Tôi lấy bút hiệu là Tiêu Dao, được gợi hứng từ
tư tưởng Lão Trang, nhưng hầu như suốt đời sống cuộc sống dấn thân.
Đó là một mâu thuẫn lớn. Tôi cũng thường xuyên tự vấn, phản tỉnh để
biết mình là ai, sống như thế nào, tại sao như thế. Đó là cuộc sống
nội tâm luôn dằn vặt, khắc khoải vì những câu hỏi và lựa chọn, trên
nhiều phương diện, từ tình cảm, chính trị đến tâm linh.
Thời sinh viên, lúc học Đại học Sư Phạm và Đại
học Văn Khoa Huế (từ 1963-1967), tôi tham gia các phong trào của
sinh viên đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Miền Nam. Trong cao trào
tranh đấu năm 1966 mà Miền Trung gần như tự trị, tôi là Phó chủ tịch
của Hội đồng Sinh viên Liên khoa Tranh thủ Cách mạng của Đại học
Huế, phụ trách Đài Phát thanh tranh đấu (chiếm của chính quyền) và
trực tiếp làm Đoàn trưởng Đoàn 3 Sinh viên Quyết tử. Khi phong trào
tranh đấu bị dập tắt, tôi bị bắt giam gần hết năm cuối ở đại học
nhưng ra tù tôi vẫn tiếp tục đi học và tốt nghiệp ĐHSP. Năm 1965,
tôi cũng cùng một số bạn bè sinh viên thành lập Hội Hồng Sơn, sau
đổi tên thành nhóm Việt, hoạt động văn học nghệ thuật trên lập
trường dân tộc. Nhóm Việt về sau kết nạp thêm nhiều hội viên ở khắp
miền Nam và hoạt động cho đến năm 1975, trong đó một số người nổi
tiếng trên các lĩnh vực thơ văn, hội họa, âm nhạc.
Trong thòi gian tranh đấu, tôi chống Mỹ và
chính quyền Miền Nam nhưng không thích cộng sản mặc dù một số bạn
tôi đã là đảng viên hay đoàn viên cộng sản, tuy lúc đó họ không cho
tôi biết. Lý do là tôi đọc cuốn “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” nói
về phong trào Nhân văn- Giai phẩm, trong đó đặc biệt có bài thơ ca
ngợi Stalin của Tố Hữu làm cho tôi ghê sợ sự nô lệ tinh thần và vọng
ngoại của người cộng sản, đồng thời tôi chán ghét sự áp bức tư
tưởng. Tuy nhiên, trong thời gian ở tù, tôi kết bạn với mấy người du
kích và cảm phục lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm của họ.
Ra trường, năm 1967, tôi đi dạy học ở Ban Mê
Thuột. Đây là một thành phố nhỏ, không có truyền thống tranh đấu như
sinh viên học sinh Huế, nhưng với tinh thần phản kháng cố hữu, tôi
liên kết với một số giáo sư tại trường để chống hiệu trưởng tham
nhũng (ở Miền Nam, dạy trung học được gọi là giáo sư). Hiệu trưởng
bị mất chức nhưng tôi cùng với 5 giáo sư khác bị tạm ngưng chức và
đưa ra Hội đồng kỷ luật của Bộ Giáo dục. Sau đó, tôi được trả về
trường và vì hiệu trưởng mới còn tệ hơn hiệu trưởng cũ, tôi xin
chuyển về dạy ở thị xã Bảo Lộc, Lâm đồng từ 1970.
Tại Bảo Lộc, vì những bài giảng đầy tinh thần
dân tộc, có xu hướng chống Mỹ và chính quyền Miền Nam (tôi dạy văn
và tự soạn bài giảng cho riêng mình chứ không dạy theo giáo án như
hiện nay), do các học trò tôi báo cáo lại, chi bộ đảng CS ở địa
phương tìm cách móc nối tôi. Từ 1972, tôi chính thức hoạt động cho
Mặt Trận Giải Phóng và 1974, tôi gia nhập đảng Nhân Dân Cách Mạng
Việt Nam (tức Đảng CS ở Miền Nam). Tôi hoạt động công khai, phát
động học sinh thanh niên đấu tranh chống Mỹ, chống chính quyền Sài
Gòn, đòi thi hành Hiệp định Paris…Lúc đó tôi không nghĩ nhiều đến
những vấn đề lý thuyết như chủ nghĩa cs, chế độ xhcn…hay đời sống xã
hội ở Miền Bắc như thế nào, mà tham gia chỉ vì tinh thần yêu nước và
thấy MTGP là tổ chức duy nhất có đủ sức mạnh để đối đầu với Mỹ và
chính quyền Miền Nam. Vì các hoạt động đó, tôi bị theo dõi, đưa vào
sổ đen của Ty Giáo dục và Ty Cảnh sát. Một lần cảnh sát bao vây lớp
học lúc tôi đang dạy để tìm tài liệu của cộng sản, một lần khác lục
soát nhà nhưng không tìm được bằng chứng. Tôi cũng bị gọi về Nha
Trung học (thuộc Bộ Giáo dục ở Sài Gòn) để cảnh cáo về thái độ thân
cộng.
