(Trao đổi
nhân bài
viết "Những người đi tìm tổ quốc"
và những bài viết mới khác của Trần Trung Đạo cùng những ý kiến tham
gia trên talawas)
Trước đây
không lâu, từ khi có điều kiện đọc được một số bài viết của Trần
Trung Đạo, tôi thực sự mến mộ cách suy nghĩ đầy tính nhân bản, tinh
thần dân tộc, không định kiến và phóng khoáng của anh (xin được phép
gọi bằng anh thay cho từ "ông" lịch sự nhưng xa cách) khi nhìn nhận
những vấn đề lịch sử gai góc, từ đó mở ra những cách tiếp cận có khả
năng xóa bớt định kiến, hận thù để mọi người có thể gần nhau hơn
trong tình nhân ái. Dù thế, tôi biết vẫn có nhiều người không đồng
tình với các quan điểm của anh và đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận
gay cấn. Đối với tôi, cũng có một số luận điểm của anh tôi chưa tán
thành. Và tôi hiểu rằng thật khó khăn vô cùng để những người Việt
Nam thông cảm với nhau khi đã trải qua hai cuộc chiến trong gần nửa
thế kỷ tang thương máu lửa và phân ly, thù hận.
Vì một số lý
do riêng, bài này được viết hơi chậm kể từ khi bài của anh được đăng
tải nhưng có lẽ nó cũng không quá muộn vì những vấn đề vẫn còn đó,
cũng như chuyên mục "Chiến tranh nhìn từ nhiều phía" của talawas vẫn
nhận được bài đóng góp đều đặn. Tôi sẽ không trực tiếp trao đổi về
những luận cứ trong các bài viết của anh hay ý kiến của những người
khác góp ý cho anh mà chỉ viết như những lời tâm sự được gợi hứng từ
các bài viết, các ý kiến đó, và tôi cũng mong được anh và nhiều
người khác chia sẻ và trao đổi thêm.
Từ thời thơ
ấu tôi đã chịu đựng thảm họa của chiến tranh khi mất cha từ lúc 5
tuổi và gia đình sống trong cảnh lưu lạc nghèo nàn nhưng tôi chỉ
thực sự bị tác động mạnh bởi chiến tranh khi vào đại học, lúc bắt
đầu có nhận thức độc lập về cuộc sống. Một lần tôi đi ngang qua bến
Thương Bạc của thành phố Huế, tôi chứng kiến cảnh một xác người đã
thối rửa trôi trên sông tấp vào bờ. Dân chúng bu lại xem. Có người
nói: Xác của Việt cộng đó, cứ để cho cá rỉa. Người khác nói: Biết
đâu là xác của người dân vô tội. Người khác nữa: Xác của ai cũng là
người, vớt lên chôn cất kẻo tội nghiệp… Tôi sững sờ đau đớn và suốt
đêm hôm đó tôi không sao ngủ được.
Con sông Hương
là nơi ôm ấp nâng niu tuổi thơ tôi, nơi tôi đã học bơi lần đầu trong
đời để có thể bơi vượt sông qua bờ bên kia vào các khu vườn ăn trộm
trái cây cùng với lũ bạn nghịch ngợm phá làng phá xóm, nơi tôi có
thể bơi ra giữa dòng khoát nhẹ tay nằm phơi mình trên sóng nước và
đám rong rêu bập bềnh hàng giờ liền để mơ mộng. Con sông Hương cũng
là nơi chứng kiến cuộc tình đầu lãng mạn đầy trăng của tôi với cô bé
hàng xóm nơi bến đá rập rình sóng nước dưới chân ngôi tháp cổ những
đêm khuya khoắt. Con sông xanh, êm, mềm, dịu dàng như lụa đã từng là
người mẹ, người tình của tôi bây giờ trở thành chiếc quan tài đẩy
đưa một xác thân người mục rữa vô thừa nhận.
Cũng như mọi
người chứng kiến, tôi không biết xác người đó là ai nhưng tôi biết
chắc đó là một người Việt Nam và chính chiến tranh đã gây ra thảm
cảnh này. Ngay từ thời
đó, trong sinh viên,
với tầm nhìn
rất giới hạn của mình,
chúng tôi đã
tranh luận với nhau về vấn đề mà cho đến nay chúng ta vẫn còn tranh
luận: "Gọi
tên gì cho cuộc chiến?". Chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh ở Việt
Nam. Chiến tranh ý thức
hệ. Chiến tranh giải phóng.
Chiến tranh
xâm lược.
Chiến tranh
chính nghĩa. Chiến
tranh phi chính nghĩa. Chiến tranh ủy nhiệm…
Điều trực tiếp
tác động mạnh đến chúng tôi là sự hiện diện của người Mỹ. Năm 1964,
chúng tôi đứng nhìn thán phục tinh thần và thái độ làm việc của
những người lính công binh Mỹ ở trần, đầu không đội mũ, lái xe ủi
làm việc quần quật suốt ngày để san ủi mặt bằng xây dựng trưòng Đại
học Sư Phạm (ngôi trường mới nơi mà chúng tôi sẽ vào học từ năm sau)
và trường Trung học Kiểu Mẫu bên bờ sông Hưong. Năm 1965, trong một
lần đi xe đò trên quốc lộ 1, tôi chứng kiến cảnh một toán lính Mỹ
tắm trần truồng, cười hô hố bên dòng sông cắt ngang quốc lộ khi hành
khách quay mặt không dám nhìn vì xấu hổ. Tôi cảm thấy nhục nhã vì cả
một dân tộc bị khinh khi. Tiếp theo là vô số những cảnh động chạm
đến tự ái dân tộc khi những tên lính viễn chinh say rượu, chọc ghẹo
phụ nữ, lái xe bạt mạng hất ngã, cán chết người trên đường phố…,
tiếp theo là những chuyện lính Mỹ và đồng minh tàn sát người dân ở
nông thôn. Thế là ý thức chống Mỹ bùng lên. Năm 1966, sinh viên Huế
tổ chức giải tỏa đường Duy Tân là nơi người Mỹ rào lại để bảo vệ các
cơ quan của người Mỹ đóng trụ sở vì không chấp nhận việc người ngoại
quốc lại có thể làm chủ một con đường trên thành phố quê hương. Khi
một toán lính Mỹ đi hành quân về, xé biểu ngữ "Yankee, go home!" của
sinh viên treo trên tưòng khuôn viên đại học, Hội Đồng Sinh Viên
Liên Khoa đã gởi tối hậu thư cho tòa Lãnh sự Mỹ, yêu cầu toán lính
Mỹ phải đến xin lỗi trong vòng 24g, nếu không sẽ không bảo đảm tính
mạng của người Mỹ…
Ở đây tôi còn
muốn mô tả sâu hơn chuyển biến nội tâm của mình trong một kinh
nghiệm cá nhân.
Sau khi phong
trào tranh đấu năm 1966 bị dẹp tan, tôi bị bắt giam ở Trại Tạm giam
của Trung tâm Thẩm vấn thành phố Huế. Ở khu đất trống bên cạnh dãy
nhà giam cũ, người ta bắt đầu xây thêm một trại giam mới. Theo nhiều
nguồn tin, tù kháo nhau rằng đây là một trại giam tối tân của Mỹ.
