Tiêu Dao Bảo Cự
Trong thời gian mấy tháng
vừa qua, một số bài viết của tôi được công bố trên diễn đàn DCV và
nhận được khá nhiều ý kiến đóng góp. Những ý kiến này, một phần liên
quan đến cuộc đời cá nhân tôi, phần khác đề cập đến những vấn đề do
tôi đặt ra hoặc những vấn đề khác nữa do sự liên tưởng.
Dĩ nhiên tôi hiểu cá nhân
tôi vô cùng nhỏ bé, chẳng là cái gì cả nhưng bạn đọc quan tâm vì ở
khía cạnh nào đó liên quan đến cái chung và cái chung này là những
vấn đề đang xảy ra tranh luận gay gắt. Những cuộc tranh luận chung
quanh các bài viết của tôi đã gây ra sóng gió nho nhỏ trong diễn đàn
rộng lớn vô cùng sôi động của DCV. Điều này chứng tỏ DCV là một
diễn đàn dân chủ có sức thu hút mạnh mẽ.
Diễn đàn dân chủ trên net
của DCV có những ưu và nhược điểm, tôi đã có lần góp ý trong bài “
Về một diễn đàn dân chủ”, nay do tình hình phát triển, tôi xin mạn
phép “lại bàn" thêm. Trong bài viết này có nhiều vấn đề liên quan
đến cá nhân mà dù tôi không muốn nhắc đến nữa cũng không được. Tôi
đã vô tình trở thành mục tiêu để mổ xẻ, phân tích mà theo tôi có
đúng có sai và rất nhiều ngộ nhận. Những vấn đề quan điểm vẫn chưa
được bàn luận thấu đáo và chưa ngã ngũ. Tôi sẽ lại đề cập đến những
nội dung trên nhưng mục đích nhắm đến một vấn đề khác: hòa giải hòa
hợp, chuyện xem ra có vẻ “cấm kỵ” vào lúc này đối với một số người.
Đối với tôi, chẳng có gì cấm kỵ và tôi không hề né tránh bất cứ vấn
đề gì.
Tôi viết bài này là cách
kiên trì đối thoại, cố gắng làm sáng tỏ sự thật, dù lẽ phải, chân lý
trong thế giới này cũng rất tương đối. Đây cũng là cách đáp tạ bạn
đọc, những người yêu mến, đồng tình ủng hộ và cả những người phê
phán, lên án gay gắt nhưng với sự trung thực và chân thành. Dù lấy
bút hiệu “Tiêu dao”, dù ở tuổi này tôi đã nghiêng nhiều về nẻo tâm
linh nhưng tôi vẫn lại thường thấy mình đứng giữa cuộc chiến đấu. Có
lẽ đó là định mệnh của đời tôi. Định mệnh nhỏ bé cá nhân nằm trong
định mệnh chung của dân tộc. Một dân tộc cần cù lao động, yêu hòa
bình, giàu lòng nhân ái nhưng hàng thế kỷ qua vẫn triền miên trong
đói nghèo, chiến tranh và phân ly, thù hận.
Bài này nêu lên 3 vấn đề:
-
Về thái độ của bạn đọc và những đính chính cần thiết.
-
Những tranh luận về quan điểm và vấn đề sám hối.
-
Con đường nào đi đến hòa giải hòa hợp để chống guồng máy độc
tài toàn trị?
1) Về thái độ của bạn đọc và những đính
chính cần thiết.
Tôi chân thành cảm kích
các bạn đọc đã có thể chia sẻ sâu xa và đồng tình ủng hộ những điều
tôi viết, những điều có thể đúng có thể sai nhưng đều xuất phát từ
sự suy nghĩ tỉnh táo, độc lập của khối óc có thể có được và nhiệt
tình của con tim chưa hề nguội lửa.Tôi cũng rất biết ơn những ý kiến
khách quan, không thành kiến, phân tích có lý có tình, đối chiếu
nhiều bài viết của tôi để tìm ra sự mâu thuẫn có thể có. Những ý
kiến đó giúp tôi soát xét lại mình, bài viết của mình một cách cẩn
trọng hơn
Tôi cũng thông cảm với
những người nói rõ trước có cảm tình với các bài viết của tôi nhưng
khi biết quá trình hay do những lập luận nào đó của tôi mà họ không
đồng tình, lại đâm ra ác cảm. Đây là những điều do liên quan đến quá
khứ.
Tôi cũng hiểu được lý do
tại sao có những người luôn luôn nghi ngờ động cơ của người viết,
luôn luôn cảnh giác, thậm chí bới lông tìm vết, "vạch từng ngọn cỏ"
để xem có cây kim nào dấu trong đó sẽ đâm thủng bàn chân mình không.
Họ sợ bị lừa vì đã từng bị lừa, vì sự lừa bịp đã lên ngôi trong một
thời kỳ dài của lịch sử.
Tôi không trách khi có
người không theo dõi đầy đủ bài viết, như bút ký “Hành trình mùa
xuân” nên thắc mắc tại sao bây giờ là mùa thu lại nói mùa xuân, tác
gỉa sao không biết chuyện Phan Văn Khải đi Mỹ… dù bút ký này ngay từ
đầu, tôi đã nói rõ là viết về chuyến đi du lịch mùa xuân năm 2003 và
sau đó cũng đã có dịp nhắc lại thời điểm này.
Nhưng tôi hơi buồn vì có
nhiều người đọc, ở một cực khác, lại có cách đọc không khác gì cách
đọc của công an và tuyên huấn cộng sản.
Khi Bùi Minh Quốc làm tập
thơ “Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn” có những từ “quỷ dữ” “ đao
phủ”, người ta cật vấn “quỷ dữ, đao phủ” có phải là ám chỉ Đảng và
công an không?
Khi tôi viết về “ Đà Lạt
trăm năm…..” có dẫn bài Quốc tế ca và nói rằng “ Đấu tranh này không
phải là trận cuối cùng mà nhân dân còn cần nhiều cuộc đấu tranh,
nhiều cuộc cách mạng nữa.", người ta hỏi tôi có phải anh đòi hỏi
cuộc cách mạng lật đổ chế độ cộng sản?
Khi tôi lấy tên tập
truyện là “ Trên cả hận thù” có người nghi ngờ đặt dấu hỏi ngay
không biết có liên quan gì đến chủ trương “xóa bỏ hận thù, hòa giải
hòa hợp bịp bợm theo nghị quyết 36/ CP mới đây" mặc dù người ấy biết
rõ tôi đã viết truyện đó cách đây 7 năm, vào năm 1998, trong thời
gian tôi bị quản chế. Còn về quan điểm hòa giải hòa hợp, đoàn kết
của tôi, tôi đã nói rất rõ ràng trong “Thư ngỏ gởi những người cộng
sản Việt Nam” viết năm 1996 ( DCV mới đăng lại ) và trong “ Thư ngỏ
gởi ông Võ Văn Kiệt về việc đại đoàn kết dân tộc” mà DCV vừa công bố
không lâu.
