Đối Thoại:
Đối Thoại
kính giới thiệu đến độc giả đề nghị của nhà văn Tiêu Dao Bảo
Cự từ thành phố sương mù ĐàLạt.
Do tấm lòng
thiết tha với vận mệnh đất nước, Ông đã trải cuộc đời với
nổi trôi của mệnh nước. Cũng vì tấm lòng Ông đã trở thành
công dân hạng hai trên chính quê hương mình. Không nản lòng
với thực tế , Ông vẫn mong ước một Việt Nam vinh quang như
sự đồng thuận của dân tộc.Và cũng từ tấm lòng này , Ông đưa
ra đề nghị “Một cuộc đại
hội thảo và những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do. Tại sao không”
Hành trình
quá khứ của mỗi chúng ta khác biệt, nhiều khi đối nghịch
nhau, cho nên cái nhìn từng vấn đề không tránh khỏi sự khác
biệt, cũng như cái nhìn của Ông Tiêu Dao Bảo Cự có những sự
khác biệt với người đọc là điều có thể cảm nhận được. Một
thế hệ có nhiều trách nhiệm với lịch sử sắp qua, thế hệ tiếp
nối đã lên đường. Chúng ta hãy nhìn về một tương lai rạng rỡ
của dân tộc như một mơ ước của thế hệ sắp qua, như nhiệm vụ
của thế hệ đang lên đường.
Một sự thực
dù quá khứ nào của mỗi cá nhân cũng phải nhớ. Con đường Sài
Gòn Hà Nội đi và về đã được nối bằng máu xương Việt Nam chứ
không bằng máu xương của thực dân hay “đế quốc” !
|
Bằng nhiều cách, các nhà nước liên quan đến cuộc chiến Việt Nam
trước đây đã cố gắng quên đi hoặc vượt qua cuộc chiến này để hướng
tới tương lai. Mỹ và Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao
hơn 10 năm nay. Việt Nam đã đón tiếp hai Tổng thống Mỹ Clinton và
Bush. Hai năm trước, Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải và bây giờ là
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi thăm Mỹ. Trung Quốc từ khi “môi
hở răng lạnh” và “dạy cho Việt Nam một bài học” không lấy gì làm hay
ho bằng cuộc chiến biên giới năm 1979 cũng đã xây dựng lại tình
“láng giềng hữu nghị”. Các nước đồng minh khác của Mỹ trước đây đều
đã có quan hệ ngoại giao và kinh tế với Việt Nam. Cho dù bên dưới
những điều này là toan tính hay âm mưu thủ đoạn gì ở một số đối
tượng nhưng trên bề mặt rõ ràng là một hiện tượng đáng mừng vì các
quốc gia cựu thù đã xoá bỏ được các ngăn cách, định kiến và mặc cảm
của quá khứ chiến tranh để cùng sống chung trong một thế giới hội
nhập và hướng tới hoà bình. Nếu không có gì đột biến và mối quan hệ
này trở nên tốt đẹp, bền vững, không thể đảo ngược thì đó chính là
hạnh phúc cho Việt Nam và các nước đã có thời là kẻ thù.
Về phương diện cá nhân, sự chuyển biến nhanh hơn vì không bị ràng
buộc bởi đường lối chính sách của các nhà nước và với sự thúc đẩy
nội tâm của lương tri và những giá trị đạo đức vĩnh cửu, không biên
giới, những cựu binh Mỹ và các nước đồng minh đã đến Việt Nam để sám
hối bên những nấm mồ của người dân Việt Nam bị thảm sát ở Mỹ Lai hay
trên những chiến trường xưa. Đồng thời họ cũng đã cố gắng làm các
việc cụ thể để mong góp phần chữa lành những vết thương và tai hoạ
do cuộc chiến - họ đã dự phần - để lại rất lâu dài trong lòng đất
nước này.
Thế nhưng rất nhiều người Việt Nam đã không làm được như vậy. Hầu
như chưa thấy người lính Việt Nam nào, ở cả hai bên chiến tuyến
trước đây, nói lời tạ lỗi hay thắp một nén nhang cho những người -
những anh em đồng bào - mình đã bắn giết trong cuộc chiến. Cuộc
chiến mà nói gì thì nói, nhân danh bất cứ điều gì, đó là một cuộc
chiến có mang tính nội chiến, huynh đệ tương tàn. (Cũng có thể có
những người đã nghĩ hay đã làm trong im lặng, vì một hoàn cảnh kỳ lạ
đau đớn của đất nước Việt Nam là dù bất cứ ở đâu, ngay cả ở nước
ngoài, người ta cũng không có tự do để làm điều này.)
