"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Trần Minh Thảo
Ý thức dân tộc còn mang tính làng xã (ở Việt Nam) – Trần Minh Thảo
(http://www.bbc.co.uk/vietnamese/ forum/story/2005/05/050504_tranminhthao.shtml)
Tôi trình bày một số suy nghĩ
cá nhân,
nông cạn với mong muốn cùng các bạn trên diễn đàn BBC làm sáng tỏ vấn
đề, tự thấy có trách nhiệm góp phần đổi mới đất nước một cách bền vững.
Bài viết phân tích các biến chuyển về ý thức dân tộc
trong
quá trình phát triển của
Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 cho tới nay.
1/ Cuộc vận động đổi mới nửa đầu thế kỷ 20:
Non 100
năm trước, đầu thế kỷ 20,Việt nam có một cuộc vận động đổi mới theo
hướng kinh tế thị trường. Đó là phong trào Duy tân -
Đông kinh nghĩa thục (1907) của các nho sĩ Tây học yêu
nước (với nghĩa tương tự như Hán học): Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền, Phan Chu Trinh…Đó là lần đổi mới thứ nhất mà lạ lùng
thay cũng là đổi mới theo sau phong trào duy tân của các trí thức nho sĩ
Trung hoa nhưng không làm theo Trung hoa. Phong trào tồn tại một thời
gian thì bị người Pháp đàn áp, tan rã. Tuy thế, nhìn tổng quát,
phong trào Duy tân ở Việt nam có tác động rất sâu
rộng mà những cuộc vận động về sau, kể cả cuộc cách mạng do đảng Cộng
sản Việt nam lãnh đạo theo tôi cũng là con đẻ của phong trào ấy.
Phong
trào Duy tân - Đông kinh nghĩa thục chủ trương 3 việc:
- Chấn
dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường
của người dân (làm chủ xã hội, đất nước, ý thức tự làm chủ, không chịu
nô lệ ai, tức là không sợ ai), chống chế độ chuyên chế, áp bức (quân
chủ,thực dân). Phong trào dịch các sách gọi là tân thư (do các trí thức
duy tân Trung hoa Khang hữu Vi, Lương khải Siêu…dịch từ chữ Pháp sang
Hán văn) từ chữ Hán sang quốc ngữ của các nhà tư tưởng phương Tây như
Montesquieu, J.J.Rousseau, Kant, Darwin…Đề cao dân quyền thực chất là
xoá bỏ quân quyền (cuối cùng là đuổi người Pháp ra khỏi nước), thiết lập
chế độ dân chủ kiểu phương Tây. Phong trào này coi Người Việt trên ba
miền là công dân một nước Việt nam thống nhất. Đấy là lần đầu tiên tư
tưởng dân tộc Việt nam là một, đất nước Việt nam là một được trình bày
công khai.
-
Khai dân trí: bỏ cái học cũ (Hán học), coi đó là cái học lạc hậu,
chậm tiến, nô dịch, học chữ quốc ngữ và văn hóa khoa học phương Tây (lối
tư duy lô gic). Phù hợp với điều mà người Pháp nói: Khai hóa thuộc địa.
- Hậu
dân sinh: làm giàu theo kiểu phương Tây - kinh tế thị trường. Phong
trào mở hiệu buôn để học buôn bán và làm tài chính. Một tầng lớp tư sản
bản xứ hình thành trở thành các ông chủ (sở hữu tư nhân của cải nói
chung). Sự phát sinh ra tầng lớp ông chủ (còn nhỏ) này đã kích thích
lòng tự hào: ta không thua kém gì Tây nếu thông hiểu cách buôn bán, làm
ăn kiểu Tây phương.
Phong
trào ấy không thành công do người Pháp lo sợ mất quyền cai trị. Người
Pháp nhìn không xa, hoặc lúc đó kinh tế tư bản chủ nghĩa chưa xuất hiện
nhân tố toàn cầu hóa hoặc vì chủ nghĩa tư bản lúc đó chỉ ở tầm khu vực
nên cuối cùng thua trắng tay.
Người
Pháp đàn áp tàn bạo phong trào Duy tân - Đông kinh nghĩa thục và các
phong trào yêu nước khác. Nhưng người Pháp buộc phải thực hiện nhiều chủ
trương do các phong trào yêu nước, đổi mới đó đề
ra. Hoặc người Pháp thấy một số chủ trương của phong trao đó cũng có lợi
cho chính quyền thực dân.
-Khai
dân trí: Khoa thi Hội năm Mậu ngọ (1919, 12 năm sau khi Phong trào Duy
tân mở Đông kinh nghĩa thục) là khoa thi cuối cùng theo cái học cũ (chữ
Hán) là khoa thi cuối cùng đặt dấu chấm hết cho
một kỷ nguyên Hán Học (Nho học) kéo dài 844 năm trên đất nước ta (kể từ
khi vua Lý nhân Tôn mở khoa thi Tam trường lần thứ nhất năm 1075). Đông
kinh nghĩa thục là nhà trường mở ra để dạy quốc ngữ, dùng quốc ngữ để
dạy kiến thức phương Tây cho người Việt. Sau khi phong trào bị đàn áp
người Pháp buộc phải mở các trường tuần tự từ tiểu học đến đại học (dạy
học bằng chữ quốc ngữ, chữ Pháp, có cả chữ Hán) tiếp tục công việc của
Đông Kinh Nghĩa Thục. Chương trình học trong các nhà trường hoàn toàn
theo chương trình của Pháp. Có lẽ ban đầu chưa
có đội ngũ các nhà sư phạm người Việt soạn sách giáo khoa Việt nam nên
trẻ em Việt nam thời đó phải học thuộc lòng câu: tổ tiên ta là người Gô
loa (Pháp) bằng Pháp ngữ. Về sau, có sách giáo
khoa quốc văn thì mới bỏ được bài học chối tai đó. (Sách đọc thêm:” Đông
kinh nghĩa thục”, Nguyễn hiến Lê, ” Đại cương lịch sử Việt nam, NXB Giáo
dục, Hà nội).
Nhưng
tôi không tiếp cận phong trào đổi mới đầu thế kỷ 20 tại Việt nam theo
hướng đó.
Bài viết
có mục đích góp phần làm sáng tỏ khía cạnh dân khí tức dân quyền, quyền
làm chủ của nhân dân mà cốt lõi của nó là ý thức dân tộc thống nhất do
cuộc vận động ấy sinh ra và tìm hiểu bằng cách nào, bước đi nào để Người
Việt nam nâng cao dân khí nghĩa là có ý thức dân tộc, ý thức làm chủ đất
nước với tư cách mỗi công dân là một chủ thể bình đẳng về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm đối với dân tộc và đất nước, tức là quyền mỗi dân tộc tự
quyết định vận mệnh của dân tộc mình (quyền dân tộc tự quyết). Phong
trào Duy tân chủ trương, muốn cho người dân biết được quyền của minh thì
phải khai dân trí (giáo dục,tuyên truyền). Chủ trương đó đúng nhưng chưa
đủ. Và lần đầu tiên xã hội Việt nam biết thêm một sức mạnh văn hóa mới:
Báo chí. Báo chí trở thành một thứ nhà trường truyền bá tư tưởng dân chủ
phương Tây (dân chủ Mác xít cũng là một kiểu dân chủ sinh ra trong lòng
văn minh phương Tây, là thứ phản diện của nền văn minh ấy).
Từ cuộc
vận động duy tân đòi quyền dân tộc tự quyết đó sinh ra bốn dòng vận động
chính:
- Dòng
trí thức thành thị (được đào tạo trong nước hoặc tại chính quốc) tiếp
tục con đường hợp tác với Pháp, cải cách có điều kiện, khi đủ mạnh thì
đòi người Pháp trả lại quyền tự chủ cho Việt Nam: ví dụ nhóm Tự lực văn
đoàn do nhà văn Nhất Linh chủ xướng.
- Dòng
dựa hẳn vào người Pháp để canh tân đất nước: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh.
- Dòng
sử dụng bạo lực giành quyền lực chính trị trước(có xu hướng bảo hoàng
hoặc gần với chủ nghĩa tam dân của Quốc dân đảng Trung Hoa): điển hình
là cuộc khởi nghĩa Quốc dân đảng của lãnh tụ Nguyễn thái Học.