Thời gian này tôi cũng sáng tác như phương tiện
đấu tranh. Cùng với anh em nhóm Việt, chúng tôi phụ trách phần Văn
nghệ trên tạp chí Đối Diện của hai Linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc
Lan, là tờ báo đối lập hàng đầu ở Sài gòn. Tôi có một số truyện ngắn
đăng trên các báo Đối Diện, Tự Quyết, Ý Thức, Văn Mới… Đặc biệt
truyện ngắn “Tự do hay là chết” đăng trên Đối Diện năm 1972, nội
dung tố cáo chế độ lao tù của chính quyền Miền nam, được phát nhiều
lần trên Đài Tiếng Nói Việt Nam (mục Đọc truyện đêm khuya) và Đài
Phát thanh Giải phóng. Năm 1974, truyện này được đưa vào tuyển tập
“Bút máu” xuất bản trong vùng giải phóng, sau 1975 tái bản lại. Sau
đó truyện này còn được in lại nhiều lần trong các tuyển tập và sách
nghiên cứu về văn học yêu nước tiến bộ miền Nam như “Tiếng hát những
người đi tới”, “Mùa xuân chim én bay về” “Tuyển tập truyện ngắn
Việt”, “Nhìn lại một chặng đường văn học”, “Viết trên đường tranh
đấu”…
Tháng 3/75, tôi tham gia tiếp quản thị xã Bảo
Lộc và những năm sau đó làm nhiều công tác ở địa phương như giáo
dục, văn hóa thông tin, đoàn TNCS, MTTQ. Lúc này có chủ trương sát
nhập tỉnh, Lâm Đồng cũ - Tuyên Đức gộp chung thành tỉnh Lâm Đồng và
Bảo Lộc trở thành một huyện của tỉnh Lâm Đồng mới. Công tác ở địa
phương sau khi ổn định, trở nên cục bộ và hạn hẹp, tôi mong muốn trở
về công việc sáng tác. Tôi viết kiến nghị đề xuất thành lập Hội Văn
Nghệ Lâm Đồng và tình nguyện về công tác ở Hội. Cùng với ý kiến của
nhiều anh em văn nghệ sĩ khác ở Đà Lạt cũng bức xúc chuyện lập Hội,
Thường Vụ Tỉnh ủy quyết định cho thành lập Hội Văn nghệ, mời Bùi
Minh Quốc từ Đà Nẵng vào chủ trì, điều tôi từ Bảo Lộc lên làm Thường
vụ trực, điều thêm một Phó ban Tuyên huấn tỉnh ủy sang, thành lập
chi bộ đảng để lãnh đạo Hội. Sau đó tiến hành đại hội chính thức,
chúng tôi là cán bộ chuyên trách và giữ các vai trò chủ chốt của Hội
và tạp chí Langbian.
Tạp chí Langbian có nội dung khá cấp tiến, mới
ra được 3 số thì bị đình bản. Tháng 12/1988 Bùi Minh Quốc và tôi tổ
chức một chuyến đi xuyên Việt qua các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội,
kéo dài 1 tháng 14 ngày để vận động đòi tự do tư tưởng, sáng tác,
báo chí, xuất bản và đổi mới thực sự (có nhà thơ Hữu Loan là khách
cùng đi). Chuyến đi gây ra chấn động lớn, bị quy là “hoạt động bè
phái” và là một cuộc “biểu tình chạy” tập dượt đòi dân chủ. Sau
chuyến đi và nửa năm đấu tranh trong nội bộ đảng và hội, chúng tôi
bị cách chức và khai trừ ra khỏi đảng, lúc đó Quốc 22 tuổi đảng và
tôi 15 tuổi đảng. Mấy năm sau, tôi quyết định nghỉ việc, ra khỏi
biên chế nhà nước còn Quốc về hưu.
Vì không được đăng bài trên báo chí trong nước,
từ 1994 tôi bắt đầu viết bài gởi cho báo chí nước ngoài như Thông
luận, Diễn đàn ở Pháp; Người Việt, Thế kỷ 21, Hợp Lưu… ở Mỹ, chủ yếu
là các bài chính luận phê phán đường lối chính sách của đảng và nhà
nước. Đặc biệt năm 1996, nhân đại hội 7 ĐCSVN, tôi viết “Thư ngỏ gởi
những người cộng sản Việt Nam”, kêu gọi chuyển từ độc quyền lãnh đạo
sang dân chủ đa nguyên, chống thần thánh hóa lãnh tụ, hòa giải hòa
hợp dân tộc, trưng cầu dân ý về vai trò lãnh đạo của đảng…Thư ngỏ
này được phổ biến rộng trên nhiều đài báo nước ngoài.