Có người đòi hỏi tôi phải
viết điều này điều kia theo ý riêng của họ, nếu không sẽ bị coi là
hèn nhát, thiếu trung thực, lừa bịp. Thực ra có một số điều tôi đã
từng viết hơn 10 năm trước nhưng họ chưa có dịp đọc thôi. Thậm chí
có người còn thách tôi biểu tình chống cộng sản như thời trước biểu
tình chống chính quyền VNCH. Đúng là biểu tình trong chế độ cộng sản
khó thật. Ngoài những cuộc biểu tình, đấu tranh đòi quyền sống, đòi
đất, đòi tự do tôn giáo của một số nhân dân ở Thái Bình, Hà Nội,
Đồng Nai, Huế, Tây Nguyên…, đặc biệt trong sinh viên học sinh, không
có một cuộc xuống đường nào cả trừ phi do chính nhà nước tổ chức.
Tuy nhiên tôi cũng có thể nói tôi đã từng tham gia một cuộc “biểu
tình chạy” của trí thức, văn nghệ sĩ miền Trung vào cuối năm 1988
khi cùng với Bùi Minh Quốc và Hữu Loan thực hiện chuyến đi xuyên
Việt để đòi tự do dân chủ và đổi mới thực sự. Có lẽ đây là cụôc biểu
tình đầu tiên và duy nhất của trí thức, văn nghệ sĩ trong chế độ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. ( Tôi đã tường thuật đầy đủ sự kiện này
trong bút ký “ Hành trình cuối đông” do nhà Văn Nghệ ở Cali xuất bản
năm 1998).
Có người cho rằng những
điều tôi trình bày, những mặt trái của chế độ hay những đòi hỏi về
tự do dân chủ là điều mọi người dân Việt Nam ai cũng biết (chỉ trừ
khoảng 100 cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản là không biết)
và cách nói của tôi chưa đủ sức nặng để Đảng và Nhà nước phải đối
phó. Nói như thế là quá chủ quan, thiếu thực tế, không hiểu tình
hình.
Nếu sự thực về mặt trái
của chế độ ai cũng biết thì cần gì đến các báo chí, đài phát thanh,
diễn đàn trên mạng ở nước ngoài và cả những báo chí trong nước nữa,
nơi không thiếu những bài lý luận chỉ ra những sai trái trong đường
lối chính sách (ở một mức độ), những bài phóng sự dũng cảm nêu lên
những vụ việc tiêu cực, những cuộc sống lầm than, khổ ải, nhục nhằn
mà một bộ phận nhân dân đang gánh chịu.
Hơn 10 năm trước, tôi và
một số bạn ở Đà Lạt như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu là một ít người
trong số những người đầu tiên đòi bỏ điều 4 Hiến Pháp, đòi bỏ chủ
nghĩa cộng sản, đòi dân chủ đa nguyên và kết quả như thế nào mọi
người đều biết: thẩm vấn, bao vây, cô lập, cắt điện thoại, kiểm
duyệt thư từ, đưa ra họp dân để “đấu tố”, rồi bỏ tù, quản chế. Một
số những điều chúng tôi nói, sau này những người trẻ hơn mới nói như
Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang, Phương Nam…. Và ai cũng
biết họ được đối xử như thế nào. Riêng Phương Nam từ khi còn ở Úc,
công bố các bài viết về “nhận thức lại”, nhà nước không biết anh là
ai để đối phó nhưng từ khi về nước, trở thành Đỗ Nam Hải thì anh đâu
còn được bình yên như trước.
Riêng chúng tôi thời kỳ
đó còn được một bài viết nêu đích danh trên báo Nhân dân như “những
tên phản bội tổ quốc, tay sai đế quốc, xung kích chống cộng” . Bài
báo này sau đó được photocopy đưa về cho nhân dân trong tổ dân phố
chúng tôi ở học tập để “đề cao cảnh giác chống bọn phá hoại sự
nghiệp cách mạng” theo tinh thần một tấm bảng khẩu hiệu được viết và
đóng ngay trước cổng nhà chúng tôi ở.
Trong bài “Thư ngỏ gửi
những người cộng sản” tôi đã gởi đến Ban chuẩn bị nội dung Đại hội 8
với tên và địa chỉ rõ ràng, trong đó tôi khẳng định "tôi không tán
thành độc đảng, độc tài và định hướng xã hội chủ nghĩa, tôi ủng hộ
dân chủ và đa nguyên chính trị nhưng tôi cũng không tán thành bạo
động, nội chiến, lật đổ, gây hận thù". Khi nhận định về Hồ Chí Minh,
trong khuôn khổ của bài viết góp ý vào dự thảo cương lĩnh, tôi đã tự
hạn chế vào vấn đề thần thánh hóa lãnh tụ và viết tương đối nhẹ
nhàng, thế nhưng một số đảng viên ở địa phương tôi ở cho rằng tôi bị
quản chế chưa đủ, cần phải bỏ tù vì đã dám “nói xấu Bác Hồ”. Ở nước
ngoài ai muốn viết gì thì viết nhưng ở trong nước không dễ “dỡn mặt
cộng sản” đâu.
Một chuyện tồi tệ là mặc
dù tôi đã nói rõ, vài người vẫn cứ cố tình vu cáo tôi liên quan đến
vụ Mậu Thân ở Huế, nêu ra mập mờ hồ sơ gì đó liên quan đến Ngô Kha,
lại còn thách thức tôi đi đối chất với những nhân chứng trong các vụ
thảm sát.
Một lần nữa, tôi khẳng
định từ trước cho đến năm 1972, tôi không liên quan gì đến cộng sản.
Tôi chấp nhận lời thách thức đi đối chất với bất cứ ai. Nếu ở trong
nước, tôi sẽ tự đi, nếu ở nước ngoài những người đó phải làm sao để
tôi có giấy thông hành vì hiện nay tôi vẫn chưa có (?!) và trả chi
phí vé máy bay, ăn ở vì tôi không có khả năng này.
Tôi cũng thách lại những
người đó những việc dễ hơn có thể làm được là đi điều tra hồ sơ học
tập của tôi ở Đại học sư Phạm và Đại Học Văn khoa Huế từ năm
1963-1967, sự vụ lệnh bổ nhiệm tôi đi dạy học ở Ban Mê Thuột năm
1967, hồ sơ dạy học của tôi ở trường Trung học Ban Mê Thuột từ
1967-1970. Điều tra luôn hồ sơ của Trung tâm Thẩm vấn Thành phố Huế
những tháng cuối năm 1966, đầu năm 1967 lúc tôi bị tù, xem tôi đã
vẫn “thuyết giảng” về việc đấu tranh cho tự do dân chủ và phủ nhận
các cáo buộc có tình nghi liên quan đến cộng sản khi bị thẩm vấn
như thế nào. Nếu có bằng cớ liên quan đến cộng sản, tôi đã đi Côn
Đảo rồi, làm gì có chuyện được trả tự do trở về đi học và tốt nghiệp
đại học, bổ nhiệm đi dạy. Lại còn có thể xác minh qua hàng ngàn
sinh viên đại học Huế, đặc biệt những năm 1966-1967 vì lúc đó tôi
được nhiều người biết đến do là một trong những lãnh đạo của Hội
đồng Sinh viên Liên khoa, qua hàng ngàn học sinh cũ của tôi ở Trung
học Ban Mê Thuột trong các niên khoá 1967-1970, những người trên
hiện giờ không ít người ở nước ngoài.
