Tiêu Dao Bảo Cự
- Lời hận thù và lời yêu thương.
Lời nào nói dễ hơn?
Tiếc thay, trong nhiều trường hợp, thực tế cho thấy lời hận thù nói
dễ hơn, đặc biệt trong vấn đề chính trị và tôn giáo, khi người ta
khác biệt chính kiến.
Ai có điều kiện lướt
mạng, vào các trang web chính trị, dễ dàng nhận ra điều đó. Ngoài
việc tranh luận trong các bài chủ, ý kiến của bạn đọc từ các phía
khác nhau, chống cộng và thân cộng, chống tôn giáo và ủng hộ tôn
giáo này hay tôn giáo khác, công kích nhau kịch liệt bằng mọi thứ
lời lẽ nặng nề cay nghiệt nhất có thể có được trong ngôn ngữ.
Mạ lỵ người khác
không phải là điều khó khăn. Trái lại, càng ít học, càng thiếu văn
hóa, càng nông cạn, càng sân hận, càng côn đồ, càng dễ chửi rủa.
Ngôn ngữ để lăng mạ cũng không cần phải tốn công học hỏi. Ấy thế
nhưng giữa người lăng mạ và người bị lăng mạ, ai bị sỉ nhục là điều
cần phải xem xét. Có người nói khi sỉ nhục người khác nhưng người ta
không bị thương tổn thì chính mình bị sỉ nhục. Điều này rất đúng
trong những trường hợp gọi là “chụp mũ chính trị” xảy ra ở rất nhiều
nơi hiện nay, trong cũng như ngoài nước.
Trong bài viết “Một
cuộc đại hội thảo và những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do. Tại sao
không?” tôi có nhắc đến trường hợp Nguyễn ngọc Lan bị sỉ nhục. Hình
như tôi đã viết không được rõ. Ý tôi muốn nói là Nguyễn Ngọc Lan bị
người ta sỉ nhục, chứ ông có bị sỉ nhục hay không lại là chuyện
khác. Hồi còn sinh tiền, ông là một cây bút luận chiến vô cùng sắc
bén. Ngòi bút của ông nhọn như mũi thương. Thành thực mà nói, đôi
lúc tôi cũng không thích lối châm biếm cay độc của ông, nhưng quả
thực ông không hề nhường ai trong các cuộc bút chiến và đã làm cho
nhiều kẻ phải khốn đốn với ngọn thương-bút trong tay mình. Tuy nhiên
tranh luận với nhau khi còn sống khác với nói về người đã mất. Nhất
là khi chưa hiểu tường tận về cuộc đời của người đó thì không thể
khinh suất buông lời mạ lỵ.
Cuộc chiến về ngôn
từ và tư tưởng giữa người Việt với nhau, không phải chỉ giữa những
người chống và thân cộng, mà ở trong các thành phần khác, kể cả giữa
những người gọi là đang đấu tranh cho dân chủ, có đang diễn ra
không? Nhìn vào thực tế, tôi tin là có. Ngay trên các trang web có
tiếng là trí tuệ, nghiêm túc và đứng đắn, điều đó cũng đã từng xảy
ra không ít lần.
Dĩ nhiên tôi không
đồng nhất phê phán với chửi rủa. Phê phán đúng sẽ làm sáng tỏ chân
lý. Người thường không chấp nhận phê phán sẽ trở nên kiêu căng,
người cầm quyền không chấp nhận phê phán sẽ đi vào sai lầm. Tôi cũng
không cho rằng tất cả các cuộc tranh luận đều là “cuộc chiến”, dù
lời lẽ có thể gay gắt ở mức độ nào đó. Vấn đề là mục đích và thái độ
của những nguời tham gia tranh luận. Khi mục đích là tiêu diệt, hạ
nhục đối phương, thái độ là khinh bỉ, phương thức là bất chấp thủ
đoạn, ngôn từ là lời lăng nhục, làm sao có thể gọi là tranh luận. Ở
mức độ nhẹ hơn, có người nói đó là những cuộc “đấu võ đài” hay cuộc
“đối thoại giữa những người điếc”.
