Tham gia Hội luận
Trả lời các câu hỏi:
- Tôi thuộc loại người “đi
không đổi tên, ngồi không đổi họ” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tên
thật: Bảo Cự.
Bút
hiệu: Tiêu Dao Bảo Cự, Trường Sơn Ca, Vũ Hoài.
Hiện
ở: 35/1 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 9, Đà Lạt.
- Có tiếp xúc chút ít với văn
học hải ngoại.
-
Đã đọc một vài số Hợp Lưu, Thế kỷ 21
-
Xem một vài lần báo văn học trên mạng
như Văn học, Tiền vệ ………..
-
Trao đổi trên bài viết với một số người
cầm bút như Đặng Tiến, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Đoàn
Văn, Tâm Việt, Hòa Văn, Đỗ Mạnh Tri, Nguyễn Gia Kiểng, Trương Anh
Thụy, Đoàn Giao Thủy, Phạm Ngọc Lân….. chủ yếu liên quan đến tác
phẩm “Nửa đời nhìn lại”.
-
Đã gặp mặt, trò chuyện với Hoàng Khởi
Phong, Đoàn Giao Thủy vài lần khi các anh về nước.
- Tác phẩm văn học công bố ở
Mỹ và trên mạng:
-
Nửa đời nhìn lại (Tiểu thuyết, NXB Thế
Kỷ 1994, Văn Nghệ tái bản 1997)
-
Hành trình cuối đông (Bút ký, NXB Văn
Nghệ 1998)
(Hai
tác phẩm này sau đó được đưa lên mạng trong Vietpen, Viet Nam thu
quan…
-
Trên cả hận thù (Tập truyện, tạp chí
Văn học xuất bản 2005)
-
Mảnh trời xanh trên thung lũng (Tác
phẩm viết, NXB Văn Mới 2007)
-
Người nằm chết trên đồi (Truyện ngắn,
tạp chí Hợp Lưu Xuân Ất Hợi 1995)
-
Hành trình trăm năm (Truyện ngắn, tạp
chí Thế Kỷ 21 tháng 6/95)
-
Tiếng đàn (Truyện ngắn, website Đàn
Chim Việt)
-
Hành trình mùa xuân (Bút ký, DCV)
-
Hữu Loan: Cây gỗ vuông chành chạnh (Bút
ký, DCV)
-
Tôi bày tỏ (Nhật ký trong những ngày bị
quản chế, Talawas)
-
Đọc thơ Đông Trình, suy nghĩ về văn
nghệ, chính trị và sám hối (Tiểu luận, Talawas)
- Đã đọc tác phẩm của những
nhà văn hải ngoại in ở trong nước:
-
Sông Côn mùa lũ - Nguyễn Mộng Giác.
-
Trăng thuê ảo ảnh - Nam Dao.
-
Ảo đăng – Mai Ninh.
-
Một tuyển tập truyện ngắn của các nhà
văn nữ hải ngoại.
Nguyễn
Mộng Giác viết “Sông Côn mùa lũ” khi còn ở trong nước. Đây là một
cuốn tiểu thuyết lịch sử bề thế. Tác giả vừa là một người nghiên cứu
lịch sử công phu, nghiêm túc, vừa là một nhà văn có tài năng và sáng
tạo. SCML là một đóng góp đáng kể cho thể loại tiểu thuyết lịch sử
còn khá hiếm của Việt nam.
Nam
Dao và Mai Ninh qua hai tác phẩm trên đã khẳng định là hai cây bút
tài hoa, phóng khoáng. Đóng góp đặc biệt của hai tác phẩm này là đề
tài, cảm xúc, cách tư duy vừa Việt Nam vừa “quốc tế” mà chỉ những
người từng đi và sống nhiều ở nước ngoài mới cảm nhận được. Điều đó
giúp mở rộng tầm không gian và suy tưởng cho văn học Việt.
Vì đã
đọc các tác phẩm trên khá lâu, không nhớ được chi tiết, chỉ nêu ấn
tượng mạnh nhất còn đọng lại. Riêng tuyển tập của các nhà văn nữ
giúp hiểu thêm tâm tình, hoàn cảnh của người Việt, đặc biệt của phụ
nữ trong cuộc sống tha hương nơi xứ người.
5-9.
Chưa có ý kiến cụ thể.
10.
Giao lưu, hội nhập giữa những người cầm bút
trong và ngoài nước: Tại sao? Như thế nào? Làm gì?
