trên đây đã là một câu trả lời hiển nhiên. Làm
sao có tác phẩm lớn khi văn nghệ sĩ không có tự do sáng tạo?!
Không phải nói chuyện quá khứ, ngay
trong hiện tại, sau “đổi mới”, Việt Nam vẫn không có được những tác
giả với những tác phẩm lớn như Mạc Ngôn, Giả Bình Ao …của Trung quốc
mà khi đọc ta phải cúi đầu bái phục. Một thí dụ khác, Yveline Féray,
nhà văn nữ người Pháp đã bỏ ra mười năm để nghiên cứu và viết tác
phẩm Vạn Xuân (nguyên tác Les Milles printemps do Nguyễn Khắc Duơng
dịch,… xuất bản), tác phẩm viết về Nguyễn Trãi và thời đại của ông
cách đây hơn 600 năm. Đọc xong “Vạn xuân” ta vừa ngưỡng mộ vừa xấu
hổ. Làm sao một người nước ngòai có thể làm được như thế mà ta thì
không. Ngòai tài năng, nhà văn cần có tự do và một số điều kiện nhất
định mới có thể viết nên tác phẩm lớn. Ai nói tự do sáng tác chỉ là
việc riêng của nhà văn, không liên quan gì đến nhà nước, xã hội là
điều không thực tế, trừ một số trường hợp hết sức cá biệt.
Vấn đề không dừng ở đó mà còn mở ra khía
cạnh lớn lao hơn nhiều: trách nhiệm của nhà văn đối với xã hội và
đất nước. Nhà văn sáng tác theo yêu cầu chính trị, dưới sự lãnh đạo
của đảng. Những tác phẩm được gọi là văn học cách mạng đã góp phần
thúc đẩy tòan dân xông lên trong trận chiến. Và rồi kết quả như thế
nào? Đến một lúc nào đó nhà văn đã phản tỉnh và tự hỏi như Chế Lan
Viên trong một số bài thơ di cảo như Bánh vẽ, Trừ đi và nhất là bài
Ai? Tôi?
Mậu thân 2000 người xuống đồng bằng.
Chỉ một đêm, còn sống có 30.
Ai chịu trách nhiệm về cái chết
của 2000 người
đó?
Tôi ! Tôi, người viết những câu thơ
cổ võ
Ca
tụng người không tiếc mạng mình trong mọi lúc xung phong
Một trong 30 người kia ở mặt trận về
sau 10 năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con
nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người
lính cũ !
Ai chịu trách nhiệm vậy ? Lại chính
là tôi !
Người lính cần một câu thơ giải đáp
về đời
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm
người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ…
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể
cười.
( Chế Lan Viên.1987. Di cảo
)
Đó phải chăng là góp phần vào tội ác? Và
bao nhiêu nhà văn đã có tự vấn dù muộn màng như Chế Lan viên?
Ấy thế mà cho đến hôm nay, năm nào nghị
quyết về văn hóa tư tưởng của đảng bao giờ cũng nhấn mạnh đến việc
“chỉ đạo báo chí, xuất bản, văn hóa – văn nghệ”. Chỉ đạo như thế
nào? Để lại sản sinh ra những tác phẩm và họat động “phải đạo, đồng
phục”? Pháp luật để làm gì? Cứ trái pháp luật là cấm, không trái
pháp luật thì tự do làm, cần gì ai chỉ đạo. (Chưa kể ngay các văn
bản và quy định của pháp luật, nếu ngược lại với quyền lợi của nhân
dân, tước đọat tự do dân chủ như cấm báo chí tư nhân, cũng cần được
xem xét lại và sửa chữa.) Tác giả của những tác phẩm lớn trên thế
giới từ xưa đến nay, mang tính nhân văn sâu sắc, ảnh hưởng đến tòan
thể nhân lọai đâu cần ai chỉ đạo.
Những câu hỏi về nguyên nhân và ý nghĩa
của hai cuộc chiến tranh vừa qua, nhất là cuộc “chiến tranh chống Mỹ
xâm lược” không được đảng và nhà nước đặt lại hay chấp nhận đối
thọai. Dù lịch sử đã đi qua nhưng với cái giá máu xương và hận thù
quá đắt cho việc thống nhất đất nước, người ta vẫn có quyền đặt lại
vấn đề cuộc chiến tranh đó có cần thiết hay không. Nếu chủ trương
“xét lại” với xu hướng chống chiến tranh, chung sống hòa bình những
năm đầu thập kỷ 60 được nghiên cứu và tiếp thu, biết
đâu Việt Nam sẽ tránh được cuộc chiến này và
“bọn xét lại – chống đảng” sẽ có thể là cứu tinh của dân tộc.
