25-08-2005
Tiêu
Dao Bảo Cự
Ở Hà Nội, bên hồ Hoàn Kiếm, trước đền Ngọc Sơn có một ngọn tháp dạng
cây bút, thường được gọi là “ Tháp Bút”, hình thành một cụm thắng
cảnh - di tích văn hóa lịch sử - nổi tiếng của thủ đô.
Đền Ngọc Sơn được xây dựng từ thế kỷ 19, trong đền chỉ thờ thần Văn
Xương là ngôi sao chủ của việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng
Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ 13. Ngôi đền ngày
nay do công lao tu sửa của Nguyễn văn Siêu, một nhà thơ, nhà văn hóa
lớn triều Nguyễn. Chính ông đã cho xây Tháp Bút, trên thân tháp có
tạc ba chữ Hán : “Tả thanh thiên” ( Viết lên trời xanh)
Tại sao Nguyễn Văn Siêu viết ba chữ này? Hình ảnh ngọn bút viết lên
trời xanh trước đền thờ Văn Xương và Trần Hưng Đạo hẳn có mối quan
hệ và không tách rời chí hướng, tâm tư của Nguyễn Văn Siêu.
Ngòi bút không chỉ thù tạc và vẽ vời phong hoa tuyết nguyệt. Ngòi
bút không chỉ viết những bài tụng ca chế độ. Ngòi bút viết lên trời
xanh chỉ có thể là viết về nỗi thống khổ của con người, về sự hà
khắc tàn bạo của thế lực cầm quyền. Viết lên trời xanh là để kêu
gào. Viết lên trời xanh là để gởi tới con người và gởi tới mai sau
khi ngòi bút, những người cầm bút bị kềm hãm, phong toả. Viết lên
trời xanh là hành động can đảm của người cầm bút chống lại chế độ
độc tài thống trị…. Có thể hiểu như thế được chăng?
Đương thời Nguyễn Văn Siêu được đánh gía cao. Ông và Cao Bá Quát
được coi là hai nhà thơ tài hoa, tiêu biểu, là “thần Siêu, thánh
Quát”.
Đọc lại tiểu sử Nguyễn Văn Siêu ( 1799- 1872) ta biết ông học giỏi,
giữ nhiều chức quan, có lúc được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc,
nhưng đến năm 1854, ông dâng sớ thỉnh cầu một số việc không được phê
chuẩn bèn cáo bệnh, từ quan về nhà. Từ đó ông chuyên dạy học và viết
sách. Sáng tác thơ ca của ông có nhiều bài phản ánh cuộc sống đói
khổ, thiếu thốn, loạn lạc của nhân dân lúc bấy giờ. Ta còn biết ông
là bạn thân của Cao bá Quát, đã làm câu đối viếng bạn khi Cao bá
Quát chống triều đình bị bắt xử trảm và tru di tam tộc.( Theo một sử
liệu khác, Cao Bá Quát hi sinh giữa chiến trận )
Cao Bá Quát ( 1808-1855) là nhà thơ tài hoa, phản kháng, ngang tàng
và có cuộc đời bi tráng bậc nhất trong văn học Việt Nam.
Về nhân cách, Cao Bá Quát khẳng định mình “ nhất sinh đê thủ bái mai
hoa”( một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai) nên ông không thể cúi
đầu trước ai khác, kể cả triều đình có quyền sinh sát. Ông còn dám
bịt mũi chê thơ “ có mùi nước mắm” của Mặc Vân thi xã của các hoàng
thân quốc thích: “ Ngán thay cái mũi vô duyên / Câu thơ thi xã con
thuyền Nghệ An.”