Dân tộc Việt Nam đã
quá đủ cho những “cuộc chiến” kiểu này trong cuộc chiến lớn hơn mà
đến nay những dư vang và ngôn từ của nó còn làm cho người ta kinh
hãi và buồn nôn. Trải qua một giai đoạn lịch sử đầy máu lửa và bi
kịch, giữa những kẻ cựu thù, ít người có đủ sự tỉnh táo để nhìn nhận
lại quá khứ, nên về một khía cạnh, cuộc chiến đó vẫn còn tiếp tục.
Những vấn đề đại loại như bên nào có chính nghĩa, chế độ Việt Nam
Cộng Hòa ưu việt hay thối nát, vai trò của thành phần thứ ba (trước
1975), tội ác của các phe trong chiến tranh… sẽ khó đi đến đồng
thuận. Tiếp tục tranh luận sẽ là vô ích vì không ai chịu ai và càng
gây thêm chia rẽ. Nhiều người đã đi đến kết luận là cuộc chiến đó
không phải nhân dân là người chiến thắng mà thực ra, bên nào thắng
thì nhân dân cũng là người chiến bại.
Đã khá lâu, có lần
tôi đọc thấy trên một trang web, một bạn đọc tự xưng là trẻ, đã nói
về cuộc tranh luận giữa những người quốc-cộng, đại khái thế này: Tôi
cầu mong cho các ông chết sớm đi để khỏi lải nhải mãi những chuyện
đó. Tôi và thế hệ tôi không muốn nghe những chuyện đó nữa. Chúng tôi
có nhiều việc khác cần làm hơn. Lời nói như thế nghe thật đau lòng.
Nhưng đó là một thực tế buộc chúng ta phải suy nghĩ và xét lại thái
độ của mình khi tranh cãi về quá khứ.
Trường hợp thiền sư
Nhất Hạnh về nước tổ chức đàn tràng giải oan đã làm dấy lên rất
nhiều cuộc tranh luận. Nếu bỏ qua một bên những cách nhìn nhận theo
quan điểm chính trị và phê phán cá nhân, có một thực tế là nơi nào
thiền sư thuyết pháp cũng có hàng ngàn hàng vạn người nghe. Lý giải
điều này như thế nào? Rõ ràng là vì ông chỉ nói ra những “ái ngữ”,
những lời để người ta yêu thương, tha thứ và biết sống hạnh phúc
thay vì kích động hận thù. Phải chăng đây là một kinh nghiệm, một
kiểm nghiệm của thực tiễn về nhu cầu đích thực của nhân dân Việt
Nam.
- Đất nước
này của ai? Dân tộc Việt nam có thể hòa giải hòa hợp?
Việt Nam đã thống
nhất hơn 30 năm nhưng vẫn còn là một đất nước nghèo đói, lạc hậu và
thiếu dân chủ so với thế giới. Phát triển kinh tế và dân chủ hóa xã
hội là những vấn đế lớn đang được đặt ra cho mọi người nhưng cách
tiếp cận, lý giải và giải quyết vấn đề lại khác nhau nên gây ra rất
nhiều chia rẽ.
Đất nước này của ai?
Câu hỏi tưởng chừng như ngô nghê hay đã có câu trả lời hiển nhiên,
thực ra lại không đơn giản chút nào khi đi tìm lời đáp. Thực tế là
những người cộng sản đang độc quyền cai trị đất nước. Hơn 3 triệu
người Việt đang ở nước ngoài mà phần lớn là do chạy trốn chế độ cộng
sản sau cuộc chiến và đa số vẫn còn chống đối hay bất hợp tác với
chính quyền trong nước. Người Việt ở hai miền nam bắc đã có thể đi
lại, làm ăn sinh sống và số lượng người miền bắc vào phía nam có
tính áp đảo. Điều này do chủ trương của nhà nước và phần khác là xu
hướng tự nhiên của người miền bắc, vốn dân đông, đất hẹp đi tìm đất
sống sau khi đất nước thống nhất.
Có người viết: Thành
phố Đà Lạt này của tôi, anh ở đâu đến chiếm. Dù viết (của tôi) và
(chiếm) trong ngoặc đơn thì ý nghĩa nó vẫn thế. Tôi còn nghe được
câu chuyện giữa hai người quen, cả hai đều là người gốc Hà Nội. Một
người là Việt kiều về thăm quê, đi du lịch một vòng đất nước và rút
ra nhận xét, cho thành phố Đà Lạt đẹp nhất nước, đẹp hơn cả Hà Nội.