Mỗi phòng giam rất nhỏ chỉ để nhốt một người, đặc biệt chỉ giam
những cán bộ cộng sản cao cấp để khai thác và sau này dùng trao đổi
tù binh. Trại giam mới được xây một cách chớp nhoáng và được sử dụng
ngay khi hoàn thành. Một số nhân viên hành chánh được tuyển vào làm
việc. Các nhân viên này đi làm bằng cổng cũ của Trại Tạm giam, ngang
qua phòng giam tôi đang ở. Phòng giam này nhốt hơn 30 người, có một
cửa sổ rất nhỏ mà những người lính gác đã nhân đạo không đóng lại
cho chúng tôi có chút khí trời để thở. Chúng tôi tranh nhau ra đứng
ở ô cửa sổ để nhìn các nhân viên đi qua vào giờ đi làm và tan sở.
Trong số nhân viên đó, tôi đặc biệt chú ý đến một cô gái. Tôi thấy
cô thật lạc lõng trong khung cảnh này.
Cô còn rất
trẻ, khoảng mười tám tuổi, rất xinh đẹp. Từ khuôn mặt, quần áo, dáng
đi đều tỏa ra một cái gì vô cùng dịu dàng tinh khiết. Cô có mái tóc
đen huyền buông xõa ôm lấy khuôn mặt trắng ngần. Đôi mắt cô xa xôi
hiền dịu và hình như chan chứa một nỗi buồn mênh mông. Cô thường mặc
áo trắng, áo hoa xanh nhạt hay áo lụa vàng. Bàn chân cô trắng hồng
trên đôi dép quai nhung thấp thoáng dưới tà áo dài bay bay.
Khi đi ngang
qua gần cửa sổ, cô thường cúi đầu nhìn bàn chân hay trang nghiêm
nhìn thẳng về phía trước. Tôi chú ý nhận ra dần dần từng đặc điểm
của cô sau mỗi sáng mỗi trưa mỗi chiều ra cửa sổ đứng ngắm. Dần dần
tôi trở nên say mê hình ảnh cô gái. Tôi cảm thấy mình xôn xao và
ngóng đợi thường xuyên giờ phút cô đi qua. Mỗi ngày bốn bận, hình
ảnh cô thoáng qua như một cánh bướm, một ảo ảnh. Giờ phút đó tôi bám
vào song sắt cửa sổ, dõi mắt nhìn theo cho đến khi cô đi khuất và
ngẩn ngơ bàng hoàng đến mấy phút. Tôi cảm thấy khắc khoải nuối tiếc,
mong mỏi như vừa mất đi một điều gì vô vàn thân thiết.
Có lần khi đi
qua cô gái bất ngờ thoáng nhìn vào cửa sổ. Tôi giật mình bủn rủn
chân tay và sau đó ngất ngây suốt cả một buổi. Các bạn tù trẻ trong
phòng chế riễu tôi đã trồng cây si và bảo nhau nhường chỗ cho tôi
mỗi khi cô gái đi ngang qua. Dần dần cô gái liếc vào cửa sổ như một
thói quen. Cái liếc nhìn vội vàng đó đối với tôi hình như có ẩn chứa
một thứ tình cảm ngập ngừng man mác. Tôi luôn luôn đứng ở đó, trung
thành và khao khát. Tôi sửa soạn sẵn nụ cười trên môi, ánh mắt đam
nê thiết tha để đợi cô gái. Tôi muốn trao gởi đến cô gái cái gì
nồng nàn nhất của tâm hồn tôi, trong vô cùng im lặng và câm nín. Cô
là một thoáng hạnh phúc tuyệt vời, một nôi ru bình an, một giấc mơ
vươn thoát cho tôi giữa chốn tù ngục, dù tất cả điều đó đều lướt qua
như một cánh chim nhẹ nhàng bé bỏng.
Tôi biết rằng
đây chỉ là sự trở về lảng đảng của một thứ tình yêu vô cùng lãng mạn
phóng khoáng ngày trước. Bây giờ không phải là lúc cho tôi yêu đương
mơ mộng nữa. Tù ngục đã cho tôi quá nhiều nhọc nhằn thống khổ, nuôi
lớn lòng phản kháng và rèn cho tôi nghị lực phấn đấu. Đôi lúc tôi
cũng muốn buông thả cho mình bay cao lên vùng trời trăng sao của một
thứ tình yêu vô danh thần thánh để lãng quên chốn lao tù. Nhưng
không thể được. Căn phòng giam với ba mươi mấy người gầy gò, bệnh
tật, đau khổ, bị đày đọa đã luôn kéo tôi trở về.
Đứng giữa đám
người này, tình yêu xanh cao của tôi dành cho cô gái đã bị hoen ố vì
những câu hỏi dần dà nẩy sinh trong đầu óc tôi. Tại sao cô đi làm
cho Mỹ, nhất là làm ở một trại thẩm vấn? Cô nghĩ gì về tôi, về những
người tù trong trại giam này, những đồng bào của cô đang bị đối xử
còn thua những con vật? Cô làm công việc gì trong trại giam đó? Bọn
cố vấn Mỹ khả ố đối xử thế nào với một cô gái xinh đẹp như cô? Cô đã
bằng lòng cho chúng nó những gì để đổi lấy đồng lương và những đồ
hộp, những quà tặng sang trọng của bọn Mỹ? Tôi run lên và thấy mình
bừng bừng với những câu hỏi này. Một niềm phẫn nộ dâng lên trong tôi
như cơn nước lũ. Hình ảnh cô gái nhảy múa nhòe nhoẹt trong óc tôi và
hình như bị bôi đen đi bằng những vết sơn tàn bạo. Không, tôi không
muốn oán trách cô. Tôi chỉ thấy xót thương thôi. Xót thương cho bàn
chân trắng hồng xinh đẹp của cô đang bước vào vũng lầy bẩn thỉu.
Không phải tội ở cô mà tội ở chiến tranh và người Mỹ. Nếu người Mỹ
không đến đây thì cô chắc chắn vẫn còn tha thướt trong sân trường,
trên con đường xanh bóng cây dọc theo bờ sông sau khi tan học. Và
tôi đã có thể đứng đợi cô nơi bến đá để cùng cô đi một chuyến đò
ngang qua con sông rất dịu dàng của Thành phố Thơ này.
Tôi bỏ không
ra đứng ở cửa sổ để đợi nhìn cô gái nữa. Cô đã biến thành sức nóng
nung đốt lòng phản kháng và ý chí đấu tranh nơi tôi. Hình ảnh dịu
dàng thanh khiết của cô, tình yêu câm nín siêu thoát của tôi dành
cho cô không cần thiết nữa. Tất cả đã thể nhập vào con tim nồng nàn
ngọn lửa thiêu xiềng hủy xích của một người tù sinh viên trẻ tuổi.
Như thế đó.