Chí hướng của ông là “ Nghiên cánh nhạn tếch mái rừng Nhan Khổng /
Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình Chu” ( Tài tử đa cùng phú), xem
việc học thi đương thời chỉ là “ nhai văn, nhá chữ” tầm thường vô
ích. Sáng tác của ông ghi lại sắc nét hình ảnh những người cùng khổ:
người thầy thuốc bụng đói meo lang thang kiếm ăn ở kinh kỳ; nông dân
vì mất mùa và thuế khóa phải bỏ nhà ra tỉnh làm thuê làm mướn; dân
thành thị sống lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị đói, sưu cao thuế nặng,
bị đi phu, đi lính; những người đói từ sớm tinh mơ bồng bế nhau đi
xin phát chẩn…
Ông tự vấn “Khi dân đen bị tai nạn, không có sách lược gì làm cho
đời thái bình, thẹn mình là một nhà nho lại tầm thường đến thế”( bài
Độc dạ). Tinh thần phản kháng của ông đã bộc lộ ngay cả khi ông ngắm
nhìn dòng sông Hương trầm lặng dịu dàng trong một câu thơ lạ lùng
bậc nhất về dòng sông này: Trường giang như kiếm lập thanh thiên. (
Sông dài như lưỡi kiếm dựng lên trời xanh. )
Cuối cùng, thấy ngòi bút không thể dùng để cứu đời, ông đã dấn thân
tham gia quân khởi nghĩa của Lê Duy Cự chống lại triều đình và thất
bại, chịu rơi đầu trên pháp trường. Ngòi bút của ông lúc đó dùng để
viết lên hai câu khẩu hiệu trên lá cờ của nghĩa quân:
Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điều hữu Võ Thang
( Ở Bình Dương, Bồ Bản không có những ông vua tốt như Nghiêu, Thuấn,
thì ở Mục Dã Minh Điều phải có những người chống lại như Võ, Thang )
Nếu ta tin được những lời truyền thuyết thì mấy câu thơ cuối cùng
ông làm trong ngục trước khi bị xử trảm, không cần đến bút, vẫn với
một thái độ bất khuất cao ngạo:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương
Và:
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời.
Đọc lại tiểu sử của hai người bạn “thần Siêu, thánh Quát” và về việc
Nguyễn Văn Siêu dựng Tháp Bút, ta tự hỏi phải chăng Nguyễn Văn Siêu
đã ký thác nhiều tâm sự của chính mình và của người bạn ngang tàng
Cao bá Quát khi viết ba chữ ‘Tả thanh thiên” lên Tháp Bút. Và ta suy
ngẫm gì khi đứng dưới chân ngọn tháp mang chứa nỗi niềm và khát vọng
của người xưa?
Có người nói kẻ sĩ - trí thức Việt Nam hèn nhát, không đóng được vai
trò lịch sử của mình. Điều đó có thể đúng khi nhìn nhận kẻ sĩ - trí
thức như một giai cấp có nhiệm vụ chỉ đường và lãnh đạo xã hội.
Nhưng kẻ sĩ - trí thức thường chỉ thể hiện như một cá nhân và những
cá nhân ưu việt tiêu biểu cho một tầng lớp. Xét cho cùng trong những
tình huống cực đoan của lịch sử, sứ mạng của kẻ sĩ- trí thức không
gì khác hơn là “Tả thanh thiên”.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, mục đích và hình thức khác nhau
nhưng từ tấm lòng yêu dân, yêu nước và tinh thần bất khuất trước bạo
lực cường quyền, lòng căm thù cái ác cái xấu, dù do ngoại xâm hay
chế độ thống trị hà khắc, nhiều kẻ sĩ - trí thức vẫn cầm lên ngọn
bút” Tả thanh thiên”. Lý Thường Kiệt viết “ Nam quốc sơn hà…”, Trần
Hưng Đạo viết “Hịch tướng sĩ văn”, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại
cáo” hay Chu Văn An viết “ Thất trảm sớ” cũng đều là “ Tả thanh
thiên”.
Tùy theo hoàn cảnh, tư thế và tài năng, cách thể hiện, dĩ nhiên có
khác nhau. Các nhà thơ cổ điển dùng nghệ thuật thi ca ẩn dụ như
Nguyễn Du với Truyện Kiều, Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc,
Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm với Chinh Phụ ngâm khúc, Hồ Xuân
Hương với những bài thơ trào lộng kiểu “lộn lèo”, Nguyễn Đình Chiểu
trút hết căm hờn của cả dân tộc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…
Những nhà hoạt động chính trị trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Lý Đông A…với những
bài xã luận chính trị hiểu theo một nội hàm rộng rãi, dù với chủ
trương và chính kiến khác nhau, tất cả đều là “ Tả thanh thiên”.
Trong giai đoạn văn học tiền chiến, các cây bút của Tự Lực Văn Đoàn
với chủ trương cải cách xã hội, những nhà văn hiện thực phê phán như
Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố…. chính là những
ngòi bút “Tả thanh thiên”.