Tôi phải nêu những chi
tiết cặn kẽ như thế để chứng minh rằng vài người cố ý vu cáo tôi
trong chuyện này hoặc vì “hận thù mù quáng” hoặc vì lý do mờ ám nào
đó. Nếu chống lại sự lừa bịp mà bản thân mình cũng bịp bợm, vu cáo,
“ngậm máu phun người” thì còn chống được ai, thuyết phục được ai.
Nhân đây tôi cũng xin
đính chính một vài sự kiện có tính cách lịch sử của phong trào tranh
đấu năm 1966 ở Huế và miền Trung có liên quan đến tôi.
Tiểu sử của tôi lâu nay
được công bố trên các sách, báo chí và các trang web ở nước ngoài
đầu tiên do chính tôi cung cấp nhưng sau này có ai đó tự ý bổ sung
thêm (như ở nguồn đối-thoại.com mà có bạn đã trích dẫn). Chi tiết
Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách Mạng Huế, Đoàn Sinh Viên
Quyết Tử được ghi chú thêm là những tổ chức do cộng sản lập ra.
Đầu niên khoá 1965-1966,
đáng lý Tổng Hội Sinh Viên, là tổ chức đại diện sinh viên niên khoá
trước phải tổ chức bầu cử lại nhưng đã tự ý lưu nhiệm để lãnh đạo
sinh viên. Lúc đó Ban Đại Diện các phân khoa mới được bầu đã họp
lại, hình thành Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Đại Học Huế, bất tín
nhiệm Tổng Hội Sinh Viên cũ vì bất hợp pháp, hết nhiệm kỳ để giành
lấy quyền lãnh đạo sinh viên. Thành phần của Hội Đồng này gồm chủ
tịch Ban Đại Diện của 5 phân khoa mà tôi là Đại diện ở Sư Phạm, giữ
chức vụ Phó chủ tịch, Nguyễn Hữu Giao ở Luật khoa làm chủ tịch (Nghe
nói Nguyễn Hữu Giao hiện nay là luật sư ở Mỹ?). Năm người này có xu
hướng khác nhau, trong đó tôi gần gũi với Nguyễn Hữu Giao vì lúc đó
tôi và anh có xu hướng độc lập, muốn hoạt động trong khuôn khổ đại
học tự trị, không chịu ảnh hưởng của bên ngoài.
Thực chất “phong trào
tranh đấu Miền Trung năm 1966” do Phật Giáo khởi xướng và lãnh đạo,
vì ban đầu Hội Đồng Sinh Viên không hợp tác chặt chẽ, có những chủ
trương trái với Phật Giáo nên một lần Thượng tọa Trí Quang phải mời
Nguyễn Hữu Giao và tôi gặp riêng tại chùa Từ Đàm để thương thảo. Tên
Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa, sau này thêm Tranh Thủ Cách Mạng là do
khi Lực Lượng Nhân Dân Tranh Thủ Cách Mạng hình thành (Phật Giáo
đứng sau lãnh đạo) và yêu cầu thống nhất tất cả các tổ chức tranh
đấu của các giới (Có thời gian đổi tên Tranh Thủ Cách Mạng thành
Tranh Thủ Dân Chủ).
Đoàn Sinh Viên Quyết Tử
do Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách Mạng lập ra vào giai
đoạn cuối của cuộc tranh đấu để hỗ trợ cho phong trào các tỉnh bạn
và chuẩn bị chống đàn áp. Có ba đoàn ( còn gọi là 3 đại đội),
mỗi đoàn có trên dưới 100 sinh viên. Đoàn 1 được phân công đi Đà
Nẵng, Đoàn 2 đi Quảng Ngãi và Đoàn 3 đi Quảng Tín ( do tôi làm Đoàn
trưởng)
Tên gọi “Quyết Tử” chỉ có
tính cách tượng trưng cho ý chí đấu tranh. Đoàn viên chỉ được huấn
luyện quân sự cấp tốc trong ….2 ngày, gồm tập đi đứng, lăn bò, tháo
ráp vũ khí, tác xạ và vượt đoạn đường chiến binh tại thao trường Văn
Thánh do các sĩ quan VNCH huấn luyện (Trong thời gian này một số đơn
vị quân đội VNCH đã thành lập Quân Đoàn Cách Mạng Trần Hưng Đạo để
hỗ trợ phong trào tranh đấu). Đoàn viên không được trang bị vũ khí
và đồng phục chỉ là chiếc khăn quàng đỏ trên cổ. Trong Đoàn 3 của
tôi ngoài các nam sinh viên còn có một số nữ sinh viên và cả một ít
nữ học sinh Đồng Khánh cũng xin tham gia. Tuy nhiên các nữ đoàn viên
sau này không được đi công tác.
Thực tế nhiệm vụ chính
của các Đoàn Sinh Viên Quyết Tử này là đi làm công tác phát thanh và
tuyên truyền (sở trường của sinh viên) và củng cố tổ chức. Đoàn 3
của tôi ở Quảng Tín gần một tháng, chủ yếu để củng cố phong trào và
giải hòa những bất đồng giữa Quốc Dân Đảng, Đại Việt và Lực Lượng
Tranh Đấu của Phật Giáo ở đây. Trong những buổi làm việc giải hòa
này có mặt tướng Tôn Thất Đính, lúc đó mới được bổ nhiệm làm Tư lệnh
Vùng I chiến thuật thay tướng Nguyễn Chánh Thi.
Do đó nếu ai nói rằng Hội
Đồng Sinh Viên Liên Khoa Tranh Thủ Cách Mạng Đại Học Huế và Đoàn
Sinh Viên Quyết Tử do Cộng sản lập ra hay nói thêm những việc làm gì
ghê gớm của Đoàn Sinh Viên Quyết Tử là không chính xác và hoàn toàn
bịa đặt.
Tôi cũng thừa nhận ở một
số chỗ trong các bài viết của mình tôi viết không hết ý nên có thể
gây hiểu nhầm vì khi trình bày vấn đề chính, nhắc qua các vấn đề
liên quan nhưng không diễn giải đầy đủ. Thí dụ khi tôi viết trong
bút ký "Hành trình mùa xuân" kể lại việc gặp ông HMC:
"Ðảng cầm quyền, lại là
độc quyền lãnh đạo, quyền lực nằm trong tay một người, một nhóm, một
bè phái trong đảng, không những độc tài cai trị nhân dân mà còn gây
chia rẽ và đàn áp lẫn nhau trong đảng. Tất cả đều đi ngược lại lý
tưởng cộng sản cao đẹp nhưng lãng mạn và hoang tưởng.