Chúng tôi (những người cùng hoàn cảnh và tâm trạng như tôi) chống Mỹ
không phải theo ý nghĩa tinh thần "chống Mỹ cứu nước" của những
người cộng sản đưa ra hay tuyên truyền mà chỉ là phản ứng tự nhiên
của những người yêu nước khi thấy đất nước bị lăng nhục vì sự có mặt
của lính viễn chinh, mặc dù trên phương diện cá nhân chúng tôi vẫn
có quan hệ tốt vối một số người bạn Mỹ, vẫn khâm phục nền văn minh
Mỹ. Về sau này chúng tôi nghiệm ra có lẽ một trong những nguyên nhân
quan trọng nhất cho sự thất bại của chính quyền Mỹ và chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa là việc chấp nhận đưa quân Mỹ và quân đồng minh
vào Việt Nam. Nó đã làm thổi bùng lên ý thức bài ngoại trong nhân
dân và giúp những nguời cộng sản có lý do để tuyên truyền cho chính
nghĩa của cuộc "chiến tranh giải phóng", không chỉ trong nước mà còn
trên cả thế giới và ngay trên đất Mỹ. (Thực tế lúc đó ở Miền Bắc
cũng có mặt quân đội Liên Xô và Trung quốc nhưng số lượng ít và họ
khéo léo che đậy. Chủ yếu họ nhận tài trợ và vũ khí, đạn dược.)
Về các chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa, đối với chúng tôi không có chính quyền nào
đáng tôn trọng. Sau khi bị lật đổ vào năm 1963, chính quyền Ngô Đình
Diệm được tổng kết đánh giá như một chính quyền "độc tài, gia đình
trị". Các chính quyền kế tiếp cho đến năm 1975 là những chính quyền
thư lại hay độc tài quân phiệt, tất cả đều lệ thuộc người Mỹ ngày
càng nặng nề.
Thể chế chính
trị và cuộc sống của nhân dân Miền Nam lúc đó, theo chúng tôi cần
phải được thay đổi tốt hơn. Chúng tôi và nhân dân nói chung cần chấm
dứt chiến tranh, cần tự do dân chủ thực sự, cần no cơm ấm áo, cần
độc lập tự chủ, không lệ thuộc vào ngoại bang. Chúng tôi tham gia
đấu tranh để chống lại hay lật đổ các chính quyền không đáp ứng được
các yêu cầu này với ước mong sẽ góp phần xây dựng được một chính
quyền có thể mang lại hạnh phúc cho dân tộc vốn đã chịu đựng quá
nhiều đau khổ.
Trong hoàn
cảnh đó đã xuất hiện một số người được mệnh danh là thiên tả hay
thiên cộng. Những người này tạm gọi là trí thức ở thành thị vì phần
lớn họ là sinh viên, giáo sư trung học hay đại học và một số nhà
văn, nhà báo, kể cả một số tu sĩ của các giáo hội. Tuy nhiên, thái
độ và sự lựa chọn của họ không hoàn toàn giống nhau. Có người chỉ là
một thái độ tinh thần. Có người là thái độ chính trị. Có người dấn
thân tranh đấu. Có người tự nhận là "thành phần thứ ba" (không phải
là quốc gia hay cộng sản). Có người thân cộng hay trở thành cộng
sản. Lựa chọn của những người này, nhất là nhũng người thực sự dấn
thân hành động có thể nói là dũng cảm vì họ có thể gặp hiểm nguy, tù
đày, thậm chí hi sinh cả tính mạng trong khi họ có thể có cuộc sống
bình an, sung túc nếu họ chấp nhận đi cùng chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa. Thái độ và hoạt động của những người thuộc thành phần này nói
chung bất lợi cho các chính quyền Miền Nam và là sự hỗ trợ hữu hiệu
(dù có ý thức hay không) cho Mặt Trận Giải Phóng và Cộng sản Bắc
Việt.
Khi lựa chọn
thái độ và hành động chính trị như trên, thành phần này không phải
không hiểu chút gì về Cộng sản Bắc Việt hay Mặt Trận Giải Phóng. Tuy
nhiên sự hiểu biết này không thấu đáo và đầy đủ. Chuyện cải cách
ruộng đất hay vụ "Nhân văn - Giai phẩm" ở Miền Bắc xảy ra không lâu
lắm nhưng hơi xa vời và phần nào có tính chất tuyên truyền của chính
quyền Miền Nam. Mặt Trận Giải Phóng lệ thuộc hay có thể chính là con
đẻ của Cộng Sản Bắc Việt nhưng lại mang một mầu sắc lãng mạn cách
mạng, đồng thời là lực lượng duy nhất có thực lực có thể đối đầu với
chính quyền Miền Nam trong khi các lực lượng đối lập công khai khác
ở các đô thị không đủ sức để lật đổ các chính quyền này. Điều quan
trọng hơn cả là họ chỉ chú tâm đến việc tìm cách chấm dứt chiến
tranh, chống lại hay lật đổ chính quyền Miền nam trước mắt mà họ cho
là thối nát, bất lực, lệ thuộc ngoại bang. Họ chưa suy nghĩ sâu xa
đến tương lai hay có một tầm nhìn lịch sử về thể chế cộng sản sau
này trên đất nước.
Rõ ràng đó là
những hạn chế đồng thời cũng là lỗi lầm nghiêm trọng của thành phần
này, nhất là khi tình hình đất nước sau năm 1975 diễn ra hoàn toàn
khác hẳn, nếu không nói là trái ngược với những gì họ mong đợi. Đối
với những người còn giữ được con tâm trong sáng của những ngày dấn
thân vì lý tưởng thì tình hình này là một sự phản bội, một bi kịch
của chính họ và đất nước. Tuy nhiên cũng không ít người vẫn tự hào
là đã đứng về phía chiến thắng và khi đã gắn mình vào guồng máy cai
trị, quyền lực và quyền lợi đã làm họ quên đi lý tưởng ngày truớc,
để trở thành giai cấp thống trị mới. Một số khác tuy có bẽ bàng, ray
rứt bên trong nhưng rồi cũng nhắm mắt đưa chân, xuôi theo dòng chảy
và dần dần nhạt phai đi tinh thần phản kháng, điều đã làm họ trở
thành những người thiên tả dũng cảm dấn thân ngày nào.
Bây giờ ta có
thể dễ dàng so sánh tình hình trước và sau năm 1975 để đặt dấu hỏi
hay phê phán, lên án những người thiên tả, thân cộng ngày trước tại
sao là trí thức họ lại "ngu dốt" khi góp phần đạp đổ một chính
quyền, một chế độ tồi tệ để rồi góp phần xây dựng một chính quyền,
một chế độ còn tồi tệ hơn. Vấn đề thực ra không phải được đặt ra đơn
giản như vậy. Nếu những người đó có thể nhìn thấy trước được tuơng
lai rõ ràng như hiện nay, chắc không ai dại dột hay điên rồ dấn thân
vào con đường không ít bất trắc và nguy hiểm mà họ đã lựa chọn. Dĩ
nhiên sự hạn chế đó cũng là lỗi lầm cần phải sám hối nhưng đó không
phải là điều không thể hiểu được.
