23-06-2005
Tiêu Dao Bảo Cự
Đó là mấy từ trong trích đoạn bài thơ Hữu Loan chép tặng tôi vào sổ
tay 17 năm trước, với nét chữ cứng cỏi và cách xuống giòng bậc thang
đặc trưng trong thơ ông. Năm đó ông đã 73 tuổi.
“…Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó – Mộc”
( chuyện Di Tề )
Đó là năm ông “tái xuất giang hồ” rời bỏ làng quê giong ruổi về
phương nam sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà, một
nơi đèo heo hút gió ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hoá. Trong chuyến đi xuyên Việt năm 1988 của đoàn Hội văn
nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian để đòi tự do sáng tác, tự do báo
chí - xuất bản và đổi mới thực sự, chúng tôi đã đưa Hữu Loan về lại
quê nhà sau gần một năm lang bạt.
Lần ấy, chép xong mấy câu thơ, ông chỉ tay vào trang giấy nói với
tôi: “Anh thấy đó. Chữ Rìu, Bào và Phó - Mộc viết hoa. Anh biết tôi
muốn ám chỉ ai rồi”
Dọc đường đất nước trên chuyến đi, ông cũng đọc cho công chúng nghe
trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới nhất của ông, bài “Chuyện
tôi về”, một loại bút ký thơ kể về thời gian “ Ba mươi năm không
phải chuyện / Một sớm một chiều/ Một ngày tù đã dài như thế kỷ / Ấy
là tù giữa chợ….”. Nhưng 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án văn nghệ gọi
là “Nhân văn - Giai phẩm”, và 17 năm sau đó nữa, chẳng có ai dám
viết, nói gì về chuyện của ông dù không ít người biết. Ngay cả sau
khi gần đây, có hiện tượng xôn xao dư luận là một công ty đã bỏ ra
100 triệu đồng để mua bản quyền bài thơ nổi tiếng "Mầu tím hoa sim”
của ông. Nhân sự việc này trên báo chí có một vài bài viết về ông
nhưng tuyệt nhiên không ai nhắc đến 30 năm đó, như thời gian này
không hề có trong cuộc đời ông.
Một sự im lặng khủng khiếp không chỉ đè nặng lên riêng đời ông mà
còn trói tay những người cầm bút và choàng phủ lên cả đời sống dân
tộc. Đó là sức mạnh, sức nặng ghê gớm của bạo lực và cường quyền,
của nỗi sợ hãi và lòng hèn nhát, là bi kịch của một đất nước tự cho
và cũng được phong tặng là đất nước anh hùng.
|
Nhà thơ Hữu Loan và Tác giả -
tháng 3, 2005 |
Trong hoàn cảnh đó, Hữu Loan đã chọn riêng cho mình một lối sống, dù
nghiệt ngã nhưng đầy bi tráng. Như ông viết trong “ Chuyện tôi về”:
“Tôi không làm nhà vì mắc làm người”, “Đi ăn cắp và làm cán bộ là
tôi không đi…”. Ông thà đi cuốc đất, đập đá và đẩy xe thồ suốt 30
năm để làm “Cây gỗ vuông chành chạnh” không cho ai lăn long lóc,
trong khi bao nhiêu văn nghệ sĩ đồng thời với ông đã tha hồ để cho
“tùy tiện bị lăn long lóc thế nào thì long lóc” ngoài đời cũng như
trong văn học nghệ thuật.
Kể từ lần gặp gỡ đầu tiên, tôi thực lòng ngưỡng mộ “cây gỗ vuông
chành chạnh” Hữu Loan nên trong 17 năm qua, dù trải bao nhiêu khó
khăn vây khổn, trong tôi vẫn thôi thúc ý muốn gặp ông lần nữa. Tôi
vẫn sợ rằng nếu không còn dịp nào gặp lại ông, đối với tôi đó sẽ là
niềm ân hận lớn trong đời.
Trong chuyến đi xuyên Việt lần thứ hai bằng xe gắn máy năm 2003, tôi
đã định đến thăm ông, nhưng rủi thay, khi đến địa đầu tỉnh Thanh
Hóa, chỉ còn cách nơi ông ở vài mươi cây số, tôi bị tai nạn phải lên
xe đò đi thẳng ra Hà nội, tôi đành để lỡ dịp trong hối tiếc.