Gần hơn, trước năm 1975 ở Miền Nam, các nhà văn, nhà báo được gọi là
“ đối lập” hay “yêu nước tiến bộ” cũng đã làm công việc “ Tả thanh
thiên” dù họ có thể bị trù dập, vào tù như những người chủ trương và
viết các tờ báo Tin Sáng, Điện Tín, Đối Diện, Tự Quyết, Trình bày…
và các sinh viên học sinh tranh đấu trong phong trào đô thị với vô
số tờ báo, nội san, đặc san rực lửa phản kháng của tuổi trẻ.
Khó khăn phải trả gía đắt nhất và đòi hỏi người cầm bút phải dũng
cảm nhất là việc “ Tả thanh thiên” dưới chế độ độc tài toàn trị.
Sau 1954, ở miền Bắc, các cây bút trong nhóm “NhânVăn- giai phẩm”
không chỉ viết mà chính là dùng những ngọn giáo đâm toạc trời xanh.
Với trái tim rỉ máu, sự căm phẫn cực độ, tấm lòng tha thiết muốn đem
lại công bằng, nhân ái cho một dân tộc đã đổ bao máu xương để giành
độc lập, họ đã vạch trần những sai lầm, xấu xa của những kẻ đã giành
được quyền lực bằng sự hy sinh gian khổ của đồng bào và tiếp tục
củng cố quyền lực bằng cách bóp nghẹt tự do dân chủ của nhân dân.
Những người như Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh
Tường, Trần Dần, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Cung…. đã trả
giá rất đắt cho việc làm của mình nhưng họ đã không ngần ngại. Dù bị
vùi dập và cho đến tận ngày nay họ vẫn chưa được công khai “chiêu
tuyết” nhưng những gì họ đã viết lên trời xanh vẫn còn lồng lộng
mãi, để dân tộc ngẩng lên nhìn và kiêu hãnh.
Năm 1975 lịch sử sang một trang mới nhưng phải nhiều năm sau, lần
đầu tiên Hoàng Ngọc Hiến mới đưa ra nhận định và gọi tên một nền văn
học tự xưng là cách mạng, hiện thực xã hội chủ nghĩa là “ hiện thực
phải đạo”, đồng thời chỉ ra hiện tượng đồng phục đã làm thui chột
sáng tạo, vốn là động lực chính của mọi nền văn học. Cùng nhận thức
đó, Nguyễn Minh Châu đã kêu gọi “viết lời ai điếu cho một giai đoạn
văn nghệ”.
Tiếp sau đó, đến thời kỳ đổi mới, văn nghệ sĩ được tuyên bố cho “cởi
trói”. Một chủ trương cởi mở, đồng thời cũng là sự thú nhận về chính
sách độc đoán thô bạo đối với văn nghệ sĩ trong một thời gian dài.
Với lối nghĩ, lối sống, lối viết đã bị điều kiện hóa, rất nhiều nhà
văn dù được cởi trói vẫn viết như khi mình còn bị mất tự do. Tuy
nhiên một số cây bút đã vươn thẳng lên trời xanh. Những Dương Thu
Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc,
Trần Huy Quang, Bùi Ngọc Tấn, Trần Vàng Sao….. với đề tài và cách
thể hiện khác nhau, nhưng tất cả họ đều dám nói lên những gì bao
nhiêu năm qua bị cấm đoán. Tác phẩm của họ lập tức được hưởng ứng
nồng nhiệt, chứng tỏ con tim của họ hòa cùng một nhịp với đông đảo
nhân dân đáng khát khao tự do và công lý.
Thời gian cởi trói chưa được bao lâu, thấy sự tự do của bàn tay
người cầm bút là nguy hiểm, những người cầm quyền trói họ lại. Tuy
nhiên thời đại đã thay đổi nên cách trói cũng phải khác xưa, nhưng
cái cốt lõi là bằng nhiều cách tạo ra nỗi sợ nơi người cầm bút để họ
tự cầm tù, tự tước đoạt tự do của mình.
