"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Tiêu Dao Bảo Cự
Đâu là con đường hòa giải hòa hợp để chống lại guồng máy độc tài toàn trị?
Kiên trì đối thoại: Lại bàn về một diễn đàn dân chủ
Trong thời gian mấy tháng vừa qua, một số bài viết của tôi được công
bố trên diễn đàn DCVOnline và nhận được khá nhiều ý kiến đóng góp.
Những ý kiến này, một phần liên quan đến cuộc đời cá nhân tôi, phần
khác đề cập đến những vấn đề do tôi đặt ra hoặc những vấn đề khác
nữa do sự liên tưởng.
Dĩ nhiên tôi hiểu cá nhân tôi vô cùng nhỏ bé, chẳng là cái gì cả
nhưng bạn đọc quan tâm vì ở khía cạnh nào đó liên quan đến cái chung
và cái chung này là những vấn đề đang xảy ra tranh luận gay gắt.
Những cuộc tranh luận chung quanh các bài viết của tôi đã gây ra
sóng gió nho nhỏ trong diễn đàn rộng lớn vô cùng sôi động của
DCVOnline. Điều này chứng tỏ DCVOnline là một diễn đàn dân chủ có
sức thu hút mạnh mẽ.
Diễn đàn dân chủ trên net của DCVOnline có những ưu và nhược điểm,
tôi đã có lần góp ý trong bài
Về một diễn đàn dân chủ,
nay do tình hình phát triển, tôi xin mạn phép “lại bàn" thêm. Trong
bài viết này có nhiều vấn đề liên quan đến cá nhân mà dù tôi không
muốn nhắc đến nữa cũng không được. Tôi đã vô tình trở thành mục tiêu
để mổ xẻ, phân tích mà theo tôi có đúng có sai và rất nhiều ngộ
nhận. Những vấn đề quan điểm vẫn chưa được bàn luận thấu đáo và chưa
ngã ngũ. Tôi sẽ lại đề cập đến những nội dung trên nhưng mục đích
nhắm đến một vấn đề khác: hòa giải hòa hợp, chuyện xem ra có vẻ “cấm
kỵ” vào lúc này đối với một số người. Đối với tôi, chẳng có gì cấm
kỵ và tôi không hề né tránh bất cứ vấn đề gì.
Tôi viết bài này là cách kiên trì đối thoại, cố gắng làm sáng tỏ sự
thật, dù lẽ phải, chân lý trong thế giới này cũng rất tương đối. Đây
cũng là cách đáp tạ bạn đọc, những người yêu mến, đồng tình ủng hộ
và cả những người phê phán, lên án gay gắt nhưng với sự trung thực
và chân thành. Dù lấy bút hiệu “Tiêu dao”, dù ở tuổi này tôi đã
nghiêng nhiều về nẻo tâm linh nhưng tôi vẫn lại thường thấy mình
đứng giữa cuộc chiến đấu. Có lẽ đó là định mệnh của đời tôi. Định
mệnh nhỏ bé cá nhân nằm trong định mệnh chung của dân tộc. Một dân
tộc cần cù lao động, yêu hòa bình, giàu lòng nhân ái nhưng hàng thế
kỷ qua vẫn triền miên trong đói nghèo, chiến tranh và phân ly, thù
hận.
Bài này nêu lên 3 vấn đề:
- Về thái độ của bạn đọc và những đính chính cần thiết.
- Những tranh luận về quan điểm và vấn đề sám hối.
- Con đường nào đi đến hòa giải hòa hợp để chống guồng máy độc tài
toàn trị?
1. Về thái độ của bạn đọc và những đính chính cần thiết
Tôi chân thành cảm kích các bạn đọc đã có thể chia sẻ sâu xa và đồng
tình ủng hộ những điều tôi viết, những điều có thể đúng có thể sai
nhưng đều xuất phát từ sự suy nghĩ tỉnh táo, độc lập của khối óc có
thể có được và nhiệt tình của con tim chưa hề nguội lửa.Tôi cũng rất
biết ơn những ý kiến khách quan, không thành kiến, phân tích có lý
có tình, đối chiếu nhiều bài viết của tôi để tìm ra sự mâu thuẫn có
thể có. Những ý kiến đó giúp tôi soát xét lại mình, bài viết của
mình một cách cẩn trọng hơn
Tôi cũng thông cảm với những người nói rõ trước có cảm tình với các
bài viết của tôi nhưng khi biết quá trình hay do những lập luận nào
đó của tôi mà họ không đồng tình, lại đâm ra ác cảm. Đây là những
điều do liên quan đến quá khứ.
Tôi cũng hiểu được lý do tại sao có những người luôn luôn nghi ngờ
động cơ của người viết, luôn luôn cảnh giác, thậm chí bới lông tìm
vết, "vạch từng ngọn cỏ" để xem có cây kim nào dấu trong đó sẽ đâm
thủng bàn chân mình không. Họ sợ bị lừa vì đã từng bị lừa, vì sự lừa
bịp đã lên ngôi trong một thời kỳ dài của lịch sử.
Tôi không trách khi có người không theo dõi đầy đủ bài viết, như bút
ký “Hành trình mùa xuân” nên thắc mắc tại sao bây giờ là mùa thu lại
nói mùa xuân, tác gỉa sao không biết chuyện Phan Văn Khải đi Mỹ… dù
bút ký này ngay từ đầu, tôi đã nói rõ là viết về chuyến đi du lịch
mùa xuân năm 2003 và sau đó cũng đã có dịp nhắc lại thời điểm này.
Nhưng tôi hơi buồn vì có nhiều người đọc, ở một cực khác, lại có
cách đọc không khác gì cách đọc của công an và tuyên huấn cộng sản.
Khi Bùi Minh Quốc làm tập thơ “Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn” có
những từ “quỷ dữ” “ đao phủ”, người ta cật vấn “quỷ dữ, đao phủ” có
phải là ám chỉ Đảng và công an không?
Khi tôi viết về “Đà Lạt trăm năm…” có dẫn bài Quốc tế ca và nói rằng
“Đấu tranh này không phải là trận cuối cùng mà nhân dân còn cần
nhiều cuộc đấu tranh, nhiều cuộc cách mạng nữa.", người ta hỏi tôi
có phải anh đòi hỏi cuộc cách mạng lật đổ chế độ cộng sản?
Khi tôi lấy tên tập truyện là “Trên cả hận thù” có người nghi ngờ
đặt dấu hỏi ngay không biết có liên quan gì đến chủ trương “xóa bỏ
hận thù, hòa giải hòa hợp bịp bợm theo nghị quyết 36/ CP mới đây"
mặc dù người ấy biết rõ tôi đã viết truyện đó cách đây 7 năm, vào
năm 1998, trong thời gian tôi bị quản chế. Còn về quan điểm hòa giải
hòa hợp, đoàn kết của tôi, tôi đã nói rất rõ ràng trong
Thư ngỏ gởi những người cộng sản Việt
Nam viết
năm 1996 (DCVOnline mới đăng lại) và trong
Thư ngỏ gởi ông Võ Văn Kiệt về việc
đại đoàn kết dân tộc
mà DCVOnline vừa công bố không lâu.
