LÝ LUẬN     VĂN HỌC     BÌNH LUẬN     PHỎNG VẤN     VỤ ÁN LIÊN QUAN     NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ

"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988

"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993

"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995

Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự

Bài học lịch sử “Nhân văn” và “Xét lại”


(Suy nghĩ nhân việc một số “Nhân văn” được nhận Giải thưởng Nhà nước.)

 

Việc một số nhà văn trong nhóm “Nhân văn – Giai phẩm” (NVGP) được nhận Giải thưởng Nhà nước (sẽ được trao vào đầu tháng 3/07) là một bước tiến mới và chứng tỏ thiện ý của nhà nước trong cách đối xử với những người đã tham gia nhóm NVGP năm xưa kể từ năm 1988 sau khi họ được khôi phục hội tịch Hội Nhà văn và sống, làm việc bình thường như những nhà văn khác. Tuy nhiên sự việc này diễn ra quá chậm, quá muộn và chưa đáp ứng được đòi hỏi của công luận và yêu cầu của tình thế.

Vụ án “Nhân văn – Giai phẩm” chấn động xã hội mang lại nhiều tai họa, tai tiếng và tranh cãi là một vụ như thế nào chưa hề được xem xét lại sau gần nửa thế kỷ. Đây không phải là một vụ hòan tòan đã qua, đã mất mà vẫn còn là một vấn nạn lịch sử và hệ quả của nó vẫn còn tồn tại, nhức nhối trong đời sống văn học và xã hội hiện tại.

Mới đây, trong đám tang của ông Nguyễn Hữu Đang, một nhân vật chủ chốt của nhóm và bị đày đọa nhiều nhất, dù được một vài cơ quan nhà nước tham gia ban lễ tang nhưng trong điếu văn bên cạnh việc ca ngợi những thành tích của ông vẫn có câu nhắc đến việc tham gia nhóm NVGP là một khuyết điểm.

Việc những tác giả của nhóm NVGP lần này được trao giải cũng chỉ căn cứ vào một số tác phẩm cụ thể của họ được nêu lên chứ không phải tòan bộ tác phẩm và chắc chắn là không phải những tác phẩm đã từng đăng trên NVGP.(Hòang Cầm với các tập thơ Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông, 99 thình khúc; Trần Dần vơi các tác phẩm Bài thơ Việt Bắc, Cổng tỉnh, Người người lớp lớp; Phùng Quán với Vượt Côn Đảo, Tuổi thơ dữ dội, Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo; Lê Đạt với Bóng chữ, Ngó lời, Hèn đại nhân) Điều óai ăm là một số những tác phẩm của họ được người đọc ngưỡng mộ nhất không phải là những tác phẩm đó, lại là những tác phẩm đã từng đăng trên các tờ báo “tội lỗi” năm xưa. Có phải nhắc đến Phùng Quán là người ta nghĩ ngay đến “Lời mẹ dặn” và Trần Dần gắn liền với hai câu thơ “Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ”?

Hòang Cầm và Lê Đạt, hai người còn sống đã trên 80 tuổi được giải thưởng, khi được báo chí phỏng vấn đã bày tỏ là “vui” và cảm ơn nhà nuớc vì đã có “cử chỉ đẹp tuy hơi muộn”. (Phát biểu được đăng tải trên báo Tuổi trẻ số chủ nhật 25-2-07) Tuy nhiên có lẽ niềm an ủi và hạnh phúc lớn nhất của họ chính là sự thừa nhận của người đọc, của nhân dân đã từ lâu chứ không phải của nhà nước. Hữu Loan, người duy nhất trong nhóm NVGP trước đây không chịu những hình thức kiểm điểm, cải tạo mà bỏ về quê thồ đá kiếm sống và sau này không làm đơn xin khôi phục hội tịch Hội Nhà văn, lần này cũng được đề cử nhận giải nhưng không được chấp thuận. Cách đây khá lâu, một công ty đã mua bản quyền bài thơ “Mầu tím hoa sim” của ông với giá một trăm triệu đồng và có người đã đánh giá đây là bài thơ tình hay nhất thế kỷ. Bài thơ đã từng bị cấm đóan nhưng nó vẫn được phổ biến không ngừng trong 50 năm qua, nhất là qua phổ nhạc, hàng triệu người đã nghe, đã hát và yêu thích. Vậy thì việc trao giải thưởng của nhà nước lần này chỉ là chạy rất sau thực tế, bị thực tế vượt qua và hơn nữa còn chứng tỏ một sự trì trệ rất đáng lo ngại.