Tuy vậy ở nhiều mức độ khác nhau, các nhà văn vẫn tìm cách nói lên
sự thật. Ở những nhà văn lớn tuổi, đó là những tự thú, sám hối muộn
màng trong các hồi ký di cảo như Tô Hoài, Chế lan Viên…. Đối với các
nhà văn trẻ hơn hay mới vào nghề sau này như Nguyễn Viện, Nguyễn Hữu
Hồng Minh, Nguyễn Danh Lam…, sự bung phá của họ rất dữ dội và họ có
cơ hội tốt hơn những thế hệ đàn anh là họ có thể viết thẳng lên trời
xanh, nghĩa là trên không gian ảo của mạng internet.
Trên lĩnh vực có liên quan đến chính trị trực tiếp, nhiều người ở
nhiều địa hạt khác nhau, là nhà văn hay không phải là nhà văn chuyên
nghiệp, đã dùng ngòi bút để viết lên sự phê phán nhà cầm quyền và
khát vọng của dân tộc. Các nhà tu hành thuộc các tôn giáo như các
Hoà thượng, Thượng tọa Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sĩ của Phật giáo,
các linh mục Chân Tín, Nguyễn Văn Lý… của Thiên Chúa giáo, các mục
sư Tin Lành, các chức sắc Cao Đài, Hòa hảo. Những trí thức Miền Nam
trước 75 như Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt…Các
đảng viên cộng sản kỳ cựu phản tỉnh như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Văn
Trấn, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn Khắc Viện, Hồ Hiếu, Nguyễn Trung
Hiếu, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang…Những người thuộc nhiều thành
phần được gọi là những người bất đồng chính kiến đấu tranh cho dân
chủ như Phan Đình Diệu, Hoàng Tiến, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Hà Sĩ
Phu, NguyễnThanh Giang, Vũ Cao Quận, Trần Dũng Tiến, Mai Thái Lĩnh,
Trần Minh Thảo….( hay một trường hợp đặc biệt như Nguyễn Chí Thiện
), tiếp theo bởi những người trẻ hơn như Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ
Bình, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải….
Ngoài ra, ngay trong sự kiểm duyệt khe khắt, một số nhà báo thuộc hệ
thống bộ máy cầm quyền hiện nay đã viết lên được sự thật bi thảm
trong cuộc sống của một bộ phận không nhỏ nhân dân đang sống cùng
khổ và bị áp bức hay sự gian manh của một số quan chức tham ô đục
khóet đang phá hoại đất nước, rúc rỉa xương máu của đồng bào.
Ở nước ngoài, kể cả những người trong nước mới ra như Bùi Tín, Vũ
Thư Hiên, các nhà văn nhà báo viết về thảm cảnh của người Việt di
tản, lên án chế độ độc tài trong nước, kêu gọi hòa giải hòa hợp, chỉ
ra hướng đi cho tương lai phát triển của dân tộc, dù viết trong môi
trường tự do, ngòi bút của họ cũng là “Tả thanh thiên”.
Sứ mệnh của người cầm bút không phải chỉ là “Tả thanh thiên”. Còn
biết bao nhiêu điều để kẻ sĩ - trí thức - văn nghệ sĩ theo đuổi và
hiến dâng trên con đường suy ngẫm, nghiên cứu và sáng tạo của mình:
ngợi ca tình yêu và cái đẹp, đi tìm chân lý cho cuộc sống, soi rọi
những trang lịch sử u ám hay bị bỏ quên hay bóp méo, lang thang trên
những nẻo tâm linh muôn thuở…
Tất cả đều mang lại gía trị tinh thần cho con người. Tuy nhiên,
trong hoàn cảnh mà con người bị chà đạp, tước mất quyền sống như con
người, ngọn bút “Tả thanh thiên” là cần thiết. Dù tình hình bi
đát đến đâu, kể cả khi tưởng như tuyệt vọng, nhưng nếu vẫn còn những
ngọn bút “Tả thanh thiên”, dân tộc hãy còn có hy vọng.
Nhưng để hoàn thành một cuộc đổi đời, cách mạng cho đất nước, những
ngọn bút “Tả thanh thiên” không đủ. ( Và cũng không thể đòi hỏi ở
các ngọn bút nhiều hơn ). Điều này đòi hỏi một sự nghiệp khác, lớn
lao hơn, với sự huy động toàn diện sức mạnh và tiềm năng của cả dân
tộc.
Tháng 8-2005