HMC là nạn nhân của lý tưởng, chủ nghĩa, đảng và bộ máy nhà nước mà
ông đã hết lòng phụng sự. Tuy nhiên ông là người tù bất khuất và tin
tưởng tuyệt đối vào chính nghĩa của mình. Mỗi lần vừa ra tù, ông lại
làm đơn, viết kiến nghị tố cáo những việc sai trái của đảng, nhà
nước hay tập đoàn nắm quyền lực thống trị trong đảng, thế là ông lại
vào tù."
“Lý tưởng cộng sản cao
đẹp” ở đây hàm ý lý tưởng chống bất công áp bức, xây dựng thế giới
đại đồng, mọi người đều là anh em, thực ra cũng là lý tưởng của toàn
nhân loại, có sức hấp dẫn nhiều người, nhất là trí thức sống trong
các nước tư bản giai đoạn có nhiều bất công, bóc lột. Chính một phần
vì lý tưởng này mà cộng sản có thể bành trướng ra một nửa thế giới.
Tuy nhiên việc thi hành chủ nghĩa cộng sản với đấu tranh giai cấp và
chuyên chính vô sản để thực hiện lý tưởng trên lại có kết quả hoàn
toàn trái ngược, mang lại thảm họa cho nhân loại. Ở bài "Về một diễn
đàn dân chủ" tôi cũng nêu sự phân biệt giữa lý tưởng cộng sản, chủ
nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản… nhưng chưa diễn giải.
Về cách dùng từ, duy nhất
một lần tôi dùng từ “các người” để gọi những người chống cộng ở nước
ngoài mà một bạn đọc tinh ý nhận thấy và cho rằng không được "lịch
sự, mô phạm”. Chính tôi cũng cảm nhận như thế khi viết nhưng chưa
kịp sửa chữa.
Để giữ cho môi trường của
diễn đàn trong sáng tôi cũng phải tự kềm chế, không để bị lôi cuốn
theo những giọng điệu và lời lẽ thiếu văn hóa.
Để đáp lại sự trân trọng
của một số bạn đọc, tôi không ngại “bộc bạch” những điều riêng tư
nhất, như chuyện tôi có cảm tình với mấy du kích cộng sản gặp trong
tù vì sự kiên cường của họ. Điều này lại bị một số bạn hiểu sai
đi, cho rằng tôi là sinh viên mà “ ngu” bị những thằng du kích vô
học thuyết phục. Có phải dù ngay đối với kẻ thù nếu họ kiên cường ta
cũng cúi đầu khâm phục?
Tôi nghĩ rằng người viết
viết bằng cái tâm, người đọc cũng phải đọc bằng cái tâm, nếu không
sẽ chỉ đưa đến ngộ nhận hay hoài nghi, xa cách.
2) Những tranh luận về quan điểm và vấn
đề sám hối.
Tôi không ngại tranh luận
về quan điểm dù biết rằng tranh cãi về chính trị đôi khi là điều khá
nguy hiểm nếu không biết tôn trọng lẫn nhau. Ngay trong một nhà,
giữa cha con, anh em ruột nhưng khác nhau về quan điểm chính trị
cũng có thể dẫn đến xung đột và phân ly.
Ở đây tôi cũng muốn “bật
mí” một điều để thấy rằng tôi không có gì bí mật và không hề ngại
chuyện va chạm về quan điểm.
Bảo Trâm, tác gỉa bài
viết “Vài ý kiến về tập truyện “Trên cả hận thù” của Tiêu Dao Bảo
Cự” là một người anh em họ hàng của tôi. Chính tôi đã giới thiệu cho
anh tác phẩm đó và đề nghị anh góp ý dù tôi biết quan điểm của anh
và tôi có nhiều chỗ khác nhau.
Sau khi viết bài trên
xong anh gởi bản thảo cho tôi và nói chỉ gởi cho tôi đọc thôi, không
công bố vì anh và vợ anh sợ rằng nếu công bố tôi sẽ bị thương tổn và
có thể làm sứt mẻ tình anh em. Tôi trả lời ngay là anh cứ công bố,
đừng ngại gì cả, tôi không hề bị “sốc” và nghĩ không tốt về anh. Tư
tưởng là tự do. Dân chủ phải có tranh luận. Tôi sẵn sàng tranh luận
với anh hay với bất cứ ai mà vẫn giữ hòa khí nếu thành thật và tôn
trọng lẫn nhau.
Trong thời gian bị quản
chế trước đây, tôi đã hai lần phải đối đầu với các cụôc “ xa luân
chiến” của hàng chục cán bộ trung cao cộng sản trong những cuộc “đấu
tố” gọi là góp ý cho tôi do địa phương tổ chức. Nội dung và không
khí những cuộc tranh luận đó không khác là mấy với các ý kiến trên
DCV online về các bài viết vừa qua của tôi.
Thực ra những vấn đề gai
góc về quan điểm trên diễn đàn này không phải do tôi cố tình nêu ra.
Trong bút ký “Hành trình mùa xuân”, khi đi qua những nơi có nhiều kỷ
niệm thời trẻ, tôi đã nhắc lại thời sinh viên tranh đấu. (Trừ một số
ít người có tuổi trẻ bất hạnh, hầu như ai cũng nhớ về tuổi thanh
xuân của mình như một thời kỳ đẹp nhất của đời người, dù đôi khi chỉ
là những kỷ niệm chọc gái, phá làng phá xóm hay yêu đương lăng
nhăng). Một số nơi khác có chứng tích về chiến tranh, tôi cũng có
đôi dòng cảm xúc. Dĩ nhiên đây không phải là chủ đề chính của bút
ký.
Tuy nhiên nhiều bạn đọc
đã nhân chuyện đó đào sâu về vấn đề quan điểm, nhắm vào quá khứ của
cá nhân tôi để phân tích, mổ xẻ, phê phán. Do đó để trả lời chung,
tôi đã khái quát lại thành một số vấn đề, đặc biệt vấn đề ai có lỗi
đã đưa đến tình hình Việt Nam hiện nay, nêu ra trong bài “ Về một
diễn đàn dân chủ”. Từ đây việc tranh luận lại căng thẳng thêm do
động chạm đến vấn đề “chính nghĩa của chế độ VNCH và tội ác của cộng
sản và những người theo cộng sản trong cuộc chiến tranh” được đặt ra
từ những người gọi là quốc gia thuộc chế độ VNCH.
Ở đây, một lần nữa tôi
nêu lại vấn đề nhưng theo một cách tiếp cận khác, khía cạnh sám hối,
là chủ điểm nhiều bạn đọc hay nhắc đến. Cách trình bày của tôi là
đặt vấn đề và nêu câu hỏi, đối với 3 thành phần chính của dân tộc
trong cuộc chiến vừa qua.