Ngược lại, một cuộc chiến mới lại mở rộng giữa người Việt và người
Việt. Đây là cuộc chiến ngôn từ và tư tưởng. Dĩ nhiên ngôn từ chuyên
chở nội dung tư tưởng và ở đây, trong bài viết này, tôi chỉ đề cập
khía cạnh này. Cuộc chiến này tiếp nối cuộc chiến cũ, vẫn còn mang
tính ý thức hệ, cộng thêm những hận thù do cuộc chiến quá khứ để lại
và nhất là những đau thương uất hận vẫn diễn ra từ sau khi chiến
tranh chấm dứt do chính sách sai lầm của nhà cầm quyền và sự độc
quyền chân lý, độc quyền thống trị của người chiến thắng. Nhà nước
cộng sản không bao giờ ngưng cảnh giác và tấn công trước những tư
tưởng gọi là “thù địch và diễn biến hoà bình”. Người chống cộng thề
không đợi trời chung với người cộng sản và những người chống cộng
cũng đả kích nhau không thương tiếc khi người khác không chống giống
mình. “Thành phần thứ ba” vẫn bị những người chống cộng lên án, gọi
đích danh là “đâm sau lưng chiến sĩ” và người cộng sản hoài nghi,
trù dập khi họ tiếp tục sự phản kháng trước cái xấu mới đang thay
thế cái xấu cũ mà họ đã góp phần đạp đổ.
Không phải tất cả mọi người Việt Nam, vì bao giờ cũng có đám đông
thầm lặng có suy nghĩ khác, nhưng những thành phần tham dự cuộc
chiến này là những người ồn ào nhất và làm chủ, khuấy động dư luận
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Từ khi có Internet, nhiều
trang web được mở ra và bất cứ ai có điều kiện tối thiểu để tham gia
không gian ảo này, đều có thể phát biểu ý kiến của mình một cách tự
do, đôi khi vô trách nhiệm, vô văn hoá và vô đạo đức, nhất là khi
người phát biểu ẩn danh hoặc nói dưới một cái tên giả.
Trong cuộc chiến tư tưởng và ngôn từ này, trừ một số rất ít thực sự
cầu thị, nhận ra đúng sai trong tranh luận, phần lớn ở bất kỳ phe
nào, đều có thái độ độc quyền chân lý và bị chi phối bởi những định
kiến, mặc cảm trong quá khứ. Ngay cả đối với những người vừa mới nằm
xuống, mồ chưa xanh cỏ, dĩ nhiên là không thể đối thoại, vẫn bị tấn
công bằng những lời lẽ nặng nề nhất, vẫn bị sỉ nhục như trường hợp
Nguyễn Ngọc Lan. Cho dù ông có thể được đánh giá khác nhau từ những
quan điểm trái ngược, nhưng không ai có thể phủ nhận ông là một trí
thức đã dùng ngòi bút trọn đời dấn thân một cách trong sáng nhất cho
niềm tin, lý tưởng của mình và đã chết trong bệnh tật và đau đớn.
Thậm chí người ta còn đem cả sự đau đớn và cái chết ra để mỉa mai!
Tự do ngôn luận đôi khi cũng phải trả cái giá quá đắt khi nó làm tổn
thương đến con người và những giá trị nhân bản mà lẽ ra sự tự do này
phải góp phần gìn giữ.
Nhiều luận điểm và ngôn từ mang tính thù hận cũ rích từ hơn 30 năm
qua vẫn được đem ra dùng lại, tấn công đối phương, với sự khoái trá
hả hê không che giấu, làm như chưa hề biết cuộc chiến máu lửa đã
ngưng lại từ ngần ấy năm. Hình như ở một số người tư duy đã bị đông
cứng, không có khả năng lắng lòng lại để chiêm nghiệm về bi kịch
lịch sử mà nhân dân Việt Nam đã gánh chịu, trong đó mỗi người đều có
phần trách nhiệm của mình. Cái gọi là “chính nghĩa” mà các bên đã
nhân danh và tự hào lại chính là bình phong cho những thủ phạm giấu
mặt nguy hiểm nhất gây ra biết bao tai hoạ. Sự bảo thủ và cưỡng bức
chân lý hình như không phải là độc quyền của riêng ai. Vì đủ mọi thứ
lý do, sự giải thích và diễn dịch quá khứ hầu như không thể đạt đến
sự đồng thuận nơi phần lớn thế hệ đã từng kinh qua cuộc chiến.