Một khía cạnh
quan trọng và phức tạp khác là có thể tách rời tổ quốc và chế độ
nhưng khó tách rời chính quyền và chế độ. Làm sao có thể bảo vệ một
thể chế dân chủ tự do khi đồng thời chấp nhận một chính quyền độc
tài, gia đình trị hay quân phiệt, chính quyền này lại là đại diện
chính thức cho thể chế đó. Người dân có các quyền tự do một cách
tương đối là ưu điểm của thể chế chính trị ở Miền Nam trước 75 nhưng
đồng thời chính quyền vẫn không ngần ngại đàn áp nhân dân khi việc
thực hiện các quyền tự do đó có hại cho việc củng cố quyền lực của
họ. Tự do báo chí nhưng chính quyền vẫn kiểm duyệt, "hốt cắt đục",
truy tố, đóng cửa báo chí đối lập đến nỗi ký giả phải "xuống đường
đi ăn mày". Tự do tín ngưỡng nhưng Phật giáo không được treo cờ tôn
giáo của mình trong ngày lễ Phật Đản và chùa chiền, sư sãi bị ruồng
bố. Tự do bầu cử và ứng cử nhưng lại tổ chức bầu cử độc diễn và gian
lận phiếu. Tự do lập đảng nhưng lãnh tụ và các đảng viên đảng đối
lập bị khủng bố, ngồi tù. Tự do biểu tình nhưng phải sẵn sàng hít
lựu đạn cay, lãnh dùi cui hay phi tiễn, có khi đạn thật và sau đó bị
tra tấn trong nhà tù…
Các chính
quyền Miền Nam không đàn áp triệt để các thành phần đối lập không
phải vì họ có ý thức dân chủ cao mà vì họ không đủ sức mạnh để làm.
Khi có thể làm được, họ cũng không ngần ngại gì. Vậy thì trong chế
độ đó, những người thiên tả có lý do để hoạt động chống đối hay lật
đổ các chính quyền đương nhiệm. Không thể vì bảo vệ chế độ tự do dân
chủ mà bảo vệ luôn những chính quyền đàn áp tự do dân chủ. Họ đâu
ngờ rằng sau này khi những chính quyền độc tài đó bị lật đổ, họ và
nhân dân lại phải chịu đựng một chính quyền còn độc tài và tồi tệ
hơn.
Đối với những
người được gọi là "quốc gia" hay thuộc guồng máy của Việt Nam Cộng
Hòa, vấn đề này lại là vấn nạn nan giải theo hướng ngược lại. Gạt ra
một bên những người thực sự là "tay sai thực dân đế quốc", những
người dùng quyền lực để hưởng thụ trên xương máu đồng bào, cứ coi
những người còn lại có lý tưởng bảo vệ tự do dân chủ, chống lại
"cộng sản Miền Bắc xâm lược". Trong khi những người này hoạt động
hay chiến đấu, đương nhiên họ phải ở trong guồng máy của chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa, họ không chống lại chính quyền này, mặc nhiên họ
chấp nhận và củng cố chính quyền đang đi ngược lại lý tưởng tự do
dân chủ của họ. Điều này thật mâu thuẫn.
Mặt khác trong
khi những người này luôn luôn lên án tội ác của cộng sản trong cuộc
chiến, ngoài những tội ác cũ, như các vụ pháo kích giết dân lành,
đặc biệt là vụ Mậu Thân ở Huế, những chuyện đáng lên án thật, nhưng
họ lại không nói gì đến những tội ác do họ gây ra hay phải liên đới
chịu trách nhiệm. Họ cũng tham gia chiến dịch diệt cộng, dồn dân vào
ấp chiến lược, bắn phá tự do vào các "vùng trắng", hành quân "lùng
và diệt" ở những nơi mà người dân vô tội cũng bị tổn hại. Và họ có
liên đới chịu trách nhiệm gì không trong những vụ quân đội đồng minh
gây ra tội ác như vụ tàn sát dân thường ở Mỹ Lai, việc rải chất độc
màu da cam, việc oanh tạc Miền Bắc…? Ở Miền Nam hay Miền Bắc, người
dân bị giết hại cũng là đồng bào Việt Nam. Ai đã đồng ý, cho phép và
chấp nhận quân đội ngoại quốc đến gây tội ác trên đất nước mình? Dù
là vì lý do cuộc chiến, quyết định này có phải là một tội ác và
những ai không phản đối nó có thể coi như không liên quan gì? Nói
rộng ra, việc cả hai miền đều sử dụng vũ khí của nước ngoài để tàn
sát nhau trong cuộc chiến là điều không gì có thể biện minh được.
Điều đáng buồn
là về sau này khi những người lính Mỹ, lính Đại Hàn, lính Úc tham dự
cuộc chiến năm xưa đã trở lại Việt nam để sám hối về tội ác của họ
trong cuộc chiến nhưng chưa thấy người lính Việt Nam nào, chính
quyền hay tổ chức nào ở cả hai phía, tỏ lòng ăn năn về những tội ác
đã gây ra cho chính đồng bào mình. Chỉ nghe thấy tiếng reo hò của
lòng kiêu hãnh về chiến thắng, lời lăng mạ khinh miệt đối với kẻ
địch hay sự nguyền rủa đầy hận thù của kẻ chiến bại. Nhân dân làm
sao có thể quên được những tai họa và thảm cảnh mà cuộc chiến đã gây
ra dù cuộc sống vẫn không ngừng đi tới.
Còn đối với
những người cộng sản, nhân dân Miền Bắc và những người được gọi là
trí thức xã hội chủ nghĩa, vấn đề được đặt ra như thế nào?
Trừ những
người lãnh đạo cộng sản cao cấp và có thẩm quyền trong việc hoạch
định đường lối, có lẽ tất cả còn lại đều bị lôi theo dòng cuốn của
cuộc chiến tranh một cách tự giác hay không tự giác. Trong một xã
hội mà đảng độc quyền lãnh đạo, độc quyền chân lý, độc quyền tuyên
truyền và cai trị bằng cách tạo ra sự phục tùng và nỗi sợ bao trùm
lên toàn xã hội thì người dân khó có thể có cách sống, cách nghĩ nào
khác. Có thể lấy một ví dụ đơn lẻ để minh họa điều này là hai cuốn
nhật ký của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm mà thời gian gần đây
đang được cả hệ thống thông tin báo chí trong nước ra sức tuyên
truyền. Nguyễn Văn Thạc đi bộ đội vì bị bắt buộc, không đi không
được. Đặng Thùy Trâm tình nguyện đi B vì một lý do riêng tư thầm
kín. (1) Những điều này rất bình thường, rất người, không có gì đáng
ngạc nhiên hay phê phán. Nhưng rồi trong nhật ký của họ cũng nói rất
nhiều đến "miền Nam rên siết dưới gót giày quân xâm lược", "đế quốc
Mỹ tàn bạo khát máu", đến "giác ngộ giai cấp"… những điều thực ra họ
không hiểu rõ mà chỉ là kết quả của sự tuyên truyền nhồi sọ trong
một xã hội bưng bít thông tin. Trong việc này, họ cũng không có lỗi
gì cả vì tư duy con người đã bị điều kiện hóa và đó chỉ là hệ quả
tất yếu. Dĩ nhiên lòng yêu nước và nhiệt huyết muốn cống hiến của
tuổi trẻ cho tổ quốc nơi họ là điều không ai phủ nhận. Hàng triệu
thanh niên Miền Bắc đã lên đường cầm súng chiến đấu trong hoàn cảnh
và tâm trạng, ước mơ tương tự. Nhưng cũng với lòng yêu nước và nhiệt
huyết đó, một số đông tuổi trẻ ở Miền Nam lại có cách thể hiện hoàn
toàn trái ngược. Thế là thanh niên hai miền, những tinh hoa và người
chủ tương lai của đất nước gặp nhau, đối mặt trên chiến trường,
không phải như những anh em đồng bào mà là kẻ thù cần phải tàn sát.