- Đối với những người cộng sản:
Phải thừa nhận những
người cộng sản VN đầu tiên là những người yêu nước, có lý tưởng cao
đẹp và đã chịu bao nhiêu tổn thất, mất mát, hi sinh khi theo đuổi lý
tưởng của mình, nhất là trong giai đoạn chống thực dân Pháp để giành
độc lập, những người cộng sản đã đồng hành cùng dân tộc.
Tuy nhiên sau khi giành
được chính quyền, thực hiện chuyên chính vô sản và đấu tranh giai
cấp, cùng với việc chịu sự chi phối mạnh mẽ của các nước cộng sản
đàn anh, những người cộng sản VN đã mang lại nhiều thảm họa cho nhân
dân. Chính sách cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, vụ
Nhân văn - Giai phẩm đối với văn nghệ sĩ trí thức, vụ "Xét lại chống
đảng" là những vụ việc điển hình. Song song là xây dựng một xã hội
xã hội chủ nghĩa thực chất là xã hội trại lính trong đó người dân bị
tước đoạt nhiều quyền tự do và hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền.
Cán bộ đảng viên đã trở thành giai cấp mới hưởng đặc quyền đặc lợi
sống sung sướng trên sự nghèo khổ của nhân dân.
Điều gây ra tai họa lớn
nhất là quyết định tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam
thay vì thống nhất đất nước bằng một giải pháp khác như nhiều quốc
gia cùng hoàn cảnh đã lựa chọn.
Cuộc chiến này dù được
gọi bằng tên gì, biện minh cách nào cũng vẫn là một cuộc chiến thảm
khốc gây tàn phá đau thương nhất trong lịch sử.Chưa khi nào bom đạn
nước ngoài lại được dùng để tàn sát nhân dân Việt Nam nhiều đến thế
dù được dùng bởi bàn tay của người lính Việt Nam hay của lính ngoại
quốc. Chiến thắng thuộc về người cộng sản (thực chất chỉ là một số
ít lãnh đạo cao cấp) còn chiến bại thuộc về toàn thể nhân dân.
Sau khi thống nhất đất
nước, thay vì thực hiện một chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc thực
sự lại tiến hành ở Miền Nam những chính sách gây đổ vỡ, phân ly, thù
hận.
Cải tạo nông nghiệp làm
sản xuất đình trệ, đưa nhân dân đến chỗ thiếu ăn, đói kém. Cải tạo
công thương nghiệp làm cho cơ sở và năng lực sản xuất, kinh doanh
công thương nghiệp tan nát. Cải tạo đối với binh lính, công chức
thuộc chế độ VNCH và sự kỳ thị, phân biệt đối xử về lý lịch đã làm
cho hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, gây ra một thảm họa thuyền
nhân chưa từng có trong lịch sử và thù hận kéo dài thêm và sâu đậm
hơn thay vì chấm dứt cùng cuộc chiến. Những điều này mới đây chính
nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã từng nói đến.
Chủ trương đổi mới và mở
cửa thực chất là Đảng tự cứu và cởi trói cho nhân dân nhưng cũng đã
giúp đất nước thoát khỏi tình hình kiệt quệ sau hơn 10 năm thống
nhất.
Tuy nhiên công cuộc đổi
mới chỉ được thực hiện chậm chạp, nửa vời, đổi mới về kinh tế nhưng
không đổi mới về chính trị cốt để giữ vững độc quyền lãnh đạo của
đảng. Chế độ độc tài toàn trị cùng với nền kinh tế thị trường man dã
đã đưa cán bộ, đảng viên thành giai cấp thống trị tư bản đỏ, đời
sống nhân dân có khá lên nhưng chênh lệch giàu nghèo và bất công áp
bức càng phát triển. Nạn tham nhũng là một quốc nạn không sao giải
quyết được mà càng ngày càng nặng nề hơn. Các tệ nạn xã hội ngày
càng phát triển, văn hóa đạo đức suy đồi, những gía trị tinh thần
xuống cấp là tai họa lâu dài cho đất nước.
Nguy cơ “tụt hậu” không
phải chỉ trước mắt mà còn lâu dài, trong khi tiềm năng, trí tuệ của
đất nước và nhân dân đâu thua kém gì nhiều quốc gia khác.
Mục đích giải phóng Miền
Nam là để thống nhất đất nước, xây dựng tổ quốc “đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn” nhưng thực tế xã hội hiện nay nhiều mặt không những không
hơn mà còn kém xa xã hội miền Nam trước khi “giải phóng”, nhất là về
mặt thực hiện các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Thế thì công
cuộc giải phóng có ý nghĩa gì, có xứng đáng với sự hy sinh, đau khổ
của toàn dân tộc?
Vậy thì những người cộng
sản có nên phản tỉnh, tự vấn và sám hối để sửa chữa những sai lầm?
Đảng có nên kiên quyết
giữ độc quyền lãnh đạo nữa không hay nên trưng cầu dân ý, tổ chức
bầu cử tự do để nhân dân lựa chọn lấy người thực sự có tài năng và
trí tuệ lên lãnh đạo đất nước. Điều này có gì sai trái, phi lý, phản
cách mạng? Không thực hiện điều này chỉ chứng tỏ rằng Đảng tham
quyền cố vị, vì lợi ích của thiểu số chứ không vì lợi ích của nhân
dân và điều đó hoàn toàn trái với mục đích lý tưởng của Đảng thuở
ban đầu.
- Đối với những người quốc gia
Những người “quốc gia” là
ai? Từ “quốc gia” này đôi khi phải để trong ngoặc kép hay phải được
minh định vì tự nó không được xác định rõ ràng. Ai cũng có thể tự
cho mình là “quốc gia” cả. Cộng sản cũng có thể tự cho là quốc gia
vì họ luôn tự đồng hóa với dân tộc, với nhân dân, với đất nước, sao
lại không thể là quốc gia.
Thông thường khi nói
“những người quốc gia”, người ta hiểu đó là những người không theo
cộng sản, chống cộng sản, có xu hướng ngả về chế độ dân chủ tự do
của các nước phương tây. Những người quốc gia bắt đầu được kể đến từ
những đảng phái không cộng sản, đấu tranh giành độc lập những năm
đầu thế kỷ 20 như Quốc Dân Đảng, Đại Việt…. Sau này là những người
ủng hộ chế độ và các chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ 1954-1975.
Ngoại trừ một số tay sai
ngoại bang, bán nước, đa số những người quốc gia là những người yêu
nước, yêu dân chủ tự do. Lịch sử Việt Nam cho thấy trong suốt thế kỷ
qua, người quốc gia luôn thất bại trước người cộng sản trong việc
tranh giành quyền lực lãnh đạo đất nước.
Năm 1946 Chính Phủ Liên
Hiệp Kháng Chiến có các thành phần đảng phái nhưng sau đó các đảng
quốc gia đều bị gạt ra ngoài và bị tiêu diệt phần lớn sinh lực.