Đầu năm 2005 này, trong chuyến đi xuyên Việt từ Nam ra Bắc lần thứ 3
bằng nhiều loại phương tiện, tôi nhất quyết đến thăm ông và tôi đã
thực hiện được.
Trên đường trở về bằng chuyến xe du lịch open tour Hà Nội - Sàigòn,
tôi xuống xe ở Ninh Bình, một điểm dừng của open tour này, để tìm
gặp lại Hữu Loan. Ninh Bình là tỉnh giáp giới phía Bắc của Thanh
Hóa. Tôi hỏi thăm biết huyện Kim Sơn của Ninh Bình, nơi có nhà thờ
đá Phát Diệm nổi tiếng, cách thị xã Ninh Bình 30 cây số nằm tiếp
giáp với huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, nơi Hữu Loan đang ở. Tôi thuê một
xe gắn máy và tự mình tìm đường đi sau khi nghiên cứu bản đồ. 17 năm
trước tôi đến nhà ông theo đường quốc lộ 1 từ thị xã Thanh Hóa ra,
lần này đi ngược lại từ phía bắc vào, theo một con đường khác.
Sau khi đến nhà thờ Phát Diệm, nhà thờ đá xưa nhất và lớn nhất Việt
Nam, nơi hết địa phận huyện Kim Sơn, người ta bảo phải đi khoảng 20
cây số nữa mới đến trung tâm huyện Nga Sơn. Tôi chạy theo con đường
liên tỉnh lộ nhỏ hẹp, phía Nga Sơn xem ra không trù phú bằng bên Kim
Sơn, nơi có những cánh đồng lúa cò bay thẳng cánh, với những đàn vịt
trắng xóa bờ kênh và rất nhiều nhà thờ hai bên đường. Tôi vừa đi vừa
hỏi thăm đến thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh. Giờ này đã gần trưa, con
đường trải nhựa liên xã vắng vẻ. Đến nơi, tôi hỏi thăm mấy em nhỏ
học sinh đang chơi la cà trên đường. Các em chỉ cho tôi con đường
chạy thẳng đến chân núi, gần đó có chỗ rẽ vào một lối nhỏ đúc bê
tông. Tôi thầm nghĩ không lẽ người ta đã thay đổi tư duy, trọng thị
nhà thơ nên đã cho làm con đường bê tông ở xóm nhỏ heo hút này. Vào
đó hỏi tiếp, mấy người lại nói cho tôi biết nhà ông Hữu Loan ở chỗ
nhà lầu hai tầng đang xây bên phải. Hai người nói như thế, làm tôi
càng ngạc nhiên vì cách họ nói mấy từ “nhà lầu hai tầng” nghe có vẻ
khác lạ, bao hàm sự thán phục như nói về một cái gì phi thường ở
thôn xóm không có mấy nhà khang trang này. Tôi lại nghĩ không lẽ Hữu
Loan đã được “đổi đời” rồi vì lần trước đến, căn nhà do chính tay
ông dựng nên từ xưa vừa bị sập và mấy năm sau đó tôi nghe tin loáng
thoáng ông được xây “nhà tình nghĩa” và tài trợ xuất bản tập thơ. Dù
sao nếu đươc như thế tôi cũng mừng cho ông.
Tôi đã mừng hụt. Nhà Hữu Loan chỉ là căn nhà cũ kỹ phía sau “nhà lầu
hai tầng đang xây” mà thôi. Đằng sau cánh cổng sắt hơi tối dưới bóng
cây âm u, một phụ nữ đang nằm trên chiếc võng treo ngang qua cổng và
hai con chó đen dưới chân nhâu nhâu lên sủa. Chị đứng dậy suỵt chó
im và khi tôi hỏi Hữu Loan, chị bảo “ông cháu có nhà”. Chị tự giới
thiệu là con dâu của ông. Chị mở cổng đưa chúng tôi vào nhà mời ngồi
ở chiếc ghế gỗ vừa vội vàng dọn dẹp căn phòng ngổn ngang bề bộn mọi
thứ linh tinh. Chị loay hoay pha trà mời chúng tôi với bộ ấm chén
xỉn màu và cho biết Hữu Loan đang ốm. Chị nói thêm bình thường chỉ
có hai ông bà ở nhà, mấy hôm nay ông ốm nên chị đến chăm sóc.
Trong khi nói chuyện với chị, chúng tôi quan sát căn phòng và nghe
tiếng ho sù sụ ở phòng kế bên, sau khung cửa không có cánh tối om,
được che bằng tấm màn vải cũ kỹ.