Có người trách
trí thức xã hội chủ nghĩa là hèn nhát, thậm chí là bất hạnh cho đất
nước. Điều này nằm trong cách đánh giá vai trò của trí thức trong
lịch sử và mối quan hệ giữa trí thức và quyền lực, không hề đơn giản
và không đồng nhất cho mọi hoàn cảnh lịch sử, mọi đất nước và nền
văn minh. Riêng về lịch sử VN hiện đại, vấn đề phải được nhìn ở
những góc độ phức tạp hơn nhiều.
Trước đây, khi
đọc lịch sử Trung Quốc thời cách mạng văn hóa, tôi rất ngạc nhiên
không hiểu sao giới trí thức Trung Quốc lại có thể trải qua những
hoàn cảnh bi thảm nhục nhã mà không dám phản kháng. Cách phản kháng
mạnh bạo duy nhất là tự sát. Còn lại tất cả đều bị hành hạ, phải
kiểm điểm, tự thú và đi cải tạo. Sau này qua hoàn cảnh Việt Nam và
chiêm nghiệm cá nhân, tôi hiểu ra rằng dưới một chế độ độc tài toàn
trị sắt máu và khi "cuồng tín nhân dân" được kích động bản năng lên
đến tận cùng (theo cách nói của Hữu Loan), lương tri và sự phản
kháng của trí thức vốn chân yếu tay mềm và không quyền lực hầu như
đã bị đè bẹp.
Sau việc đàn
áp nhóm "Nhân văn - Giai phẩm", trong một thời gian dài, giới trí
thức Miền Bắc hầu như đã bị tê liệt tinh thần phản kháng. Một hai
trường hợp lẻ tẻ của các nhà văn phê phán chế độ, dù là bóng gió, bị
trù dập ngay, cộng thêm với việc trí thức bắt buộc phải gắn chặt về
mọi mặt với chế độ, nhất là việc làm và đời sống, đã củng cố thêm sự
"liệt kháng" này. Sau 1975, tình hình vẫn không khá hơn nhưng càng
về sau này, nhất là mấy năm gần đây, trong bối cảnh chung của việc
hội nhập quốc tế, việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội và tác
động của phong trào dân chủ hóa đất nước, một số trí thức dần dần đã
khôi phục lại phần nào vị thế của mình.
Trí thức chỉ
có quyền lực tinh thần và họ cũng có nhu cầu sống, làm việc, lo cho
hạnh phúc của bản thân và gia đình như tất cả mọi người. Khi đánh
giá sự cống hiến và lòng dũng cảm của trí thức trong chế độ độc tài
toàn trị, nhiều ngươì chỉ căn cứ vào mức độ phản kháng của họ đối
với những sai trái của nhà cầm quyền chứ ít nhìn vào những cống hiến
của họ cho sự tiến bộ xã hội. Trong cái nhìn toàn cục về sự phát
triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân, không thể nói giữa
việc đấu tranh cho dân chủ của những trí thức bất đồng chính kiến
với công việc cứu người của các bác sĩ trong bệnh viện hay công việc
xây dựng của các kỹ sư trên những công trình thủy điện, cầu đường,
công nghệ thông tin…, thậm chí với những công nhân bình thường, ai
có giá trị hơn. Việc chuyển đổi từ chế độ độc tài toàn trị sang tự
do dân chủ là trách nhiệm và sự đóng góp bằng hành động của toàn xã
hội chứ không phải chỉ của riêng trí thức, mặc dù trí thức có vai
trò tiên phong trong tư tưởng, nhận thức. Mặt khác xây dựng cuộc
sống hằng ngày trên mọi lãnh vực vẫn là điều bức thiết. Thực tế là
nhân dân các vùng nghèo khổ trước mắt cần một cái cầu bắc qua sông,
một ngôi trường cho trẻ em đi học hơn là lý luận về tự do dân chủ.
Dĩ nhiên những điều này không đối nghịch hay loại trừ nhau. Có thể
nếu có tự do dân chủ, cây cầu và trường học sẽ được xây dựng nhanh
hơn nhưng nếu chưa có tự do dân chủ mà vẫn có cây cầu và trường học
thì nhân dân sẽ được hạnh phúc sớm hơn phần nào.
Nếu có những
trí thức hoàn toàn đồng quan điểm với chế độ nên ra sức củng cố nó
như một lý tưởng của đời mình thì đó là điều tất yếu không có gì
đáng nói hay đáng nói ở một phương diện khác. Đây là vấn đề chân lý
của cuộc sống chứ không phải thái độ của người trí thức. Điều đáng
trách là những trí thức khi đã nhận ra những sai trái của chế độ
nhưng vì quyền lợi và sự an toàn của bản thân vẫn lớn tiếng ngợi ca
và góp phần củng cố nó bằng tài năng, kiến thức và sự thiếu lương
thiện, ngụy tín của mình. Trong lãnh vực tuyên truyền và văn hóa
văn nghệ, ảnh hưởng của sự đóng góp này rất to lớn và nguy hiểm cho
toàn xã hội, có thể nói chính xác là góp phần vào tội ác. Những bài
thơ di cảo của Chế Lan viên là một sự tự thú muộn màng về điều đó.
Dĩ nhiên muộn còn hơn không. Còn nếu họ không vượt qua được nỗi sợ
và mối lo toan cho hạnh phúc của bản thân và gia đình, họ im lặng
làm việc trong lãnh vực chuyên môn của mình thì điều đó có thể thể
tất, không nên nặng lời phê phán. Có ở trong cuộc mới thâm cảm sự
lựa chọn một thái độ sống khó khăn như thế nào, không dễ dàng như
đứng bên ngoài để nhận định. Con người có những giới hạn thường tình
không thể vượt qua, trí thức cũng thế, có khi trí thức còn yếu đuối
hơn vì họ suy nghĩ, đắn đo nhiều quá. Những người có thể vượt qua
được thường hiếm hoi và họ thực sự là những anh hùng. Nhưng anh hùng
thì không thể cứ ra ngõ là gặp.
Đối với những
người cộng sản, vấn đề còn phức tạp hơn. Tôi đã có lần trong một bài
viết, phân biệt các khái niệm cộng sản nói chung với lý tưởng cộng
sản, chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản, đảng viên cộng sản lãnh
đạo và đảng viên cộng sản thường. Đối với một số người chống cộng
cực đoan, cộng sản là một cái gì cực kỳ xấu xa, những người cộng sản
là những kẻ tàn bạo khát máu, như quỷ dữ tù dưới địa ngục chui lên.
Có phải như thế không?
