Ai đã từng có cuộc sống hôn nhân, nhất là những cuộc hôn nhân không
hạnh phúc, hẳn có nhiều kinh nghiệm về chuyện tranh luận, tranh cãi
giữa vợ chồng.
Hai người đều nói và không ai chịu nghe ai. Mỗi người chỉ nghe chính
mình chứ không nghe người kia nói. Người nghe hiểu theo ý mình chứ
không theo ý người nói. Luôn nghĩ người kia cố ý xúc phạm mình. Nghĩ
một đằng nhưng lại nói ra điều khác hẳn. Nói ra và hối hận ngay về
những điều mình nói nhưng không thể sửa chữa. Thấy rõ người kia hiểu
sai ý mình nhưng không có cách gì giải thích. Càng giải thích càng
đưa đến ngộ nhận nhiều hơn. Nói chuyện này lại liên tưởng đến chuyện
khác, dây mơ rễ má những chuyện xưa tích cũ dồn nén bao năm. Càng
nói cơn giận dữ càng tăng lên, sự giận dữ của người này kích động sự
giận dữ của người kia, có khi bộc phát thành hành động thô bạo không
thể kềm chế. Tranh cãi nhiều khi không đưa đến đồng thuận mà chỉ đào
sâu thêm hố ngăn cách.
Sự tranh cãi chỉ tạm lắng khi một người hay cả hai cùng bình tâm
lại, lắng nghe và không phán xét, cố hiểu và chia sẻ với người đối
thọai mình. Sự hòa thuận chỉ đến khi một hoặc cả hai người có được
cảm thông, bao dung và tha thứ. Sự tranhh cãi chỉ chấm dứt khi một
người “chịu thua”. Có khi người “chịu thua” đó mới là người thắng,
thắng trong ý hướng giải quyết bất đồng, tạo nên hòa thuận. Còn
không, kết quả chỉ là đổ vỡ hay kéo dài sự bất đồng không lối thóat.
Tôi thường liên tưởng đến sự tranh cãi trong đời sống hôn nhân khi
nghĩ về cuộc tranh cãi chính trị hiện nay giữa các thành phần tham
dự cuộc chiến tranh ngày nào, đã qua, đã lâu mà hình như vẫn còn rất
mới. Dĩ nhiên đây không phải là so sánh. Vì với hôn nhân, hai người
trong cuộc đã từng yêu nhau, chia sẻ hạnh phúc và dự ước tương lai,
giữa hai cá nhân, còn trong chiến tranh là hai phe đối địch, với số
đông, tìm cách tiêu diệt nhau để giành chiến thắng. Tuy nhiên điều
đáng ngạc nhiên là những hình thái và kết cục của những cuộc tranh
cãi này có khi lại giống nhau một cách lạ lùng.
Thóat hẳn ra khỏi chính mình để nhìn nhận vấn đề một cách khách quan
là điều vô cùng khó khăn, hầu như không thể được. Vì nhận thức là
chủ thể nhận thức. Không có chủ thể làm sao nhận thức. Chủ thể là
chủ quan, không thể khách quan. Chủ thể đây là con người, thành tố
tổng hợp của hòan cảnh sống, tri thức, tâm trạng, tình cảm trong một
thời gian dài, trong đó tự hào, hạnh phúc, đau thương, tủi nhục, mất
mát, căm hận trộn lộn. Và mỗi người không thể không nhìn qua lăng
kính của mình.
Tôi tự nghĩ mình là người luôn tự vấn, phản tỉnh nhưng cũng không
thể hòan tòan thóat khỏi những định kiến về chính mình và người khác
nên cách suy nghĩ có thể có lúc thiếu công bằng hay có phần tự biện
minh mặc dù tôi đã cố gắng trình bày một cách khách quan về những gì
mình đã nghĩ, đã làm. Vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy người
khác hiểu lầm mình một cách vô tình hay cố ý. Tôi chưa bao giờ nghĩ
và viết ở đâu rằng tất cả những người “quốc gia”
trước đây là tay sai ngọai bang và hiện nay là hận thù mù quáng mà
chỉ xác định là có một số như thế. Về những kẻ tay sai
ngọai bang trước đây, chính những người “quốc gia” đã thừa nhận và
lên án, không cần nhắc lại. Còn một số những kẻ hận thù mù quáng
hiện nay thì ta không khó nhận ra khi vào các trang web chính trị
trên mạng Internet, ở đó có những kẻ gào thét đòi “băm vằm, tiêu
diệt đến người cộng sản cuối cùng”.