Từ 1954 ở Miền Nam chính
quyền Ngô Đình Diệm được hình thành với sự ủng hộ của người Mỹ, gạt
Bảo Đại ra khỏi chính trường bằng cuộc trưng cầu dân ý “Phiếu xanh
bỏ giỏ, phiếu đỏ bỏ bì”. Chính quyền Ngô Đình Diệm tồn tại được 9
năm, càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị, đàn áp Phật Giáo,
không được người Mỹ ủng hộ nữa nên đã bị các tướng lãnh đảo chánh
lật đổ.
Sau 1975, chính trường
Miền Nam triền miên rối loạn, các chính phủ quân phiệt hay dân sự
đều không được lòng dân, tranh chấp nhau và tự phong quyền lãnh đạo,
hay thông qua bầu cử phi dân chủ theo kiểu “ độc diễn” của Nguyễn
văn Thiệu. Cuối cùng chính quyền chỉ có mấy ngày của Dương Văn Minh
tuyên bố đầu hàng những người cộng sản vào 30/4/1975.
Ở đây có vấn đề rất khó
lý giải đối với những người quốc gia. Chế độ VNCH là chế độ có tự do
dân chủ hơn chế độ xã hội chủ nghĩa của miền Bắc nhưng các chính
quyền hầu hết đều là những chính quyền thối nát, không được đa số
dân ủng hộ và không có đủ sức mạnh để đối đầu với những người cộng
sản.
Trong cuộc chiến tranh,
Miền Bắc có sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa, Miền Nam cũng có Mỹ và các quốc gia đồng minh hùng hậu nào
kém gì. Hai miền đều nhận sự chi viện về tài chánh và quân sự tương
đương. Miền Nam còn có thêm nửa triệu lính Mỹ. Thế tại sao Miền Nam
thất bại?
Trong suốt cả cuộc đấu
tranh quốc cộng, phải chăng những người quốc gia kém hơn về tài
tuyên truyền, vận động, tổ chức, nghệ thuật chiến đấu… hay tại những
người cộng sản xảo quyệt, tàn ác hơn? Sự có mặt của quân đội viễn
chinh Mỹ đã làm cho cuộc "chiến tranh giải phóng" của Miền Bắc có
chính nghĩa? Hay vì Mỹ bỏ rơi đồng minh VN? Tại sao Mỹ mà không phải
Liên Xô, Trung Cộng bỏ rơi đồng minh?
Thất bại là đau đớn, đau
thương không chỉ cho những người quốc gia mà cho cả miền Nam, cho
toàn dân tộc. Vậy thì dù lịch sử đã sang trang nhưng câu hỏi trên
vẫn cần phải được nghiền ngẫm một cách nghiêm túc chứ không phải chỉ
có hận thù. Thất bại có phải là một lỗi lầm cần sám hối vì tương lai
vẫn là một cuộc đấu tranh tiếp diễn, trong một hoàn cảnh còn khó
khăn hơn?
- Đối với thành phần thứ ba,
thiên tả, thân cộng, không ủng hộ các chính quyền Miền Nam.
Đây là một thành phần
phức tạp, không hể dùng một từ nào để chỉ chung. Không phải chỉ có
những người trong Mặt trận Giải phóng ( không kể những đảng viên
cộng sản) hay "sinh viên học sinh tranh đấu" mới chống lại các chính
quyền Miền Nam. Tín đồ Phật giáo và nhiều tầng lớp nhân dân, các
đảng phái quốc gia chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm, nhiều tầng
lớp nhân dân cũng chống lại các chính quyền sau Ngô Đình Diệm. Giáo
dân công giáo ủng hộ linh mục Trần Hữu Thanh, ký gỉa xuống đường “
đi ăn mày” chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu…
Tất cả những người này có
“đâm sau lưng chiến sĩ" không? Chiến sĩ VNCH cũng là con em, thân
nhân, bạn bè của họ chứ không ai khác.
Vấn đề của thành phần này
cũng khó lý giải như vấn đề của những người quốc gia, những chiến sĩ
VNCH nhưng ở một khía cạnh ngược lại. Chiến sĩ VNCH chiến đấu chống
cộng sản để tự vệ, để bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ nhưng lại mặc
nhiên củng cố các chính quyền thối nát. Những người chống lại các
chính quyền thối nát cũng là để bảo vệ tự do dân chủ nhưng lại làm
suy yếu các chính quyền này, làm cho Miền Nam không đủ sức mạnh để
chống lại cộng sản. Cùng với nhiều lý do khác, điều này đã góp phần
đưa đến sự thảm bại của Miền Nam. Đó cũng là một sai lầm cần sám
hối. Về sau này, sự phản bội lại lý tưởng của những người cộng sản
và tình hình đất nưóc tồi tệ sau 1975 lại càng làm cho những người
thuộc thành phần thứ ba, thân cộng còn giữ được lý tưởng thêm bẽ
bàng.
Vậy ai cần sám hối?
Khi đất nước rơi vào tình
trạng như hiện nay, cả dân tộc phải khuất phục trước guồng máy độc
tài toàn trị, trước tiên những người lãnh đạo cộng sản và các chính
quyền quốc gia cần phải sám hối vì họ đóng vai trò chính trong những
biến động của lịch sử. Nhưng những đảng viên cộng sản, các bộ đội
giải phóng Miền Nam, các chiến sĩ VNCH, những người tranh đấu chống
các chính quyền Miền Nam và ngay cả những người không làm gì cả cũng
cần phải sám hối. Đó là sám hối của toàn dân tộc. Vì mỗi người hoặc
bị bắt buộc, hoặc có lựa chọn đúng theo nhận thức và hoàn cảnh của
mình để hành động hay không hành động gì cả nhưng kết thúc của lịch
sử lại là một sai lầm. Tất cả đều là nạn nhân của lịch sử.
Về cá nhân, tôi cũng đã
từng phản tỉnh và sám hối.
Tôi đã viết hẳn một cuốn
sách gần như tự truyện để phản tỉnh và nhận thức lại. (Cuốn “Nửa đời
nhìn lại”, NXB Thế Kỷ, 1994. Văn Nghệ tái bản 1997). Tôi cũng viết
một bài khá dài về chủ đề sám hối (Bài “ Đọc thơ Đông Trình, suy
nghĩ về chính trị, văn nghệ và sám hối” năm 1993, có đăng trên vài
tạp chí ở nước ngoài).
Nhưng tôi cho rằng sám
hối chỉ là khởi đầu với sự ăn năn và thức tỉnh. Chỉ sám hối chưa đủ.
Tiếp theo phải là hành động để sửa chữa sai lầm. Và đây mới là điều
quan trọng cho tương lai. Hành động không nhất thiết là phải đấu
tranh mà có thể bằng nhiều hình thức, trước hết là hòa giải.