Đề cập
vấn đề này không thể không nhắc lại lịch sử và xem xét tính đặc thù
kỳ lạ của văn học Việt Nam, dù hết sức sơ lược. Không có những vấn
đề phức tạp của quá khứ, vấn đề hội nhập hôm nay không cần được đặt
ra.
Văn
học Việt Nam ngoài văn chương truyền khẩu bằng tiếng Việt, văn học
chữ viết đầu tiên lại được sáng tác bằng chữ Hán, tức là một thứ chữ
nước ngoài. Kế đến văn học chữ nôm là thứ chữ dùng chữ Hán để phiên
âm tiếng Việt nhưng đại đa số người Việt là người bình dân ít học
không đọc được. Tiếp theo nữa mới là văn học chữ quốc ngữ. Đó là các
loại hình, các giai đoạn văn học được gọi tên theo chữ viết. Đến
nay, đại đa số người Việt cũng không đọc được chữ nôm và chữ Hán,
nhưng không ai phủ nhận những tác phẩm viết bằng hai thứ chữ này
không phải là văn học Việt Nam.
Thời
hiện đại, khi chữ quốc ngữ đã trở nên phổ biến và trở thành văn tự
chính thức của quốc gia, người ta không còn gọi tên các giai đoạn
căn cứ vào chữ viết nữa mà bằng mốc thời gian lịch sử và xu hướng
của nội dung tác phẩm. Sau một thời kỳ được gọi chung là văn học
tiền chiến, từ khi hai miền nam-bắc bị chia cắt, tình hình văn học
cũng phân ly.
Miền
Bắc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, dĩ
nhiên cả văn học, tự gọi là văn học cách mạng, văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có một xu hướng khác tạm gọi là “Nhân
văn-Giai phẩm” thể theo tên gọi của những người chủ trương, tham gia
hai tờ báo văn học này, phê phán những sai lầm và hiện tượng tiêu
cực của chế độ nhưng đã bị dập tắt ngay.
Miền
Nam chịu ảnh hưởng của phương tây, có đủ loại xu hướng, từ lãng mạn
đến hiện sinh, hiện thực xã hội, chống cộng…, và cả yêu nước-tiến
bộ-cách mạng, có nội dung chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Loại sau
cùng, tuy không bị đàn áp như đối với Nhân văn-Giai phẩm ở miền Bắc
nhưng cũng chỉ xuất hiện hạn chế trên các báo chí của sinh viên học
sinh và các báo, tạp chí đối lập với chính quyền. Có thể kể thêm xu
hướng này trên các tờ báo của những tổ chức sinh viên thiên tả, thân
cộng ở nước ngoài.
Trong
thời gian đất nước bị chia cắt, miền Bắc không cho phổ biến các tác
phẩm của miền Nam (trừ những tác phẩm có nội dung chống Mỹ và chính
quyền Sài Gòn) và một số lớn tác phẩm văn học tiền chiến. Ngược lại,
miền Nam cũng không cho phổ biến các tác phẩm của miền Bắc, trừ
những tác phẩm của nhóm Nhân văn-Giai phẩm.
Sau
1975 đất nước thống nhất, gần như toàn bộ tác phẩm văn học của miền
Nam bị cấm. Những nhà văn của miền Nam vượt biên tị nạn ra nước
ngoài, cùng với thế hệ cầm bút kế tiếp, hình thành văn học hải
ngoại. Tác phẩm của văn học hải ngoại bị cấm ở trong nước, trừ một
vài tác phẩm hiếm hoi được phép xuất bản mãi về sau này. Đến đây,
người ta lại căn cứ vào vị trí địa lý để phân biệt văn học trong
nước và văn học ngoài nước. Chưa kể gần đây, từ khi Internet được
phổ biến, lại xuất hiện thêm văn học mạng trên không gian ảo.
Vậy
đâu là diện mạo đích thực, đầy đủ của văn học Việt Nam và có cần
thiết phải giao lưu, hội nhập văn học trong nước và văn học hải
ngoại?
Trên
nguyên tắc mà có lẽ mọi người đều chia sẻ, văn học Việt Nam bao gồm
tất cả các tác phẩm văn học do mọi nhà văn Việt Nam sáng tạo nên
bằng ngôn ngữ Việt Nam, bất kể xu hướng chính trị, xu hướng sáng
tác, thuộc thời đại lịch sử, chế độ chính trị nào và ở bất cứ nơi
đâu, trong hay ngoài nước (Trừ tác phẩm viết bằng chữ Hán thời xưa
đã được mặc nhiên thừa nhận, còn tác phẩm của các nhà văn hiện tại
được viết bằng ngoại ngữ khác là một vấn đề có lẽ còn đang tranh
cãi.). Quyền và mong ước của người đọc là mọi người Việt Nam có thể
đọc bất cứ tác phẩm nào do người Việt Nam sáng tác trong nền văn học
Việt Nam.