Tôi cho rằng có thể người ta không đọc kỹ hoặc không phải người ta
không hiểu những điều tôi viết nhưng là họ “đọc” chính họ, với mặc
cảm bị xúc phạm và đã phản xạ như một điều tất yếu.
Tôi biết có những người tài giỏi, thông kim bác cổ, đọc thiên kinh
vạn quyển và cho rằng mình đã nhìn thấy chân lý. Nhưng đọc nhiều đến
đâu cũng không thể đọc hết được kho tàng kiến thức về bất cứ vấn đề
gì. Cách đây không lâu khi Trần Trung Đạo và tôi tham
gia viết mấy bài trong chuyên mục “Chiến tranh nhìn từ nhiều phía”
trên talawas, có một trí thức ở nước ngòai đã lên tiếng phê phán,
thậm chí mạt sát chúng tôi và một vài người khác nữa là ngu dốt vì
đã không đọc Hiệp định Genève cũng như những tài liệu liên quan khi
chúng tôi cho rằng “Hiệp định Genève chia đôi đất nước”. Trong bài
“Chiến tranh, nghệ thuật tuyên truyền và chân lý lịch sử”,
khi tôi viết đại ý những phi công Mỹ lái máy bay B52 đi thả bom miền
bắc không thấy được những gì diễn ra bên dưới, nhằm mục đích truy
đến tận gốc nguyên nhân chiến tranh và tội ác chất độc màu da cam,
ông ta hỏi một cách mỉa mai làm sao tôi biết được điều đó, hay là
các phi công Mỹ nói với tôi. Ông ta đâu biết rằng điều đó do một nữ
phóng viên Mỹ phản chiến, người duy nhất được bay cùng phi công lái
B52 thả bom nói ra và điều đó được đăng tải trên báo chí Việt Nam.
Tôi không trích dẫn cụ thể vì tôi đã không giữ tư liệu đó nhưng ai
muốn và cố công sẽ tìm ra. Trong dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng, nhà
nước Việt Nam đã mời rất nhiều người nước ngòai từng tham dự hay
chứng kiến cuộc chiến đến Việt nam và báo chí đã đưa tin, viết rất
nhiều về họ trong mục đích tuyên truyền.
Tôi đã không trả lời vị trí thức trên (và hình như Trần Trung Đạo
cũng thế) vì tôi không thể đối thọai với người tự cho mình vô cùng
thông thái, độc quyền chân lý và mở miệng ra là mạt sát người khác
bằng những lời lẽ không có chút gì văn hóa.
Còn về Hiệp định Genève 1954 hay Hịêp định Paris 1973 về Việt Nam dĩ
nhiên tôi có đọc, thậm chí tôi còn từng làm chủ tịch một tổ chức gọi
là “Lực lương nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris” ở một địa
phương. Tôi không đọc được nhiều nhưng cũng đọc một số tư liệu liên
quan đến hai hiệp định này nhưng tôi, và tôi nghĩ phần lớn người dân
Việt Nam bình thường , hiểu hai hịệp định này một cách giản đơn và
thực chất mà không cần truy lùng hàng trăm ngàn tài liệu ở đâu đó.
Dĩ nhiên tôi cũng không phản đối hay không thấy giá trị trong việc
nghiên cứu những tư liệu giúp làm sáng tỏ thêm những vấn đề uẩn khúc
của lịch sử, nhất là trong thời kỳ số phận đất nước lệ thuộc rất
nhiều vào các cường quốc trong cuộc chiến tranh và rất nhiều âm mưu
thủ đọan, cũng như nhiều cuộc đi đêm, thỏa hiệp đã được các bên
thực hiện vì lợi ích của chính mình, bất chấp đạo lý hay những lời
cam kết với đồng minh.