Tôi nêu lại những vấn đề
trên đây không phải để tranh luận hay mong được tranh luận nữa. Vì
những vấn đề đó quá gai góc, dù đã 30 năm trôi qua nhưng những chấn
thương vẫn chưa lành và thù hận vẫn chưa nguôi. Nếu vẫn còn thành
kiến, tự ái, bảo vệ lẽ phải cho mình, không lắng lòng, lắng nghe và
tỉnh thức, cuộc tranh luận sẽ không bao giờ kết thúc cho dù kéo dài
đến thế kỷ sau như có bạn đọc đã nhận xét.
Dĩ nhiên chúng ta vẫn có
thể tiếp tục trao đổi, tranh luận nếu thấy có ích, ngược lại nếu chỉ
đưa đến phân ly và thù hận, phải chăng chúng ta nên tạm gác lại quá
khứ, dành cho những thế hệ mai sau phán xét, để cùng nhau hướng về
tương lai.
Tương lai của một đất
nước thống nhất, hòa bình, không hận thù, tự do dân chủ và phồn vinh
bắt đầu từ một hiện tại vô cùng gian khó. Có vô số việc phải làm
nhưng trước hết phải là hòa giải hòa hợp để đấu tranh chống lại
guồng máy độc tài toàn trị hiện nay đang là lực cản cho những ước mơ
chung của mọi người Việt Nam yêu nước.
3)
Hòa giải hòa hợp để chống lại guồng máy độc tài toàn trị.
Khó khăn xuất hiện ngay
khi vấn đề hòa giải hòa hợp được đặt ra. Hòa giải hòa hợp với ai,
như thế nào, bằng cách nào? Có thể hòa giải hòa hợp với những người
cộng sản không?
Dĩ nhiên chỉ hòa giải khi
có bất đồng. Giữa những người quốc gia, chống cộng ở nước ngoài có
bất đồng. Giữa những người đấu tranh cho dân chủ ở trong nước có bất
đồng. Giữa hai thành phần trên ở trong và ngoài nước có bất đồng.
Giữa hai thành phần đó và những người cộng sản lại càng có nhiều bất
đồng. Xem ra hòa giải là điều không dễ dàng chút nào.
Thoạt nhìn tưởng như
những người Việt ở nước ngoài dễ hoà giải với nhau nhất vì có đủ mọi
điều kiện khách quan: tự do đi lại, gặp gỡ, trao đổi, tranh luận,
lập hội, lập đảng.
Thế mà đã 30 năm trôi
qua, sự mâu thuẫn, xung đột giữa họ vẫn triền miên, không có sự đồng
thuận, không có tiếng nói chung, không có tổ chức thống nhất, nghĩa
là không có sức mạnh để đối đầu với kẻ thù cũ.
Những người dân chủ ở
trong nước gặp nhiều khó khăn hơn gấp trăm lần vì sống dưới chế độ
độc tài toàn trị. Họ bị cô lập và khống chế chặt chẽ nên những người
ra công khai có số lượng quá ít ỏi và tất cả đều bị đàn áp dưới
nhiều hình thức.
Giữa những người dân chủ
trong và ngoài nước có thêm một tầng cách bức, lại còn dè dặt, nghi
ngờ lẫn nhau. Bên ngoài là chống cộng cực đoan, chịu sự chi phối của
nước ngoài, chính trị hoạt đầu…? Bên trong là khổ nhục kế của cộng
sản, đối lập cuội, bất mãn cá nhân….?
Đối với những người cộng
sản lại càng khó tin hơn vì cộng sản muôn đời vẫn là cộng sản, vẫn
muốn đấu tranh giai cấp, độc tài toàn trị…?
Dĩ nhiên trong cuộc đấu
tranh chính trị không thể cả tin, dẫn đến sai lầm nhưng nếu cứ mãi
nghi ngờ, cách bức không thể vượt qua được những rào cản để tiến đến
hoà giải, sau đó là hòa hợp, đoàn kết thống nhất tạo nên sức mạnh,
điều chắc chắn là những người dân chủ sẽ thất bại trước guồng máy
độc tài toàn trị.
Chuyện ở nước ngoài tôi
không biết nhiều nhưng ở trong nước có mấy vấn đề tôi thấy cần phải
làm rõ.
Một số ý kiến ở nước
ngoài cho rằng tất cả những người cộng sản phản tỉnh như Trần Độ,
Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Bùi Tín…đều là những kẻ bất mãn do
“không được ăn”, mất quyền lợi, do tranh chấp phe phái nên mới quay
ra chống Đảng. Nói rộng ra theo quan niệm đó, trên đại thể hình như
con người chỉ được phân chia làm hai loại “ được ăn và không được
ăn”.
Tôi nghĩ những người cộng
sản phản tỉnh trên, nếu “được ăn” thì họ cũng đã được nhiều và phần
lớn ở họ, những người đã 7 - 80 tuổi, họ cũng không cần thêm gì
nhiều. Nếu có chỉ là sự thức tỉnh, dằn vặt của lương tâm trước hiện
thực đi ngược lại ước mơ hoài bảo và quá trình đấu tranh một đời của
họ nên họ không thể im lặng dù đã đi đến giai đoạn cuối của cuộc
đời.
Ở xã hội nào cũng có
những người không thuộc vào một trong hai phân loại trên và đối với
những người này, giá trị tinh thần cao hơn mọi của cải và tiện nghi
vật chất.
Có ý kiến còn nói đến
loại người "lơ lửng con cá vàng” giữa hai chế độ để mong cầu một
điều gì đó là không hiểu thực chất của vấn đề hay chỉ là một nhận
xét vớ vẩn. Trong cuộc đối đầu không khoan nhượng hiện nay không ai
“lơ lửng” được kiểu đó và lơ lửng cũng chẳng được gì. Đó chính là “
đi giữa hai lằn đạn” và không ít người chấp nhận vị trí nguy hiểm
này, trong đó có tôi. Tôi là người phản kháng, chống cái xấu, cái ác
bất cứ từ đâu tới, bất cứ lúc nào và muốn công bằng trong mọi
chuyện. Tôi chỉ muốn sống trung thực dù trung thực đối với ai đó,
đôi khi cũng là một trọng tội.
Những đảng viên cộng sản
và những người trong guồng máy của chế độ hiện nay có hoàn toàn xấu
không? Tôi tin là trong họ có nhiều người tốt.
Nhiều đảng viên cộng sản,
nhất là những người về hưu, đảng viên thường không bị chức quyền chi
phối và kể cả những đảng viên có chức quyền ở mọi cấp, nhiều người
vẫn băn khoăn thao thức trước tình hình và những biểu hiện xấu trong
Đảng.
Nhiều trí thức, chuyên
viên có trình độ, có tầm nhìn, có điều kiện nghiên cứu thấy rất rõ
những sai lầm của Đảng và hướng đi cần thiết cho xã hội.