- Dòng
do Nguyễn tất Thành (chủ tịch Hồ chí Minh về sau) khởi xướng (ông có tân
học tuy là con của một nhà nho đỗ đạt, ông từng dạy học ở trường Dục
Thanh, Phan Thiết là loại học hiệu do phong trào Duy tân mở ra). Có lẽ
do người thanh niên ấy cho rằng đi theo con đường duy tân,
cải cách thì chậm nên sau khi ra nước ngoài tìm con đường khác, đã
tìm ra chủ nghĩa Mác Lênin. Ông nói đọc xong Luận cương các vấn đề dân
tộc của Lênin thì mừng chảy nuớc mắt. Ông chọn con đường đi nhanh (không
phải là đi tắt). Con đường cách mạng vô sản.
Trong
dòng trí thức thành thị, tôi sẽ tiếp cận Tự lực
văn đoàn(1933-1940) vì tôi thấy tổ chức ấy có một cách nhìn rất mới
trước các vấn đề xã hội Việt nam thời bấy giờ: vạch ra bộ mặt thật,
“bùn lầy nước đọng” của nông thôn Việt nam. (Học giả Nguyễn hiến Lê nhận
xét:”Bùn lầy nước đọng” chữ dùng của Tự lực văn đoàn là chính xác cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng về nông thôn Việt nam). Tự lực văn đoàn chủ
trương giải phóng người nông dân trong cảnh bùn lầy nước đọng trở thành
một người công dân (người nông dân bước ra ngoài lũy tre làng, có ý thức
làm chủ, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần khác trong xã
hội). Thấy được nông dân vừa là đối tượng của công cuộc đổi mới vừa là
lực lượng của cuộc vận động đổi mới là cái nhìn sắc bén, đúng đắn - các
phóng sự Bùn lầy nước đọng, Trước vành móng ngựa…
đã phơi trần bộ mặt nông thôn Việt nam rất sinh động. Chỉ trong 3 năm,
các ông đã vui mừng khoe công: ”Sự thay đổi của linh hồn dân ta đã
ngấm ngầm từ tốn mà tiến hành, không có sức mạnh nào ngăn cản lại được
nữa. Những lý tưởng những quan niệm cũ dần dần mất đi vẽ uy nghi lẫm
liệt, tất rồi cũng theo thời gian mà bị phá tan,
nhường chỗ cho những quan niệm những lý tưởng mới”.
Việc của ngàn năm không thề nào phá đổ nhanh thế được. Đảng cộng sản sau
này khi nắm quyền cả nước cũng phải trầy trật với nó đến 30 năm mà vẫn
chưa xong thì một tờ tuần báo phát hành 10.000 số mỗi kỳ (khá lớn ở thời
đó) chủ yếu cho người biết chữ ở thành thị thì làm sao chuyển biến nổi
tình hình nông thôn đã trở thành nếp kéo dài cả nghìn năm. (Người cộng
sản nói đó là lạc quan kiểu trí thức tiểu tư sản xa lông(?)).
Mục tiêu
của Tự lực văn đoàn là đả phá những thối nát nằm
ở mặt trái của cái gọi là văn minh làng (xã).
Cái triều đình con con cực kỳ dốt nát, bất nhân, thối nát, tàn bạo cai
trị làng xã được Tự lực văn đoàn hí họa thành những lý toét, xã xệ làm
trò cười cho thị dân (nông dân tuyệt đại bộ phận không biết chữ). Từ
hướng nhìn của Tự Lực Văn đoàn, thử tìm hiểu kết
cấu của làng (xã) Việt nam như là địa bàn hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội
của người Việt, là địa bàn chiến lược kinh tế-quốc
phòng của quốc gia Việt kéo dài cả nghìn năm. Sau này, có lúc làng xã
thành ra quận huyện, tuy vậy bản chất vẫn là làng xã.
2/
Văn minh làng - Ý thức làng (xã). Làng thời
Trần có tên là hương. Đại Việt sử ký toàn thư ghi hai hương Bàng Hà, Ba
Điểm đầu hàng giặc Nguyên nên vua Trần xóa sổ hai hương đó, bắt dân vào
làm nô tì nhà quan. Tuy khó nghe nhưng chính xác phải gọi là văn minh
làng. Cũng không thể nói văn minh nông thôn vì tuy nhìn chung tập hợp
làng là nông thôn nhưng mỗi làng là một đơn vị độc lập, mỗi làng có sự
độc lập nhất định với các làng chung quanh. Không có một cộng đồng làng,
chỉ có một tập hợp làng cấu thành quốc gia Việt. Các làng không có nghĩa
vụ với nhau, mỗi làng chỉ có nghĩa vụ với nước (làng nước) thực chất là
nghĩa vụ với vua chúa, triều đình.
Làng
(truyền thống) là một cộng đồng người Việt
(Kinh), có thể có một thiểu số sắc dân khác. Cộng đồng này quần tụ trên
một diện tích hẹp gồm những cái vườn (đất thổ cư) vài trăm mét vuông
(khoảng 1 sào bắc bộ) liền nhau, trên đó có nhà ở của mỗi gia đình
(khoảng 50-100 gia đình), nhà tranh vách đất là
chính, chỉ một vài nhà giàu hoặc nhà thờ họ, đình, chùa mới có tường
xây, lợp ngói và tường bao có gắn vật nhọn sắc trên
đầu tường để chống trộm cướp. Gia đình là một tổ chức
cùng huyết thống có từ một đến nhiều thế hệ chung sống. Gia đình càng có
nhiều thế hệ chung sống thì được dân làng coi là gia đình phúc đức sâu
dày, nối được mạch tổ tông. Làng có thể gần một giòng sông nhưng nét đặc
trưng của làng là lũy tre bao quanh với cổng làng thường đóng lại về
đêm. Quanh làng bên ngoài lũy tre là cánh đồng lúa (hoa màu tùy vụ).
Làng ở miền Nam (vùng đất mới) “thoáng hơn” vì yếu tố lũy tre không còn
nữa. Giữa làng có ao làng là nơi chứa nước sinh hoạt cho cả làng (ăn
uống, tắm giặt…) -
làng miền Nam không có ao làng vì đã có nhiều kênh rạch
- cũng là một thứ tụ điểm sinh hoạt văn hóa. Làng
có đình làng, nơi diễn ra các lễ hội của dân làng (tụ điểm văn hóa
chính), có thể có thêm vài ngôi miếu thờ các vị thần. Làng có người đỗ
đạt (tú tài trở lên) thì được dựng văn miếu thờ Khổng tử và các học trò
(thất thập nhị hiền) ở cánh đồng làng (có thể là để tỏ cho người làng
khác biết trình độ văn học của làng mình(?)).
Làng còn có chùa Phật (Phật giáo đại thừa, thường thì hai ba làng có một
ngôi chùa cũng ở ngoài cánh đồng). Người chết có thể an táng trong vườn
nhà hoặc trên ruộng nhà. Mộ tổ (mã tổ) là ngôi mộ to nhất làng, mộ của
vị lập ra làng. Mộ của người đến sau hoặc con cháu phải nhỏ hơn. Chết
được mai táng gần nhà là cái chết có phúc, chết xứ người là vô phúc. Một
số Việt kiều lớn tuổi muốn trở về quê hương cho gần tổ tiên,
ông bà có lẽ cùng một suy nghĩ như vậy. Những họ tộc lớn có thêm nhà thờ
họ do người con trai cả trông nom. Gia đình không
có con trai nối dõi là nhà vô phúc (bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại)
không có người trông nom mồ mã tổ tiên, giỗ cúng người đã khuất là đại
vô phúc, làng xóm đàm tiếu, chê trách rất nhục nhã. Tổ chức hành chính
cai trị có vị đứng đầu là lý trưởng và một số chức sắc không có thực
quyền nhưng được hướng một số đặc quyền. Những chức sắc làng có thể dùng
tiền để mua, kể cả chức lý trưởng. Sinh hoạt văn
hóa của làng diễn ra vào các dịp lễ tết ở sân đình làng. Hội hè đình đám
là những dịp vui chơi, có thể có tiệc tùng mà chỗ ngồi được qui định
chặt chẽ, nhìn vào chỗ ngồi trong một tiệc làng,
ta biết được địa vị xã hội của mỗi người. ‘Miếng
giữa làng’ chỉ ra lớp bậc xã hội của mỗi người
nên được quan tâm đặc biệt (một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp). Cưới
hỏi, tang ma, khao vọng
phải theo một qui định chặt chẽ. Mỗi làng có hương ước là một thứ luật
làng (lệ làng, nay gọi là qui ước), mọi người phải tuân theo. Do hương
ước, làng là đơn vị hành chánh cơ bản có quyền tự trị nhất định. Kinh tế
làng (truyền thống) chủ yếu là nông nghiệp, thủ
công nghiệp nhỏ bé tự sản tự tiêu, gần như không có thương nghiệp. Mua
bán đã dùng tiền nhưng thông thường là hàng đổi hàng. Có nơi theo cơ chế
xin cho, có đi có lại “bánh ít …bánh giầy”. Nay đã khác nhiều.