Người kia bảo, tôi không buồn đâu, vì dân số Đà Lạt hiện nay một nửa
là người Hà Nội.
Chao ôi, Đà Lạt này
của ai, của anh ư? Nếu nói “của”, thì Đà Lạt phải là “của” bộ tộc
Lạch gốc bản địa chứ nào phải “của” người kinh, Miền Trung là của
người Chiêm Thành, Miền Nam là của người Chân Lạp. Và đối với bá
quyền Đại Hán thì toàn bộ Đông Nam Á, Tây Tạng, Mông Cổ đều là của
Trung Hoa, có thời họ đã vẽ bản đồ xác định đất nước bao gồm cả
những vùng đất này. Vậy thì có nên mở cuộc chiến tranh để chiếm lại
những vùng đã mất?
Nhớ lại chuyện cũ,
khi bị lên án “Miền Bắc xâm lược Miền Nam”, người ta đã trả đũa rằng
người Việt Nam có quyền đánh Mỹ bất cứ nơi đâu, không phải chỉ ở
Việt Nam mà còn chính ngay trên đất Mỹ. (Ở đây tôi phải cẩn thận mở
ngay ngoặc đơn để nói rằng tôi chỉ đơn thuần lý giải về chuyện địa
lý, chứ không bàn về chuyện phát động chiến tranh có chính nghĩa và
cần thiết hay không, vì điều này tôi đã xác định là không muốn tranh
cãi về chuyện quá khứ bất đồng.) Còn ở Miền Nam cũng đã có người hô
hào “Bắc tiến”. “Bắc tiến” cũng có lý chứ. Nếu người Miền Nam cho
rằng chống cộng để cứu lấy quê hương thì tại sao lại không nghĩ đến
chuyện giải phóng đồng bào Miền Bắc của mình thoát khỏi ách cộng
sản. Chỉ vì Miền Nam không đủ sức tự vệ, nói gì chuyện tấn công Miền
Bắc. Có đúng như vậy không?!
Nếu anh và tôi đều
đã có thời ở trên vùng đất Đà Lạt xinh đẹp, anh và tôi có thể nói về
những kỷ niệm, những tình cảm riêng liên quan đến xứ sở ngàn thông,
ngàn hoa, sương mù thơ mộng này. Anh và tôi tự nhiên có những liên
đới tuy rất mơ hồ nhưng cũng có thể là khởi đầu cho một mối giao
tình đẹp. Tiếc thay, lời yêu thương vẫn khó hơn lời thù hận. Mặc dù
trong thẳm sâu của tâm hồn mỗi người, tôi vẫn cho là ai cũng khao
khát yêu thương và hận thù chỉ là điều bất đắc dĩ, kể cả trường hợp
người đã nói “anh ở đâu đến chiếm Đà Lạt của tôi”.
Vậy thì dù thế nào
đi nữa, trên nguyên tắc, đất nước này ngày hôm nay là của toàn thể
người Việt Nam, không phân biệt ở nơi đâu, trong hay ngoài nước, đã
từng chiến thắng hay chiến bại, cộng sản hay chống cộng. Vấn đề là
không ai được độc quyền yêu nước và tìm ra phương thức nào xây dựng
đất nước hoàn hảo nhất. Khi tiềm lực đã bị suy yếu vì chiến tranh và
chia rẽ, vấn đề cơ bản được đặt ra để vực dậy đất nước là phải có sự
hòa giải hòa hợp dân tộc.
Hòa giải hòa hợp dân
tộc không phải là chuyện độc quyền của nhà nước cộng sản khi họ đề
ra chủ trương này. Thời gian gần đây, ai nói đến hòa giải hòa hợp
thường bị những người chống cộng quy ngay là tay sai cộng sản, ủng
hộ cộng sản. Thế thì cộng sản đã chiếm thế thượng phong vì tự nhiên
họ được thêm rất nhiều đồng minh trong khi người chống cộng lại thêm
thù bớt bạn.