Không nói đến
những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, những cán bộ cộng sản lãnh
đạo sau này mà ai cũng biết để có thể nhận xét, trong thời gian
trước đây, tôi đã từng biết và hiểu về một người cộng sản cụ thể. Họ
là những người bình thường như mọi người. Nông dân ít học (đàn ông
và cả phụ nữ), công nhân, sinh viên, giáo sư, nhà văn, nhà báo…
Trong những hoàn cảnh bức xúc hay do lòng yêu nước, bị áp bức, lý
tưởng công bằng xã hội thôi thúc, với điều kiện thuận lợi, họ trở
thành đảng viên cộng sản. Sau khi trở thành cộng sản, họ là những
người chiến đấu, chịu hi sinh gian khổ nhiều hơn, rất ít người trở
nên kẻ độc ác. Bản thân tôi cũng đã là đảng viên cộng sản trong 15
năm (từ 1974 – 1989).
Trong chuyến
đi xuyên Việt năm 1988 cùng với Bùi Minh Quốc và Hữu Loan, chúng tôi
vận động văn nghệ sĩ và trí thức yêu cầu đảng đổi mới thực sự, đòi
tự do sáng tác, tự do báo chí và xuất bản, đề nghị cách chức trưởng
ban Tư tưởng Văn hóa trung ương, bộ trưởng Văn hóa Thông tin và
những người tỏ ra chống đổi mới hay không có khả năng đổi mới. Chúng
tôi đã thu thập được 118 chữ ký ở các tỉnh Miền Trung và Hà Nội
trong một bản tuyên bố và thực hiện nhiều bản kiến nghị liên tịch
giữa các hội Văn nghệ địa phương. Sau chuyến đi tôi có làm một bài
bút ký thơ tựa đề "Mở cuộc giao tranh" ghi lại chuyến đi này với
đoạn kết:
"Giành quyền
sống chứ không xin quyền sống
ai đổi mới và
ai không đổi mới
ai chống Đảng
và ai dựng Đảng
ai phá nước và
ai dựng nước
phân tuyến ra
và mở cuộc giao tranh."
(2)
Trong bản thảo
lần đầu, hai câu cuối tôi viết: "Ai cộng sản và ai giả danh cộng
sản/Phân tuyến ra và mở cuộc giao tranh". Lúc đó tôi đang là đảng
viên cộng sản và tôi thành thực tin rằng mình là người cộng sản chân
chính, trong công cuộc đổi mới, phải góp phần làm cho dân tộc được
hạnh phúc hơn theo như lý tưởng mình đã lựa chọn lúc gia nhập đảng,
xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa có bộ mặt nhân bản chứ không
phải là chế độ xã hội chủ nghĩa "trại lính" như hiện có. Những ngày
tháng sau đó là những ngày đấu tranh gay gắt trong đảng bộ nơi tôi
sinh hoạt. Tôi thấy mình không thể là đảng viên cộng sản theo cách
mình nghĩ trong chế độ và guồng máy này nên tôi đã viết bản tuyên bố
ra khỏi đảng. Tôi đề nghị với Bùi Minh Quốc cùng tuyên bố như tôi
nhưng Quốc không nhất trí. Quốc cho rằng cần phải ở trong đảng để
đấu tranh và nếu bị khai trừ, cũng là một cái cớ để tiếp tục đấu
tranh. Vì chỉ có hai người (trong phạm vi hẹp) chia sẻ cùng một cuộc
chiến đấu và cùng chung số phận, tôi không thể tách rời Quốc vào
thời điểm đó và cuối cùng cả hai đều bị khai trừ. Tuy nhiên sau đó
khi Quốc tiếp tục viết đơn khiếu nại lên Ban Kiểm tra trung ương
đảng và những cơ quan chức năng khác thì tôi quyết định không viết
một dòng nào chính thức gởi cho tổ chức đảng nữa, trừ "Thư ngỏ gởi
những người Cộng sản Việt Nam" (không phải viết cho tổ chức đảng)
vào năm 1996 trước đại hội VIII để bày tỏ quan điểm của mình về
những vấn đề lớn của đất nước khác với quan điểm chính thống.
Làm "người
cộng sản chân chính" với lý tưởng xóa bỏ bất công áp bức và xây dựng
thế giới đại đồng phải chăng chỉ là (hay chính là) một ảo tưởng và
chúng tôi chỉ là những kẻ hoàn toàn ngây thơ trong chính trị? Hay
"lý tưởng cộng sản", cũng chính là một lý tưởng nhân văn, phổ quát
không thể nào thực hiện được bằng con đường của chủ nghĩa cộng sản
hoặc bất cứ chủ nghĩa nào khác trong thế giới đầy dẫy bất công áp
bức và chia rẽ, hận thù này? Tuy nhiên tôi cho rằng những gì gọi là
"tội ác cộng sản" ở các nuớc xã hội chủ nghĩa và Việt Nam trước đây
chủ yếu là do những người lãnh đạo, do chế độ, guồng máy và phương
thức đấu tranh, cai trị, đặc biệt là với chuyên chính vô sản, đấu
tranh giai cấp, dùng mục đích để biện minh cho mọi phương tiện, cùng
sự chi phối của các nước đàn anh cộng sản chứ không phải do lý tưởng
của người cộng sản và tất cả những người cộng sản.
Thật ra cũng
khó tách bạch những điều trên nhưng nếu nói tất cả những người cộng
sản đều tàn bạo khát máu thì hoàn toàn không đúng. Tuy vậy con người
bị chi phối bởi hoàn cảnh và hành xử theo hoàn cảnh, dĩ nhiên không
phải tất cả và có nhiều ngoại lệ. Thí dụ những người lính viễn chinh
phần lớn cũng có thể là những người con ngoan, chồng tốt, hàng xóm
thân thiện nhưng khi đi ra nước ngoài, một số họ trở thành những kẻ
hiếu chiến, man rợ, vô nhân tính. Một số những người cai ngục hầu
như trong chế độ nào cũng tàn bạo giống nhau. Trong lịch sử cuộc đấu
tranh của mình, không thể phủ nhận những người cộng sản là những
người đầy lý tưởng, ngoan cường, chịu đựng gian khổ, mất mát, hi
sinh nhiều nhất mà không đảng phái nào khác có thể so sánh được
nhưng khi nắm được chính quyền họ lại sắt máu hơn ai cả. Những người
cộng sản trong guồng máy độc tài toàn trị sau này đã hoàn toàn đổi
khác so với thời kỳ chiến đấu vì lý tưởng ban đầu. Giáo điều, quyền
lực và lòng tham làm cho họ trở nên kinh khủng hơn mọi loại độc tài
đã từng có trong lịch sử.