Có người đòi hỏi tôi phải viết điều này điều kia theo ý riêng của
họ, nếu không sẽ bị coi là hèn nhát, thiếu trung thực, lừa bịp. Thực
ra có một số điều tôi đã từng viết hơn 10 năm trước nhưng họ chưa có
dịp đọc thôi. Thậm chí có người còn thách tôi biểu tình chống cộng
sản như thời trước biểu tình chống chính quyền VNCH. Đúng là biểu
tình trong chế độ cộng sản khó thật. Ngoài những cuộc biểu tình, đấu
tranh đòi quyền sống, đòi đất, đòi tự do tôn giáo của một số nhân
dân ở Thái Bình, Hà Nội, Đồng Nai, Huế, Tây Nguyên…, đặc biệt trong
sinh viên học sinh, không có một cuộc xuống đường nào cả trừ phi do
chính nhà nước tổ chức. Tuy nhiên tôi cũng có thể nói tôi đã từng
tham gia một cuộc “biểu tình chạy” của trí thức, văn nghệ sĩ miền
Trung vào cuối năm 1988 khi cùng với Bùi Minh Quốc và Hữu Loan thực
hiện chuyến đi xuyên Việt để đòi tự do dân chủ và đổi mới thực sự.
Có lẽ đây là cụôc biểu tình đầu tiên và duy nhất của trí thức, văn
nghệ sĩ trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Tôi đã tường thuật
đầy đủ sự kiện này trong bút ký “Hành trình cuối đông” do nhà Văn
Nghệ ở Cali xuất bản năm 1998).
Có người cho rằng những điều tôi trình bày, những mặt trái của chế
độ hay những đòi hỏi về tự do dân chủ là điều mọi người dân Việt Nam
ai cũng biết (chỉ trừ khoảng 100 cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng
Cộng sản là không biết) và cách nói của tôi chưa đủ sức nặng để Đảng
và Nhà nước phải đối phó. Nói như thế là quá chủ quan, thiếu thực
tế, không hiểu tình hình.
Nếu sự thực về mặt trái của chế độ ai cũng biết thì cần gì đến các
báo chí, đài phát thanh, diễn đàn trên mạng ở nước ngoài và cả những
báo chí trong nước nữa, nơi không thiếu những bài lý luận chỉ ra
những sai trái trong đường lối chính sách (ở một mức độ), những bài
phóng sự dũng cảm nêu lên những vụ việc tiêu cực, những cuộc sống
lầm than, khổ ải, nhục nhằn mà một bộ phận nhân dân đang gánh chịu.
Hơn 10 năm trước, tôi và một số bạn ở Đà Lạt như Bùi Minh Quốc, Hà
Sĩ Phu là một ít người trong số những người đầu tiên đòi bỏ điều 4
Hiến Pháp, đòi bỏ chủ nghĩa cộng sản, đòi dân chủ đa nguyên và kết
quả như thế nào mọi người đều biết: thẩm vấn, bao vây, cô lập, cắt
điện thoại, kiểm duyệt thư từ, đưa ra họp dân để “đấu tố”, rồi bỏ
tù, quản chế. Một số những điều chúng tôi nói, sau này những người
trẻ hơn mới nói như Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang,
Phương Nam…. Và ai cũng biết họ được đối xử như thế nào. Riêng
Phương Nam từ khi còn ở Úc, công bố các bài viết về “nhận thức lại”,
nhà nước không biết anh là ai để đối phó nhưng từ khi về nước, trở
thành Đỗ Nam Hải thì anh đâu còn được bình yên như trước.
Riêng chúng tôi thời kỳ đó còn được một bài viết nêu đích danh trên
báo Nhân dân như “những tên phản bội tổ quốc, tay sai đế quốc, xung
kích chống cộng” . Bài báo này sau đó được photocopy đưa về cho nhân
dân trong tổ dân phố chúng tôi ở học tập để “đề cao cảnh giác chống
bọn phá hoại sự nghiệp cách mạng” theo tinh thần một tấm bảng khẩu
hiệu được viết và đóng ngay trước cổng nhà chúng tôi ở.
Trong bài
Thư ngỏ gửi những người cộng sản
tôi đã gởi đến Ban chuẩn bị nội dung Đại hội 8 với tên và địa chỉ rõ
ràng, trong đó tôi khẳng định "tôi không tán thành độc đảng, độc tài
và định hướng xã hội chủ nghĩa, tôi ủng hộ dân chủ và đa nguyên
chính trị nhưng tôi cũng không tán thành bạo động, nội chiến, lật
đổ, gây hận thù". Khi nhận định về Hồ Chí Minh, trong khuôn khổ của
bài viết góp ý vào dự thảo cương lĩnh, tôi đã tự hạn chế vào vấn đề
thần thánh hóa lãnh tụ và viết tương đối nhẹ nhàng, thế nhưng một số
đảng viên ở địa phương tôi ở cho rằng tôi bị quản chế chưa đủ, cần
phải bỏ tù vì đã dám “nói xấu Bác Hồ”. Ở nước ngoài ai muốn viết gì
thì viết nhưng ở trong nước không dễ “dỡn mặt cộng sản” đâu.
Một chuyện tồi tệ là mặc dù tôi đã nói rõ, vài người vẫn cứ cố tình
vu cáo tôi liên quan đến vụ Mậu Thân ở Huế, nêu ra mập mờ hồ sơ gì
đó liên quan đến Ngô Kha, lại còn thách thức tôi đi đối chất với
những nhân chứng trong các vụ thảm sát.
Một lần nữa, tôi khẳng định từ trước cho đến năm 1972, tôi không
liên quan gì đến cộng sản. Tôi chấp nhận lời thách thức đi đối chất
với bất cứ ai. Nếu ở trong nước, tôi sẽ tự đi, nếu ở nước ngoài
những người đó phải làm sao để tôi có giấy thông hành vì hiện nay
tôi vẫn chưa có (?!) và trả chi phí vé máy bay, ăn ở vì tôi không có
khả năng này.
