Bài viết “Suy
nghĩ sau Vesak 2008 ở Việt Nam” của tôi công bố trên talawas ngày
26-5-08, chỉ sau vài hôm đã có những hiệu ứng và phản hồi. Nhiều thư
từ của bạn bè nhận định, đánh giá, phân tích thêm. Trên 10 trang web
và tạp chí đăng lại, trong đó có cơ quan ngôn luận của các tổ chức
Phật giáo. Lại còn cả radio phát thanh bài viết và một vài diễn đàn
của các nhóm trên mạng dùng làm đề tài thảo luận. Đây là niềm vui
của tác giả vì thấy rằng mình đã nêu được những vấn đề mà nhiều
người quan tâm và trao đổi.
·
Xác
định thái độ và lập trường.
Đặc biệt có hai
bài viết dài của Tôn Nữ Hoàng Hoa (Vietnam Review ngày 31-5-08) và
Huy Lâm (Đối thoại ngày 2-6-08).
Đáng tiếc bài
của Tôn Nữ Hoàng Hoa là một điển hình của lối “phê bình chụp mũ”,
không khác mấy những bài gọi là vạch trần “Mặt thật” trên báo “An
ninh thế giới” trong nước viết về những “tên phản động chống đảng”.
Đầu tiên là “xét
lý lịch” tác giả. Nhưng cách xét lý lịch này rất hời hợt, hồ đồ bằng
cách lấy một vài thông tin trên mạng, thiếu sót, không bảo đảm độ
chính xác, thua xa trình độ “xét lý lịch ba đời” của cộng sản Việt
Nam. Tiếp theo là “chụp mũ”, ở đây là “chụp nón cối”. Người viết
hình như không hiểu hay không cần hiểu bất cứ một câu nào trong toàn
bài viết mà chỉ căn cứ vào một vài từ, vài ý rồi liên hệ, suy diễn
để xuyên tạc, lên án bằng những luận điểm không có một chút lý luận
nào. Dĩ nhiên Tôn Nữ Hoàng Hoa hay bất cứ ai thù ghét cộng sản,
“không tin vào những người cộng sản phản tỉnh” hoàn toàn là quyền,
nhận thức, tâm trạng của mình, không ai can thiệp vào được, nhưng
hành động “chụp nón cối” lại là chuyện khác. Như thế, với bài viết
của Tôn Nữ Hoàng Hoa không có gì đáng để trao đổi, tranh luận.
Thái độ khách
quan và lập trường dân tộc của tác giả thể hiện trong bài viết “Suy
nghĩ sau Vesak…” mà việc tóm tắt ở đây và nói rõ thêm một số điều
cũng là cách trao đổi lại những gì mà bài của Huy Lâm và một số
người khác chưa hiểu hết ý của tác giả.
Bài viết có dàn
bài rõ ràng với những tiểu mục:
- Một sự kiện
và mốc dấu lớn:
Ghi nhận sự kiện Vesak được tổ chức “hoành tráng” một cách khách
quan, không phải chỉ ở trung ương Hà Nội mà trên cả nước.
-
Nhà
nước thắng lợi hoàn toàn?
Phân tích thắng
lợi và trả giá của nhà nước trong việc tổ chức Vesak. Việc chứng
minh Việt Nam có tự do tôn giáo là ý đồ của nhà nước chứ không phải
là nhận định của người viết. Dĩ nhiên người viết không thừa nhận
Việt Nam hoàn toàn có tự do tôn giáo vì đã nêu ra ngay những chuyện
bức hại tôn giáo. Cần hiểu đúng tác giả trong lối viết
hàm ý, có tính gợi mở này. Thí dụ
khi nhắc lại chuyện một thượng tọa lên tivi ca ngợi tư tưởng Hồ Chí
Minh giống giáo lý Phật giáo và kết thúc bằng câu “Thật là một
cách tuyên truyền ngoạn mục!” thì phải hiểu đó là ca ngợi, tán
thành hay mỉa mai?
-
Phật giáo cũng thắng lợi lớn?
Phân tích cái được và mất của Phật giáo qua sự kiện này, cũng qua
cái nhìn khách quan.
-
Nguyên nhân và kết quả của tình hình. “Win-win”trong cuộc đấu tranh
cho dân chủ? Những điều đáng suy nghĩ.