Vậy thì có lẽ không nên tiếp tục tranh cãi về quá khứ. Hãy để thế hệ
sau phán xét, những người không bị cuộc chiến trói buộc sẽ vô tư và
công bình hơn. Nhưng còn hiện tại và tương lai? Cũng như trong quá
khứ, mỗi người dù làm gì hay không làm gì, làm như thế nào đều có
trách nhiệm và góp phần chi phối tình hình đối với hiện tại và tương
lai của đất nước. Không thể đổ lỗi cho ai khác nếu ta chưa đóng góp
được phần mình. Nếu dân tộc này quay lưng lại số phận của mình, sống
như lục bình trên dòng nước chảy thì việc gánh chịu thảm kịch là
điều đương nhiên. Không ai cứu vớt được ta nếu chính ta không ra sức
vùng vẫy để làm chủ số phận. Dân tộc chỉ có thể bước tới nếu không
bị chia rẽ và xung đột, làm suy yếu tiềm lực.
Do vậy, dù sao đi nữa, tự do tưởng và tự do ngôn luận vẫn là niềm hi
vọng và phương tiện gần như duy nhất để con người, đặc biệt là người
Việt Nam đi đến một đồng thuận cho tương lai của mình, nhất là trong
hoàn cảnh cực kỳ phức tạp như hiện nay. Có lẽ chính vì thế mà Bùi
Tín đã đưa ra một đề nghị và kêu gọi thảo luận trong bài viết “Những
vấn đề cần làm rõ về cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam”. Cuộc
nói chuyện điện thoại của Lê Hồng Hà với Bùi Minh Quốc và Hà Sĩ Phu,
sau đó nội dung đã được văn bản hoá và đưa lên mạng, thực chất cũng
là một đề nghị tương tự với nội dung đầy đủ hơn và biện pháp đề xuất
cụ thể hơn. Tuy nhiên đáng tiếc đề nghị của Bùi Tín không được hưởng
ứng rộng rãi, một phần do cách đặt vấn đề của ông. (Trong số ít các
ý kiến về bài viết của Bùi Tín có
bài của Lại Nguyên Ân rất thẳng thắn, chính xác và dũng cảm.)
Hà Sĩ Phu đã tiếp tục cuộc trao đổi với một loạt bài viết công
phu nhưng một vài bài trên mạng mới đây tranh luận với Hà Sĩ Phu, vô
tình hay cố ý, hay vì những hậu ý nào đó, muốn dẫn cuộc trao đổi đi
chệch hướng, không mang lại lợi ích gì thiết thực.
Ở
đây tôi cũng muốn đưa ra một đề nghị. Trước nhiều ý kiến bất đồng
lâu nay về những vấn đề lớn của đất nước đã được đưa ra trong nhiều
bài viết đơn lẻ hay nhiều cuộc tranh luận riêng rẽ, tại sao ta không
tập trung vào trong một cuộc đại hội thảo để tất cả mọi người có
thiện ý đều có thể tham dự. Tôi thử phác hoạ một số vấn đề chung
quanh cuộc đại hội thảo này, tạm gọi là “Đại hội thảo về hiện tình
và tương lai Việt Nam”
Mục tiêu: Tự do, dân chủ, hoà bình và phát triển cho Việt Nam.
Chủ đề: Hiện tình và tương lai Việt Nam. (Về mặt thời gian, hiện
tình có thể chỉ xác định từ năm nay 2007, hay tính từ 2001, đầu
thiên niên kỷ, để tránh bị phân tán bởi những vấn đề đã được nói đến
quá nhiều hay đã khẳng định.)
Lập trường dân tộc: Đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết khi xem xét
mọi vấn đề. Không đặt thành tiên quyết việc chống cộng hay không,
chống hay “cứu” Đảng Cộng sản hay bất cứ tiền đề nào khác.