Sự chung
sống, sinh hoạt liền kề giữa người sống và người
sống, người sống và người chết hình thành nên cái gọi là tình làng nghĩa
xóm, tối lửa tắt đèn dựa vào nhau, ý thức làng xóm, họ hàng, dòng tộc, ý
thức về một nối kết từ quá khứ đến vị lai là ý thức phổ biến. Người ta
sống còn vì mồ mả tổ tiên. Do chính sách đất đai
thời phong kiến đã gắn chặt nông dân với ruộng đất. Đi khỏi làng là mất
gốc (vong bản), mất kế sinh nhai. Nông dân không
muốn rời làng đi nơi khác. Nơi an toàn nhất là sau lũy tre làng.
Ý thức cố thủ sau lũy tre để được bình an là nét đặc
trưng của văn hóa, tinh thần Việt, nhìn cái mới lạ với con mắt hoài
nghi, thù địch. Ý thức an phận thủ thường đó chỉ bị phá vỡ khi xã hội
loạn lạc do đói kém, chiến tranh…”Tha phương cầu thực” vừa là tiếng thở
dài của người phải ly hương, vừa là lời nhiếc móc
dè bỉu (loại tha phương cầu thực là loại người không lý lịch, không rõ
lai lịch, loại khả nghi). Nông dân rất sợ bỏ làng trở thành dân ngụ cư ở
làng khác. Cố học giả Nguyễn hiến Lê nhận xét: ”Tâm trạng tủi nhục đó
do tổ chức hương thôn của mình. Mỗi làng là một địa phương tự trị, có
tục lệ riêng, tài sản riêng (công điền), gần như một triều đình riêng.
Người nơi khác tới có cảm tưởng như vô một xứ lạ,
bị dân làng nghi kị, không muốn cho nhập tịch-vì không muốn chia công
điền cho họ-và chỉ cho ngụ cư (như tạm trú ngày nay) thôi. Dân ngụ cư
không có chút quyền lợi gì cả (không được dự vào việc làng, không được
chia ruộng) nên bị khinh. Đã bị nghi kị, lại bị khinh, tất khó làm ăn,
nên không ai muốn bỏ quê hương mà đi ngụ cư nơi khác cả, cho việc phải
li hương, phải ngụ cư là tủi nhục. Ngày nay chế độ xã hội chủ nghĩa lại
áp dụng chính sách thời phong kiến, chính sách địa phương tự trị đó cũng
phân biệt tạm trú và thường trú (có hộ khẩu) gây rất nhiều rắc rối và
tham nhũng. Bao giờ nước mình mới văn minh được?”
(Hồi ký Nguyễn hiến Lê).
Làng xã
miền Nam có thể không còn khép kín như ở miền Trung và Bắc. Những làng
xã miền nam chưa hoặc không cần có lũy tre, dân làng phần nhiều là lưu
dân gồm binh lính, dân nghèo đi tìm đất sống, tội nhân lưu đày biệt xứ,
người vô gia cư, vừa quyến luyến cố hương nhưng cũng thù địch với tầng
lớp trên ở cố hương. Do hoàn cảnh tự nhiên ít khắc nghiệt, dễ kiếm ăn,
không sợ đói nên người Việt miền Nam phóng khoáng
hơn người Việt ở Trung và Bắc, dễ tiếp thu cái mới, ít kỳ thị cái mới
nhưng ít nhiều không mấy thiện cảm với người đàng ngoài (dân trọ trẹ-từ
Huế trở ra), là nơi mà họ không dung thân được
phải đào vong đến nơi xa lạ. (Sau này một số trí thức miền Nam theo Pháp
muốn có một nước Cộng hòa Nam kỳ có lẽ xuất phát từ tâm tư tình cảm
đó?). Khi Người Việt đến xứ Gia Định thì ở đấy đã có Phật giáo tiểu thừa
có gốc gác từ Campuchia chưa lần nào tham chính như Phật giáo đại thừa ở
đằng ngoài, có cả Hồi giáo của người Chăm. Đó là một xã hội đa văn hóa,
đa chủng tộc. Có lẽ vì vậy mà ngày nay người dân Nam bộ ít quan tâm đến
những cái gọi là “quan điểm”, ”lập trường”, xuê xoa, dễ thân cận, làm
kinh tế thị trường giỏi nhất nước, có nền kinh tế thị trường nề nếp nhất
nước. (đọc thêm: “Đất Gia định xưa”, ”Người Sài Gòn”, Sơn Nam, NXB TP Hồ
chí Minh, NXB Trẻ).
Tín
ngưỡng làng xã là một thứ đa thần giáo (có nhiều loai thần linh ngự trị
trong tín ngưỡng dân Việt: Cây đa, cây gạo, bình vôi, cục đá…) hòa hợp
với tam giáo (Phật, Nho, Lão) đến từ Trung Hoa. Phần mê tín dị đoan có
lẽ xuất phát từ phần dung tục của Lão giáo kết với tín ngưỡng đa thần.
Phật giáo (ngôi chùa trở thành trung tâm của tín ngưỡng làng xã) có tính
dung nạp (sống chung) cao nên có thể thâm nhập và phát triển cả ở phương
Tây mà nền tảng văn minh của nó là Thiên chúa giáo. Hoặc là cả hai tôn
giáo ấy, trong bản chất có tính dân chủ cao. Khái niệm ‘tà
ma ngoại đạo’ có trong kinh kệ Phật giáo ngày nay
chỉ có thể được thêm vào sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc hoặc
Việt nam, hoặc khi tôn giáo ấy tham chính. Vì khái niệm Phật tính, vô
chấp, vô ngã là loai hình nhất nguyên luận không phân thị phi, phải trái
(có lẽ do Phật giáo Trung hoa thêm vào sau các đợt đàn áp Phật giáo
trong các thời phong kiến (từ Tấn trở đi) hoặc từ khi Phật giáo đến Việt
nam đi vào làng xã tiếp thu thêm tín ngưỡng đa thần cho phù hợp với thứ
tư duy nhị nguyên luận giản đơn, bình dân, dung tục, dễ hiễu: thiện ác,
tốt xấu….). Sự đề kháng mãnh liệt của văn minh làng (xã)
một phần có thể là do tính chất tín ngưỡng nông dân của nó. Đầu thế kỷ
20 nhà nghiên cứu Phan kế Bính, tinh thông cả Nho học đã coi Thiên Chúa
giáo là một bộ phận của tín ngưỡng làng (xã)
(tác giả dùng tên cũ Gia tô giáo) khi viết sách “Việt nam phong tục” là
công trình nghiên cứu bài bản, chi tiết đầu tiên
về phong tục Việt nam. Sự đề kháng, ý thức không dung nạp cái mới chẳng
phải chỉ đối với đạo Thiên Chúa (300 năm sau khi
các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam, đạo Thiên Chúa mới được
giới nghiên cứu Việt nam đưa vào sử sách cũng còn sớm). Đạo Phật, theo
một nghiên cứu gần đây cho rằng không phải từ Trung quốc truyền sang mà
do đường biển Nam Á tới sau mới đến Trung quốc cũng phải mất từ 300 đến
700 năm mới thành ra quốc giáo dưới thời nhà Lý. Sau đó suy vi cho đến
khi kết được với văn minh làng (xã) mà tồn tại và phát triển đến nay.
Nho giáo mất hơn 400 năm mới được coi là học thuyết trị nước hay nhất
(từ khoa tam trường cho đến Lê thánh Tôn mới định hình và tồn tại cho
đến 1919). Lão giáo được tiếp thu nhanh hơn và biến thành thứ tín ngưỡng
mê tín dị đoan, có lẽ vì nó phù hợp với tín
ngưỡng đa thần của người Việt .
Trong
kết cấu văn minh tín ngưỡng làng (xã) thì Phật giáo là yếu tố dung nạp
các yếu tố ngoại lai nhanh nhất (có lẽ do triết lý vô chấp vô ngã). Từ
hệ thống tổ chức dựa trên nền tảng môn phái, tổ đình là loại hình tổ
chức không chặt chẽ nhưng làm cho triết lý Phật giáo phát triển đa dạng,
phong phú, ngày nay Phật giáo tiếp thu cách tổ chức của tôn giáo khác để
có một hệ thống ban đầu là hội Phật học nay là Giáo hội Phật giáo. Một
số nhà nghiên cứu phong trào Cộng sản quốc tế còn thấy hệ thống tổ chức
của các đảng Cộng sản là bản sao hệ thống tổ chức của một tôn giáo. Hệ
thống tổ chức đó gắn với hệ thống hành chính nhà nước. Sự cải tiến đó
cho thấy Phật giáo không phải là yếu tố bảo thủ trong hệ thống văn minh
làng (xã).