Tôi cũng thách lại những người đó những việc dễ hơn có thể làm được
là đi điều tra hồ sơ học tập của tôi ở Đại học sư Phạm và Đại Học
Văn khoa Huế từ năm 1963-1967, sự vụ lệnh bổ nhiệm tôi đi dạy học ở
Ban Mê Thuột năm 1967, hồ sơ dạy học của tôi ở trường Trung học Ban
Mê Thuột từ 1967-1970. Điều tra luôn hồ sơ của Trung tâm Thẩm vấn
Thành phố Huế những tháng cuối năm 1966, đầu năm 1967 lúc tôi bị tù,
xem tôi đã vẫn “thuyết giảng” về việc đấu tranh cho tự do dân chủ và
phủ nhận các cáo buộc có tình nghi liên quan đến cộng sản khi bị
thẩm vấn như thế nào. Nếu có bằng cớ liên quan đến cộng sản, tôi đã
đi Côn Đảo rồi, làm gì có chuyện được trả tự do trở về đi học và tốt
nghiệp đại học, bổ nhiệm đi dạy. Lại còn có thể xác minh qua hàng
ngàn sinh viên đại học Huế, đặc biệt những năm 1966-1967 vì lúc đó
tôi được nhiều người biết đến do là một trong những lãnh đạo của Hội
đồng Sinh viên Liên khoa, qua hàng ngàn học sinh cũ của tôi ở Trung
học Ban Mê Thuột trong các niên khoá 1967-1970, những người trên
hiện giờ không ít người ở nước ngoài.
Tôi phải nêu những chi tiết cặn kẽ như thế để chứng minh rằng vài
người cố ý vu cáo tôi trong chuyện này hoặc vì “hận thù mù quáng”
hoặc vì lý do mờ ám nào đó. Nếu chống lại sự lừa bịp mà bản thân
mình cũng bịp bợm, vu cáo, “ngậm máu phun người” thì còn chống được
ai, thuyết phục được ai.
Nhân đây tôi cũng xin đính chính một vài sự kiện có tính cách lịch
sử của phong trào tranh đấu năm 1966 ở Huế và miền Trung có liên
quan đến tôi.
Tiểu sử của tôi lâu nay được công bố trên các sách, báo chí và các
trang web ở nước ngoài đầu tiên do chính tôi cung cấp nhưng sau này
có ai đó tự ý bổ sung thêm (như ở nguồn đối-thoại.com mà có bạn đã
trích dẫn). Chi tiết Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách
Mạng Huế, Đoàn Sinh Viên Quyết Tử được ghi chú thêm là những tổ chức
do cộng sản lập ra.
Đầu niên khoá 1965-1966, đáng lý Tổng Hội Sinh Viên, là tổ chức đại
diện sinh viên niên khoá trước phải tổ chức bầu cử lại nhưng đã tự ý
lưu nhiệm để lãnh đạo sinh viên. Lúc đó Ban Đại Diện các phân khoa
mới được bầu đã họp lại, hình thành Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Đại
Học Huế, bất tín nhiệm Tổng Hội Sinh Viên cũ vì bất hợp pháp, hết
nhiệm kỳ để giành lấy quyền lãnh đạo sinh viên. Thành phần của Hội
Đồng này gồm chủ tịch Ban Đại Diện của 5 phân khoa mà tôi là Đại
diện ở Sư Phạm, giữ chức vụ Phó chủ tịch, Nguyễn Hữu Giao ở Luật
khoa làm chủ tịch (Nghe nói Nguyễn Hữu Giao hiện nay là luật sư ở
Mỹ?). Năm người này có xu hướng khác nhau, trong đó tôi gần gũi với
Nguyễn Hữu Giao vì lúc đó tôi và anh có xu hướng độc lập, muốn hoạt
động trong khuôn khổ đại học tự trị, không chịu ảnh hưởng của bên
ngoài.
Thực chất “phong trào tranh đấu Miền Trung năm 1966” do Phật Giáo
khởi xướng và lãnh đạo, vì ban đầu Hội Đồng Sinh Viên không hợp tác
chặt chẽ, có những chủ trương trái với Phật Giáo nên một lần Thượng
tọa Trí Quang phải mời Nguyễn Hữu Giao và tôi gặp riêng tại chùa Từ
Đàm để thương thảo. Tên Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa, sau này thêm
Tranh Thủ Cách Mạng là do khi Lực Lượng Nhân Dân Tranh Thủ Cách Mạng
hình thành (Phật Giáo đứng sau lãnh đạo) và yêu cầu thống nhất tất
cả các tổ chức tranh đấu của các giới (Có thời gian đổi tên Tranh
Thủ Cách Mạng thành Tranh Thủ Dân Chủ).
Đoàn Sinh Viên Quyết Tử do Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ
Cách Mạng lập ra vào giai đoạn cuối của cuộc tranh đấu để hỗ trợ cho
phong trào các tỉnh bạn và chuẩn bị chống đàn áp. Có ba đoàn ( còn
gọi là 3 đại đội), mỗi đoàn có trên dưới 100 sinh viên. Đoàn 1 được
phân công đi Đà Nẵng, Đoàn 2 đi Quảng Ngãi và Đoàn 3 đi Quảng Tín (
do tôi làm Đoàn trưởng)
Tên gọi “Quyết Tử” chỉ có tính cách tượng trưng cho ý chí đấu tranh.
Đoàn viên chỉ được huấn luyện quân sự cấp tốc trong ….2 ngày, gồm
tập đi đứng, lăn bò, tháo ráp vũ khí, tác xạ và vượt đoạn đường
chiến binh tại thao trường Văn Thánh do các sĩ quan VNCH huấn luyện
(Trong thời gian này một số đơn vị quân đội VNCH đã thành lập Quân
Đoàn Cách Mạng Trần Hưng Đạo để hỗ trợ phong trào tranh đấu). Đoàn
viên không được trang bị vũ khí và đồng phục chỉ là chiếc khăn quàng
đỏ trên cổ. Trong Đoàn 3 của tôi ngoài các nam sinh viên còn có một
số nữ sinh viên và cả một ít nữ học sinh Đồng Khánh cũng xin tham
gia. Tuy nhiên các nữ đoàn viên sau này không được đi công tác.
Thực tế nhiệm vụ chính của các Đoàn Sinh Viên Quyết Tử này là đi làm
công tác phát thanh và tuyên truyền (sở trường của sinh viên) và
củng cố tổ chức. Đoàn 3 của tôi ở Quảng Tín gần một tháng, chủ yếu
để củng cố phong trào và giải hòa những bất đồng giữa Quốc Dân Đảng,
Đại Việt và Lực Lượng Tranh Đấu của Phật Giáo ở đây. Trong những
buổi làm việc giải hòa này có mặt tướng Tôn Thất Đính, lúc đó mới
được bổ nhiệm làm Tư lệnh Vùng I chiến thuật thay tướng Nguyễn Chánh
Thi.
Do đó nếu ai nói rằng Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách
Mạng Đại Học Huế và Đoàn Sinh Viên Quyết Tử do Cộng sản lập ra hay
nói thêm những việc làm gì ghê gớm của Đoàn Sinh Viên Quyết Tử là
không chính xác và hoàn toàn bịa đặt.
Tôi cũng thừa nhận ở một số chỗ trong các bài viết của mình tôi viết
không hết ý nên có thể gây hiểu nhầm vì khi trình bày vấn đề chính,
nhắc qua các vấn đề liên quan nhưng không diễn giải đầy đủ. Thí dụ
khi tôi viết trong bút ký "Hành trình mùa xuân" kể lại việc gặp ông
HMC:
"Ðảng cầm quyền, lại là độc quyền lãnh đạo, quyền lực nằm trong tay
một người, một nhóm, một bè phái trong đảng, không những độc tài cai
trị nhân dân mà còn gây chia rẽ và đàn áp lẫn nhau trong đảng. Tất
cả đều đi ngược lại lý tưởng cộng sản cao đẹp nhưng lãng mạn và
hoang tưởng.