Tình hình tương
đối cởi mở đối với tự do tôn giáo hiện nay là do sự đấu tranh kiên
trì của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các tổ chức và cá
nhân đấu tranh cho dân chủ khác, đồng thời có sự góp phần của Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam trong việc duy trì sinh hoạt tôn giáo dưới
chế độ toàn trị khắc nghiệt với tôn giáo. Nhà nước cũng có thích
nghi với tình hình mới trong việc đề ra chính sách đối với tôn
giáo. Tuy nhiên qua Vesak, Phật giáo cần nhận rõ nguyên nhân và
thực chất của việc thắng bại để khỏi rơi vào bẫy của nhà nước trong
việc đấu tranh cho dân chủ, với đặc điểm không chiến tuyến, đối với
chế độ độc tài toàn trị. Vấn đề lớn đặt ra là sự đoàn kết trong nội
bộ giáo hội Phật giáo cũng như giữa các tôn giáo, bên cạnh đó cần
loại bỏ tham vọng độc tôn tôn giáo. Nhìn nhận và hành xử đúng đắn
mối quan hệ giữa phần tâm linh và thế tục là vấn đề sinh tử của các
giáo hội trong mọi hoàn cảnh.
Các phân tích
nêu trên là nhận định cá nhân của người viết, được đặt dưới dạng các
dấu hỏi (?) thận trọng, đồng thời mời gọi sự suy nghĩ của người đọc.
Như thế, rõ ràng
người viết đã cố gắng đứng ở một vị trí khách quan để nhận thức vấn
đề, không bị tình cảm tôn giáo, sự thù ghét chế độ, thù ghét phe
phái hay nóng lòng đối với ước muốn tự do dân chủ chi phối. Sự tỉnh
táo này cần thiết cho cuộc đấu tranh, vận động dân chủ hóa đất nước.
·
Đặc
điểm của việc tổ chức Vesak 2008.
Vì đã có những
cách nhìn nhận khác nhau, một lần nữa cần phân tích thấu đáo hơn
những tính chất quan trọng của việc tổ chức Vesak vừa qua. Sự nhìn
nhận này phải đặt căn bản trên các văn kiện, các phát biểu của những
người trong cuộc, đồng thời trên thực tế của tình hình diễn ra vì sự
thể hiện trên thực tiễn phức tạp, đan xen những ý đồ của nhà nước và
của Phật giáo.
Nói Vesak 2008
của Liên Hiệp Quốc do nhà nước Việt Nam đăng cai, việc tổ chức do
Phật giáo thực hiện với sự chỉ đạo, hỗ trợ của nhà nước là mô tả
chính xác tình hình.
Trong diễn văn
khai mạc, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát viết:
“Hòa trong không
khí trang nghiêm thanh tịnh của mùa Phật đản, để kỷ niệm ngày Đản
sanh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một bậc vĩ nhân của nhân loại,
được sự ủng hộ của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn
thể Phật giáo đồ trên thế giới long trọng tổ chức đại lễ Phật Đản
LHQ 2008(UN Vesak 2008) tại thủ đô Hà Nội, một trung tâm văn
hóa, kinh tế, chính trị của Việt Nam
…Một lần nữa,
chúng tôi xin tri ân sự quan tâm của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc, các
phái đoàn ngoại giao và các cơ quan quốc tế. Xin đảnh lễ tri ân chư
vị tôn túc Tăng Ni và sự đóng góp của chư vị thiện tri thức, các vị
học giả trên khắp thế giới. Đặc biệt, xin tri ân Đảng - Nhà nước
và Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để Đại lễ được thành công tốt đẹp”.
Đó là phát biểu
chính thức có tính cách chính danh, trước các đại biểu và nhà nước,
phổ biến trên toàn thế giới. Thế nhưng khi trả lời phỏng vấn Thanh
Toàn, phóng viên SBTN, TS Lê Mạnh Thát lại nói:
“Chính phủ Việt
nam với tư cách là thành viên của Liên Hiệp Quốc, thực hiện nghị
quyết của Liên Hiệp Quốc, đã đăng cai Đại lễ này, để thực hiện nghị
quyết đó. Nghị quyết về vấn đề Đại lễ Phật Đản, thường được gọi là
United Nations Vesak.
Mình phải thấy
đây là một công tác đối ngoại của chính phủ Việt Nam là chính.
Phật Giáo thực
tế là vai trò phụ mà thôi! Tại vì là đây của Liên Hiệp Quốc mà! Phật
Giáo chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tại vì có liện hệ đến Phật Giáo! Những
người làm ở đây là do chính phủ giao phó!