Về sự
tham gia rất đặc thù của Phật giáo vào sinh hoạt chính trị Đại Việt ngay
sau thời tự chủ (thời Lý) được nhiều nhà nghiên
cứu thống nhất là do các nhà sư là thành phần trí thức duy nhất của nước
Đại Việt thời bấy giờ. Các nhà cai trị thời ấy thường là vô học, không
biết chữ. Công việc trị nước cần có văn tự để ghi chép và truyền đạt
mệnh lệnh (chưa rõ trước thời Lý - Ngô,tiền Lê báo cáo, mệnh lệnh…lưu
trữ, lên xuống theo cách nào). Các nhà sư là người tinh thông Hán tự do
phải nghiên cứ kinh sách từ Trung hoa truyền sang và phải viết kinh sách
hoặc phải sao chép kinh sách để truyền bá giáo lý và do đó các nhà sư
Phật giáo còn tinh thông cả Nho học và Lão học (Các nho sĩ tham gia việc
nước về sau có lẽ cũng do các nhà sư đào tạo ra(?)).
Nhiều công việc ngoại giao, nội trị thời đầu của một Đại Việt tự chủ do
các nhà sư phụ trách. Thi ca thành văn thời đó cũng cho thấy vị trí
thống lĩnh của các nhà sư tinh thông Hán học. Các thành phần khác có lẽ
cũng có sáng tác thơ ca vì đó là hoạt động tự nhiên của con người nhưng
không ghi lại được đã trở thành văn chương truyền khẩu. Thuở ban đầu ở
Trung quốc, có lẽ các nhà sư do chưa có trình độ
Hán học cao, ít chữ nên công việc truyền giáo chủ yếu là khẩu truyền,
vì vậy Phật giáo Trung hoa, do cách tiếp thu, trình độ giác ngộ lời Phật
dạy đã sinh ra nhiều tông phái. Có lẽ các tông phái Phật giáo
Việt nam hình thành cũng cùng một cách. Khi Nho học định
hình, giới nho sĩ khẳng định vị trí trong bộ máy cai trị thì các nhà sư
mới không tham dự triều chính. Khi chế độ quân chủ chuyên chính bước vào
qúa trình suy vong thì cũng diễn ra tệ mua bán
bằng cấp. Thời Lê Trịnh cho nộp tiền đi thi, Phan huy Chú-học
giả thời Nguyễn than: hạng sinh đồ 3 quan đầy cả thiên hạ (không học
hành nhưng nếu có tiền nôp quan là được đi thi dù đó là người mổ lợn
hoặc anh bán cá ở chợ-không biết chữ). Người đi
thi đông đến nổi chen lấn giẩm đạp nhau chết ở cổng trường thi. Ông cho
biết: ”thi hương (cử nhân) thì đem (tài liệu) vào trường mà chép, thi
hội (tiến sĩ) thì học thuộc lòng (bài giải biết trước) viết ra” (Lược
khảo khoa cử Việt nam (Khoa mục chí-Lịch triều hiến chương loại chí-Phan
huy Chú), Long Điền dịch, NXB Thanh Tân, Sài gòn - 1969). Những nho sĩ
khí tiết, hoặc không muốn chen chân vào quan trường, hoặc chán cảnh chợ
thi, trở về quê nhà dạy học, làm ruộng. Ông đồ, trường làng, tiếng học
bài ê a là nét văn hóa độc đáo của làng (xã) Việt nam, cùng với Phật,
Lão thành ra nền văn hóa tam giáo đồng lưu sau lũy tre làng. Có thể nhờ
vậy mà giảm được phần nào cảnh “bùn lầy nước đọng” trong đời sống tinh
thần của nông dân Việt. Trong thời loạn lạc đói kém các nhà sư và ông đồ
(lực lượng duy trì đạo đức, phong hóa ở làng xã) đứng ở đâu? Khi đói quá
thì diễn ra cảnh “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”,
hoặc như các nhà sử học Mác xít nói, họ đầu hàng giai cấp, tham gia cuộc
nổi dậy “tước đoạt” của nông dân như thi hào Cao
bá Quát.
Từ dẫn
chứng đó ta có thể rút ra mấy kết luận. Nhóm quyền lực nào có tri thức
sẽ trở thành lực lượng thống trị xã hội. Tuy nhiên vì quyền thường gắn
với lợi nhuận (nhiều quyền thì tất yếu có nhiều của cải) nên việc đổi
mới được quyết định bởi nhóm quyền lực nào chiếm ưu thế,
không nhất thiết đó là nhóm tiến bộ nhất. Theo cách đó có thể suy ra
nhóm tinh thông Nga ngữ sẽ kèn cựa với nhóm tinh thông Hán ngữ hoăc Anh
ngữ hay ngược lại vì đổi mới theo hướng nào thì phải vận dụng khối tri
thức của hướng đó (cải cách giáo dục ở Việt nam cứ nằm mãi ở bước dự
thảo có lẽ cũng do có sự kèn cựa của các khối áp lực có nguồn tri thức
khác nhau trong đảng Cộng sản). Gần đây trong một phiên họp Quốc hội khi
bàn về việc dùng ngoại ngữ nào làm ngôn ngữ thứ hai, đã có đại biểu đề
xuất dùng Trung văn. Điều ấy cho thấy quyền lực dựa vào tri thức Trung
văn không muốn mất quyền. Đó là sự đấu tranh giữa các nhóm quyền lực có
tri thức khác nhau được trang bị từ nhiều nguồn khác nhau dựa vào các áp
lực chính trị cũng khác nhau nốt.
Tập hợp tất cả yếu tố ấy, ta có cái gọi là văn
minh làng (xã).
Mặt hẹp
hòi cố chấp, nghi kỵ cái mới, giữ chặt truyền thống có trong văn minh
làng (xã) là do đâu? Có thể là do tầng lớp trên (theo cách nói Mác xít
thì tầng lớp trên ở làng gồm có bọn hào lý, ông đồ, nhà sư, thầy cúng
(Lão giáo?), tầng lớp dưới là bần cố nông và các loại
người nghèo khổ khác) ngại đổi mới vì có thể mất cả
quyền lẫn lợi, chỉ đổi mới, tiếp thu cái mới từ từ để duy trì đặc quyền
đặc lợi, hoặc là do đầu óc an phận thủ thường: ”không có cái đó cũng
chẳng chết ai”. Sự trì trệ trong nhận thức, ý thức bảo thủ là do phương
thức sản xuất ngàn năm không có gì mới (con trâu đi trước cái cày theo
sau) là do nền văn minh nông nghiệp manh mún, phụ thuộc trời đất mà có
hoặc phát sinh từ bối cảnh sinh loạt làng xã nói chung, không muốn, ngại
ra khỏi lũy tre làng?
Những yếu tố khác nhau trong văn minh làng(xã) tạo ra ý thức đề kháng
cao không chỉ với những cái mới mẽ mà cả với ngoại xâm. Lũy tre làng có
thể hình thành ngẫu nhiên nhưng có thể suy ra là nó được củng cố trở
thành hào lũy từ thời thập nhị sứ quân. Các làng xã với thủ lãnh của
mình tranh nhau quyết liệt quyền cai trị lãnh thổ đã hình thành lũy tre
làng. Lũy tre còn là phương tiện phòng vệ chống trộm cướp do đói nghèo,
loạn lạc liên miên giữa các làng xã, vùng miền từ trước thời Lý, qua
Trần đến tận trước 1945. (Nạn trộm cắp trâu bò hiện nay ở một số nơi
trong nông thôn có vài nét giống với nạn trộm cướp trong các làng xã
Việt nam ngày xưa).
Hệ thống
làng (xã) liên hoàn trở thành thành lũy, pháo đài chống ngoại xâm rõ
nhất từ thời Trần. Ba lần quân Nguyên xâm lược đều sa vào thế trận làng
(xã) (chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích). Xa giá vua Trần di
chuyển loanh quanh trong vùng đồng bằng sông Hồng và Thanh hóa,
kéo theo sau đại quân Mông Nguyên sa vào trận địa của dân binh các làng,
bị tiêu hao, hoảng loạn, sút giảm ý chí xâm lược. Khí
hậu thời tiết khắc nghiệt của Việt nam cũng góp phần đánh giặc Nguyên.
Vua quan nhà Trần chỉ cần vài trận đánh lớn nữa là đuổi được quân xâm
lược khỏi nước (theo “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ
XIII” - NXB khoa học xã hội - Hà nội - 1972).