HMC là nạn nhân của lý tưởng, chủ nghĩa, đảng và bộ máy nhà nước mà
ông đã hết lòng phụng sự. Tuy nhiên ông là người tù bất khuất và tin
tưởng tuyệt đối vào chính nghĩa của mình. Mỗi lần vừa ra tù, ông lại
làm đơn, viết kiến nghị tố cáo những việc sai trái của đảng, nhà
nước hay tập đoàn nắm quyền lực thống trị trong đảng, thế là ông lại
vào tù."
“Lý tưởng cộng sản cao đẹp” ở đây hàm ý lý tưởng chống bất công áp
bức, xây dựng thế giới đại đồng, mọi người đều là anh em, thực ra
cũng là lý tưởng của toàn nhân loại, có sức hấp dẫn nhiều người,
nhất là trí thức sống trong các nước tư bản giai đoạn có nhiều bất
công, bóc lột. Chính một phần vì lý tưởng này mà cộng sản có thể
bành trướng ra một nửa thế giới. Tuy nhiên việc thi hành chủ nghĩa
cộng sản với đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản để thực hiện
lý tưởng trên lại có kết quả hoàn toàn trái ngược, mang lại thảm họa
cho nhân loại. Ở bài "Về một diễn đàn dân chủ" tôi cũng nêu sự phân
biệt giữa lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản…
nhưng chưa diễn giải.
Về cách dùng từ, duy nhất một lần tôi dùng từ “các người” để gọi
những người chống cộng ở nước ngoài mà một bạn đọc tinh ý nhận thấy
và cho rằng không được "lịch sự, mô phạm”. Chính tôi cũng cảm nhận
như thế khi viết nhưng chưa kịp sửa chữa.
Để giữ cho môi trường của diễn đàn trong sáng tôi cũng phải tự kềm
chế, không để bị lôi cuốn theo những giọng điệu và lời lẽ thiếu văn
hóa.
Để đáp lại sự trân trọng của một số bạn đọc, tôi không ngại “bộc
bạch” những điều riêng tư nhất, như chuyện tôi có cảm tình với mấy
du kích cộng sản gặp trong tù vì sự kiên cường của họ. Điều này lại
bị một số bạn hiểu sai đi, cho rằng tôi là sinh viên mà “ ngu” bị
những thằng du kích vô học thuyết phục. Có phải dù ngay đối với kẻ
thù nếu họ kiên cường ta cũng cúi đầu khâm phục?
Tôi nghĩ rằng người viết viết bằng cái tâm, người đọc cũng phải đọc
bằng cái tâm, nếu không sẽ chỉ đưa đến ngộ nhận hay hoài nghi, xa
cách.
2. Những tranh luận về quan điểm và vấn đề sám hối
Tôi không ngại tranh luận về quan điểm dù biết rằng tranh cãi về
chính trị đôi khi là điều khá nguy hiểm nếu không biết tôn trọng lẫn
nhau. Ngay trong một nhà, giữa cha con, anh em ruột nhưng khác nhau
về quan điểm chính trị cũng có thể dẫn đến xung đột và phân ly.
Ở đây tôi cũng muốn “bật mí” một điều để thấy rằng tôi không có gì
bí mật và không hề ngại chuyện va chạm về quan điểm.
Bảo Trâm, tác gỉa bài viết
Vài ý kiến về tập truyện “Trên cả hận
thù” của Tiêu Dao Bảo Cự
là một người anh em họ hàng của tôi. Chính tôi đã giới thiệu cho anh
tác phẩm đó và đề nghị anh góp ý dù tôi biết quan điểm của anh và
tôi có nhiều chỗ khác nhau.
Sau khi viết bài trên xong anh gởi bản thảo cho tôi và nói chỉ gởi
cho tôi đọc thôi, không công bố vì anh và vợ anh sợ rằng nếu công bố
tôi sẽ bị thương tổn và có thể làm sứt mẻ tình anh em. Tôi trả lời
ngay là anh cứ công bố, đừng ngại gì cả, tôi không hề bị “sốc” và
nghĩ không tốt về anh. Tư tưởng là tự do. Dân chủ phải có tranh
luận. Tôi sẵn sàng tranh luận với anh hay với bất cứ ai mà vẫn giữ
hòa khí nếu thành thật và tôn trọng lẫn nhau.
Trong thời gian bị quản chế trước đây, tôi đã hai lần phải đối đầu
với các cụôc “xa luân chiến” của hàng chục cán bộ trung cao cộng sản
trong những cuộc “đấu tố” gọi là góp ý cho tôi do địa phương tổ
chức. Nội dung và không khí những cuộc tranh luận đó không khác là
mấy với các ý kiến trên DCVOnline về các bài viết vừa qua của tôi.
Thực ra những vấn đề gai góc về quan điểm trên diễn đàn này không
phải do tôi cố tình nêu ra. Trong bút ký
Hành trình mùa xuân,
khi đi qua những nơi có nhiều kỷ niệm thời trẻ, tôi đã nhắc lại thời
sinh viên tranh đấu. (Trừ một số ít người có tuổi trẻ bất hạnh, hầu
như ai cũng nhớ về tuổi thanh xuân của mình như một thời kỳ đẹp nhất
của đời người, dù đôi khi chỉ là những kỷ niệm chọc gái, phá làng
phá xóm hay yêu đương lăng nhăng). Một số nơi khác có chứng tích về
chiến tranh, tôi cũng có đôi dòng cảm xúc. Dĩ nhiên đây không phải
là chủ đề chính của bút ký.
Tuy nhiên nhiều bạn đọc đã nhân chuyện đó đào sâu về vấn đề quan
điểm, nhắm vào quá khứ của cá nhân tôi để phân tích, mổ xẻ, phê
phán. Do đó để trả lời chung, tôi đã khái quát lại thành một số vấn
đề, đặc biệt vấn đề ai có lỗi đã đưa đến tình hình Việt Nam hiện
nay, nêu ra trong bài “ Về một diễn đàn dân chủ”. Từ đây việc tranh
luận lại căng thẳng thêm do động chạm đến vấn đề “chính nghĩa của
chế độ VNCH và tội ác của cộng sản và những người theo cộng sản
trong cuộc chiến tranh” được đặt ra từ những người gọi là quốc gia
thuộc chế độ VNCH.
Ở đây, một lần nữa tôi nêu lại vấn đề nhưng theo một cách tiếp cận
khác, khía cạnh sám hối, là chủ điểm nhiều bạn đọc hay nhắc đến.
Cách trình bày của tôi là đặt vấn đề và nêu câu hỏi, đối với 3 thành
phần chính của dân tộc trong cuộc chiến vừa qua.