Căn phòng không có trần, đồ đạc không có gì giá trị. Trên tường có
treo mấy tấm hình. Một tấm chụp Hữu Loan đứng bên cạnh bức tượng của
mình, tác phẩm điêu khắc của Phạm Văn Hạng năm 1990 theo như ghi chú
bên dưới. Một tấm chụp lại phác thảo chân dung bà Phạm thị Nhu ( tức
bà Hữu Loan) do một họa sĩ nào đó ký tên không rõ vẽ tặng ông. Đặc
biệt chiếc bàn thờ đơn sơ, chỉ là một mảnh ván đóng lên tường với
mấy bình nhang cắm hoa giấy và vỏ một hộp bánh bằng các tông, phía
trên chỉ treo một bức thư pháp viết chữ Tâm bằng Hán tự, nét chữ sắc
sảo và cứng cỏi, bên ngoài có nhện giăng và bụi bám.
Nói chuyện một lúc, tôi ngỏ ý với chị con dâu muốn vào tận giường
thăm Hữu Loan nếu ông ốm nặng thì nghe tiếng dép lệt sệt bước ra.
Trước mắt tôi, Hữu Loan không còn phong độ như năm nào. Ông đội
chiếc mũ len, quấn khăn quàng, mặc áo khoác bên ngoài áo len trong
khi vào nhà nóng, tôi phải cởi áo khoác. Khuôn mặt ông có sắc hồng
nhưng không phải nét hồng hào khỏe mạnh. Đôi mắt nhỏ sáng quắc năm
xưa đã phần nào mờ mịt. Tôi đứng lên chào và hỏi ông còn nhớ tôi
không, ông nhìn tôi ngẫm nghĩ rất lâu không nói gì. Khi tôi nói tên
và nhắc lại chuyến đi xuyên Việt năm xưa, ông ôm lấy tôi và nói “
Còn sống để gặp lại nhau là mừng lắm rồi”.
Ông mời tôi ngồi xuống ghế. Tôi nói tìm đường vào nhà ông cũng khá
vất vả. Ông bảo ai muốn tìm đừng hỏi ngay đến nhà ông vì hỏi như thế
chúng nó không chỉ đâu. Chúng nó được lệnh rồi. Tôi ôn lại chuyện
xưa nhưng kinh ngạc thấy ông còn nhớ rất ít. Ngay cả bài thơ “Chuyện
tôi về” ông tâm đắc ngày ấy và đã đọc hàng chục lần trước công chúng
ông cũng quên. Ông bảo tôi đọc cho ông nghe nhưng tôi chỉ thuộc vài
câu. Tôi hỏi bản thảo có còn không, ông bảo đã mất hay để đâu ông
không nhớ. Bây giờ mắt ông không đọc được chữ nữa, khi cần phải nhờ
con cháu đọc.
Tuy nhiên những chuyện và những bài thơ xưa hơn ông lại nhớ rất rõ.
Ông kể đi kể lại việc một người được giao nhiệm vụ giết ông nhưng
mỗi lần sắp ra tay lại không nỡ vì nhớ đến bài thơ ông viết về quê
hương anh ta. Chính anh ta đã nói lại với ông chuyện đó và ông đọc
bài thơ cho tôi nghe.
Ngồi nói chuyện khá lâu, và vì lúc chạy xe trên đường hơi bị lạnh,
cảm thấy thèm thuốc lá, tôi rút bao thuốc xin phép ông hút nhưng ông
nghiêm mặt chỉ tay vào tôi nói: "Tôi cấm anh”. Tôi gượng cười cất
bao thuốc và nói hiện nay tôi còn nghiện một thứ chưa bỏ được là
thuốc lá. Ông nói ngay: “ Cái gì có hại phải bỏ. Có gì mà không bỏ
được. Ngay cộng sản là thứ ghê gớm mà tôi còn bỏ được huống gì thuốc
lá.”
Lát sau, ông bắt đầu ho nhiều hơn và khạc nhổ đờm xuống đất, tôi tỏ
ra quan ngại về sức khỏe của ông nhưng ông bảo ông chỉ bị cảm mấy
ngày nay thôi. Ngày thường ông vẫn ra ngoài được và thường xuyên tập
khí công. Tôi hỏi ông tập theo phương pháp nào và vào lúc nào. Ông
bảo ông tập bất cứ lúc nào, kể cả khi ngồi, nằm, đi lại.