Nhà Trần
động viên quân dân thời đó thế nào? Một số đoạn trích sau đây trong hịch
tướng sĩ văn (đầu đề đầy đủ đọc theo âm hán Việt là :”Dụ chư tì tướng
hịch văn” -bài hịch hiệu triệu, răn dạy các tướng sĩ) của Hưng đạo vương
Trần quốc Tuấn nói rõ điều đó:
- (Không
ra sức kháng chiến để mất nước thì) “Bấy giờ chủ tớ nhà ta sẽ cùng bị
trói, thật đau đớn thay! Chẳng những thái ấp của
ta (đất phong tặng của vua cho các vương hầu-thân quyến của vua) bị tước
đoạt mà bổng lộc của các ngươi cũng bị người khác chiếm mất. Chẳng những
gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị người khác bắt đi.
Chẳng những xã tắc của ta -(theo từ nguyên, Xã là
nơi tế thần đất, Tắc là nơi tế thần nông - vị thần trông coi nghề nông,
về sau xã tắc được hiểu là đất nước(Tầm nguyên từ điển, Bữu kế, NXB Khai
trí, Sài gòn, 1968), (Xã tắc của ta nghĩa là đất nước của ta-của giòng
họ nhà vua )- bị người khác xâm lăng dày xéo mà
tới mồ mã cha mẹ các ngươi cũng bị người khác đào bới. Chẳng những ta
kiếp này bị nhục mà trăm đời về sau danh nhơ khó rửa, tiếng xấu mãi còn
mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là bại tướng vậy…
- (Nếu ra sức đánh thắng giặc
Nguyên thì) ”Chẳng những thái ấp của ta mãi mãi là của nhà mà bổng lộc
các ngươi được hưởng thụ suốt đời. Chẳng những gia quyến của ta được yên
ổn giường chiếu mà vợ con các ngươi cũng được sum họp trăm năm cho đến
già. Chẳng những tông miếu của ta được tế tự muôn đời mà cha ông các
ngươi cũng được thờ cúng quanh năm (cúng bằng trâu bò dê lợn…huyết
thực,người chết được ăn thịt). Chẳng những thân ta kiếp này được đắc chí
mà các ngươi còn để tiếng thơm lưu truyền trăm năm. Chẳng những tên tuổi
của ta không bị mai một mà tên họ các ngươi cũng được tiếng thơm trong
sử xanh vậy…”
(trích: “Binh thư yếu lược” - Hưng đạo vương Trần quốc
Tuấn - Lê xuân Mai và cộng sự dịch - nhà sách Khai Trí xuất bản - Sài
gòn - 1969).
Trong
lời hiệu triệu đó ta thấy Hưng đạo vương đề cao 4 yếu tố:1/lợi ích vật
chất,2 /gia đình, 3/tín ngưỡng,yếu tố cội nguồn, gốc gác(chim có
tổ,người có tông), 4/danh tiếng giòng họ (lưu danh thiên cổ). Người ta
chỉ thành người có giá trị khi có một cội nguồn rõ ràng. Mồ mả cha ông
là một nét văn hóa. Bàn thờ tổ tiên là sự nối kết
người đã khuất với người còn sống. Trên bàn thờ tổ tiên thì bát nhang
(lư hương) là vật thờ cúng đóng vai trò kết nối con cháu với người đã
khuất, với trời với đất, là vật gia bảo tâm linh, tinh thần, tình cảm
truyền lại cho đời sau nguồn sống của dòng tộc. Giỗ cúng có thể thiếu
đèn nhưng không thể thiếu nén nhang. Đi làm ăn nơi khác, người ta chỉ
cần mang theo bát nhang là đã mang theo được dòng tộc cội nguồn, không
đứt mạch quá khứ với tương lai. Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua,
yếu tố này làm cho phe quốc gia không gắn được với nông thôn chiếm 80%
dân số. Trong khi thực hiện chính sách bình định nông thôn,
người Mỹ đụng phải mấy vấn đề: lực lượng du kích “ngụ binh ư nông”(như
dân binh thời Trần), không phân biệt được ai là ai, tình
hình đó dễ đi đến hành động “giết lầm hơn bỏ sót”(Vụ Sơn Mỹ…), không thu
phục được lòng dân, đụng chạm đến sức mạnh vừa hữu hình vừa vô hình:
tình cảm làng xóm, sợi dây liên kết người và người ở làng (xã) được cũng
cố hàng nghìn năm: “tình làng nghĩa xóm”, đụng đến tín ngưỡng làng xã:
Người sống + bàn thờ (bát nhang) + người đã khuất (mồ mả cha ông). Đào
mồ quật mả (do bom đạn, do cày ủi tìm hầm bí mật) làm cho đứt gốc nối
kết với quá khứ là hình phạt nặng nề. Vua Minh Mệnh dùng xích sắt xiềng
mã Lê văn Duyệt là có ý cắt ông ta ra khỏi cội nguồn mà dòng
dõi cũng tuyệt diệt không tiếp truyền được về sau (vô hậu hoặc ngầm mắng
ông ta là thứ tuyệt hậu). Dồn dân lập ấp là tách người sống ra khỏi
người chết (tổ tiên gốc gác, mồ mả cha ông), chạy bom đạn không đem
theo được bát nhang là sự cắt đứt mối quan hệ vô hình hữu hình. Không
quan tâm đến yếu tố này nên người Mỹ không thắng trong cuộc chiến ấy
(bình định nông thôn thực chất là đánh vào truyền thống văn minh làng
(xã). Người Mỹ không chinh phục được nông dân, không chinh phục được văn
minh làng (xã) Việt nam).
Sau
1975, khi Việt nam mở cửa một số Việt kiều về nước, việc đầu tiên thường
là xây mồ mã tổ tiên (thành phố nghĩa địa), có thể một số vị còn thỉnh
bát nhang sang xứ người để không mất gốc. Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng
phổ biến, lâu đời, ăn rất sâu vào đời sống tâm linh, tình cảm người nông
dân không phân biệt đó là địa chủ hay bần cố nông. Trừng phạt người dân
bằng cách đuổi người ta chạy ra khỏi nước là hình phạt khốc liệt về mặt
tâm linh, chặt đứt người ấy với cội nguồn, biến người ta thành kẻ vong
bản. Vài chục năm lại đây, thấy trên bàn thờ các gia đình tín đồ Thiên
chúa giáo có thêm bát nhang (lư hương). Đó phải chăng là sự tiếp thu có
chọn lọc( chọn rất đúng) văn minh làng (xã) Việt nam? Trước 1975, từ năm
1968 đến 1976 ở Sài gòn, một nhóm linh mục Thiên
chúa giáo (Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan…) theo Công đồng Vatican II vận
động Công cuộc gắn Tôn giáo với dân tộc. Nếu cuộc vận động ấy thành công
thì Việt Nam sẽ có vị Chúa hài đồng có vá tóc, bụ bẫm như tranh Đông
hồ, Đức mẹ Đồng trinh bận áo tứ thân, búi tóc, Chúa Giê-Su với áo dài,
khăn đóng. Cuộc vận động ấy táo bạo nên bị hoài nghi (để biết thêm việc
làm của nhóm linh mục này, tìm đọc tạp chí Đối diện( Đứng dậy, đồng dao)
từ 1968-1976-Sài gòn) từ nhiều phía trong kết cấu văn minh làng (xã) và
từ quyền lực cai trị (Quốc Cộng đều nghi ngại).
Sự
hình thành, tồn tại, phát
triển hay điêu tàn của làng (xã) Việt nam gắn chặt với 3 vấn đề, trở
thành nỗi ám ảnh ngàn đời trong tâm tư tình cảm của mỗi người Việt:
1/Đói nghèo, 2/giặc giả trộm cướp, tranh đoạt quyền lực, 3/ngoại xâm.
Đói nghèo, chiến tranh, ngoại xâm là ba mối bận tâm hàng đầu của mọi
loại nhà nước và nhân dân Việt Nam kế tục nhau cai trị Việt nam từ khi
dành được độc lập (Ngô Quyền) cho đến đầu thế kỷ 21. Thực sự thái bình
thịnh trị mỗi triều đại kéo dài từ 3-10 năm. Trong một nghìn năm chưa
đến trăm năm thực sự bình an no đủ. Theo sử cũ, sau loạn 12 sứ quân là
hai cuộc ngoại xâm, các cuộc đảo chính cung đình, cuối thời Lý đánh nhau
liên miên để giành ngôi vua. Nhà Trần chịu 3 cuộc chiến chống xâm lược,
lại loạn cung đình, ngoại xâm (nhà Minh xâm lược), lại nội chiến, rồi
ngoại xâm (Nhà Thanh, Pháp, Mỹ). Chia cắt đất nước và nội chiến liên
miên cho đến 1979 (1994?). Cứ vài năm từ cuối Trần cho đến đầu hậu Lê,
Đại Việt sử ký toàn thư ghi ngắn gọn: đói, đói
to, sâu cắn lúa, người chết ngoài đường (không có người chôn)…, giống
nạn đói chết 2.000.000 người năm 1945. Nạn đói 1976-1983 cũng kinh khủng
tuy không có người chết đầy đường.