-Đối với những người cộng sản:
Phải thừa nhận những người cộng sản VN đầu tiên là những người yêu
nước, có lý tưởng cao đẹp và đã chịu bao nhiêu tổn thất, mất mát, hi
sinh khi theo đuổi lý tưởng của mình, nhất là trong giai đoạn chống
thực dân Pháp để giành độc lập, những người cộng sản đã đồng hành
cùng dân tộc.
Tuy nhiên sau khi giành được chính quyền, thực hiện chuyên chính vô
sản và đấu tranh giai cấp, cùng với việc chịu sự chi phối mạnh mẽ
của các nước cộng sản đàn anh, những người cộng sản VN đã mang lại
nhiều thảm họa cho nhân dân. Chính sách cải cách ruộng đất, cải tạo
công thương nghiệp, vụ Nhân văn - Giai phẩm đối với văn nghệ sĩ trí
thức, vụ "Xét lại chống đảng" là những vụ việc điển hình. Song song
là xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa thực chất là xã hội trại
lính trong đó người dân bị tước đoạt nhiều quyền tự do và hoàn toàn
lệ thuộc vào chính quyền. Cán bộ đảng viên đã trở thành giai cấp mới
hưởng đặc quyền đặc lợi sống sung sướng trên sự nghèo khổ của nhân
dân.
Điều gây ra tai họa lớn nhất là quyết định tiến hành cuộc chiến
tranh giải phóng Miền Nam thay vì thống nhất đất nước bằng một giải
pháp khác như nhiều quốc gia cùng hoàn cảnh đã lựa chọn.
Cuộc chiến này dù được gọi bằng tên gì, biện minh cách nào cũng vẫn
là một cuộc chiến thảm khốc gây tàn phá đau thương nhất trong lịch
sử.Chưa khi nào bom đạn nước ngoài lại được dùng để tàn sát nhân dân
Việt Nam nhiều đến thế dù được dùng bởi bàn tay của người lính Việt
Nam hay của lính ngoại quốc. Chiến thắng thuộc về người cộng sản
(thực chất chỉ là một số ít lãnh đạo cao cấp) còn chiến bại thuộc về
toàn thể nhân dân.
Sau khi thống nhất đất nước, thay vì thực hiện một chính sách hòa
giải hòa hợp dân tộc thực sự lại tiến hành ở Miền Nam những chính
sách gây đổ vỡ, phân ly, thù hận.
Cải tạo nông nghiệp làm sản xuất đình trệ, đưa nhân dân đến chỗ
thiếu ăn, đói kém. Cải tạo công thương nghiệp làm cho cơ sở và năng
lực sản xuất, kinh doanh công thương nghiệp tan nát. Cải tạo đối với
binh lính, công chức thuộc chế độ VNCH và sự kỳ thị, phân biệt đối
xử về lý lịch đã làm cho hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, gây ra
một thảm họa thuyền nhân chưa từng có trong lịch sử và thù hận kéo
dài thêm và sâu đậm hơn thay vì chấm dứt cùng cuộc chiến. Những điều
này mới đây chính nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã từng nói đến.
Chủ trương đổi mới và mở cửa thực chất là Đảng tự cứu và cởi trói
cho nhân dân nhưng cũng đã giúp đất nước thoát khỏi tình hình kiệt
quệ sau hơn 10 năm thống nhất.
Tuy nhiên công cuộc đổi mới chỉ được thực hiện chậm chạp, nửa vời,
đổi mới về kinh tế nhưng không đổi mới về chính trị cốt để giữ vững
độc quyền lãnh đạo của đảng. Chế độ độc tài toàn trị cùng với nền
kinh tế thị trường man dã đã đưa cán bộ, đảng viên thành giai cấp
thống trị tư bản đỏ, đời sống nhân dân có khá lên nhưng chênh lệch
giàu nghèo và bất công áp bức càng phát triển. Nạn tham nhũng là một
quốc nạn không sao giải quyết được mà càng ngày càng nặng nề hơn.
Các tệ nạn xã hội ngày càng phát triển, văn hóa đạo đức suy đồi,
những gía trị tinh thần xuống cấp là tai họa lâu dài cho đất nước.
Nguy cơ “tụt hậu” không phải chỉ trước mắt mà còn lâu dài, trong khi
tiềm năng, trí tuệ của đất nước và nhân dân đâu thua kém gì nhiều
quốc gia khác.
Mục đích giải phóng Miền Nam là để thống nhất đất nước, xây dựng tổ
quốc “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” nhưng thực tế xã hội hiện nay
nhiều mặt không những không hơn mà còn kém xa xã hội miền Nam trước
khi “giải phóng”, nhất là về mặt thực hiện các quyền tự do dân chủ
của nhân dân. Thế thì công cuộc giải phóng có ý nghĩa gì, có xứng
đáng với sự hy sinh, đau khổ của toàn dân tộc?
Vậy thì những người cộng sản có nên phản tỉnh, tự vấn và sám hối để
sửa chữa những sai lầm?
Đảng có nên kiên quyết giữ độc quyền lãnh đạo nữa không hay nên
trưng cầu dân ý, tổ chức bầu cử tự do để nhân dân lựa chọn lấy người
thực sự có tài năng và trí tuệ lên lãnh đạo đất nước. Điều này có gì
sai trái, phi lý, phản cách mạng? Không thực hiện điều này chỉ chứng
tỏ rằng Đảng tham quyền cố vị, vì lợi ích của thiểu số chứ không vì
lợi ích của nhân dân và điều đó hoàn toàn trái với mục đích lý tưởng
của Đảng thuở ban đầu.
-Đối với những người quốc gia
Những người “quốc gia” là ai? Từ “quốc gia” này đôi khi phải để
trong ngoặc kép hay phải được minh định vì tự nó không được xác định
rõ ràng. Ai cũng có thể tự cho mình là “quốc gia” cả. Cộng sản cũng
có thể tự cho là quốc gia vì họ luôn tự đồng hóa với dân tộc, với
nhân dân, với đất nước, sao lại không thể là quốc gia.
Thông thường khi nói “những người quốc gia”, người ta hiểu đó là
những người không theo cộng sản, chống cộng sản, có xu hướng ngả về
chế độ dân chủ tự do của các nước phương tây. Những người quốc gia
bắt đầu được kể đến từ những đảng phái không cộng sản, đấu tranh
giành độc lập những năm đầu thế kỷ 20 như Quốc Dân Đảng, Đại Việt….
Sau này là những người ủng hộ chế độ và các chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa từ 1954-1975.
Ngoại trừ một số tay sai ngoại bang, bán nước, đa số những người
quốc gia là những người yêu nước, yêu dân chủ tự do. Lịch sử Việt
Nam cho thấy trong suốt thế kỷ qua, người quốc gia luôn thất bại
trước người cộng sản trong việc tranh giành quyền lực lãnh đạo đất
nước.