Khi tôi gợi ý về một
cuộc đại hội thảo và những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do (không phải là
“tiểu Diên Hồng”, từ này tôi chỉ nhắc lại một đề nghị của Hoàng Minh
Chính), có người nói biết đâu tổ chức “tiểu Diên Hồng” là để “cầu
cho bạo chúa sống lâu”. Đoàn Giao Thủy ghi lại ý kiến của Hà Sĩ Phu
về ba điều bất cập trong phong trào dân chủ, có người nghi ngờ là
mượn lời Hà Sĩ Phu để tuyên truyền cho cộng sản. Một số người ở hải
ngoại từ trước nổi tiếng chống cộng hay không dính líu gì đến cộng
sản nhưng khi chỉ có một lời nói hay hành động gì đó không tỏ ra
chống cộng cũng bị quy ngay là tay sai cộng sản và bị tẩy chay.
Về phía nhà cầm
quyền cộng sản, sự chụp mũ cũng đã trở thành chính sách. Tất cả mọi
người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền đều bị quy là “tuyên truyền
chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chống nhà nước, xâm phạm an ninh quốc
gia” và phạt tù bằng luật hình sự. Hà Sĩ Phu trước đây khá lâu, khi
mới đưa ra mấy bài chính luận nổi tiếng, từng bị coi là kẻ thù về tư
tưởng số một của chủ nghĩa xã hội. Mới đây, năm 2005, trong tài liệu
có tên “Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch” của Ban Tư tưởng
– Văn hóa Trung ương”, một tác giả nghiên cứu đã xếp “nhóm Đà Lạt”
cùng với “Câu lạc bộ dân chủ” ở Hà Nội, “Câu lạc bộ những người
kháng chiến cũ” ở Thành phố Hồ Chí Minh là đã “tập hợp những phần tử
bất mãn, cơ hội chính trị nhằm tạo dựng ngọn cờ thành lập lực lượng
chính trị đối lập với Đảng Cộng Sản Việt Nam” dù viết tên người
trong nhóm này cũng không chính xác. Cách chụp mũ này đã đẩy không
ít những người yêu nước, có tâm huyết và thiện chí về phía đối lập
với chính quyền.
Trong giai đoạn lịch
sử vừa qua, phải thừa nhận người cộng sản Việt Nam là bậc thầy trong
vận động quần chúng và đấu tranh cách mạng. Họ đã giành được thắng
lợi khi bằng nhiều cách dựa được vào nhân dân và phát huy sức mạnh
của quần chúng. Nhưng họ không mãi mãi là vô địch. Khi đã phạm sai
lầm và mất lòng dân thì tài nghệ, thủ đoạn cao siêu đến mấy cũng sẽ
đến lúc thất bại.
Khi đã nói hòa giải
hòa hợp dân tộc, nghĩa là vấn đề được đặt ra giữa mọi thành phần dân
tộc. Không thể nói đến vấn đề này nếu không chấp nhận thế đứng của 3
triệu người Việt ở nước ngoài cũng như 3 triệu đảng viên cộng sản.
Vấn đề gây trở ngại
lâu nay là sự khác biệt trong quan điểm có chấp nhận hòa giải hòa
hợp hay không, hòa giải hòa hợp với ai, như thế nào?
Nếu có người đã kinh
qua cuộc chiến, bây giờ vẫn chống cộng đến cùng, ở nước ngoài nói
rằng không chấp nhận hòa giải hòa hợp với người cộng sản trong mọi
trường hợp, chỉ về nước sau khi đã quét sạch những người cộng sản
cuối cùng thì e rằng những người đó suốt đời sẽ phải sống ly hương.
Nếu chính quyền cộng
sản chỉ hòa giải hòa hợp trên thế mạnh, vì họ đang cầm quyền, buộc
các thành phần khác phải chấp nhận mọi điều kiện của mình thì đó
không phải là hòa giải hòa hợp, không có kết quả tốt và dĩ nhiên
không tạo được sức mạnh dân tộc cần có.
Nhà cầm quyền có thế
mạnh nhưng không phải là mạnh nhất và vĩnh viễn. Dân tộc đoàn kết
mới là thế lực mạnh nhất và trường tồn. Như thế chỉ khi đại khối dân
tộc có được hòa giải hòa hợp, tạo ra sức mạnh áp đảo thì nhà cầm
quyền không còn ở trên thế mạnh nữa, lúc đó sẽ có hòa hợp hòa giải
thực sự.