Tuy nhiên sự thật lớn nhất là niềm đau của nhân dân Việt Nam, là
những gì mà người dân hai miền nam - bắc đã gánh chịu trong cuộc
chiến tàn khốc đó chứ không phải là ngôn từ trong các bản hiệp định.
Dù hiệp định đó đã được viết với những tính tóan như thế nào của các
bên, ai ký, ai không ký, ai vi phạm thì sự thật là đất nước đã bị
chia cắt làm hai miền trong bấy nhiêu năm. Cho nên nói “Hiệp định
Genève chia đôi đất nước”, như cách nói thông thường của phần lớn
người Việt Nam, không có gì sai mà còn diễn tả đúng sự thật lớn
nhất, đau lòng nhất của đất nước trong một thời kỳ.
Năm 1964, thời còn là sinh viên, có lần tôi đã đi cùng với tráng
đòan hướng đạo Bạch Mã trong một chuyến du khảo ra thăm cầu Hiền
Lương, đứng bên này sông nhìn sang bên kia bờ và lắng nghe trong
mình dậy lên niềm đau chia cắt. Hơn 20 năm sau ngày thống nhất đất
nước, tôi mới có dịp dến thăm cầu Hiền Lương lần nữa. Lần này tôi có
thể đi sang bờ bên kia, đến tận nơi, chụp hình bên cạnh một tượng
đài không ra hình thù gì cả, trên đó có ghi “Cột mốc giới tuyến
quân sự tạm thời 54-75” như ngôn từ trong văn bản của hiệp định
Genève và tôi thấy nó không có nghĩa gì cả. Tôi nhìn con sông Bến
Hải, con sông đã đi vào lịch sử như một nhát dao chia cắt, một vết
chém ngang lưng đất nước, tôi thấy tội nghiệp vô cùng cho con sông
bé nhỏ và đất nước Việt Nam nhược tiểu trong cuộc tranh chấp kinh
hòang của ý thức hệ, của lợi quyền dân tộc, phe phái, tập đòan trên
phạm vi tòan thế giới mà Việt nam là một nạn nhân đau thương
nhất. Cũng tương tự, Hiệp định Paris năm 1973 có tên gọi là “Hiệp
định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình…” (tôi
viết theo trí nhớ) nhưng chiến tranh chấm dứt và hòa bình lập lại
không phải do hiệp định mà bằng cuộc tổng tiến công và chiến thắng
của một phía. Chưa kể cho đến tận hôm nay có nguời vẫn còn đặt câu
hỏi mọi hình thái chiến tranh đã chấm dứt chưa và hòa bình đã thực
sự có chưa nơi tâm hồn của những con người vẫn còn những vết thương
không sao kín miệng. Những câu chữ trong các văn bản, hiệp định,
tuyên bố, tuyên ngôn, diễn văn gì gì đó nhiều lúc chẳng có nghĩa lý
gì trước thực tiễn của con người và đất nước, đôi khi chẳng có gì
khác hơn là sự lìa bịp.