Bây giờ ở Việt
Nam, có những người cộng sản kiên trung gần nửa thế kỷ như Nguyễn Hộ
đến cuối đời lại thấy lựa chọn cộng sản là một sai lầm của đời mình,
có người như Trần Độ thấy đảng cộng sản này không còn là đảng của
mình nữa. Có một người bạn không phải là đảng viên nói với tôi (khi
tôi còn là đảng viên), rằng nếu tôi còn có lòng trắc ẩn, tình nhân
đạo thì tôi là thứ "cộng sản dổm". Có một người cộng sản già rất
hiền lành khi phê phán những suy thoái của guồng máy cai trị hiện
nay nói với tôi (sau khi tôi đã bị khai trừ đảng), rằng bây giờ chỉ
còn những người như chúng ta thực sự là cộng sản. Đây là điều oái ăm
và bi kịch của một số người cộng sản. (Trong một bài viết mới đây
trên talawas, Nguyễn Khoa Thái Anh đã đề cập đến khái niệm "người
cộng sản chân chính" nhưng tiếc bài viết quá ngắn, thiếu dẫn chứng
và phân tích khi nhắc đến vài trường hợp quá cụ thể nên có thể gây
ra nhiều ngộ nhận. Ở đây tôi cũng chưa phân tích đầy đủ vì chỉ nêu
một số ý có liên quan theo mạch suy tưởng của vấn đề đang đặt ra.)
Thực ra vấn đề
hiện nay ở Việt Nam chính yếu không còn là vấn đề cộng sản nữa mà là
vấn đề sự tha hóa của một số đông những kẻ nắm quyền lực trong chế
độ độc tài toàn trị. Sự tha hóa này không những là tai họa cho đất
nước, cho dân tộc mà còn cho chính những người cộng sản, nhất là
những "người cộng sản chân chính". Những người cộng sản sẽ (hay
đang) đánh mất vai trò lịch sử và trở thành tội đồ của dân tộc khi
sự độc quyền cai trị và độc quyền tiên phong tha hóa dẫn tới sự tha
hóa của toàn xã hội này còn tiếp tục. Quốc nạn tham nhũng, sự suy
thoái của guồng máy cai trị, nỗi bất hạnh và oan khuất của nhân dân
sẽ là vô phương cứu chữa nếu vẫn còn chế độ độc tài toàn trị, không
có tự do dân chủ thực sự. (Tuy nhiên có người lại cho rằng vấn đề
cộng sản vẫn còn đó và những người cộng sản không thể sửa chữa được
sai lầm của họ trừ phi họ đoạn tuyệt với chủ nghĩa cộng sản. Có lẽ
đây cũng là những vấn đề lớn xứng đáng được trao đổi và tranh luận
một cách chân thành, nghiêm túc.)
Vậy thì có cần
thiết không tiếp tục kéo dài sự hận thù và đối đầu "quốc - cộng"
theo tinh thần và cách thế thời chiến tranh? Dĩ nhiên quan điểm của
những người đã từng đứng hai bên chiến tuyến cho đến nay vẫn còn
khoảng cách, trái ngược hay tranh cãi, thậm chí cho đến khi họ từ
giã cõi đời này. Vấn đề có thể vẫn còn đó nhưng không phải là điều
quan trọng nữa. Không cần thiết phải nhai lại để phê phán, phỉ báng
nhau với những luận điểm "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản", "cộng
sản độc tài khát máu" hay "nô lệ ngoại bang, tay sai đế quốc"… Điều
quan trọng hơn là làm được gì cho tương lai khi quỹ thời gian của
những người đã trải qua cuộc chiến còn quá ít. Hơn 60% dân số Việt
Nam hiện nay sinh ra và lớn lên sau chiến tranh. Chính họ mới là
người làm chủ tương lai thật sự của đất nước. Điều bức thiết mà
những người đã trải qua cuộc chiến có thể làm được là hóa giải hận
thù, hòa giải hòa hợp dân tộc (những khái niệm và cụm từ nghe có vẻ
như sáo mòn nhưng thực sự quan trọng và không dễ thực hiện), tỉnh
thức và cảnh giác nhưng thông cảm và bao dung để làm sao góp phần
cho tương lai không còn lặp lại bi kịch cũ. Nếu không làm được như
thế, gia tài mà thế hệ này để lại cho đàn em và con cháu không gì
khác hơn là u mê và sân hận.
Có người cho
rằng khía cạnh đạo đức của hòa giải hòa hợp là hiển nhiên, không có
gì phải bàn cãi và đối với những người thực sự có thiện tâm, thiện
chí của các bên đối nghịch nhau trước đây, vấn đề không phải là nan
giải. Vấn nạn thuộc về những người thực tâm không chịu hòa giải vì
quan điểm hẹp hòi, lòng thù hận hay vì những mục đích ích kỷ khác,
không đặt quyền lợi và hạnh phúc dân tộc lên trên hết, nhất là về
phía nhũng người đang nắm chính quyền.
Trong cuộc
chiến vừa qua, giữa bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu và sự
mặc cả của các cường quốc để sắp xếp số phận của các nước nhược
tiểu, phần lớn người Việt Nam vừa là nạn nhân vừa là người tham dự
chủ động vào tấn bi kịch lịch sử. Cho nên nói đến một sự sám hối
toàn dân tộc không phải là không có lý. Sử dụng từ và khái niệm của
Phật giáo, có thể nói chính chúng ta đã tạo ra "nghiệp", một thứ
"cộng nghiệp" nên cần tự mình "giải nghiệp". Tại sao dân tộc Việt
Nam sau bao nhiêu chiến đấu, hi sinh và đau khổ đến nay vẫn còn phải
chịu áp bức, mất tự do trong chế độ độc tài toàn trị? Điều này có
phần nào gần với câu "Nhân dân nào chính phủ ấy"? Đó cũng là luật
nhân quả. Một số người, trong đó có Nguyễn Tường Bách trong tùy bút
"Mộng đời bất tuyệt" đã đề cập và lý giải vấn đề này, dù chỉ thoáng
qua.(3) Cộng nghiệp này chỉ có thể được giải bằng sự chuyển nghiệp
của toàn dân tộc, bằng hành động cụ thể được hướng dẫn bằng minh
triết chứ không phải là hận thù, u mê hay tham lam, bạc nhược. Đây
không phải chỉ là niềm tin tôn giáo mà còn là quy luật đấu tranh xã
hội.
Số phận hay
nghiệp của một dân tộc không phải là điều vô căn cứ. Chính bối cảnh
địa – chính trị, nền văn hóa, tâm thức, ý thức và hành vi của dân
tộc đó dẫn đến hoàn cảnh cụ thể của đất nước qua từng giai đọan cụ
thể. Với kinh nghiệm đau thương của Việt Nam, có lẽ chúng ta thông
cảm sâu xa hơn ai hết niềm đau của nhân dân Irac hiện nay. Tất cả
mọi lý do đều không thể biện minh cho sự tàn sát hằng ngày trên đất
nước này. Những thông tin về các vụ đánh bom khủng bố, các cuộc xung
đột vũ trang thật lạnh lùng vô cảm trên các phương tiện thông tin
báo chí toàn thế giới. Nhưng niềm đau về sự thương vong, chết chóc,
tàn phá đối với từng người dân trong cuộc là sâu xa, quằn quại, khốc
liệt. Bên cạnh những tác động ngoại lai, chính người dân Irac vì lý
do phân biệt sắc tộc, tôn giáo, quyền lợi phe phái, lòng hận thù đã
tham dự vào việc gây ra thảm kịch cho chính mình. Họ là nạn nhân
nhưng đồng thời cũng đã gieo nhân và gặt quả tức thì trong nước mắt,
máu và sự hủy hoại cả tương lai.