Đây là một hoạt
động có tính cách chính phủ, có tính cách chính quyền. Hoàn toàn
không phải là của Phật Giáo”
Cùng một sự
kiện, cùng một người nói, thời gian không xa nhau, nhưng hai nội
dung hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy đâu là thực chất của vấn đề? TS
Lê Mạnh Thát có ẩn ý gì, muốn chứng minh, thanh minh, nhắn nhủ, đối
phó điều gì? Tôi không dám suy diễn, chỉ nêu ra sự việc, nhưng rõ
ràng nó phản ánh tính chất phức tạp của tình hình mà một người chủ
chốt trong cuộc đã có rất nhiều băn khoăn, tính toán.
Tuy nhiên tính
chất đối ngoại của nhà nước Việt Nam chỉ thể hiện chủ yếu trong các
hoạt động cấp trung ương ở Hà Nội , còn ở các địa phương lại khác.
Các địa phương, với sự hỗ trợ điều kiện phần nào của chính quyền,
Phật giáo đã tổ chức Vesak cho mình là chính. Phật tử tham gia như
Phật Đản mọi năm, nhưng đông đảo hơn, với sự đóng góp công sức nhiều
hơn, với niềm vui và sự phấn khởi lớn hơn vì lễ được tổ chức rầm rộ,
“hoành tráng”, lại có ý nghĩa quốc tế.
Câu nói “Đây
là một hoạt động có tính cách chính phủ, có tính cách chính quyền.
Hoàn toàn không phải là của Phật Giáo” không đúng với thực tế.
Một số người nào đó có thể làm việc cho chính quyền, nhưng chắc chắn
không phải tất cả Phật tử đều làm cho chính quyền và lễ Phật đản
không phải là của Phật giáo lại càng vô lý, vì dù không có Vesak ,
Phật giáo vẫn tổ chức Phật đản.
·
Vấn đề
hòa giải hòa hợp, đoàn kết trong nội bộ Phật giáo và giữa các tôn
giáo.
Phật giáo hiện
đã bị chia cắt, có hai giáo hội, thân và chống chính quyền. Đó là
một cách nói khái quát, không phản ánh đầy đủ thực tế tình hình. Nhà
nước muốn khống chế các tôn giáo, điều đó đã rõ. Nhưng trong giáo
hội gọi là thân chính quyền có bao nhiêu chức sắc, mà số người này
lớn hơn nhiều so với chức sắc thuộc giáo hội chống chính quyền, là
người của đảng và nhà nước cài cấy vào (là đảng viên, công an, có ăn
lương, có vợ con); bao nhiêu thực tâm tán thành cách làm của đảng và
nhà nước; bao nhiêu vì danh vọng, địa vị, quyền lợi; bao nhiêu vì
bất đắc dĩ; bao nhiêu vì “khế cơ” để tồn tại… Tôi là người ngoài
nhưng tôi không tin tất cả chức sắc của giáo hội gọi là thân chính
quyền đều là người của đảng hay bị đảng chi phối hoàn toàn.
Về phía các chức
sắc như thế, về phía Phật tử lại càng khác hơn. Phật tử vào chùa vì
tin vào giáo lý đức Phật, trước chùa dù có treo bảng Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam, có thêm từ Thống Nhất hay không, cũng không thành vấn
đề. Chẳng lẽ trước khi vào chùa phải xem bảng hiệu? Chẳng lẽ Phật tử
vào chùa có bảng GHPGVN đều là thân chính quyền và vào chùa có bảng
GHPGVNTN đều là chống chính quyền? Chẳng lẽ Phật tử vào loại chùa
này thì không thể vào loại chùa kia hay không thể vào cả hai loại
chùa? Chẳng lẽ một bảng hiệu lại có phép mầu (hay phép ma) có thể
làm người ta lập tức biến thành một con người hoàn toàn khác?
Trong hoàn cảnh
Việt Nam hiện nay mà suy nghĩ như thế thật quá đơn giản, lại chỉ có
lợi cho nhà nước vì vô hình dung đẩy đa số chức sắc và Phật tử về
phía nhà nước và cô lập phần còn lại. Lẽ nào cách suy nghĩ “ai không
theo ta là chống ta”, thậm chí trở thành “lực lượng xung kích”
của nhà nước chống đối ta cũng diễn ra trong Phật giáo vốn nổi tiếng
là hiếu hòa và bao dung? Cách suy nghĩ đó vừa trái giáo lý Phật giáo
vừa ấu trĩ về chính trị.
Vậy chia rẽ
trong Phật giáo, nếu có, chỉ ở một bộ phận nào thôi, chủ yếu ở một
số chức sắc và Phật tử có ý thức và hành động chính trị rõ rệt, còn
ngoài ra đông đảo tăng ni và Phật giáo đồ có thể không có vấn đề đó.