Chủ trương xét lại ở Liên Xô với Khrutchov đã vạch trần sự tàn ác
của chủ nghĩa cộng sản thời Stalin, làm tiền đề cho công cuộc “cải
tổ” sau này thời Gorbachov, Ensin, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa
cộng sản ở Liên xô và trên tòan thế giới. Phải chăng những người
cộng sản chân chính sẽ không đau buồn khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ
vì chính chủ nghĩa cộng sản, chế độc cộng sản như đã thấy, với đấu
tranh giai cấp và chuyên chính vô sản khốc liệt đã mang lại tai họa
và tội ác cho con người, đồng thời làm hoen ố lý tưởng cộng sản cao
đẹp theo nghĩa chống bất công áp bức đã làm nức lòng hàng triệu
triệu người trên thế giới trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản man dã?
Chính vì chống “xét lại” nên cho đến nay
đảng cộng sản vẫn cương qưyết giữ vững độc quyền lãnh đạo, không
chịu từ bỏ điều 4 hiến pháp dù đảng không còn ngang tầm với nhiệm vụ
lịch sử, không tạo được đại đòan kết dân tộc để vươn lên xứng tầm
trong thời đại mới. Nếu gạt qua một bên những hận thù do cuộc chiến
để lại, có lẽ rất ít người dân Việt Nam nào chống lại đảng cộng sản
nếu đảng chịu sửa sai, thực sự làm được điều tốt đẹp cho dân cho
nước. Tiếc thay đảng cộng sản đã không làm được như vậy khi guồng
máy cầm quyền tham nhũng quá nặng nề đến vô phương cứu chữa, chênh
lệch giàu nghèo và áp bức bất công ngày càng nghiêm trọng, văn hóa
xã hội suy đồi, xuống dốc thê thảm. Vậy thì đảng cộng sản có lý do
gì đề độc quyền lãnh đạo khi thành quả mình lãnh đạo ngược lại với
lý tưởng mình đề ra, độc quyền lãnh đạo chỉ có nghĩa là độc quyền
hưởng lợi? Ngay cả khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào có đủ khả
năng để lãnh đạo đất nước thì khái niệm độc quyền, độc tài cũng là
một khái niệm xấu xa, nguy hiểm nhất cho một dân tộc. Lịch sử, đất
nước biến động không ngừng thì chỉ có những ai đủ tài năng và trí
tuệ, được nhân dân lựa chọn mới đủ thẩm quyền và tín nhiệm để nắm
vai trò lãnh đạo. Không có dân chủ thì mọi lý giải, biện minh của bộ
máy độc tài tòan trị đều là dối trá và áp đặt. Có lý do gì chính
đáng để không chia sẻ quyền lãnh đạo cho những người tài năng khác
của dân tộc?
Như thế, trong hai lãnh vực văn hóa và
chính trị, chính vì thiếu “nhân văn” và chống “xét lại” nên đảng
cộng sản đã phạm phải những sai lầm lịch sử. Cả trong kinh tế cũng
vậy. “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì?
Kinh tế thị trường đã là xu hướng tất yếu của thời đại, còn định
hướng xã hội chủ nghĩa nếu được hiểu và làm đúng như là những điều
tiết của nhà nước để tạo ra công bằng xã hội, mang lại điều kiện và
cơ hội thăng tiến cho tầng lớp nghèo khổ thì thật đáng hoan nghênh.
Tuy nhiên thực tế cho thấy nhà nước không làm được điều đó và “định
hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ có nghĩa là do đảng cộng sản độc quyền
lãnh đạo để bảo vệ quyền lợi của quan chức trong guồng máy đã trở
thành “tư bản đỏ”. Làm sao người dân có thể tin tưởng khi lời nói
không đi đôi với việc làm, thực tiễn trái với nội dung đường lối
chính sách đầy dẫy những lời hay ý đẹp?!
Đảng cộng sản đang ở trong thế mạnh của
người cầm quyền nhưng đó không phải là điều vững chắc và lâu dài nếu
không được tòan thể nhân dân ủng hộ. Quá khứ đã qua có những điều
không thể thay đổi nhưng ta vẫn có thể sửa chữa cho hiện tại và
tương lai. Hòa giải hòa hợp và đại đòan kết dân tộc chính là đường
lối đúng đắn nhất cho bất cứ ai có thực tâm muốn phụng sự đất nước.
Xác định nội dung, phương thức của đường lối này là điều không đơn
giản đối với đảng cộng sản cũng như các thành phần khác của dân tộc.
Tuy nhiên điều không thể thiếu là bài học lịch sử về “nhân văn” và
“xét lại”, nghĩa là mọi việc phải vì con người và không xơ cứng, bảo
thủ.
Đà Lạt tháng 3/2007