Ở Việt Nam, có hai từ rất đẹp đã bị những vụ án chính trị làm hoen ố. Đó là từ “nhân văn” và “xét lại”. Đã có một thời gian dài hai từ này bị hiểu như là cái gì xấu xa, phản trắc, phản động, chống lại đảng cộng sản, chống lại tổ quốc. Ai bị quy là “bọn nhân văn”, “bọn xét lại” hay có liên quan, dây mơ rễ má với “bọn” này thì chỉ có nuớc bị đi tù, cải tạo, trù dập hay không ngóc đầu lên nổi. Nhưng “nhân văn” chính là phẩm cách cao quý nhất của một nền văn hóa và cả chính trị, “xét lại” là động lực phát triển của khoa học và cũng của chính trị. Khi hô hào xây dựng một xã hội “công bằng và văn minh” thì đó chính là “nhân văn” và “đổi mới” có khác gì “xét lại”. Như thế không phải đảng và nhà nước không hiểu rõ giá trị của hai từ này nhưng đảng và nhà nước không cho ai “nhân văn” và “xét lại” nếu việc này đe dọa đến sự độc quyền lãnh đạo của mình. Đây là một mâu thuẫn lớn đã gây ra bi kịch và sự “tụt hậu” của Việt Nam trong thời hiện đại nói chung và trên hai lãnh vực văn hóa, chính trị nói riêng.

Qua vụ NVGP, vói các tài liệu liên quan mới được công bố lại trên talawas, ta thấy những nhà văn, nhà báo đã trở thành công an, mật vụ, chỉ điểm và trở mặt nói xấu, quy chụp, đưa bạn bè, đồng nghiệp vào chỗ tù đày, thân bại danh liệt như thế nào. Những người cần có nhân cách nhất lại vì vụ “nhân văn” trở thành những người mất nhân cách tệ hại nhất. Mà các tác phẩm đăng trên NVGP có gì khác hơn là đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tác, chống quan liêu, chống tham ô lãng phí và không ít tác phẩm khẳng định sự ủng hộ đối với đảng để diệt trừ những tệ nạn xấu xa làm hại đến nhân dân, đến đất nước và cả đến đảng khi đảng đã nắm được quyền lực.

Không dừng lại ở đó, sau vụ NVGP, tất cả nhà văn khi sáng tác đều chịu hai cái vòng “kim cô”, một ở bên ngòai do chính sách kiểm duyệt của nhà nước khi biên tập, cho đăng báo, xuất bản, một ở bên trong đầu từng nhà văn khi luôn luôn nghĩ mình phải sáng tác như thế nào để khỏi phạm vào những điều cấm kỵ có thể đưa mình đến chỗ thân bại danh liệt. Vậy là có tác phẩm “phải đạo”, “đồng phục”. Nhiều người đã băn khoăn tại sao Việt Nam không có tác phẩm lớn đạt tầm nhân lọai khi hòan cảnh Việt nam là một hiện thực lớn vô cùng phong phú và văn nghệ sĩ Việt Nam không thiếu tài năng. Phải chăng tình hình trên đây đã là một câu trả lời hiển nhiên. Làm sao có tác phẩm lớn khi văn nghệ sĩ không có tự do sáng tạo?!

Không phải nói chuyện quá khứ, ngay trong hiện tại, sau “đổi mới”, Việt Nam vẫn không có được những tác giả với những tác phẩm lớn như Mạc Ngôn, Giả Bình Ao …của Trung quốc mà khi đọc ta phải cúi đầu bái phục. Một thí dụ khác, Yveline Féray, nhà văn nữ người Pháp đã bỏ ra mười năm để nghiên cứu và viết tác phẩm Vạn Xuân (nguyên tác Les Milles printemps do Nguyễn Khắc Duơng dịch,…   xuất bản), tác phẩm viết về Nguyễn Trãi và thời đại của ông cách đây hơn 600 năm. Đọc xong “Vạn xuân” ta vừa ngưỡng mộ vừa xấu hổ. Làm sao một người nước ngòai có thể làm được như thế mà ta thì không. Ngòai tài năng, nhà văn cần có tự do và một số điều kiện nhất định mới có thể viết nên tác phẩm lớn. Ai nói tự do sáng tác chỉ là việc riêng của nhà văn, không liên quan gì đến nhà nước, xã hội là điều không thực tế, trừ một số trường hợp hết sức cá biệt.