Huy Lâm đã mâu thuẫn trong nhận định lúc cho rằng GHPGVN là tổ chức
xung kích của nhà nước đánh phá GHPGVNTN trong khi thừa nhận rằng
qua Vesak, cả hai giáo hội đều “giả mù sa mưa”, lợi dụng
Vesak để biểu dương lực lượng, quảng bá giáo lý của Phật giáo, làm
cho Vesak thực sự trở thành một lễ hội của quần chúng. Vậy hai giáo
hội đã là đồng minh trong việc này hay chống đối nhau?
Vấn đề hòa giải
hòa hợp, đoàn kết trong nội bộ Phật giáo chủ yếu đặt ra giữa hai
giáo hội, dĩ nhiên là tự thân giữa hai giáo hội chứ không phải dưới
sự chỉ đạo của đảng. Nếu nói hòa giải hòa hợp là để sát nhập giáo
hội chống chính quyền vào giáo hội thân chính quyền thì đâu còn là
hòa giải hòa hợp mà là sự “thôn tính”. Hai giáo hội có thể hòa giải,
hòa hợp và chính quyền có thể cấm đoán việc đó không nếu hai giáo
hội thực tâm và tự mình kiên quyết thực hiện? Đây là vấn nạn đặt ra
cho hai giáo hội và hai giáo hội phải tìm cho được lời đáp nếu muốn
thống nhất Phật giáo.
Trong “Thông
điệp Phật Đản 2552” của Hòa thượng Huyền Quang có viết:
“Hôm nay hàng
trăm triệu Phật giáo đồ trên thế giới đang hương hoa trầm đèn tỏ
lòng hân hoan chào đón Đức Thích Ca ra đời. Cũng vậy, người Phật tử
Việt Nam trong hay ngoài nước, đoàn tụ trước lễ đài vui mừng chào
đón Khánh đản và rước Phật vào tâm trí. Hân hoan chào đón cùng phát
tâm truyền đạt giáo lý cứu khổ trừ nguy của đức Thế tôn ra khắp mọi
nơi và trên quê hương ; chí thành trải rộng con đường vạn lý của Bồ
tát hạnh để trang nghiêm thế giới và hòa hợp chúng sinh.”
Tôi tự hỏi thế
nào là “trang nghiêm thế giới và hòa hợp chúng sinh”. Muốn
hòa hợp chúng sinh, trước hết phải hòa hợp trong nội bộ Phật giáo.
Không lẽ hai giáo hội thân và chống chính quyền là hai kẻ thù, lại
là kẻ thù không đội trời chung? Phật giáo làm gì có kẻ thù. Bằng
cách nào tôi không biết nhưng tôi nghĩ hòa giải hòa hợp trong nội bộ
Phật giáo nhất thiết là điều phải làm.
Mở rộng ra là
vấn đề đoàn kết các tôn giáo. Chẳng có tôn giáo đích thực nào chủ
trương chia rẽ và chia rẽ tôn giáo chỉ có lợi cho đảng và nhà nước,
làm yếu đi tiềm lực của dân tộc, điều đó có lẽ mọi người đều thừa
nhận.
·
Vấn đề
quốc giáo.
Trong bài trước
tôi có nêu vài suy nghĩ về vấn đề quốc giáo. Đây không phải là vấn
đề lớn mà chỉ do liên tưởng khi đề cập vấn đề tôn giáo và thực tế
cũng đã có một số bài viết trên mạng nêu ra ý tưởng hay tham vọng
này, thầm kín hay rõ rệt. Đây chẳng phải là một “phản ứng quá
nhạy cảm” vì theo tôi, trong tình hình còn chế độ toàn trị này
đặt ra vấn đề quốc giáo chỉ là chuyện không tưởng. Trong chế độ độc
tài toàn trị thoát thai từ chế độ cộng sản, trước đây không dung nạp
tôn giáo, bây giờ vẫn còn khống chế các tôn giáo mà nói chuyện quốc
giáo không khác nằm mơ giữa ban ngày.
Những tham vọng,
ý tưởng thể hiện trong các bài viết về mơ tưởng quốc giáo hay chống
phá các tôn giáo khác nếu không thể hiện sự tự tôn, kiêu hãnh mù
quáng thì cũng chỉ là phương thức để gây chia rẽ tôn giáo nằm trong
ý đồ của nhà cầm quyền mà thôi. Tôi có cảnh báo là cảnh báo điều này
chứ việc gì tôi phải “sợ hãi vô cớ”. Bao nhiêu việc kinh
khủng hơn đe dọa số phận của dân tộc còn chưa sợ thì sợ làm gì
chuyện “vớ vẩn” này.