Hỏi thăm về gia đình, ông cho biết ông có 10 người con, 30 cháu và
tỏ ra không vui vì hoàn cảnh con cháu. Người con đầu thông minh,
thuộc loại học giỏi nhất tỉnh nhưng thời đó vì chuyện của ông, anh
không được vào đại học. Đến nay chỉ có người con trai út tốt nghiệp
kiến trúc sư đang làm việc ở Hà Nội, còn những người khác đều lập
gia đình, làm ruộng, làm nghề và ở quanh quẩn gần đó.
Về nguồn sống của ông bà, ông bảo thu nhập chính của ông là tiền bán
củi. Củi ở đây là cọng và lá dừa khô của hơn chục cây dừa rất cao do
chính ông trồng từ xưa. Vùng này người ta chuộng thứ củi dừa vì có
sẵn trong vườn và cháy tốt.
Bà Hữu Loan đi đâu về, nghe cô con dâu báo, vội lên chào khách. Gặp
tôi bà nhớ ra ngay. Có lẽ tôi gây ấn tượng cho bà vì lần trước chúng
tôi đã giúp đưa ông về sau khi ông “bỏ nhà ra đi” cả năm trời. Lần
đó tôi đã khen bà mặc áo tím đẹp khi Hữu Loan giới thiệu bà với
chúng tôi lúc gặp bà ngồi bán hàng trên đầu cầu. Tôi cũng đã hỏi bà
có phải vì Hữu Loan thích mầu tím nên bà mặc áo tím không. ( Dĩ
nhiên bà là vợ sau của Hữu Loan vì người vợ đầu của ông, mới “cưới
nhau xong là đi”, “nhưng không chết người trai khói lửa / Mà chết
người em gái nhỏ hậu phương” đã gây xúc động cho Hữu Loan viết nên
bài thơ “ Mầu tím hoa sim” bất hủ).
Bà Hữu Loan bây giờ đã hơn 70 tuổi nhưng bề ngoài trông có vẻ còn
khỏe mạnh dù bà bảo cũng đang bị nhiều bệnh mãn tính. Bà mời tôi ở
lại dùng cơm. Lúc đó đã quá trưa, gần xế chiều, tôi hơi ái ngại và
cũng sợ về muộn vì còn phải đi đường xa nên xin cáo từ. Bà bảo không
lẽ khách từ trong nam ra thăm mà không mời được bữa cơm, hơn nữa nhà
cũng chưa ăn trưa, thức ăn có sẵn, chỉ nấu quàng nồi cơm là xong.
Tôi đành nán lại.
Bữa ăn bà đãi chúng tôi quả có nhiều món có sẵn mà bà dự trữ để ăn
dần. Cá kho, canh rau nấu với thịt heo, tép kho ăn ghém với khế chua
hái trong vườn, lại thêm món trứng tráng. Hình như tất cả các thứ dự
trữ bà đều mang ra mời khách. Chúng tôi vừa ăn vừa phải luôn tay xua
đàn ruồi bay vù vù chung quanh. Hữu Loan chỉ ăn được lưng hai bát
cơm.
Trong khi ăn bà nói chuyện vui. Bà kể dạo ông đi nam, ông viết thư
về bảo có mấy cô còn trẻ mê ông muốn lấy ông, làm vợ bé, ông còn dám
bảo “có lẽ cũng phải lấy thôi.” Nghe nhắc đến chuyện đó mắt Hữu Loan
ánh lên nét tinh quái và ông mỉm cười nói: “Vì thế tôi mới gọi bà là
Thiến Thư. Thiến Thư chứ không phải Hoạn Thư”. Chúng tôi đều cười
xòa.
Dạo đó hình như bà cũng có ghen thật. Tôi nghe nói bà đã xé mấy bức
ảnh ông chụp chung với mấy cô gái trẻ. Bây giờ ông đã 90 tuổi, bà
hơn 70, nhưng nhắc đến chuyện tình yêu, ghen tuông, hai ông bà vẫn
còn xúc cảm, tuy trong một trạng thái khác. Đúng là chuyện không
tuổi và của muôn đời.
Câu chuyện vui không làm tôi bớt cảm giác phiền muộn trong lòng khi
nghĩ về hoàn cảnh Hữu Loan hiện nay. Dĩ nhiên sinh - lão - bệnh - tử
là chuyện tất yếu của đời người. Nhưng hình ảnh một ông gìa ốm yếu
ho hen, lẩn quẩn trong căn nhà cũ kỹ với người vợ tuổi đã cao, cũng
nhiều bệnh tật, có cái gì làm tôi cám cảnh. Hơn nữa, người đó lại là
Hữu Loan.