Cuối 1996, tôi bắt đầu bị gọi “làm việc” nhiều
tháng liền và bị bao vây, cô lập, giám sát chặt chẽ. Cuối 1997 tôi
chính thức bị quản chế 2 năm theo nghị định 31/CP. Tôi là người thứ
hai bị quản chế theo nghị định này, sau Bùi Minh Quốc mấy tháng. Hết
quản chế vẫn bị cô lập, giám sát thêm vài năm nữa, cho đến nay đã
tương đối thoải mái. Chính trong thời gian bị quản chế và cô lập tôi
lại viết được nhiều. Một số tác phẩm của tôi được xuất bản ở Mỹ:
-
Nửa đời nhìn lại (Tiểu thuyết, NXB Thế Kỷ, 1994, Văn nghệ tái
bản 1997)
-
Hành trình cuối đông (Bút ký về chuyến đi xuyên Việt, Văn
nghệ 1998)
-
Trên cả hận thù (Tập truyện, tạp chí Văn học xuất bản 2004)
-
Mảnh trời xanh trên thung lũng (Tác phẩm viết, NXB Văn Mới
2007)
Sau một thời gian tạm lắng, từ 2003 tôi bắt đầu
viết chính luận trở lại và lúc này Internet đã phổ biến, tôi gởi
đăng trên các trang web như Đàn Chim Việt, Thông Luận, Cánh Én, Đối
Thoại, Talawas…Ngoài chính luận, Đàn Chim Việt có đăng bút ký dài
“Hành trình mùa xuân” viết về một chuyến đi xuyên Việt lần thứ hai
của tôi bằng xe gắn máy; Talawas công bố “Tôi bày tỏ - Nhật ký trong
những ngày bị quản chế” và tái bản “Hành trình cuối đông”, có bổ
sung thêm một số tư liệu và hình ảnh, trong Tủ sách Talawas.
Tôi trao đổi với những người làm chính trị đủ
mọi khuynh hướng trong và ngoài nước, dĩ nhiên chủ yếu qua thư từ,
nhưng tôi không bao giờ tham gia một tổ chức, phe nhóm nào. Tôi
muốn chỉ là một người cầm bút tự do, hoàn toàn độc lập về tư tưởng
và chỗ đứng của mình. Trong tình hình có nhiều phức tạp và phân ly
hiện nay, tôi chủ trương “hòa giải hòa hợp dân tộc, dân chủ hóa đất
nước bằng phương thức diễn biến hòa bình” và đã diễn giải rõ quan
điểm của mình qua một số bài viết trên mạng.
Bây giờ tôi có tâm trạng mình đã nói được những
điều cần nói, như một người trung thực, về những vấn đề lớn của đất
nước. Muốn làm người trung thực phải trả giá, điều đó hầu như đương
nhiên ở mọi thời đại, nhất là trong các chế độ toàn trị, lại càng
phải trả giá đắt. Tôi có niềm vui và một chút kiêu hãnh vì đã không
biết cúi đầu. Đất nước, lịch sử cần có sự đóng góp của mọi người,
mỗi thế hệ có trách nhiệm riêng của mình và sẽ được các thế hệ sau
đánh giá. Tôi thấy không nợ nần gì ai, ngoài những món nợ tình cảm
mà những người thân yêu và bạn bè đã cho tôi tràn đầy.
Về sáng tác văn học, thật ra tôi viết được ít
so với nhiều nhà văn khác bởi tôi đã tiêu tốn rất nhiều thời gian
cho những việc không phải văn học. Tuy nhiên, đối với tôi, tác phẩm
chính là cuộc đời tôi, phần nào mang dấu ấn của những giai đoạn lịch
sử. Hầu hết tác phẩm của tôi đều là tự truyện hoặc gởi gắm ít nhiều
tự truyện. Tôi cho chính mình là nhân vật tôi hiểu rõ nhất và viết
chính là sống lại lần thứ hai, là cảm nhận sâu sắc thêm cuộc sống ở
mọi chiều bề nhờ lý trí, rung cảm và hoài niệm. Viết là phơi mở
chính mình, là nhìn nhận lại mối quan hệ với người khác, trong lắng
chìm của tâm thức.
Tôi không khẳng định về phương diện nghệ thuật,
tài năng tôi như thế nào, điều đó do người đọc nhận xét, nhưng tôi
nghĩ tác phẩm chính là một lưu vết, một dấu ấn tôi để lại trong cuộc
đời phù du này, không lẫn với ai khác.
Nghĩ về mình, từ thời trẻ đến nay, và có lẽ cho
đến khi nằm xuống, tôi tự nhận mình chỉ là một con người phản kháng,
một kẻ lãng mạn cách mạng, một tay cách mạng tài tử, không bao giờ
là một người làm chính trị chuyên nghiệp, và là một nỗi đam mê phù
phiếm trong cuộc đời này.
Đà Lạt 20/1/08
TDBC