- Nan đề nào?
Nan đề cho ai?
Hòa giải hòa hợp
cũng như dân chủ hóa đất nước là một cuộc đấu tranh. Cuộc đấu tranh
này đang gặp nhiều khó khăn, một phần do trở lực từ nhà cầm quyền,
phần khác do sự bất đồng, chia rẽ từ phía những người đấu tranh cho
dân chủ và sự thờ ơ của quần chúng. Đấu tranh tất có thương tổn, hi
sinh, nhưng làm thế nào để đấu tranh thắng lợi với càng ít tổn thất
càng tốt vì dân tộc Việt Nam đã mất mát quá nhiều. Đây chính là một
nan đề.
Tôi đã từng xót
thương khi đứng trong trại giam nhìn qua khe cửa sổ thấy một cô gái
xinh đẹp, gót chân trắng hồng, aó dài tha thướt đi vào làm việc
trong sở Mỹ năm xưa, lẽ nào ngày hôm nay tôi không đau xót khi Lê
Thị Công Nhân và những người đấu tranh cho dân chủ khác bước vào nhà
tù. Tôi quý trọng sự trong sáng nhiệt tình của Lê Thị Công Nhân đối
với lý tưởng dân chủ hóa đất nước, kính phục sự kiên cường khi cô
đối đầu với thử thách nhưng tôi không tán thành cách cô dấn thân khi
gia nhập và nhận làm phát ngôn viên của một đảng chính trị mà cô chỉ
biết những người tổ chức đảng đó qua mạng Internet, như chính cô đã
tự nói ra. Biết sao khi cô còn rất trẻ. Thuở 20, tôi và nhiều bạn bè
cùng thế hệ cũng đã làm nhiều chuyện “động trời” không kém gì cô.
“Nhóm Đà Lạt” có
quan hệ hoặc quen biết với rất nhiều người có cùng lý tưởng dân chủ
hóa đất nước, trong đó có những mối quan hệ thân thiết, thậm chí cả
ân tình. Chúng tôi kính trọng tâm huyết và sự can trường của họ
nhưng, đối với một số người, chúng tôi không chia sẻ phương thức đấu
tranh của họ. Chúng tôi không cho rằng những tuyên bố đao to búa
lớn, những lời chửi rủa, những quan hệ và hành xử vô nguyên tắc,
những cuộc đấu đá lẫn nhau, những kế hoạch duy ý chí, thoát ly thực
tiễn… có thể mang lại kết quả tốt, nếu không nói là đôi khi có hại
cho công cuộc chung dù những người đấu tranh đã chịu nhiều tổn thất.
Dù thế, chúng tôi tránh công khai phê phán hoặc chỉ góp ý trong phạm
vi hẹp để khỏi làm tác động xấu đến tình hình chung. Chúng tôi không
phải là những người hành động nhưng chúng tôi là những người cầm bút
tự do, thực hiện quyền tự do tư tưởng của mình và tự thấy trách
nhiệm của mình trước những vấn đề chung của đất nước. Trong trách
nhiệm đó, có thể việc gia nhập hay tổ chức các chính đảng đối với
một số người nào đó là cần thiết nhưng không phải là phương thức duy
nhất để tham gia cuộc đấu tranh.
Cho đến nay tình
hình đã cho phép và cần thiết nói ra những điều đó để có thể tìm
được sự đồng thuận hữu hiệu hơn. Dĩ nhiên cuộc đấu tranh chống độc
tài áp bức dưới hình thức nào, kể cả khi thất bại, cũng có những mặt
kết quả tích cực. Tuy nhiên rõ ràng tính hiệu quả và hạn chế mức độ
tổn thất là điều cần phải đặt lên hàng đầu. Mới đây, Hà Sĩ Phu đã
đưa ra nhận định về ba điều bất cập (hay mất cân bằng) của phong
trào dân chủ. Đó là sự mất cân bằng giữa ảo và thực (hay Internet và
thực tiễn), giữa trong và ngoài (quốc nội và hải ngoại), giữa đạo và
đời (tôn giáo và thế tục). (Trong bài “Nói chuyện với Hà Sĩ Phu: Ba
điều bất cập trong “phong trào dân chủ” hiện nay” của Đoàn Giao
Thủy, Diễn Đàn Forum ngày 10-7-07). Nhận định này có lẽ cũng đáng
cho mọi người suy nghĩ và trao đổi dù nó có thể gây sốc hay phản ứng
mạnh ở một số người lâu nay chỉ nhìn nhận vấn đề từ một phía. Dù sao
tranh luận thẳng thắn với tinh thần cầu thị vẫn tốt hơn là mang kính
màu để nhìn sự việc hay tự ru ngủ mình trong ảo tưởng.