Tính chất: Đây là một hội thảo mang tính tư tưởng, không phải là một
cuộc vận động chính trị, không ủng hộ hay đả kích bất cứ phe phái
nào mà chỉ nhằm tìm ra chân lý, xác định đúng đắn nhất hướng đi cho
tương lai đất nước. Những người hoạt động chính trị có thể tìm được
những điều bổ ích nào đó từ kết quả của cuộc hội thảo nhưng đây
không phải là mục đích của việc hội thảo.
Người tổ chức: Ban biên tập các trang web riêng rẽ hay liên kết chủ
trì cuộc hội thảo hoặc những người hoạt động dân chủ lâu nay cử ra
một ban điều hành để chủ trì và các trang web hỗ trợ. Các trang web
này có thể ở ngoài hay trong nước, bất cứ ai có thiện chí và khả
năng đều có thể làm, kể cả trang web của Đảng Cộng sản, nếu Đảng
thực tâm muốn lắng nghe ý kiến của toàn dân.
Người tham dự: Mọi người Việt Nam có nhận thức và ưu tư về tình hình
đất nước, không phân biệt trong hay ngoài nước, cộng sản hay không
cộng sản, quan chức hay dân thường.
Phương pháp: Có thể ban điều hành hội thảo đưa ra một đề cương chung
hoặc bất cứ ai tham gia cũng có thể đưa lên bài viết của mình, có
tính cách tổng hợp hay về một đề tài cụ thể. Sau từng thời gian
tranh luận, ban điều hành sẽ rút ra kết luận tạm thời cho từng vấn
đề và gợi ý tiếp.
Thái độ: Cầu thị, tôn trọng người đối thoại, tuyệt đối không dùng
lời lẽ gay gắt có tính cách phỉ báng cá nhân hay thiếu văn hoá dù ý
kiến mâu thuẫn. Ban điều hành sẽ có biện pháp để ngăn chặn những bài
viết vi phạm quy định này.
Thực ra nhận định về hiện tình và tương lai Việt Nam đã có nhiều tổ
chức và cá nhân đưa ra: Nghị quyết đại hội của Đảng Cộng sản, Cương
lĩnh chính trị của Tập hợp Dân chủ Đa nguyên, các công trình nghiên
cứu của nhóm Dân chủ và Phát triển, Tuyên ngôn của nhóm 8406, gợi ý
của “nhóm Đà Lạt” về tư tưởng Phan Chu Trinh và con đường dân chủ xã
hội, cũng như văn kiện của các tổ chức đảng phái, các nhóm đấu tranh
dân chủ và bài viết của vô số cá nhân trong và ngoài nước, trong đó
có những bài rất xuất sắc. Tuy nhiên những nhận định đưa ra chưa có
sự đồng thuận cao của toàn xã hội hoặc đang có sự đánh giá rất khác
nhau hoặc chưa được thảo luận đến nơi đến chốn.
Nhà nước thường đề cao thành tích tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm
nghèo, hội nhập quốc tế trong khi những người chống đối nêu bật
chuyện vi phạm nhân quyền, nạn tham nhũng và những tệ nạn xã hội
khác. Hai mặt này phải được đánh giá như thế nào cho khỏi thiên
lệch. Đi vào từng vấn đề cụ thể cũng chưa dễ đồng thuận. Tăng trưởng
kinh tế với mức độ hiện nay so với xuất phát điểm có thực sự là
thành tích và có tính bền vững không? Sự phân hoá giàu nghèo và bất
công xã hội ở mức độ nào, tiềm ẩn nguy cơ gì? Nạn tham nhũng có giải
quyết được không khi còn độc đảng? Nhân dân Việt Nam có thực sự cảm
thấy hạnh phúc, hài lòng với cuộc sống như một tổ chức nước ngoài
nào đó đã tổ chức thăm dò và kết luận? Nghĩ gì về các hiện tượng
nghịch lý đang diễn ra trong xã hội như hiện tượng những người đấu
tranh dân chủ ra toà và vào tù, hàng trăm“dân oan” đi khiếu kiện lay
lắt ngày đêm ở công viên, trong khi hàng ngàn dân chơi uống thuốc
lắc nhảy nhót trong vũ trường, hàng vạn người đi du lịch, nghỉ dưỡng
trong các ngày lễ, hàng triệu thanh niên vào mạng chơi game hay tham
gia các blog… Có vô số vấn đề tổng thể và cụ thể trên tất cả mọi
lãnh vực cần phân tích, trao đổi một cách thấu đáo chứ không thể chỉ
kết luận theo chủ quan hay cảm tính.