Cho nên cần
phải luôn luôn tỉnh thức và cảnh giác, bằng mọi cách không để cho sự
xung đột và thù hận diễn ra trong lòng đất nước. Muốn thế cần hết
sức thông cảm, bao dung giữa mọi thành phần dân tộc và khi cần, đấu
tranh bằng những phương tiện hòa bình, tránh xa bạo lực vì bạo lực
khơi dậy bạo lực, "máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu" chỉ mang đến
không gì khác hơn là hủy diệt.
Bản thân tôi
hoàn toàn tin tưởng vào con đường này và đã có một số kinh nghiệm cá
nhân làm cơ sở.
Vào năm 1994,
khi cuốn tiểu thuyết tự truyện "Nửa đời nhìn lại" của tôi được xuất
bản ở Mỹ, nội dung đi sâu phân tích phản tỉnh nội tâm của một người
cộng sản, một số nhà văn và độc giả hải ngoại tự nhận là "quốc gia",
chống cộng đã bày tỏ sự đồng cảm và chia sẻ. (4)
Tôi có một
người anh em họ là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, sau 75 đã "đi cải tạo"
đến 13 năm trước khi được xuất cảnh sang Mỹ. Mặc dù đã có một thời
gian thơ ấu sống thân ái bên nhau nhưng sau khi qua Mỹ, lá thư đầu
tiên anh viết cho tôi là để nói rằng anh căm thù tôi, một kẻ "ăn cơm
quốc gia, thờ ma cộng sản", "đâm sau lưng chiến sĩ" còn hơn là những
nguời cộng sản chính tông "hét ra lửa, mửa ra khói". Tôi trả lời anh
tôi không "ăn cơm quốc gia" mà ăn cơm của nhân dân, tôi không đâm
sau lưng chiến sĩ mà tôi đứng trước lưỡi lê, họng súng, trong lựu
đạn cay và nhà tù của chính quyền Sài Gòn. Sau này anh và tôi còn
công khai tranh luận qua các bài viết đăng trên mạng. Cuối cùng, anh
cũng nhận ra rằng tôi chỉ là một kẻ suốt đời phản kháng, chỉ cố gắng
sống theo những điều mình nghĩ và chúng tôi lại trở nên thông cảm và
thân ái.
Tôi còn có một
người bạn thân thuở học trò, sau này cũng là sĩ quan một binh chủng
"dữ dằn" của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, di tản sang Mỹ ngay trước
ngày 30-4-75. Sau gần 30 năm xa cách, không có tin tức gì về nhau,
lần đầu về nước anh đã cố công đi tìm tôi và chúng tôi đã gặp lại.
Nói chuyện với nhau nhiều ngày đêm, chúng tôi không hề đề cập đến
chuyện chiến tranh, chuyện ý thức hệ mà chỉ nhắc lại những kỷ niệm
xưa cũ, trong đó đặc biệt chuyện hai chúng tôi cùng yêu một cô bé
học trò 13 tuổi, học sau chúng tôi vài lớp, ở một ngôi trường tỉnh
lẻ ngày nào. Chúng tôi vô cùng ấm lòng trong tình bạn cố tri thân
thiết.
Còn đối với
những người cộng sản, những cán bộ đảng viên lão thành đã từng "đấu"
tôi, những cán bộ công an đã từng theo dõi, canh gác, thẩm vấn tôi
trong thời gian tôi bị quản chế, sau này mỗi lúc gặp tôi ngoài
đường, họ vẫn chào hỏi, chuyện trò như với những người quen biết
bình thường. Cho dù có thể đó là những biểu hiện bề ngoài, nhưng tôi
tin rằng, về phương diện cá nhân, bên trong họ cũng không ẩn chứa
lòng thù hận hay căm ghét, bởi tôi đã không làm gì khác hơn là bày
tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của đất nước dù trái với
quan điểm của nhà cầm quyền.
Tuy vậy cũng
còn có những chuyện đáng buồn. Sau các bài viết của tôi trên mạng,
vẫn có những ý kiến không ăn nhập gì đến nội dung bài viết mà chỉ
nhai lại chuyện "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản" để phê phán, mạ
lỵ, thậm chí còn chụp cho tôi cái "nón cối Mậu Thân Huế" 1968 tàn
sát thường dân vô tội mặc dù thời gian đó tôi không còn ở Huế và từ
trước cho đến năm 1972, tôi chẳng liên quan gì đến cộng sản. Ngược
lại cũng có ý kiến cho rằng tôi phản bội cách mạng, xuyên tạc lịch
sử, nói xấu đảng và nhà nước… Dù sao tôi cũng tin rằng các ý kiến
loại đó đều không phải là xu thế chung của những người thực tâm muốn
xây dựng đất nước dù trước đây họ ở bên nào của cuộc chiến.
Tôi là người
đã từng ở trong guồng máy và đã ở tù dưới cả hai chế độ. Tôi chưa
từng cầm súng để bắn giết ai hay có kẻ thù cụ thể ở bất cứ phe nào.
Ngược lại, tôi có bạn bè thân thiết ở cả hai phía. Những điều tôi
suy nghĩ có thể đúng, có thể sai nhưng không phải là nhận định của
kẻ đứng ngoài, đứng bên lề hay thuần lý mà là tình cảm và suy tư
của một người luôn luôn ở trong cuộc, luôn luôn tự vấn, phản tỉnh
và lắng nghe một cách chân thành trong từng ngày sống.
Có bạn đọc
trên mạng than thở giùm tôi, đại ý nói Tiêu Dao Bảo Cự ơi, cuộc sống
có bao lâu mà phải bầm dập lận đận làm khổ đời mình…Tôi cũng biết
cuộc đời ngắn ngủi và vô thường. Tôi vẫn hay băn khoăn dằn vặt về
thái độ sống của mình. Dù sao tôi đã lựa chọn và cố gắng sống với
điều mình chọn lựa. Tôi cũng biết cách im lặng và chỉ im lặng khi
thấy điều đó thực sự là giải thoát.
Đà Lạt 9/2006
TDBC
Ghi chú:
(1) "Mình đã
sẵn sàng làm theo yêu cầu của Đảng chưa? Chưa! Phải thành khẩn nhận
lấy điều đó. Mình đi bộ đội, chẳng qua là buộc phải đi! Không đi ư,
thì tức là anh đã chống lại chính sách, chống lại Đảng. Đấy, những
ngày đầu mình đi bộ đội là như thế". (Mãi mãi tuổi hai mươi, trang
182 – 183, Nhật ký Nguyễn Văn Thạc, NXB Thanh Niên 2005.)
(2) Trang 130,
Hành trình cuối đông, Bút ký Tiêu Dao Bảo Cự, NXB Văn nghệ, Cali
1998.
(3) "Và dường
như tâm thức giác ngộ đó thúc tôi hiểu thêm cho rõ rằng, chính cộng
nghiệp của một dân tộc đã tạo tiền đề cho một nhóm người nhất định
lên nắm chính quyền và cai trị lại chính mình". (Mộng đời bất tuyệt,
trang 36, Nguyễn tường Bách, NXB Văn nghệ 2006.)
(4) Phần phụ
lục tiểu thuyết "Nửa đời nhìn lại", NXB Văn Nghệ, Cali tái bản 1997.