Nguyên
tắc, quyền và mong ước đó hiện nay chưa được thực hiện.
Mặt
khác, qua hai cuộc chiến tranh và hậu quả kéo dài cho đến hôm nay,
sự chia rẽ, đối kháng, thù hận trong các bộ phận của dân tộc đã ảnh
hưởng mạnh vào nội dung văn học, làm cho những hệ lụy đó càng thêm
sâu sắc hơn. Một số nhà văn không có thái độ chính trị trực tiếp
đối với cuộc chiến nhưng không ít nhà văn, ở cả hai miền Nam-Bắc,
đặc biệt là ở miền Bắc đã thể hiện đường lối chính trị của nhà cầm
quyền trong tác phẩm. Tác phẩm của miền này mô tả nhân vật của phe
đối địch như những kẻ xấu xa, tàn bạo, phi nhân từ hình thể cho đến
hành vi, tư tưởng và kêu gọi nhân dân xông lên tiêu diệt kẻ thù.
Những tác phẩm loại này khi đi vào công chúng đã tạo ra một hiệu ứng
xã hội lớn làm cho sự phân ly trong dân tộc càng nặng nề hơn. Những
tác phẩm như thế vẫn còn đó và tồn tại mãi mãi. Nhà văn không thể
chối bỏ trách nhiệm của mình.
Nếu
cuộc chiến tranh vừa qua không cần thiết, hay cần thiết nhưng không
đến mức độ như thế, hay cần thiết nhưng cái giá phải trả quá đắt…
Nếu chiến tranh là tội ác, nếu sau chiến tranh ai thắng ai thua thì
nhân dân cũng là người chiến bại và đau khổ… Nhà văn là người đã cổ
võ cho chiến tranh, nhà văn cũng đã gián tiếp tham gia vào tội ác.
Nếu nhà văn tự cho là lương tri của dân tộc thì sau khi có độ lùi
của lịch sử, nhà văn cũng phải sám hối và có hành động chuộc lỗi.
Chế Lan Viên, nhà thơ lớn hàng đầu và có “lập trường kiên định” của
miền Bắc, đã khẳng định và tự thú điều đó một cách đau đớn trong mấy
bài thơ di cảo, đặc biệt trong ba bài “Bánh vẽ” “
Ai? Tôi?” và “Trừ đi”. Đó là việc làm sáng suốt và dũng cảm
lúc cuối đời nhìn lại một cách chân thành.
Tuy
nhiên bây giờ không phải là lúc phán xét, lên án lẫn nhau mà chính
là lúc mỗi người lắng lòng, tự nhìn nhận để đi đến hòa giải hòa hợp
giữa những nhà văn trong và ngoài nước phần lớn trước kia đã từng ở
hai phía đối địch. Những nhà văn cựu binh Mỹ, những người ngoại
quốc, đối với Việt Nam đã làm được điều đó, dĩ nhiên họ ở góc độ
khác, nhưng có lý gì nhà văn Việt Nam lại không làm được với chính
đồng bào của mình.
Các
nhà văn trong và ngoài nước gặp gỡ, giao lưu trước hết là vui cái
vui của ngày hội những người cùng cầm bút Việt Nam, không còn ở tư
thế đối địch, có thể gặp nhau mà không cần thủ thế, đề phòng, với
lòng phơi mở. Gặp gỡ là để giải tỏa những khác biệt, đối nghịch, hận
thù có thể còn vương lại, đi đến hòa giải hòa hợp trong cái chung
cùng của dân tộc. Gặp gỡ để chia sẻ tâm tình, để đọc tác phẩm tâm
đắc cho nhau nghe. Gặp gỡ để bàn về tương lai văn học Việt Nam của
một đất nước Việt Nam không còn chia cắt sông núi và ý thức hệ.