Năm 1946 Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến có các thành phần đảng phái
nhưng sau đó các đảng quốc gia đều bị gạt ra ngoài và bị tiêu diệt
phần lớn sinh lực.
Từ 1954 ở Miền Nam chính quyền Ngô Đình Diệm được hình thành với sự
ủng hộ của người Mỹ, gạt Bảo Đại ra khỏi chính trường bằng cuộc
trưng cầu dân ý “Phiếu xanh bỏ giỏ, phiếu đỏ bỏ bì”. Chính quyền Ngô
Đình Diệm tồn tại được 9 năm, càng ngày càng trở nên độc tài, gia
đình trị, đàn áp Phật Giáo, không được người Mỹ ủng hộ nữa nên đã bị
các tướng lãnh đảo chánh lật đổ.
Cho đến năm 1975, chính trường Miền Nam triền miên rối loạn, các
chính phủ quân phiệt hay dân sự đều không được lòng dân, tranh chấp
nhau và tự phong quyền lãnh đạo, hay thông qua bầu cử phi dân chủ
theo kiểu “ độc diễn” của Nguyễn văn Thiệu. Cuối cùng chính quyền
chỉ có mấy ngày của Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng những người
cộng sản vào 30/4/1975.
Ở đây có vấn đề rất khó lý giải đối với những người quốc gia. Chế độ
VNCH là chế độ có tự do dân chủ hơn chế độ xã hội chủ nghĩa của miền
Bắc nhưng các chính quyền hầu hết đều là những chính quyền thối nát,
không được đa số dân ủng hộ và không có đủ sức mạnh để đối đầu với
những người cộng sản.
Trong cuộc chiến tranh, Miền Bắc có sự ủng hộ của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, Miền Nam cũng có Mỹ và các quốc
gia đồng minh hùng hậu nào kém gì. Hai miền đều nhận sự chi viện về
tài chánh và quân sự tương đương. Miền Nam còn có thêm nửa triệu
lính Mỹ. Thế tại sao Miền Nam thất bại?
Trong suốt cả cuộc đấu tranh quốc cộng, phải chăng những người quốc
gia kém hơn về tài tuyên truyền, vận động, tổ chức, nghệ thuật chiến
đấu… hay tại những người cộng sản xảo quyệt, tàn ác hơn? Sự có mặt
của quân đội viễn chinh Mỹ đã làm cho cuộc "chiến tranh giải phóng"
của Miền Bắc có chính nghĩa? Hay vì Mỹ bỏ rơi đồng minh VN? Tại sao
Mỹ mà không phải Liên Xô, Trung Cộng bỏ rơi đồng minh?
Thất bại là đau đớn, đau thương không chỉ cho những người quốc gia
mà cho cả miền Nam, cho toàn dân tộc. Vậy thì dù lịch sử đã sang
trang nhưng câu hỏi trên vẫn cần phải được nghiền ngẫm một cách
nghiêm túc chứ không phải chỉ có hận thù. Thất bại có phải là một
lỗi lầm cần sám hối vì tương lai vẫn là một cuộc đấu tranh tiếp
diễn, trong một hoàn cảnh còn khó khăn hơn?
-Đối với thành phần thứ ba, thiên tả, thân cộng, không ủng hộ các
chính quyền Miền Nam
Đây là một thành phần phức tạp, không hể dùng một từ nào để chỉ
chung. Không phải chỉ có những người trong Mặt trận Giải phóng (
không kể những đảng viên cộng sản) hay "sinh viên học sinh tranh
đấu" mới chống lại các chính quyền Miền Nam. Tín đồ Phật giáo và
nhiều tầng lớp nhân dân, các đảng phái quốc gia chống lại chính
quyền Ngô Đình Diệm, nhiều tầng lớp nhân dân cũng chống lại các
chính quyền sau Ngô Đình Diệm. Giáo dân công giáo ủng hộ linh mục
Trần Hữu Thanh, ký gỉa xuống đường “ đi ăn mày” chống chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu…
Tất cả những người này có “đâm sau lưng chiến sĩ" không? Chiến sĩ
VNCH cũng là con em, thân nhân, bạn bè của họ chứ không ai khác.
Vấn đề của thành phần này cũng khó lý giải như vấn đề của những
người quốc gia, những chiến sĩ VNCH nhưng ở một khía cạnh ngược lại.
Chiến sĩ VNCH chiến đấu chống cộng sản để tự vệ, để bảo vệ lý tưởng
tự do dân chủ nhưng lại mặc nhiên củng cố các chính quyền thối nát.
Những người chống lại các chính quyền thối nát cũng là để bảo vệ tự
do dân chủ nhưng lại làm suy yếu các chính quyền này, làm cho Miền
Nam không đủ sức mạnh để chống lại cộng sản. Cùng với nhiều lý do
khác, điều này đã góp phần đưa đến sự thảm bại của Miền Nam. Đó cũng
là một sai lầm cần sám hối. Về sau này, sự phản bội lại lý tưởng của
những người cộng sản và tình hình đất nưóc tồi tệ sau 1975 lại càng
làm cho những người thuộc thành phần thứ ba, thân cộng còn giữ được
lý tưởng thêm bẽ bàng.
Vậy ai cần sám hối?
Khi đất nước rơi vào tình trạng như hiện nay, cả dân tộc phải khuất
phục trước guồng máy độc tài toàn trị, trước tiên những người lãnh
đạo cộng sản và các chính quyền quốc gia cần phải sám hối vì họ đóng
vai trò chính trong những biến động của lịch sử. Nhưng những đảng
viên cộng sản, các bộ đội giải phóng Miền Nam, các chiến sĩ VNCH,
những người tranh đấu chống các chính quyền Miền Nam và ngay cả
những người không làm gì cả cũng cần phải sám hối. Đó là sám hối của
toàn dân tộc. Vì mỗi người hoặc bị bắt buộc, hoặc có lựa chọn đúng
theo nhận thức và hoàn cảnh của mình để hành động hay không hành
động gì cả nhưng kết thúc của lịch sử lại là một sai lầm. Tất cả đều
là nạn nhân của lịch sử.
Về cá nhân, tôi cũng đã từng phản tỉnh và sám hối.
Tôi đã viết hẳn một cuốn sách gần như tự truyện để phản tỉnh và nhận
thức lại. (Cuốn “Nửa đời nhìn lại”, NXB Thế Kỷ, 1994. Văn Nghệ tái
bản 1997). Tôi cũng viết một bài khá dài về chủ đề sám hối (Bài “
Đọc thơ Đông Trình, suy nghĩ về chính trị, văn nghệ và sám hối” năm
1993, có đăng trên vài tạp chí ở nước ngoài).
Nhưng tôi cho rằng sám hối chỉ là khởi đầu với sự ăn năn và thức
tỉnh. Chỉ sám hối chưa đủ. Tiếp theo phải là hành động để sửa chữa
sai lầm. Và đây mới là điều quan trọng cho tương lai. Hành động
không nhất thiết là phải đấu tranh mà có thể bằng nhiều hình thức,
trước hết là hòa giải.