Trên thế giới và
qua lịch sử, quốc giáo là một vấn đề lớn và phức tạp đối với nhiều
quốc gia. Tôi chưa có điều kiện nghiên cứu sâu và thấy cũng không
nên đặt nặng vấn đề này.
Có nhiều định
nghĩa, cách hiểu về quốc giáo trong đó có quan niệm cho rằng quốc
giáo là sự độc tôn của một tôn giáo, chiếm ưu thế so với các tôn
giáo khác, chi phối cả hoạt động chính trị quốc gia. Với lịch sử
Việt Nam và lịch sử của các tôn giáo tại Việt Nam, trong tương lai
xa, một tôn giáo nào trở thành quốc giáo cũng là điều khó xảy ra. Mơ
tưởng quốc giáo chỉ làm phức tạp thêm tình hình và gây chia rẽ dân
tộc chứ không phải là điều gì tốt đẹp. Phật giáo là tôn giáo diệt
tham, hòa bình nhưng trong Phật giáo cũng có những kẻ tham sân si
đầy mình, dĩ nhiên chỉ là thiểu số. Đây cũng là tình trạng chung của
các tôn giáo, không thiếu những kẻ cuồng tín nhân danh tôn giáo
nhưng lại đi ngược với giáo lý cơ bản của tôn giáo mình.
Như đã xác định
trong bài trước, tôi không phải là Phật tử, cũng không dính dáng gì
đến nhà nước, không hiểu lắm nội tình Phật giáo ngoài những thông
tin và biểu hiện bề ngoài mà ai chú ý theo dõi cũng biết. Tuy nhiên
trong cuộc vận động dân chủ hóa đất nước, Phật giáo cũng như các tôn
giáo khác đóng vai trò rất quan trọng nên vấn đề của Phật giáo cũng
là vấn đề chung mà mọi người cần suy nghĩ và tham gia đóng góp.
Muốn đấu tranh
cho dân chủ phải hiểu rõ hoàn cảnh, hiểu biết quần chúng, tập hợp
được lực lượng quần chúng. Không thể yêu cầu quần chúng quá cao và
khi họ không đáp ứng được thì đẩy họ về phía đối phương. Sách lược
của nhà cầm quyền đối với các tôn giáo là vận động “giác ngộ”tín đồ,
tranh thủ tầng lớp trên bất cứ ai có thể tranh thủ được, cô lập,
khống chế các phần tử chống đối, đã tỏ ra hữu hiệu trong nhiều năm.
Không hiểu được điều này, đấu tranh cho dân chủ và tự do tôn giáo sẽ
khó đạt thắng lợi. Có người còn cho rằng nếu chưa chấm dứt được
chuyên chính thì không nên nói đến hòa giải hòa hợp dân tộc. Thật là
mâu thuẫn. Không hòa giải hòa hợp thì nội lực dân tộc càng yếu, làm
sao chống được chuyên chính. Chưa chấm dứt chuyên chính thì mãi mãi
không hòa giải hòa hợp. Đúng là cái vòng lẩn quẩn của thất bại.
Chiêu bài hòa giải hòa hợp quả thật là một ngón đòn lợi hại của nhà
nước. Nếu mọi người dị ứng với cụm từ này, coi nó là độc quyền, cái
bẫy của nhà nước, không có nội dung nào khác, các tầng lớp nhân dân
không thể tự mình thực hiện, nhà nước đã thành công.
Bản thân tôi rất
ngưỡng mộ và kính phục hai Hòa thượng Huyền Quang và Quảng Độ là
những vị chân tu đạo đức, đồng thời là những người đấu tranh cho tự
do tôn giáo và dân chủ, đã bị bức hại nhiều năm nhưng vẫn kiên trì
cuộc chiến đấu của mình, dù ngay trong Phật tử cũng có người không
tán thành nhị vị vì cho rằng tu sĩ chỉ nên lo việc tâm linh. Tuy
nhiên tôi không bị tình cảm cá nhân chi phối sự suy nghĩ của mình.
Tôi cố gắng đứng ở một vị trí khách quan để nhìn nhận vấn đề, chân
thành nêu ra giải pháp đề nghị, có thể còn rất thiếu sót và lệch lạc
nhưng mong rằng không phải là hoàn toàn vô ích.
Đà Lạt trung
tuần tháng 6-2008
Tiêu Dao Bảo Cự