Cuộc sống là một dòng chảy vận động không ngừng nên dù muốn dù
không, ai không thay đổi, thích nghi sẽ bị đào thải, nhanh hay chậm.
Tôi mới được nghe một chuyện thú vị. Một giáo viên kể lại lời của
quan chức tuyên huấn giảng bài trong lớp học chính trị mới đây đề
cập đến “Bác Hồ”: Đừng gọi Bác Hồ là cha già dân tộc nữa. Bác không
thể là cha mà chỉ là người con ưu tú của dân tộc. Bác không phải là
thần thánh mà cũng chỉ là một người bình thường như mọi người… Thật
là “tiến bộ”. Tôi không tin ông cán bộ tuyên huấn này dám nói ý kiến
cá nhân mà là nói theo chỉ đạo vì đây là lớp học chính trị cho giáo
viên. Thế thì sẽ không lâu nữa người ta buộc phải thôi thần thánh
hoá Bác Hồ để nhìn nhận những gì mà thực tiễn đã có minh chứng hùng
hồn không thể chối cãi.
Tuy vậy không thể lạc quan sớm. Sau khi nội dung cuộc trao đổi giữa
Lê Hồng Hà với Hà Sĩ Phu và Bùi Minh Quốc được đưa lên Internet, mới
đây hai ông sau được công an triệu tập lên “làm việc”. Những người
trong “nhóm Đà Lạt” lâu nay thỉnh thoảng vẫn được mời lên “làm
việc”, “hỏi thăm sức khoẻ” hay “bảo vệ an ninh trước nhà” là chuyện
bình thường dù họ đã hết bị quản chế chính thức. Tuy nhiên cuộc làm
việc với Bùi Minh Quốc và Hà Sĩ Phu mới đây cho thấy hình như người
ta lo ngại “nhóm Đà Lạt” đang tiến hành một cuộc vận động dân chủ
mới sau khi những tổ chức dân chủ khác đã bị dẹp tan và nêu vấn đề
kiểm soát việc phát biểu trên Internet.
“Nhóm Đà Lạt”, một cách gọi, thực ra chẳng có phe đảng, tổ chức gì
cả. Chúng tôi chỉ là những người cầm bút tự do, có tính cách, quá
khứ và sở trường khác nhau, quan điểm về những vấn đề lớn cũng có độ
chênh nhất định nhưng “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Khi có bài, tác phẩm mới viết hoặc có rượu ngon, có bạn ở xa đến,
chúng tôi họp nhau để trao đổi, tâm tình và bàn chuyện thế sự. Từ 20
năm nay chúng tôi vẫn làm như thế dù có một khoảng thời gian 8 năm,
chỉ mấy người trong cùng một thành phố nhỏ xíu, nhà cách nhau chỉ có
mấy cây số, nhưng không gặp được nhau đầy đủ vì khi người này bị tù,
lúc người kia bị quản chế. Nếu quy bày tỏ tư tưởng là vận động chính
trị thì chúng tôi đã làm như thế từ bao năm nay, không có gì mới.
Chúng tôi đã và sẽ luôn nói và viết lên quan điểm độc lập của mình
về mọi vấn đề, không coi điều gì là cấm kỵ.
Còn chuyện kiểm soát Internet? Kiểm soát để ngăn chặn hoạt động
khủng bố hay đồi truỵ thì hoan nghênh nhưng nếu để ngăn chặn thông
tin, khống chế tự do tư tưởng, tự do ngôn luận thì đó là hành vi
“phản động”, vì đi ngược lại hiến pháp và pháp luật quốc gia, pháp
luật quốc tế và xu hướng chung của toàn nhân loại. Việc đó cũng khó
làm được như ý muốn vì không khác gì việc “một tay che mặt trời”
trong thời đại “thế giới số và thế giới phẳng” này mà còn có tác
dụng ngược.
Cuộc đại hội thảo này có giá trị gì? Nếu thực hiện được, nó có thể
có tác dụng lớn hơn rất nhiều hội nghị Diên Hồng ngày xưa hay hội
nghị “tiểu Diên Hồng” mà ông Hoàng Minh Chính mới đây từng mơ ước.