Tôi nêu lại những vấn đề trên đây không phải để tranh luận hay mong
được tranh luận nữa. Vì những vấn đề đó quá gai góc, dù đã 30 năm
trôi qua nhưng những chấn thương vẫn chưa lành và thù hận vẫn chưa
nguôi. Nếu vẫn còn thành kiến, tự ái, bảo vệ lẽ phải cho mình, không
lắng lòng, lắng nghe và tỉnh thức, cuộc tranh luận sẽ không bao giờ
kết thúc cho dù kéo dài đến thế kỷ sau như có bạn đọc đã nhận xét.
Dĩ nhiên chúng ta vẫn có thể tiếp tục trao đổi, tranh luận nếu thấy
có ích, ngược lại nếu chỉ đưa đến phân ly và thù hận, phải chăng
chúng ta nên tạm gác lại quá khứ, dành cho những thế hệ mai sau phán
xét, để cùng nhau hướng về tương lai.
Tương lai của một đất nước thống nhất, hòa bình, không hận thù, tự
do dân chủ và phồn vinh bắt đầu từ một hiện tại vô cùng gian khó. Có
vô số việc phải làm nhưng trước hết phải là hòa giải hòa hợp để đấu
tranh chống lại guồng máy độc tài toàn trị hiện nay đang là lực cản
cho những ước mơ chung của mọi người Việt Nam yêu nước.
3. Hòa giải hòa hợp để chống lại guồng máy độc tài toàn trị
Khó khăn xuất hiện ngay khi vấn đề hòa giải hòa hợp được đặt ra. Hòa
giải hòa hợp với ai, như thế nào, bằng cách nào? Có thể hòa giải hòa
hợp với những người cộng sản không?
Dĩ nhiên chỉ hòa giải khi có bất đồng. Giữa những người quốc gia,
chống cộng ở nước ngoài có bất đồng. Giữa những người đấu tranh cho
dân chủ ở trong nước có bất đồng. Giữa hai thành phần trên ở trong
và ngoài nước có bất đồng. Giữa hai thành phần đó và những người
cộng sản lại càng có nhiều bất đồng. Xem ra hòa giải là điều không
dễ dàng chút nào.
Thoạt nhìn tưởng như những người Việt ở nước ngoài dễ hoà giải với
nhau nhất vì có đủ mọi điều kiện khách quan: tự do đi lại, gặp gỡ,
trao đổi, tranh luận, lập hội, lập đảng.
Thế mà đã 30 năm trôi qua, sự mâu thuẫn, xung đột giữa họ vẫn triền
miên, không có sự đồng thuận, không có tiếng nói chung, không có tổ
chức thống nhất, nghĩa là không có sức mạnh để đối đầu với kẻ thù
cũ.
Những người dân chủ ở trong nước gặp nhiều khó khăn hơn gấp trăm lần
vì sống dưới chế độ độc tài toàn trị. Họ bị cô lập và khống chế chặt
chẽ nên những người ra công khai có số lượng quá ít ỏi và tất cả đều
bị đàn áp dưới nhiều hình thức.
Giữa những người dân chủ trong và ngoài nước có thêm một tầng cách
bức, lại còn dè dặt, nghi ngờ lẫn nhau. Bên ngoài là chống cộng cực
đoan, chịu sự chi phối của nước ngoài, chính trị hoạt đầu…? Bên
trong là khổ nhục kế của cộng sản, đối lập cuội, bất mãn cá nhân….?
Đối với những người cộng sản lại càng khó tin hơn vì cộng sản muôn
đời vẫn là cộng sản, vẫn muốn đấu tranh giai cấp, độc tài toàn trị…?
Dĩ nhiên trong cuộc đấu tranh chính trị không thể cả tin, dẫn đến
sai lầm nhưng nếu cứ mãi nghi ngờ, cách bức không thể vượt qua được
những rào cản để tiến đến hoà giải, sau đó là hòa hợp, đoàn kết
thống nhất tạo nên sức mạnh, điều chắc chắn là những người dân chủ
sẽ thất bại trước guồng máy độc tài toàn trị.
Chuyện ở nước ngoài tôi không biết nhiều nhưng ở trong nước có mấy
vấn đề tôi thấy cần phải làm rõ.
Một số ý kiến ở nước ngoài cho rằng tất cả những người cộng sản phản
tỉnh như Trần Độ, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Bùi Tín…đều là những
kẻ bất mãn do “không được ăn”, mất quyền lợi, do tranh chấp phe phái
nên mới quay ra chống Đảng. Nói rộng ra theo quan niệm đó, trên đại
thể hình như con người chỉ được phân chia làm hai loại “ được ăn và
không được ăn”.
Tôi nghĩ những người cộng sản phản tỉnh trên, nếu “được ăn” thì họ
cũng đã được nhiều và phần lớn ở họ, những người đã 7 - 80 tuổi, họ
cũng không cần thêm gì nhiều. Nếu có chỉ là sự thức tỉnh, dằn vặt
của lương tâm trước hiện thực đi ngược lại ước mơ hoài bảo và quá
trình đấu tranh một đời của họ nên họ không thể im lặng dù đã đi đến
giai đoạn cuối của cuộc đời.
Ở xã hội nào cũng có những người không thuộc vào một trong hai phân
loại trên và đối với những người này, giá trị tinh thần cao hơn mọi
của cải và tiện nghi vật chất.
Có ý kiến còn nói đến loại người "lơ lửng con cá vàng” giữa hai chế
độ để mong cầu một điều gì đó là không hiểu thực chất của vấn đề hay
chỉ là một nhận xét vớ vẩn. Trong cuộc đối đầu không khoan nhượng
hiện nay không ai “lơ lửng” được kiểu đó và lơ lửng cũng chẳng được
gì. Đó chính là “ đi giữa hai lằn đạn” và không ít người chấp nhận
vị trí nguy hiểm này, trong đó có tôi. Tôi là người phản kháng,
chống cái xấu, cái ác bất cứ từ đâu tới, bất cứ lúc nào và muốn công
bằng trong mọi chuyện. Tôi chỉ muốn sống trung thực dù trung thực
đối với ai đó, đôi khi cũng là một trọng tội.
Những đảng viên cộng sản và những người trong guồng máy của chế độ
hiện nay có hoàn toàn xấu không? Tôi tin là trong họ có nhiều người
tốt.
Nhiều đảng viên cộng sản, nhất là những người về hưu, đảng viên
thường không bị chức quyền chi phối và kể cả những đảng viên có chức
quyền ở mọi cấp, nhiều người vẫn băn khoăn thao thức trước tình hình
và những biểu hiện xấu trong Đảng.
Nhiều trí thức, chuyên viên có trình độ, có tầm nhìn, có điều kiện
nghiên cứu thấy rất rõ những sai lầm của Đảng và hướng đi cần thiết
cho xã hội.