Ai là người có thể
đưa cuộc đấu tranh cho dân chủ đến thành công? Rõ ràng không phải
chỉ là những cá nhân và tổ chức đang hoạt động ở hải ngoại và
những “nhà dân chủ” hiện nay trong nước mà còn phải có sự đóng góp
của rất nhiều thành phần khác: Những “dân oan” đang khiếu kiện,
những công nhân đang đình công để đòi quyền lợi chính đáng của mình
(người cộng sản rất hiểu điều này mà họ gọi là từ dân sinh đến dân
chủ, từ tự phát đến tự giác). Những trí thức, văn nghệ sĩ bất bình
vì thiếu tự do tư tưởng, tự do sáng tạo. Những nhà báo ức chế vì bị
siết chặt trong vòng kiểm duyệt. Những công chức có lương tâm trong
guồng máy nặng nề kém hiệu quả. Những doanh nhân năng động nhưng bị
cơ chế ràng buộc, gây khó khăn. Những đảng viên còn lý tưởng phục vụ
nhân dân, kể cả những người ở trong cấp cao của guồng máy. Sau cùng
là tuyệt đại đa số nhân dân đang thất vọng trưóc sự tham nhũng vô
phương cứu chữa của guồng máy và sự xuống dốc của toàn xã hội trên
lãnh vực văn hóa và đạo đức. Chỉ đến khi tất cả những thành phần dân
tộc này đều ý thức và tham dự ở một mức độ nào đó, cuộc đấu tranh
dân chủ hóa đất nước mới có thể thành công.
Sự hỗ trợ của các tổ
chức nhân quyền quốc tế, các chính phủ, các cá nhân trong chính giới
của nhiều nước đối với đòi hỏi dân chủ và nhân quyền của nhân dân
Việt Nam là những đóng góp quý giá, quan trọng nhưng không có vai
trò quyết định hay thay thế được nhân dân Việt Nam đứng lên làm chủ.
Thực tế không thể
phủ nhận là chính quyền Việt Nam hiện nay, dù có nhiều nhược điểm và
sai lầm, vẫn có vị thế độc lập và tự chủ khá nhất so với các chính
quyền trước đây ở cả hai miền nam bắc. Miền Bắc đối với Liên Xô,
Trung Quốc, Miền Nam đối với Mỹ trước đây rõ ràng chỉ là thân phận
“chư hầu”. Ngày nay chính quyền Việt Nam tuy vẫn phải đi dây giữa Mỹ
và Trung Quốc, nhưng trừ việc “nhượng đất, nhượng biển” cho Trung
Quốc, họ không dễ dàng nhượng bộ trong các cuộc thương lượng với các
cường quốc như các sự kiện gần đây cho thấy.
Khác với những người
cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu, người cộng sản Việt Nam (và Trung
quốc) có biệt tài thích nghi để tồn tại. Vẫn hô hào chủ nghĩa
Mác-Lênin nhưng thực chất cộng sản không còn mấy. Họ sẵn sàng thay
đổi để tiếp tục giữ quyền thống trị và cho đến nay họ vẫn còn giữ
được. Họ cũng đề cao dân chủ và lớn tiếng tôn trọng nhân quyền.
Nhưng thực tế xã hội Việt Nam hôm nay như thế nào?