Theo cố
học giả Nguyễn hiến Lê, trong những thời kỳ không
đói thì thực chất cũng chỉ no một nửa. Ông quan sát bữa ăn no
của người nghèo ở làng quê ông (Sơn Tây, năm 1928)
tính ra chỉ được 1500 calori. No chưa tới một nửa
theo tính toán khoa học. Đói và thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng sinh ra cái
tệ dành ăn, cái tệ một miếng giữa làng, vì miếng ăn mà kiện tụng nhau
đến tán gia bại sản, thù ghét nhau truyền đời (tiểu
thuyết Việc làng của Ngô tất Tố miêu tả sinh động cái thói giành ăn này).
Nguyễn hiến Lê nhận xét: ”Tự lực văn đoàn và Ngô tất Tố chế diễu tàn
nhẫn, truy nguyên tới cùng thì tại dân quê thiếu thịt, thiếu protéin.
Trong Nam dân quê không quá nghèo, vài chục năm trước có rất nhiều tôm
cá, rùa, chim…nên không thèm thịt như dân quê Bắc, Trung,
không có những tục, những thói xấu kể trên. Nay đã khác rồi. Từ ngày
giải phóng, cán bộ Bắc đem vô đây thói mỗi chút mỗi “liên hoan”, họp
nhau ăn uống, chắc cũng vì thiếu protéin. Nghe nói ở Bắc có nơi chỉ đặt
một trạm bơm nước vô ruộng mà từ khi dự định đến khi hoàn thành, mổ hết
100 con heo” (Nguyễn hiến Lê-Hồi ký-NXB Văn
học -1993). Cái nhìn đó vừa khoa học vừa nhân hậu, thông cảm với cái đói
nghèo triền miên của dân Việt chủ yếu là nông dân đã hàng nghìn năm. Cố
học giả Nguyễn hiến Lê còn thấy ở quê ông, nông dân do nghèo nên đói, do
đói nên bịnh tật liên miên. Bệnh nhưng không có
thuốc, người bệnh trùm chiếu chịu đựng vài ba ngày, nhờ trời mà hết bệnh
thì tiếp tục sống, rủi thì chết. Nghèo đói, bệnh
tật không thuốc men, cuộc sống hàng ngàn năm cứ một kiểu như vậy mà vẫn
còn nông dân ở nông thôn, thật là kỳ. Câu hỏi đặt ra là: Thứ xiềng xích
nào cầm chân người nông dân ngủ yên sau lũy tre làng? Thứ xiềng xích nào
trói chân, trói tay dân tộc Việt nam không tiến lên được?
Trong
lịch sử ngàn năm có lẽ thái bình, thịnh vượng chỉ
thật sự có trong mấy năm thời Lê thánh tôn. Dân đói
thì cướp bóc, nổi loạn (Các nhà sử học Mác xít gọi là khởi nghĩa nông
dân). Cướp hay khởi nghĩa có cùng một phương thức: ‘Cướp
của nhà giàu, chia cho người nghèo’,
nhà nghèo cướp của nhà giàu, vùng nghèo hơn đi cướp vùng giàu hơn. Trong
một ngàn năm chỉ có 3 cuộc nổi dậy (khởi nghĩa nông dân) Lê Lợi, Tây sơn
và cuộc đấu tranh do đảng Cộng sản lãnh đạo là thành công, còn lại là
“được là vua, thua là giặc”. Sử nhà Nguyễn ghi từ
đầu Gia Long đến cuối Tự Đức, hơn 50 năm có gần 800 cuộc nổi dậy, 16
cuộc khởi nghĩa trong 1 năm, giống châu Phi hiện nay. Khởi
nghĩa do đói kết hợp với tham vọng quyền lực của các hào trưởng địa
phương. Điển hình là giặc châu chấu (1854), vì
năm đó châu chấu phá hoại mùa màng ở đồng bằng sông Hồng, cuộc khởi
nghĩa có thi hào Cao bá Quát tham gia. Đói nghèo, giặc giả là cơ hội cho
quan lại và nhà giàu càng giàu lên vì bọn họ chiếm lấy ruộng đất của dân
nghèo bỏ xứ, người chết hoặc đơn giản là bọn có quyền làm văn khế giả để
chiếm ruộng đất của dân nghèo (cướp đêm là giặc
cướp ngày là quan). Chúa Trịnh Cương nhận xét:”Ruộng đất rơi hết vào nhà
hào phú, còn dân nghèo thì không có một miếng đất cắm dùi”. Theo cố học
giả Vương hồng Sển, ở Nam kỳ trước 1945, quyền thế và tiền bạc cấu kết
với nhau cướp không ruộng đất của nông dân đổ công khai phá rồi biến
nông dân thành tá điền trên chính ruộng đất của mình, xảy ra phổ biến.
Con em bọn nhà giàu ấy sẵn tiền rừng bạc biển truỵ lạc,
trác táng làm phong hóa suy đồi, làm tan nát bao nhiêu gia đình lương
thiện... Sau 1975, ông Vương hồng Sển rút kinh nghiệm theo thuyết nhân
quả, đại ý: Các người ăn chơi đú đởn để đến nay bọn tôi trả nợ khổ nhục
quá chừng (có lẽ ông muốn nói đến chủ trương cải tạo nói chung của đảng
sau 1975, cường bạo này trả thù cường bạo nọ, ruồi muỗi chết oan). Tình
trạng ruộng đất trong nông thôn ở cả ba miền ngày nay có gì khác với
thời vua Lê chúa Trịnh và thời Pháp thuộc?
Tình
trạng làng xã tự trị (dân chủ cơ sở) do cơ chế quyền lực và nhiều nguyên
nhân khác về thực chất là trung ương không kiểm soát được địa phương.
Học giả Nguyễn Hiến Lê thấy rằng bọn hào lý ở làng (năm 1928) thực chất
là một thứ triều đình thu nhỏ hành hạ dân nghèo không nương tay. Nông
dân nghèo khổ tụ tập nhau làm “giặc” đi cướp của nhà giàu để sống cũng
là lẽ thường. Đói nghèo, áp bức (vật chất,tinh thần), phiêu dạt phương
xa kiếm ăn, trộm cướp, bạo loạn… là mặt trái của
văn minh làng (xã). Lịch sử Việt nam cũng chứng tỏ khi quyền lực cai trị
mất lòng dân thì phải dựa vào bạo lực vũ trang để tồn tại. Công cụ bạo
lực biến thành kiêu binh tàn hại lương dân, chủ yếu vẫn là nông dân,
không sao kể xiết. Sử cũ ghi Kiêu binh thời cuối Lê-Trịnh từ Thăng
Long ra các vùng quê lấy của cải, bắt phụ nữ, con gái nhà lương dân giữa
ban ngày, có khi chúng làm như vậy ngay trong kinh thành Thăng long. Vua
Lê, chúa Trịnh có kết cục bi thảm là hậu quả của chính sách cai trị độc
tài mất lòng dân (Hoàng Lê nhất thống chí-Ngô gia văn Phái).
Phong
trào Duy tân-Đông kinh nghĩa thục đầu thế kỷ
trước, tiếp theo là nhóm Tự lực văn đoàn thấy ra mấu chốt của vấn đề xã
hội Việt nam chính là dân quyền, là trang bị cho người dân (chủ yếu là
nông dân) ý thức dân chủ nhưng chủ trương đó tuy đúng mà không hợp thời
vì nói một cách văn vẽ, nhu cầu cấp bách của thời đại không phải là dân
chủ (ý thức dân tộc, ý thức làm chủ đất nước). Nhu cầu bức bách chính là
giải quyết tình trạng đói nghèo, nông dân không có
ruộng cày triền miên trong làng xã Việt nam (cơm ăn, áo
mặc, ruộng cày -để làm ra cơm ăn áo mặc-
là 3 mồi lửa gây ra bạo loạn(cách mạng?)). Vấn đề làm ra của cải và
phương thức phân chia của cải xã hội là mối bận tâm của các loại nhà
nước Việt nam. Cho đến nay, Việt nam vẫn chưa có
chủ trương đúng đắn về các vấn đề đó. Đi theo con đường duy tân của
Phan Chu Trinh, Tự lực văn đoàn… thì chưa biết ngày nào tới chỗ no ấm.