Vấn đề không dừng ở đó mà còn mở ra khía cạnh lớn lao hơn nhiều: trách nhiệm của nhà văn đối với xã hội và đất nước. Nhà văn sáng tác theo yêu cầu chính trị, dưới sự lãnh đạo của đảng. Những tác phẩm được gọi là văn học cách mạng đã góp phần thúc đẩy tòan dân xông lên trong trận chiến. Và rồi kết quả như thế nào? Đến một lúc nào đó nhà văn đã phản tỉnh và tự hỏi như Chế Lan Viên trong một số bài thơ di cảo như Bánh vẽ, Trừ đi và nhất là bài Ai? Tôi?

 

Mậu thân 2000 người xuống đồng bằng.

Chỉ một đêm, còn sống có 30.

Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó?

Tôi ! Tôi, người viết những câu thơ cổ võ

                               Ca tụng người không tiếc mạng  mình trong mọi lúc xung phong

Một trong 30 người kia ở mặt trận về sau 10 năm

Ngồi bán quán bên  đường nuôi đàn con nhỏ

Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ

Chả huân chương nào nuôi  được người lính cũ !

Ai chịu trách nhiệm vậy ? Lại chính là tôi !

Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời

Tôi ú ớ.

Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong

Mà tôi xấu hổ

Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay

Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ…

Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.

                   ( Chế Lan Viên.1987. Di cảo )

 

Đó phải chăng là góp phần vào tội ác? Và bao nhiêu nhà văn đã có tự vấn dù muộn màng như Chế Lan viên?

Ấy thế mà cho đến hôm nay, năm nào nghị quyết về văn hóa tư tưởng của đảng bao giờ cũng nhấn mạnh đến việc “chỉ đạo báo chí, xuất bản, văn hóa – văn nghệ”. Chỉ đạo như thế nào? Để lại sản sinh ra những tác phẩm và họat động “phải đạo, đồng phục”? Pháp luật để làm gì? Cứ trái pháp luật là cấm, không trái pháp luật thì tự do làm, cần gì ai chỉ đạo. (Chưa kể ngay các văn bản và quy định của pháp luật, nếu ngược lại với quyền lợi của nhân dân, tước đọat tự do dân chủ như cấm báo chí tư nhân, cũng cần được xem xét lại và sửa chữa.) Tác giả của những tác phẩm lớn trên thế giới từ xưa đến nay, mang tính nhân văn sâu sắc, ảnh hưởng đến tòan thể nhân lọai đâu cần ai chỉ đạo.

Những câu hỏi về nguyên nhân và ý nghĩa của hai cuộc chiến tranh vừa qua, nhất là cuộc “chiến tranh chống Mỹ xâm lược” không được đảng và nhà nước đặt lại hay chấp nhận đối thọai. Dù lịch sử đã đi qua nhưng với cái giá máu xương và hận thù quá đắt cho việc thống nhất đất nước, người ta vẫn có quyền đặt lại vấn đề cuộc chiến tranh đó có cần thiết hay không. Nếu chủ trương “xét lại” với xu hướng chống chiến tranh, chung sống hòa bình những năm đầu thập kỷ 60 được nghiên cứu và tiếp thu, biết đâu Việt Nam sẽ tránh được cuộc chiến này và “bọn xét lại – chống đảng” sẽ có thể là cứu tinh của dân tộc. Chủ trương xét lại ở Liên Xô với Khrutchov đã vạch trần sự tàn ác của chủ nghĩa cộng sản thời Stalin, làm tiền đề cho công cuộc “cải tổ” sau này thời Gorbachov, Ensin, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Liên xô và trên tòan thế giới. Phải chăng những người cộng sản chân chính sẽ không đau buồn khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ vì chính chủ nghĩa cộng sản, chế độc cộng sản như đã thấy, với đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản khốc liệt đã mang lại tai họa và tội ác cho con người, đồng thời làm hoen ố lý tưởng cộng sản cao đẹp theo nghĩa chống bất công áp bức đã làm nức lòng hàng triệu triệu người trên thế giới trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản man dã?