Tác dụng lớn hơn vì có đến hàng vạn, hàng triệu người tham dự với
bao nhiêu tài năng và trí tuệ của hơn 80 triệu người Việt sống trong
nước và ở rải rác khắp năm châu bốn biển. Tuy thế nó cũng có thể
không có tác dụng bằng hay phản tác dụng nếu thiếu tinh thần “toàn
dân một lòng, vua tôi hoà thuận” của người xưa.
Cuộc đại hội thảo này có thể thực hiện được không? Tôi không biết,
vì nó tuỳ thuộc vào khả năng của những người đứng ra tổ chức. Tôi
chỉ là người gợi ý. Tuy nhiên điều dễ dàng, ở quy mô nhỏ hơn, là trở
thành chuyên mục trong một trang web nào đó có uy tín và nhiều người
đọc. Thí dụ phải chăng talawas nên mở thêm chuyên mục “Hiện tình và
tương lai Việt Nam” hoặc ngưng chuyên mục “Chiến tranh nhìn từ nhiều
phía” để mở chuyên mục này sau khi đã tạm cung cấp khá đầy đủ nhiều
quan điểm khác biệt về cuộc chiến tranh.
*
Song song với cuộc đại hội thảo này, một công việc trên lãnh vực văn
học nghệ thuật có thể thực hiện được để tạo ra sự thông cảm, hoà hợp
và phát triển là việc hình thành những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do.
Văn học nghệ thuật vốn không biên cương và có khả năng nhanh chóng
tạo ra sự đồng cảm, giao hoà. Chúng ta đã có những sự kiện khởi đầu
rất có ý nghĩa và khả năng hiện thực.
Hơn 30 năm trước, ngay trong cuộc chiến, một sĩ quan Việt Nam Cộng
hoà và một sĩ quan Mỹ đã giữ gìn nhật ký của một bác sĩ cộng sản
Đặng Thuỳ Trâm. Tương tự, hai sĩ quan VNCH khác
đã bảo quản nhật ký của nhà văn cộng sản Chu Cẩm Phong. Đến bây
giờ, khi hai cuốn nhật ký đó được trả về nguồn cội và được công bố,
dù ở phía nào, ai cũng nhận đây là những hành vi nhân văn cao đẹp
vượt lên trên chính trị nhất thời mà chỉ có văn học mới có thể tạo
ra.
Sau này nhiều hoạt động giao lưu văn học nghệ thuật giữa trong và
ngoài nước, giữa Việt Nam và Mỹ cũng như một số nước khác đã được tổ
chức và có hiệu quả rất đáng mừng. Nhà văn Hồ Anh Thái ở trong nước
liên kết với các nhà văn cựu binh Mỹ để dịch, xuất bản sách chung
giữa các nhà văn trước đây là cựu thù trên chiến trường. Nhiều
trường đại học và tổ chức văn học nghệ thuật của Mỹ mời văn nghệ sĩ
Việt Nam sang giao lưu. Nhóm Khánh Trường ở Mỹ xây dựng tạp chí Hợp
Lưu đăng tải tác phẩm của các nhà văn trong và ngoài nước. Một số
nhà xuất bản ở hải ngoại in sách của các tác giả trong nước như
Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn
Viện, Tiêu Dao Bảo Cự… Cuốn sách Nếu đi hết biển của đạo diễn Trần
Văn Thuỷ xuất bản năm 2003 viết về các cuộc gặp gỡ, trao đổi với một
số nhà văn hải ngoại như Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Nhật Tiến,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ… trong chuyến đi
nghiên cứu do Trung tâm William Joiner Nghiên cứu về chiến tranh và
hậu quả chiến tranh của Đại học Massachusetts Boston tổ chức…
Một số tác phẩm của các nhà văn hải ngoại và ngay cả tác phẩm xuất
bản ở miền Nam trước 1975 cũng đã được in hoặc tái bản trong nước
như sách của các tác giả Nguyễn Mộng Giác, Mai Ninh, Nam Dao, Dương
Nghiễm Mậu… “Ngày thơ Việt Nam” mới đây tổ chức ở Hà Nội cũng đã
giới thiệu một số nhà thơ miền Nam trước đây. (Liên quan đến việc
này, chuyện
Phan Huyền Thư trích văn của người khác không ghi xuất xứ đã gây