Các bên đối đầu với đảng Cộng sản vì sao mà thất bại? Theo tôi, cái mà
“bên ấy” trưng ra với dân (chủ yếu là nông dân) thì đúng, tốt nhưng khó
hiểu (với nông dân) mà cũng lâu tới chỗ ấm no, tức là vẫn không hợp
thời, không hợp lòng dân(nông dân).
Đi theo
đường nào thì tới nhanh no ấm? Lịch sử Việt nam cho thấy, muốn tới nhanh
thì chỉ có một cách: ”cướp của nhà giàu chia cho người nghèo”. Khẩu hiệu
đấu tranh giai cấp (tước đoạt) của chủ nghĩa
Mác-Lênin chính là cách hay nhất để thanh toán nhanh đói nghèo (đó cũng
là bài học ngàn năm để lại). Đảng Cộng sản tập hợp lực lượng nhanh, có
đủ sức mạnh và chiến thắng trong cuộc cách mạng chống đói nghèo vì có
chủ trương hợp lòng dân (nghèo). Ngày nay đảng tổng kết: chiến thắng
1975 là chiến thắng của sức mạnh dân tộc chính vì lẽ đó (vì đơn giản
cuộc cách mạng chấm dứt năm 1975 là cuộc khởi nghĩa của nông dân đói
nghèo). Vì muốn hết đói nghèo nhanh nên cái giá phải trả là quá đắt.
Nghĩ lại thì đi theo cách “ý thức dân tộc” của Phan chu Trinh và Tự lực
văn Đoàn tuy chậm mà chắc. Nhưng đó là lịch sử chỉ có đi tới không quay
lại được. Nhưng làm lại thì được.
3/
Kết cấu ý thức xã hội trong đảng Cộng sản
Việt nam, cuộc vận động cách mạng của đảng cộng sản
(Lịch sử đảng Cộng sản Việt nam):
Khi chủ
tịch Hồ chí Minh (Nguyễn tất Thành, Nguyễn ái Quốc…) truyền bá chủ nghĩa
Mác Lênnin vào Việt nam thì phong trào Duy tân không còn mà biến tướng
của nó là lớp trí thức thành thị thấm nhuần nền giáo dục Pháp học. Đội
ngũ tuyên truyền của chủ nghĩa Marx, một số được đào tạo ở Liên xô,
Trung quốc, một số do chính chủ tịch Hồ chí Minh dạy bảo, một số học
được trong nhà trường của Pháp hoặc qua sách vở dịch từ Pháp ngữ, Hoa
ngữ (Karl Marx được phiên âm theo cách người Hoa là Mã khắc Tư). Những
đảng viên ban đầu chủ trương vô sản hóa, thâm
nhập vào nhà máy hầm mỏ nhằm giác ngộ cách mạng
cho công nhân. Một số khác về vùng nông thôn thâm nhập vào thành phần
bần cố nông. Một số tìm đường phát triển trong lực lượng học sinh, sinh
viên, trí thức. Dù đào tạo từ nguồn nào thì những đảng viên ban đầu là
trí thức. Sau một thời gian vận động, giác ngộ thì có thêm các thành
phần khác. Khi thống nhất ba đảng thì bộ phận miền Trung có nhiều đảng
viên là trí thức (Tân Việt cách mạng đảng phát triển chủ yếu trong trí
thức). Nhưng nhìn chung, yếu tố nông dân vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối.
Nhìn
chung trong kết cấu lực lượng về ý thức xã hội, đảng Cộng sản
có 3 thành phần chính
(1)Thành
phần có hoài bão, mơ ước về một dân tộc Việt nam là một khối thống nhất
không phân biệt sắc dân, địa phương, giai cấp,
tôn giáo, tín ngưỡng, một Việt Nam độc lập, dân chủ, phú cường mà các
giá trị nhân văn được bảo vệ và được loài người công nhận. Có thể phân
thành 2 loai: ý thức công dân rõ ràng: Trí thức từ nước ngoài về tham
gia kháng chiến: giáo sư Trần đại Nghĩa, tiến sĩ Trần đức Thảo…), trí
thức thành thị có ý thức dân tộc như nhà giáo, cử nhân sử địa Võ nguyên
Giáp, các trí thức là nhà văn, nhà thơ nhà nghiên
cứu Xuân Diệu, Huy Cận…mà điển hình là Phan Khôi và nhóm Nhân văn giai
phẩm về sau. Thành phần này tin rằng khi cách mạng thành công thì không
chỉ giải phóng được nhân dân khỏi áp bức bóc lột, đói nghèo mà nuớcViệt
nam độc lập có một nền chính trị dân chủ, nhân dân Việt nam ở bất cứ đâu
trên đất nước là một dân tộc thống nhất. (Một số thanh niên,
học sinh, sinh viên thành thị miền Nam trong chỗ
riêng tư đã chân tình nói: hóa ra mình đi theo
cách mạng là do các sách vở thời trước 1945, chủ yếu là của
Tự lực văn đoàn. Đó là lòng yêu
nước (khởi đầu của ý thức dân tộc) tiểu tư sản như các nhà lý luận Mác
xít nhận xét. Sau 1975 một số đảng viên từ Bắc vào, từ rừng ra
lắc đầu: phong trào đô thị quả là phức tạp. Những người
ấy giác ngộ chủ nghĩa Mác thì ít mà mang tâm tình, ý thức yêu nước tiểu
tư sản tham gia cách mạng thì nhiều. Chính thành phần này khi có điều
kiện sẽ mạnh lên đưa đảng Cộng sản đến gần với lợi ích dân tộc. (tìm đọc
Các hồi ký của các nhân vật liên quan: Hồ chí Minh, Võ nguyên Giáp, Trần
Độ, Tô Hoài, Hoàng Cầm…)
(2)Thành
phần thứ hai được rèn luyện chủ nghĩa rất bài bản, có ý thức đảng rất
cao (tính đảng): tổng bí thư Trần Phú (học ở Liên xô) với khẩu hiệu nổi
tiếng “trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Khẩu hiệu khét tiếng
đó một thời được cho là mang đậm màu sắc Mác xít. Xem xét kỹ thì bên
trong cái vỏ Mác xít có cái ruột nông dân đói nghèo triền miên.
(3)
Thành phần thứ ba, đại bộ phận là nông dân nghèo
ở nông thôn, thợ thuyền trong các nhà máy, công nhân hầm mỏ (công nhân
nhà máy, hầm mỏ thuộc loại này vì tuy họ là công nhân nhưng tuyệt đại bộ
phận gia đình họ lại sống ở nông thôn hoặc trong các khu ổ chuột ở các
thành thị làm nhiều nghề mưu sinh khác nhau). Tuy đủ thành phần như thế
nhưng nhìn chung bản chất vẫn là bần cố nông. Tạm xếp loại đảng viên này
là thành phần mang đậm Ý thức làng (xã) - Trong đó lẫn lộn ý thức họ
tộc, ý thức vùng miền…Cái vỏ bọc cho các loại ý thức đó là ý thức đảng
(quan điểm, lập trường Mác xít, tính đảng). Trong cơ cấu tổ chức nhóm
quyền lực chóp bu hiện nay cũng cho thấy đặc điểm vùng miền khá rõ. Có
người nói: có lẽ trời sinh ra người Việt ba miền có ba khả năng khác
nhau. (Tìm đọc chương: Tầm văn hóa thấp của trào lưu Cộng sản trong tiểu
luận Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà sĩ Phu - Đà lạt Việt nam (tên thật, Nguyễn
xuân Tụ, tiến sĩ ) trên một số web site.
Tôi
không dùng từ giai cấp vì nhận định sau đây của học giả Nguyễn hiến Lê
về giai cấp tôi cho là phù hợp với Việt nam. Ông viết: ”… định nghĩa
dưới đây trong Le 18 brumaire de Louis Napoléon-tức Napoléon III)(của
Karl Marx), rõ ràng đầy đủ nhất (lược bỏ phần tiếng Pháp)…”Khi nào có
nhiều triệu gia đình sống trong những điều kiện khiến cho từ lối sống
đến quyền lợi, văn hoá của họ đều cách biệt với lối sống, quyền lợi, văn
hóa của các giai cấp khác, và họ sinh ra tương phản, thù nghịch với
những giai cấp khác đó, khi nào như vậy thì những gia đình đó họp thành
một giai cấp. Khi nào chỉ có một sự đoàn kết tổng quát giữa các tiểu
nông với nhau mà sự đồng quyền lợi của họ không tạo nên sự thống nhất,
đoàn kết dân tộc, cũng không tạo nên một tổ chức chính trị,
khi nào chỉ như vậy thì họ không thành một giai cấp”(tr.41-42)”. …Theo
định nghĩa đó thì nông dân Việt nam từ xưa tới năm 1945 chưa bao giờ
thành một giai cấp cả…Công nhân cũng vậy…chưa bao giờ thợ thuyền Việt
chống tư bản Việt;các nhà tư bản Việt như Bạch thái Bưởi ở Bắc,Trương
văn Bền ở Nam, nhỏ quá, đâu đã làm mưa làm gió gì được?”