Chính vì chống “xét lại” nên cho đến nay đảng cộng sản vẫn cương qưyết giữ vững độc quyền lãnh đạo, không chịu từ bỏ điều 4 hiến pháp dù đảng không còn ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử, không tạo được đại đòan kết dân tộc để vươn lên xứng tầm trong thời đại mới. Nếu gạt qua một bên những hận thù do cuộc chiến để lại, có lẽ rất ít người dân Việt Nam nào chống lại đảng cộng sản nếu đảng chịu sửa sai, thực sự làm được điều tốt đẹp cho dân cho nước. Tiếc thay đảng cộng sản đã không làm được như vậy khi guồng máy cầm quyền tham nhũng quá nặng nề đến vô phương cứu chữa, chênh lệch giàu nghèo và áp bức bất  công ngày càng nghiêm trọng, văn hóa xã hội suy đồi, xuống dốc thê thảm. Vậy thì đảng cộng sản có lý do gì đề độc quyền lãnh đạo khi thành quả mình lãnh đạo ngược lại với lý tưởng mình đề ra, độc quyền lãnh đạo chỉ có nghĩa là độc quyền hưởng lợi? Ngay cả khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào có đủ khả năng để lãnh đạo đất nước thì khái niệm độc quyền, độc tài cũng là một khái niệm xấu xa, nguy hiểm nhất cho một dân tộc. Lịch sử, đất nước biến động không ngừng thì chỉ có những ai đủ tài năng và trí tuệ, được nhân dân lựa chọn mới đủ thẩm quyền và tín nhiệm để nắm vai trò lãnh đạo. Không có dân chủ thì mọi lý giải, biện minh của bộ máy độc tài tòan trị đều là dối trá và áp đặt. Có lý do gì chính đáng để không chia sẻ quyền lãnh đạo cho những người tài năng khác của dân tộc?

Như thế, trong hai lãnh vực văn hóa và chính trị, chính vì thiếu “nhân văn” và chống “xét lại” nên đảng cộng sản đã phạm phải những sai lầm lịch sử. Cả trong kinh tế cũng vậy. “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì? Kinh tế thị trường đã là xu hướng tất yếu của thời đại, còn định hướng xã hội chủ nghĩa nếu được hiểu và làm đúng như là những điều tiết của nhà nước để tạo ra công bằng xã hội, mang lại điều kiện và cơ hội thăng tiến cho tầng lớp nghèo khổ thì thật đáng hoan nghênh. Tuy nhiên thực tế cho thấy nhà nước không làm được điều đó và “định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ có nghĩa là do đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo để bảo vệ quyền lợi của quan chức trong guồng máy đã trở thành “tư bản đỏ”. Làm sao người dân có thể tin tưởng khi lời nói không đi đôi với việc làm, thực tiễn trái với nội dung đường lối chính sách đầy dẫy những lời hay ý đẹp?!

Đảng cộng sản đang ở trong thế mạnh của người cầm quyền nhưng đó không phải là điều vững chắc và lâu dài nếu không được tòan thể nhân dân ủng hộ. Quá khứ đã qua có những điều không thể thay đổi nhưng ta vẫn có thể sửa chữa cho hiện tại và tương lai. Hòa giải hòa hợp và đại đòan kết dân tộc chính là đường lối đúng đắn nhất cho bất cứ ai có thực tâm muốn phụng sự đất nước. Xác định nội dung, phương thức của đường lối này là điều không đơn giản đối với đảng cộng sản cũng như các thành phần khác của dân tộc. Tuy nhiên điều không thể thiếu là bài học lịch sử về “nhân văn” và “xét lại”, nghĩa là mọi việc phải vì con người và không xơ cứng, bảo thủ.

                                                                              Đà Lạt tháng 3/2007

  


LÝ LUẬN    VĂN HỌC    BÌNH LUẬN    PHỎNG VẤN    VỤ ÁN LIÊN QUAN    NHÓM ĐÀLẠT    TIỂU SỬ