Vậy thì sự thật, chân lý lịch sử nằm ở đâu? Hình như chân lý nói
chung và chân lý lịch sử nói riêng cũng rất tương đối. Nhiều người
biết rõ lịch sử do các thế lực thống trị đất nuớc viết nên đều luôn
luôn viết có lợi cho mình và không ngần ngại bóp méo cái gọi là sự
thật lịch sử, nhất là những gì liên quan đến các triều đại, chế độ,
thế lực đã bị lật đổ. Và từng cá nhân cũng chỉ nhìn nhận lịch sử
theo hòan cảnh mình sống. Bài viết của Hùynh Phan tham gia
cuộc tranh luận trên talawas nói lên khá rõ điều đó. Người ở thành
thị miền nam sống bình yên, no đủ thường đứng về phe quốc gia và lên
án các hành động pháo kích, đặt mìn… của cộng sản. Người ở nông thôn
nghèo khổ, chịu đựng các cuộc hành quân bố ráp, lùng bắt cộng sản
của quốc gia thường có cảm tình với Mặt trận và tham gia du kích hay
“vô bưng, nhảy núi”. Người ở miền bắc căm thù đế quốc Mỹ xâm lược và
quyết tâm giải phóng miền nam. Dĩ nhiên nói cho rõ, đây chỉ là xác
định hiện tượng, chưa truy tìm nguyên nhân và không phải tất cả
nhưng phần lớn thái độ và lựa chọn của nhân dân ở các miền là như
thế. Vậy thì ai đúng ai sai? Ai có quyền lên án và ai đáng bị lên
án? Chân lý nằm ở đâu và tiêu chuẩn nào để xác định chân lý trong
cuộc tranh luận khi chỉ vì những lựa chọn hay “bị lựa chọn” đó mà
máu đã đổ và thù hận đã dậy lên ngút ngàn lịch sử?
Tôi còn được nghe một người “quốc gia” kể sau khi ở tù cải tạo hơn
10 năm trở về nêu ra và trao đổi với bạn bè đồng cảnh ngộ của mình
một vấn đề hóc búa. Nếu trong cuộc chiến vừa qua, phe Việt Nam Cộng
Hòa thắng thì những người quốc gia sẽ đối xử như thế nào với những
người cộng sản chiến bại, tốt hơn hay tồi tệ hơn những gì người cộng
sản đã làm? Tôi không được biết cụ thể về nội dung cuộc trao đổi đó
và vấn đề được đặt ra hòan tòan là một giả thiết, nhưng cách đặt vấn
đề như thế thật đáng suy ngẫm. Nó cho ta một cái nhìn hai chiều,
nhiều chiều và từ đó có thể khách quan, công bằng hơn trong mọi nhìn
nhận về những vấn đề lịch sử.
Trao đổi, tranh luận với sự chân thành, thiện chí, tôn trọng lẫn
nhau, thông thường cần thiết để thông cảm, đi đến đồng thuận, giải
quyết vấn đề nhưng cũng có những trường hợp tranh luận không sao ngã
ngũ và kết cục đáng buồn. Trong những trường hợp đó, không tranh
luận hay dừng lại đúng lúc có khi tốt hơn. Lắng nghe, bình tâm,
chiêm nghiệm và tự rút ra kết luận hay bỏ qua vấn đề để cùng huớng
về tương lai lại có thể mang đến nhiều điều hữu ích hơn. Do đó mặc
dù đồng ý với Phương Duy rằng “Tranh luận càng sâu, càng nhiều chi
tiết được mổ xẻ, đối thọai càng rõ ràng…” và tôi vẫn có thể trao đổi
lại về từng luận điểm trong bài viết của ông, tôi lại thích làm theo
cách khác, cũng của chính Phương Duy đề ra là “đồng ý về những bất
đồng”.
Do suy nghĩ như thế, đáng lý ra tôi không viết bài này nhưng cuối
cùng tôi đã viết vì muốn tỏ lòng biết ơn và cảm phục những người đã
có thái độ đúng đắn và sự chia sẻ chân thành dù vẫn còn một số khác
biệt với tôi về quan điểm như Phong Uyên, Phương Duy trong
các bài viết vừa rồi (và những người khác có cùng thái độ trong im
lặng, kể cả Trần Trung Đạo mà tôi “võ đóan” như thế vì cho
tới nay chưa thấy anh tiếp tục lên tiếng). Điều quan trọng bây giờ
là cùng nhau hướng tới tương lai.
Tương lai đó là đấu tranh cho một Việt Nam hòa bình, tự do, dân chủ
và phồn vinh. Trong cuộc đấu tranh này, đấu tranh chính trị là quan
trọng nhưng không phải là tất cả.
Sài
Gòn 10/06
TDBC