nên một vụ tranh cãi ầm ĩ thực ra là một việc rất nhỏ không đáng làm
lớn chuyện. Rõ ràng đó là một thiếu sót nhưng có ở trong cuộc, hay
tìm hiểu cho kỹ cái “trong cuộc” này mới hiểu tại sao Phan Huyền Thư
đã làm như vậy. Ta cũng có thể tự hỏi Phan Huyền Thư có cần sử dụng
các đoạn văn trích đó để làm “tác phẩm” của mình không và Phan Huyền
Thư có thiện chí không khi làm việc này cũng như tác dụng của việc
làm đó là gì.) Trang web talawas đang làm công việc giới thiệu lại
những tác phẩm và tư liệu văn học giá trị bất kể trong Nam hay ngoài
Bắc giúp người đọc có cái nhìn toàn cảnh và thực chất về văn học
Việt Nam hiện đại. Mới đây nhất,
cuộc gặp gỡ giữa các nhà thơ hải ngoại Du Tử Lê, Nguyễn Đức Tùng
với các nhà thơ trong nước Thanh Thảo, Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn Trọng
Tạo, Trần Mạnh Hảo là một cuộc gặp vô cùng thú vị với một nội dung
trò chuyện chan hoà tính nhân văn và dân tộc hiếm thấy.
Hiện tượng các ca, nhạc sĩ trong nước ra biểu diễn ở hải ngoại và
ca, nhạc sĩ hải ngoại trở về nước tuy chưa phải là hiện tượng phổ
biến nhưng đã có không ít. Vượt lên trên những hậu ý hoặc phê phán
với ý đồ và mang màu sắc chính trị, những hiện tượng này rõ ràng
mang lại hiệu quả hoà giải hoà hợp rất tốt.
Nếu đã nói “Dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một…”,
người Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể thiếu của dân tộc
Việt Nam, là “khúc ruột ngàn dặm”… thì không có lý do nào để gạt ra,
không công nhận văn học nghệ thuật ở miền Nam trước 1975 và ở hải
ngoại hiện nay. Chính qua toàn bộ những tác phẩm và hoạt động văn
học nghệ thuật này, chúng ta hiện nay, và các thế hệ Việt Nam mai
sau mới có thể nhận ra, hình dung được diện mạo, tư tưởng, tâm hồn
của toàn dân tộc trong một giai đoạn lịch sử phân ly bi thảm nhất để
góp phần xây dựng một tương lai thực sự hoà hợp, hoà bình cho đất
nước.
Vậy thì hôm nay tại sao văn nghệ sĩ và công chúng không tự mình làm
công việc hoà giải hoà hợp này. Tôi có ý kiến hơi khác với
Bùi Minh Quốc và
Nguyễn Kim Bình về việc xin phép tổ chức một cuộc gặp gỡ văn
nghệ đông đảo, chính thức. Nếu làm được như thế cũng tốt. Nhưng luật
pháp không cấm, nhà nước không cấm, tại sao chúng ta không tự làm?
Chúng ta cứ tự do tổ chức những cuộc gặp mặt giữa văn nghệ sĩ với
nhau, với công chúng thuộc mọi miền, mọi thành phần để trò chuyện và
trao đổi tâm tình. Gặp mặt ở nhà riêng, ở quán café, ở nhà hàng, ở
trường đại học, ở các cơ sở văn hoá, trên các tạp chí, trên không
gian ảo… với năm ba người, năm ba chục người… và công bố nội dung
như cách làm trên talawas vừa qua. Ai cấm cản điều này nếu không
phải là chính ta tự mình đứng trong vòng vôi cấm? Trong những cuộc
gặp này, chúng ta không cần tuyên ngôn tuyên bố chống ai, ủng hộ ai
cả mà chỉ để cảm thông và chia sẻ. Sự hoà giải hoà hợp thực sự của
nhân dân sẽ chống lại mọi chủ trương hay âm mưu chia cắt, thúc đẩy
sự chuyển biến của tình hình chung, mang lại hoà bình trong lòng
người và cho đất nước. Nếu chúng ta không làm, nhân dân không làm,
tình hình chung của đất nước sẽ còn trì trệ, trong đó mỗi người đều
có phần trách nhiệm của mình.
Đà Lạt cuối tháng 6-2007