Những
việc đó trong thực tế không dễ dàng do nhiều ngăn trở từ chính bản
thân nhà văn và từ phía người cầm quyền. Nhà văn đã từng nhân danh
chính nghĩa để viết, với tất cả tim óc và dòng máu sục sôi cho đất
nước trên đầu ngọn bút, ngay cả khi chiến tranh đã qua đi nhưng
những hồi ức, sự kiêu hãnh hay nỗi nhục nhằn vẫn còn nóng hổi. Nhưng
thế nào là chính nghĩa lại đã gây ra biết bao máu lửa, hận thù, oan
khuất. Vậy bây giờ không còn là lúc tranh cãi ai có chính nghĩa ai
không. Sự tranh cãi về điều này có thể không bao giờ kết thúc với
người trong cuộc. Nên để cho lịch sử, cụ thể là các thế hệ sau nhìn
nhận phán xét. Những người trong cuộc, với bao nhiêu ràng buộc tự
thân và xã hội, trên các mặt tình cảm, tư tưởng và đời sống trong
một thời gian dài, khó có thể tự mình nhìn nhận một cách khách quan
trước một vấn đề quá ư phức tạp của lịch sử. Vấn đề đáng suy ngẫm là
văn chương có nên còn là công cụ của chính trị, của nhà cầm quyền
và cũng là vũ khí của chính mình trong những cơn mê cuồng của lịch
sử hay không.
Đặt
vấn đề như thế, cuộc hội luận này khó tránh khỏi liên quan đến những
vấn đề chính trị như nhóm chủ trương đã đề ra là “Về căn
bản, xin nhấn mạnh, đây là một diễn đàn đóng khung trong những thảo
luận trên các vấn đề văn học nghệ thuật.”
Cần
phải lường trước và có biện pháp thích hợp.
Làm
sao nói đến văn học mà không đề cập đến tác phẩm tức nghệ thuật, nội
dung, tác dụng của văn học vào đời sống xã hội, đến trách nhiệm của
những người sáng tạo ra văn học? Do đó chỉ có thể giới hạn bằng cách
đề ra một vài phương châm, thí dụ như đối với những vấn đề quá khứ,
tạm thời “đồng ý với những bất đồng”, gác qua một bên những vấn đề
gai góc đã gây chia rẽ để khỏi kéo dài cuộc chiến cũ và tạo ra chiến
trường tư tưởng mới. Cũng không đề cập đến việc tham gia những hoạt
động chính trị gì có thể bị quy là có tính cách chống đối chế độ,
chống đối nhà cầm quyền.
Tuy
nhiên, làm sao nhà văn gặp nhau lại không nói đến quyền tự do tư
tưởng, tự do sáng tác, tự do báo chí và xuất bản là những quyền cơ
bản của công dân và của người cầm bút đã được thực hiện ở hầu hết
các quốc gia văn minh và nhà văn Việt Nam xứng đáng được hưởng sau
bao nhiêu gian khổ cùng cực?
Nhà
văn phải nói đến quyền lập hội nghề nghiệp tự do của mình không chịu
sự chỉ đạo của nhà cầm quyền, đối với bất cứ nhà văn nào ở trong và
ngoài nước. Trong chiến tranh và cuộc đối đầu sinh tử của hai nhà
nước, hai chế độ, về phía nhà cầm quyền, có thể việc tập trung sức
mạnh cho chiến thắng là cần thiết nhưng bây giờ đất nước đã hòa
bình, thống nhất, có lý gì nhà văn lại phải mãi là chiến sĩ cho một
nhà nước, một chính quyền, một chế độ, một ý thức hệ mà không phải
là lương tri của dân tộc của nhân loại.
Làm
sao nhà văn gặp nhau mà lại không trao tặng cho nhau tác phẩm, không
nói đến mong mỏi và cách thức đưa tác phẩm của mình đến công chúng,
đến toàn thể dân tộc không phân biệt ở trong hay ngoài nước?
Văn
học Việt Nam là của mọi người Việt Nam. Việt Nam đang trên đường hội
nhập, vươn ra thế giới, nhưng thử hỏi có bao nhiêu tác phẩm Việt Nam
được dịch ra nhiều thứ tiếng, được độc giả các nước tìm đọc, đánh
giá cao, nói chi đến ảnh hưởng lên tư tưởng của toàn nhân loại như
các nền văn học khác từng có. Một câu hỏi sẽ làm hổ thẹn và phiền
muộn cho các nhà văn và những người yêu văn học nhưng các nhà văn
phải tìm được cách trả lời.
Trên
đây là những suy nghĩ đầu tiên về chủ đề “Hội nhập giữa các nhà văn
trong nước và hải ngoại” do nhóm chủ trương đề ra, chỉ có tính cách
sơ khởi, nêu vấn đề, chưa được đào sâu, phân tích kỹ, có vấn đề chưa
suy xét thấu đáo. Với tất cả sự chân thành, thẳng thắn và khiêm tốn,
xin đón nhận sự chỉ giáo và trao đổi của các nhà văn và độc giả.
Đà Lạt 9/1/2008
Tiêu Dao Bảo Cự