Nhiều văn nghệ sĩ đã từng sống nhiều năm trong lòng chế độ hay những
người trẻ nhạy cảm đều thấy cay đắng, phẫn uất trước sự gỉa dối và
kềm kẹp, trói buộc tư tưởng của guồng máy độc quyền chân lý.
Nhiều nhà báo dũng cảm đã vạch ra, tố cáo những hành vi xấu xa của
các quan chức trên mọi lãnh vực (dù chỉ trong một giới hạn nhất
định) hay mô tả nếp sống khốn nạn, nhục nhằn của một bộ phận nhân
dân nghèo khổ, dưới đáy xã hội…
Tất cả họ đều có thể trở thành những người đòi hỏi dân chủ tích cực
khi họ thoát khỏi sự chi phối vừa tinh vi vừa nặng nề, đe dọa của
guồng máy.
Nếu những người đấu tranh cho dân chủ hiện nay có thể hòa giải với
nhau, hoà giải với những thành phần trên, liên kết lại thành một tập
thể, hi vọng sự đoàn kết đó mới có thể đủ sức mạnh chống lại guồng
máy độc tài toàn trị.
Guồng máy độc tài toàn trị này bao gồm những người cộng sản đã ở địa
vị thống trị trong nhiều chục năm, đã trở thành những kẻ độc đoán,
độc quyền chân lý, trở thành những tư bản đỏ và những kẻ hưởng lợi
nhiều nhất từ địa vị của mình. Họ là những người không bao giờ chịu
tự nguyện rời bỏ quyền lực. Họ không bao giờ thực tâm hòa giải. Họ
nói đến hòa giải nhưng chỉ hòa giải trên thế mạnh nghĩa là buộc
người khác phải tuân theo họ khi họ còn đầy đủ quyền lực.
Những người dân chủ, nhất là những người đã kinh qua một hay hai
cuộc chiến tranh, dù xuất thân từ bất cứ thành phần nào, nếu không
tìm được đủ sức mạnh cần thiết, chắc chắn cho đến hết đời vẫn chỉ là
những người thất bại trước guồng máy độc tài toàn trị hiện nay.
Còn nhân dân, tiếp nối đời này sang đời khác, là một thực thể trường
tồn có sức mạnh vô địch. Không có chế độ độc tài chuyên chế nào có
thể bền vững muôn năm. Nhân dân sẽ có tự do dân chủ nhưng tùy theo
mức độ phản kháng của mình, nhân dân sẽ còn đau khổ nhiều hay ít
trong quá trình đòi hỏi quyền làm người của mình.
Lời kết
Tôi viết về hòa giải nhưng tự trong thâm tâm tôi biết kết quả hòa
giải nằm ngoài tầm tay của mình. Khi tác phẩm “Nửa đời nhìn lại” của
tôi được xuất bản, nhiều nhà văn ở nước ngoài đã nói tiếng nói hòa
giải với tôi như với một người đã từng ở phía đối nghịch, một người
“đi giữa hai lằn đạn”. Sự chia sẻ sâu xa của Đặng Tiến, Lê Đình
Điểu, Thụy Khuê, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, TâmViệt, Hoàng Khởi Phong,
Hoài Văn, Trương Anh Thụy, Đỗ Mạnh tri, Phù Du, Phạm Ngọc Lân….đã
làm tôi ấm lòng (Phạm Ngọc Lân ghi nhận và tổng kết trong phần phụ
lục “Nửa đời nhìn lại” lần tái bản 1997)
Tuy nhiên sự mâu thuẫn, xung đột giữa những thành phần người Việt
sau 30 năm chiến tranh vẫn còn quá lớn. Nói rộng hơn, trên phạm vi
nhân loại, tiếng nói và tấm lòng hòa giải yếu ớt hơn tiếng gào thét
của hận thù trên hầu khắp các lục địa, ở Trung Đông, ở Châu phi,
Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu với nhiều quy mô và cấp độ khác nhau.
Cho nên tôi lấy tựa đề “Trên cả hận thù” cho tập truyện của mình chỉ
là thể hiện một ước mơ. Câu chuyện thật nguyên mẫu của truyện vừa
“Trên cả hận thù” chỉ là chuyện hiếp dâm của một thanh niên lai Mỹ
đen với một cô bé 16 tuổi. Tôi đã hư cấu, đưa tình yêu vào để hóa
giải những hận thù sau chiến tranh và một kết thúc có hậu bằng đám
cưới 5 năm sau khi chàng thanh niên lai đen đi Mỹ trở về. Nhưng tôi
biết rõ rằng đó chỉ là mộng tưởng nên tôi phải thêm một kết thúc
buồn khác bằng hình ảnh u sầu của người cha tuyệt vọng với giấc mơ
phi thực bên cạnh đứa con gái đã mắc bệnh tâm thần. Dù sao người cha
đó và tôi, và tất cả chúng ta vẫn có quyền ước mơ khi chúng ta còn
sống.
Tôi không phải là người làm chính trị chuyên nghiệp. Tôi không cần
đánh bóng uy tín chính trị của mình cho tham vọng quyền lực hay điều
gì khác. Tôi chỉ là người cầm bút phản kháng.
Tôi viết về chính trị và đã từng tham gia vào một số hành động chính
trị trong đời mình nhưng thực tâm tôi không hoàn toàn tin tưởng vào
hiệu quả của chính trị đơn thuần trong việc mang lại hạnh phúc cho
con người. Bao nhiêu cuộc cách mạng đã gào thét trên hành tinh này.
Bao nhiêu giải pháp chính trị, đường lối, chính sách đã được thực
thi tự cổ chí kim, từ đông sang tây nhưng rút cục cho đến hôm nay,
số đông nhân loại vẫn còn đầm mình trong biển khổ.
Phải chăng trong chính trị còn thiếu một chữ “Tâm” của con người.
Những người làm chính trị thừa thủ đoạn mà thiếu một chữ “Tâm” nhân
bản, một tấm lòng yêu thương chân thực với từng phận người cụ thể
chỉ hô hào “ vì hạnh phúc của nhân dân” nghe rất kêu nhưng bên trong
là tiếng súng gươm loảng xoảng và những thủ đoạn tàn bạo đê hèn.
Tôi đã từng thiền trong 10 năm với hai câu “mantra” bằng tiếng
Sanskrit có nghĩa “Mọi vật đều là biểu hiện của ĐấngTối Cao” và “Tôi
là một với Đấng Tối Cao” để mở rộng lòng yêu thương và trở về cội
nguồn nguyên thủy của mình, như giọt nước trong con suối nhỏ trở về
biển cả.
Tôi có chút kinh nghiệm về tâm linh, có thể giải quyết phần nào
những vấn nạn cá nhân nhưng chưa thấy rõ giải pháp hiệu quả cho dân
tộc và nhân loại. Tôi vẫn ở trên đường tìm kiếm và tôi tin trên thế
gian này không ít những người bạn đồng hành.
Sài Gòn 30-10-2005
TDBC
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|