Lẽ ra ông đã có một cuộc sống khác. Một nhà thơ tài hoa, một trí
thức, một chiến sĩ cách mạng dày dạn, từ thời khởi nghĩa chống Pháp
giành chính quyền mới hơn 20 tuổi đã phụ trách 4 ty của tỉnh, một
cán bộ tuyên huấn sư đoàn xuất sắc… đúng ra phải có vị trí xứng đáng
và cuộc sống tốt hơn so với bao nhiêu người bất tài đang nắm giữ
chức quyền và sống xa hoa phung phí hiện nay.
Tôi nghĩ thực ra chính ông đã chọn cuộc sống này từ khi làm bài thơ
“ Mầu tím hoa sim” và tham gia “ Nhân văn- Giai phẩm”, sau đó tự ý
bỏ về quê nhà. Trong khi người ta lên án tư tưởng tiểu tư sản ủy mị
thì ông làm bài thơ khóc người vợ trẻ lúc từ chiến trường trở về
phải ngồi bên "ngôi mộ đầy bóng tối với chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh vây quanh" của người con gái vắn số không
kịp chờ ông. Ông không thể “giữ lập trường”, nén đau thương, xúc cảm
của mình theo chỉ thị của lãnh đạo. Con người không phải là gỗ đá,
không phải là súc vật phản xạ có điều kiện. Nhà thơ chân chính càng
không thể chỉ nặn ra những tác phẩm theo đơn đặt hàng hay những bài
tuyên truyền sáo rỗng dối trá dù là theo “yêu cầu của cách mạng” đi
chăng nữa. Chính vì thế sau khi viết “Mầu tím hoa sim”, ông bị kiểm
điểm, bài thơ bị cấm phổ biến công khai nhưng lại được chính các
chiến sĩ chép tay lén lút, đọc thầm cho nhau nghe, và sau đó vượt
không gian, thời gian đi vào lòng người để trở thành một trong những
bài thơ tình bất hủ của thi ca Việt Nam.
Cùng với các văn nghệ sĩ trong nhóm “ Nhân văn – Giai phẩm”, Hữu
Loan đã dùng ngòi bút để lột trần, lên án cái ác núp dưới bất cứ thứ
nhân danh, chiêu bài nào. "Nhân văn- Giai phẩm” là sự lựa chọn quyết
liệt của những người làm văn học nghệ thuật chân chính với tinh thần
“ Lời mẹ dặn” của Phùng Quán “Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo
là ghét”. Đó là đỉnh cao của văn học nghệ thuật, cũng là đỉnh cao
của trí tuệ và nhân cách. Đỉnh cao đó tất yếu bị phá đổ, vùi dập khi
quyền bính được xây dựng bằng bạo lực và dối trá. Sự lựa chọn đó là
một lựa chọn sinh tử và đã phải trả gía đắt, đắt bằng sự khốn cùng
của đời người, bằng một vết nhơ lớn trong lịch sử dân tộc.
Khi tôi hỏi về chữ Tâm treo trên bàn thờ, Hữu Loan bảo chính tay ông
viết và suốt đời ông chỉ thờ một chữ Tâm.
Tôi chợt nhớ đến những điều ông nói trong chuyến đi xuyên Việt năm
xưa mà tôi đã ghi lại trong bút ký “ Hành trình cuối đông”[*]
“Cái tâm mới là điều quan trọng trong văn học. “ Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài”. Sai lầm của chế độ là đã đề cao giai cấp tính, đến
chỉ còn đẳng cấp thống trị. Giai cấp tính không bằng nhân đạo tính".
Với cái tâm trong sáng của mình, Hữu Loan đã thấu suốt tình hình đất
nước và có những nhận định sắc bén:
“ Đất nước ta là nơi nói giỏi nhất nhưng làm sai nhiều nhất, người
sai lầm ít thì bị tội nặng, không được sửa sai, như bác sĩ làm chết
người, lái xe gây tai nạn bị lấy bằng, đi tù, còn những người làm
sai nhiều, giết nhiều người, làm hại làm khổ hàng triệu người thì
lại được sửa sai, nói dễ dàng “sai thì sửa”.