Nhiều văn nghệ sĩ đã
từng sống nhiều năm trong lòng chế độ hay những người trẻ nhạy cảm
đều thấy cay đắng, phẫn uất trước sự gỉa dối và kềm kẹp, trói buộc
tư tưởng của guồng máy độc quyền chân lý.
Nhiều nhà báo dũng cảm đã
vạch ra, tố cáo những hành vi xấu xa của các quan chức trên mọi lãnh
vực (dù chỉ trong một giới hạn nhất định) hay mô tả nếp sống khốn
nạn, nhục nhằn của một bộ phận nhân dân nghèo khổ, dưới đáy xã hội…
Tất cả họ đều có thể trở
thành những người đòi hỏi dân chủ tích cực khi họ thoát khỏi sự chi
phối vừa tinh vi vừa nặng nề, đe dọa của guồng máy.
Nếu những người đấu tranh
cho dân chủ hiện nay có thể hòa giải với nhau, hoà giải với những
thành phần trên, liên kết lại thành một tập thể, hi vọng sự đoàn kết
đó mới có thể đủ sức mạnh chống lại guồng máy độc tài toàn trị.
Guồng máy độc tài toàn
trị này bao gồm những người cộng sản đã ở địa vị thống trị trong
nhiều chục năm, đã trở thành những kẻ độc đoán, độc quyền chân lý,
trở thành những tư bản đỏ và những kẻ hưởng lợi nhiều nhất từ địa
vị của mình. Họ là những người không bao giờ chịu tự nguyện rời bỏ
quyền lực. Họ không bao giờ thực tâm hòa giải. Họ nói đến hòa giải
nhưng chỉ hòa giải trên thế mạnh nghĩa là buộc người khác phải tuân
theo họ khi họ còn đầy đủ quyền lực.
Những người dân chủ, nhất
là những người đã kinh qua một hay hai cuộc chiến tranh, dù xuất
thân từ bất cứ thành phần nào, nếu không tìm được đủ sức mạnh cần
thiết, chắc chắn cho đến hết đời vẫn chỉ là những người thất bại
trước guồng máy độc tài toàn trị hiện nay.
Còn nhân dân, tiếp nối
đời này sang đời khác, là một thực thể trường tồn có sức mạnh vô
địch. Không có chế độ độc tài chuyên chế nào có thể bền vững muôn
năm. Nhân dân sẽ có tự do dân chủ nhưng tùy theo mức độ phản kháng
của mình, nhân dân sẽ còn đau khổ nhiều hay ít trong quá trình đòi
hỏi quyền làm người của mình.
* Lời kết.
Tôi viết về hòa giải
nhưng tự trong thâm tâm tôi biết kết quả hòa giải nằm ngoài tầm
tay của mình. Khi tác phẩm “Nửa đời nhìn lại” của tôi được xuất bản,
nhiều nhà văn ở nước ngoài đã nói tiếng nói hòa giải với tôi như với
một người đã từng ở phía đối nghịch, một người “đi giữa hai lằn
đạn”. Sự chia sẻ sâu xa của Đặng Tiến, Lê Đình Điểu, Thụy Khuê,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, TâmViệt, Hoàng Khởi Phong, Hoài Văn, Trương
Anh Thụy, Đỗ Mạnh tri, Phù Du, Phạm Ngọc Lân….đã làm tôi ấm lòng (
Phạm Ngọc Lân ghi nhận và tổng kết trong phần phụ lục “Nửa đời nhìn
lại” lần tái bản 1997)
Tuy nhiên sự mâu thuẫn,
xung đột giữa những thành phần người Việt sau 30 năm chiến tranh vẫn
còn quá lớn. Nói rộng hơn, trên phạm vi nhân loại, tiếng nói và tấm
lòng hòa giải yếu ớt hơn tiếng gào thét của hận thù trên hầu khắp
các lục địa, ở Trung Đông, ở Châu phi, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu với
nhiều quy mô và cấp độ khác nhau.
Cho nên tôi lấy tựa đề
“Trên cả hận thù” cho tập truyện của mình chỉ là thể hiện một ước
mơ. Câu chuyện thật nguyên mẫu của truyện vừa “Trên cả hận thù” chỉ
là chuyện hiếp dâm của một thanh niên lai Mỹ đen với một cô bé 16
tuổi. Tôi đã hư cấu, đưa tình yêu vào để hóa giải những hận thù sau
chiến tranh và một kết thúc có hậu bằng đám cưới 5 năm sau khi chàng
thanh niên lai đen đi Mỹ trở về. Nhưng tôi biết rõ rằng đó chỉ là
mộng tưởng nên tôi phải thêm một kết thúc buồn khác bằng hình ảnh u
sầu của người cha tuyệt vọng với giấc mơ phi thực bên cạnh đứa con
gái đã mắc bệnh tâm thần. Dù sao người cha đó và tôi, và tất cả
chúng ta vẫn có quyền ước mơ khi chúng ta còn sống.
Tôi không phải là người
làm chính trị chuyên nghiệp. Tôi không cần đánh bóng uy tín chính
trị của mình cho tham vọng quyền lực hay điều gì khác. Tôi chỉ là
người cầm bút phản kháng.
Tôi viết về chính trị và
đã từng tham gia vào một số hành động chính trị trong đời mình
nhưng thực tâm tôi không hoàn toàn tin tưởng vào hiệu quả của chính
trị đơn thuần trong việc mang lại hạnh phúc cho con người. Bao nhiêu
cuộc cách mạng đã gào thét trên hành tinh này. Bao nhiêu giải pháp
chính trị, đường lối, chính sách đã được thực thi tự cổ chí kim, từ
đông sang tây nhưng rút cục cho đến hôm nay, số đông nhân loại vẫn
còn đầm mình trong biển khổ.
Phải chăng trong chính
trị còn thiếu một chữ “Tâm” của con người. Những người làm chính trị
thừa thủ đoạn mà thiếu một chữ “Tâm” nhân bản, một tấm lòng yêu
thương chân thực với từng phận người cụ thể chỉ hô hào “ vì hạnh
phúc của nhân dân” nghe rất kêu nhưng bên trong là tiếng súng gươm
loảng xoảng và những thủ đoạn tàn bạo đê hèn.
Tôi đã từng thiền trong
10 năm với hai câu “mantra” bằngtiếng Sanskrit có nghĩa “Mọi vật đều
là biểu hiện của ĐấngTối Cao” và “Tôi là một với Đấng Tối Cao” để mở
rộng lòng yêu thương và trở về cội nguồn nguyên thủy của mình, như
giọt nước trong con suối nhỏ trở về biển cả.
Tôi có chút kinh nghiệm
về tâm linh, có thể giải quyết phần nào những vấn nạn cá nhân nhưng
chưa thấy rõ giải pháp hiệu quả cho dân tộc và nhân loại. Tôi vẫn ở
trên đường tìm kiếm và tôi tin trên thế gian này không ít những
người bạn đồng hành.
Sài Gòn 30-10-2005
TDBC