Khi người dân còn có
cảm giác lo sợ khi đối diện với công an, kể cả lúc công an đang làm
việc sai trái như đòi tiền mãi lộ, lúc đó chưa có dân chủ. Khi người
dân còn khúm núm trước một nhân viên chính quyền hách dịch, lúc đó
chưa có dân chủ. Khi văn nghệ sĩ còn tự kiểm duyệt mình trong sáng
tác, lúc đó chưa có dân chủ. Khi công chức nhà nước còn im lặng
trước sự lộng hành độc đoán của thủ trưởng cơ quan, dù đó chỉ là một
anh thủ trưởng bé tí, lúc đó chưa có dân chủ. Khi cử tri còn nhìn
trước nhìn sau, không dám bỏ phiếu theo ý mình, dù là đang trong
phòng phiếu kín, lúc đó chưa có dân chủ. Khi vẫn là “đảng cử, dân
bầu”, lúc đó chưa có dân chủ. Khi các “ông độc quyền” như ông điện,
ông nước, ông hàng không còn tự ý làm mọi việc bất chấp quyền lợi
chính đáng của khách hàng không cần giải thích, xin lỗi hay đền bù,
lúc đó chưa có dân chủ… Có thể kể ra hàng trăm ví dụ như thế. Những
tuyên ngôn, tuyên bố rất hay nhưng đằng sau không có một lực lượng
quần chúng đông đảo có ý thức và ý muốn hành động tán thành và ủng
hộ, sẽ chóng chìm trong quên lãng và bộn bề sôi động của cuộc sống
đời thường.
Bài “Tản mạn về một
đề nghị “tiểu Diên Hồng” của Hồ Phú Bông đăng trên talawas, liên
quan đến bài “Một cuộc đại hội thảo…” chỉ là những “tản mạn”, không
tập trung góp ý vào chủ đề trong bài viết của tôi nhưng ở phần cuối
có một ý nói về “nan đề” đã gợi ý cho bài viết này.
Nan đề này không
phải của “kẻ xâm chiếm” vì bây
giờ không còn ai xâm chiếm cả. “Nội xâm” chỉ là một cách nói. Thực
tế là dân tộc Việt nam đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị của
một thiểu số và nhân dân có khát vọng và trách nhiệm chuyển hóa nó
sang một chế độ dân chủ. Đây là nan đề của toàn dân tộc mà trước
hết là những người đấu tranh cho dân chủ và cũng là của nhà cầm
quyền nếu nhà cầm quyền còn muốn tồn tại trong vai trò lãnh đạo đất
nước.
Theo tôi, một trong
những cách đi tìm lời giải cho nan đề này có thể bắt đầu từ “một
cuộc đại hội thảo và những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do.” Những việc
này hoàn toàn không có gì vi phạm pháp luật. Thực ra, như có người
nhận xét, những hội thảo và gặp gỡ như thế đã có từ lâu nhưng quy
mô, số lượng còn nhỏ và phân tán. Hi vọng với sự phát triển theo
chiều rộng và có chiều sâu, những hoạt động này sẽ là những làn gió
và trận mưa mát lành trên vùng đất khô cằn nứt nẻ sau tai ương.
Đà Lạt trung tuần tháng 7-2007
Tiêu Dao Bảo
Cự
Ghi chú: Tôi viết bài này xong mới được đọc bài góp ý
của Nguyễn Trọng Văn trên talawas. Nguyễn Trọng Văn là giáo sư
triết, một cây bút chính luận sắc bén và cấp tiến ở Miền Nam trước
1975. Ông nổi tiếng với bài viết gây chấn động “Phạm Duy đã chết như
thế nào?” và tiểu luận “Trí thức khuynh tả”. Mấy năm gần đây nghe
nói ông đau yếu nhiều và có thể vì thế ít có điều kiện theo dõi đầy
đủ thông tin như ông đã nói trong bài góp ý. Rất mừng thấy ông trở
lại diễn đàn.
Ở
đây, tôi bày tỏ lời cám ơn về hai bài góp ý của Hồ Phú Bông và
Nguyễn Trọng Văn. Dù quan điểm có thể khác nhau nhưng với sự thẳng
thắn và thái độ tương kính, việc tranh luận bao giờ cũng mang lại
kết quả hữu ích. Hi vọng bài viết này có thể lý giải phần nào một số
vấn nạn và thắc mắc trong bài viết của hai tác giả trên dù rất nhiều
vấn đề không thể có ngay lời kết luận cuối cùng.