“Người nói thật cũng bị trừng trị. Tôi cũng bị trừng trị vì tôi viết
văn là nói thật. Có người hỏi động cơ viết văn của tôi là gì, tôi
trả lời động cơ viết văn của tôi là thích chửi vua. Ít ai dám chửi
vua nhưng vua sai thì nhà văn có quyền chửi.”
Vào thời điểm đó, Hữu Loan nhấn mạnh về sứ mạng của nhà văn:
“ Bây giờ nhà văn chỉ cần làm thư ký của thời đại là đã lớn lắm rồi.
Hiện thực nỗi đau của nhân dân rất vĩ đại. Vấn đề không phải có lớn
không mà là có dám lớn không.”
Dám nói thật và động cơ viết văn “thích chửi vua” chính là sứ mạng,
nhân cách và bản lĩnh của người cầm bút trong những thể chế hay giai
đọan lịch sử mà sự sai lầm và độc đóan lên ngôi thống trị. Đó cũng
là “định mệnh” của nhà văn chân chính. Định mệnh của những người đã
lựa chọn cuộc chiến đấu không cân sức:
“Chuyện Hữu Loan là chuyện
Một vạn chín trăm năm mươi ngày gấp hơn
mười lần chuyện Ba Tư
vô cùng căng thẳng
Giữa hai bên
một bên là chính quyền có
đủ thứ nhân dân
quân đội nhân dân
tòa án nhân dân
nhà tù nhân dân
và nhất là
cuồng tín nhân dân
thứ bản năng ăn sống
nuốt tươi
ăn lông ở lỗ nguyên thủy
được huy động đến
tột cùng
sẳn sàng hủy
cũng như tự hủy
một bên nữa là
một người tay không
với nguyện vọng
vô cùng thiết tha
được làm người lương thiện
nói thẳng
nói thật
bọn ác
bọn bịp
thì chỉ tên vạch mặt
người nhân thì
xin thờ
như Thuấn Nghiêu”
( Chuyện tôi về )
Cuộc sống của Hữu Loan thời kỳ đêm dài 30 năm đúng là “vô cùng căng
thẳng”, đặc biệt khi “cuồng tín nhân dân” còn bị nhồi sọ và kích
động bởi bộ máy tuyên truyền hùng hậu.
Thời kỳ đó đã qua và hiện nay những nhà văn chân chính như Hữu Loan
không cô độc nữa, dù cũng còn phải chịu đựng không ít khó khăn trù
dập. Trung thực và dũng cảm vẫn là điều không thể thiếu khi nhà văn
muốn nói lên sự thật.
Riêng Hữu Loan, ông đã giữ vững sự lựa chọn đó đến cuối đời. Theo
tôi biết, nếu không lầm, sau thời kỳ đổi mới, Hữu Loan là người duy
nhất không làm đơn xin khôi phục hội tịch Hội Nhà văn Việt Nam.[*]
Cuộc sống của ông cho đến tận hôm nay, dù trải qua bao nhiêu gian
nan khốn cùng, đó vẫn là một cuộc sống làm người tử tế đúng nghĩa.
Hơn nữa đó còn là một cuộc đời bi tráng rực rỡ, lấp lánh niềm đau và
khí phách như những bài thơ của chính ông.
Hôm trước ở Hà Nội, tôi nghe nói con trai út của ông định sắp tới sẽ
tổ chức thượng thọ 90 tuổi cho ông với mục đích để bạn bè trong nam
ngoài bắc có dịp gặp ông một lần trước khi ông quá gìa yếu. Tôi may
mắn đã được gặp lại ông trước dịp này.
Cuộc đời Hữu Loan chính là một tượng đài của nhân cách, lòng trung
thực và khí phách anh hùng. Tượng đài đó có thể biểu trưng bằng “cây
gỗ vuông chành chạnh” và một chữ Tâm. Người xưa nói “ Dụng nhân như
dụng mộc”. Cây gỗ vuông này thời đại của ông không dùng nhưng lịch
sử sẽ dựng lên thành một tượng đài, cũng là một loại bút “ tả thanh
thiên” lồng lộng giữa đất trời.
Tháng 6 năm 2005
TDBC
[*] Ghi chú: Xem them Hành trình cuối đông, bút ký Tiêu Dao Bảo Cự,
Nhà xuất bản Văn nghệ, 1998. Phần Phụ lục của bút ký này có đăng
tòan văn bài thơ "Chuyện tôi về" của Hữu Loan.