Tôi cũng
không thấy có thành phần nào tham gia cách mạng với ý thức dân tộc mạnh
mẽ, rõ ràng (theo cách hiểu ý thức dân tộc là ý thức của người dân về
cộng đồng người chung sống trên một lãnh thổ, bình đẳng và chia sẽ quyền
làm chủ đất nước, mỗi chủ thể là công dân có quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm như nhau được pháp luật công nhận, bảo vệ, ý thức về một
cộng đồng người trong một quốc gia có nhiều chủng tộc, nhiều tầng lớp,
tín ngưỡng, tôn giáo,chính kiến là cùng một dân
tộc). Người ta tham gia cuộc kháng chiến, có thể có hoài bảo, ước mơ về
một dân tộc Việt nam thống nhất dân chủ độc lập phú cường (nhân tố biến
thành ý thức dân tộc nếu có thêm các điều kiện cần có) và chỉ là hoài
bảo, ước mơ thôi.
Theo
định nghĩa sau đây: “Ý thức là: Hình thức cao của sự phản ánh của
thực tại khách quan, hình thức mà chỉ
riêng con người mới có. Ý thức con người là cơ năng của cái “khối vật
chất đặc biệt phức tạp, mà người ta gọi là bộ óc con người”…Người ta
quan niệm ý thức xã hội là toàn bộ những tư tưởng, lý luận và quan niệm
xã hội phản ánh những điều kiện của sinh hoạt vật chất của xã hội và
phương thức sản xuất của cải vật chất…Ý thức con người hình thành trong
quá trình hoạt động xã hội trong sản xuất, nó là sản phẩm của sự phát
triển xã hội…Sự xuất hiện của ý thức gắn liền với sự xuất hiện của ngôn
ngữ; ý thức và ngôn ngữ đều ra đời cùng một lúc. Sự hình thành của ngôn
ngữ đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
Ngôn ngữ có âm thanh là một trong những lực lượng đã giúp cho con người
phát triển ý thức và tư duy của mình…Vật chất, tồn tại là cái có trước
so với ý thức; hiện tượng đó đã được chứng minh bằng sự việc là đến một
giai đoạn phát triển nào đó của vật chất, của tự nhiên thì ý thức mới
xuất hiện; bằng sự việc là những tư tưởng và lý luận cấu thành ý thức
con người chỉ là sự phản ánh hoàn cảnh chung quanh vào bộ óc của con
người; bằng sự việc là toàn bộ ý thức xã hội - tức là sinh hoạt tinh
thần của xã hội – là do những điều kiện sinh hoạt vật chất, do phương
thức sản xuất của cải vật chất quyết định. Sinh hoạt xã hội của con
người quyết định ý thức xã hội của con người…Trong xã hội có giai cấp, ý
thức xã hội của con người bao giờ cũng có tính giai cấp”.
(Trích, từ ‘Ý thức’ trang
344,Từ điển triết học,NXB Sự thật-Hà nội- 1957)
định
nghĩa trên còn có chỗ tranh luận (duy vật, duy tâm…) nhưng căn cứ vào đó
để xem xét thì xã hội Việt nam cho đến nay chưa xuất hiện cái gọi là ý
thức dân tộc vì “trong xã hội có giai cấp (có đấu tranh giai cấp như
đảng khẳng định) ý thức xã hội của con người bao giờ cũng có tính giai
cấp (ý thức giai cấp, trong khi ý thức dân tộc là ý thức về dân tộc
thống nhất không quan tâm đến ai thì thuộc giai cấp nào). Nhưng vì xã
hội Việt nam không có giai cấp như Marx nói, vì
vậy người Việt không có ý thức giai cấp. Các điều kiện khách quan cũng
chưa có để người Việt có ý thức dân tộc. Hiện thực khách quan là gia
đình, dòng họ, làng xóm, vùng miền (sau này càng rõ, nói là do người
pháp nhưng đã hình thành từ thời Lê Trịnh Nguyễn và đảng Cộng sản tiếp
tục công nhận(củng cố, phát huy): Cơ cấu 3 kỳ (Bắc, Trung, Nam) trong
liên bang Đông dương thuộc Pháp: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ, Lào, Cao Miên
(Campuchia) và (tôi nhớ không rõ và cũng không còn tài liệu): Hoàng
triều cương thổ (Tây nguyên ngày nay). Hiện thực đó tất yếu hình thành ý
thức làng xã, vùng miền (tổng bí thư, chủ tịch
nước, thủ tướng). Người đảng viên Cộng sản tất yếu phải có ý thức
làng xã, vùng miền. Cựu thủ tướng Võ văn Kiệt yêu cầu bỏ
yếu tố vùng miền (thư gửi BCH TW đảng, diễn đàn BBC), một số trí thức
có thâm niên đảng cũng nói yếu tố làng xã, vùng
miền thực chất là độc tài, bè phái, phân tán
quyền lực (đưa đến rối loạn xã hội - tìm đọc bài nói chuyện của cố vấn
kinh tế Lê đăng Doanh với BCT đảng CS Việt nam trên một số WEB site).
Nếu điều ấy có thực thì nhu cầu thống nhất của dân tộc đã tác động đến
cái vỏ ý thức đảng của một số đảng viên cộng sản.
Nếu xem
xét cơ chế quyền lực triều đình phong kiến Trung quốc, Việt nam và quyền
lực cai trị ở làng xã Việt nam thì thấy rõ đó là thứ quyền lực không đầu
(không có nguyên thủ). Ở Trung Quốc từ Tần Hán qua Minh Thanh đến Cộng
hòa nhân dân đều có điểm chung: Không rõ quyền lực tối cao nằm ở đâu.
Lịch sử Trung hoa cho thấy thế lực hoạn quan, ngoại thích, vũ trang
thường khuynh loát triều đình. Sử gọi đó là loạn ngoại thích, loạn hoạn
quan, loạn biên trấn (tướng ngoài biên có nhiều quân, thường buộc vua
làm theo ý mình). Việt nam cũng vậy. Từ Ngô, Lý, Trần cho đến Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt nam cũng chẳng thấy rõ ai là nguyên thủ quốc gia.
Xét quyền lực ở làng xã Việt nam thì Lý trưởng đứng đầu nhưng lại có hội
đồng kỳ mục bên cạnh. Đó là một thứ lãnh đạo tập thể mà thực quyền nằm
trong tay các thế gia vọng tộc (truyện Chí Phèo của Nam Cao cho thấy rõ
tình trạng quyền lực không đầu đó). Vua Trần thái Tông sợ Trần thủ Độ
hơn con sợ cha, nghe nói sau này có vị chủ tịch cũng biết nể sợ các ủy
viên trung ương. Người nông dân (và
người dân nói chung) phải làm gì trong tình thế đó? Để
không bị chèn ép thì người dân làng (xã) phải tìm cách xếp hàng sau các
thế lực. Một cái làng con con vài mươi nóc nhà cũng có đến mấy phe phái.
”Phép vua thua lệ làng” còn nói lên quan điểm của quyền lực: chỉ có
làng, không có nước, “chờ mạ thì má đã sưng”, “kêu trời không thấu”, (Vụ
chia nhau ruộng đất hiện nay ở đồng bằng sông Cửu long-do
báo chi phát hiện- chứng minh quan điểm đó). Tình
trạng quyền lực ở làng xã như vậy thì người dân yêu làng hay yêu nước,
hay yêu cái thế lực mà mình đứng trong đó? có thể sinh ra ý thức quốc
gia, dân tộc được không? (Phần này nói về nhận thức, ý thức không liên
quan gì đến tình cảm yêu mến, nhớ nhung, quyến luyến nơi chôn nhau cắt
rốn, quê nhà, mồ mả tổ tiên, bờ ao, khóm chuối, bến nước, chiều về, đêm
trăng làng quê, cô thôn nữ, tình bạn ấu thơ .v.v…mà
ai cũng có. Đôi khi tình quê hương - nhớ làng quê được nâng lên thành
lòng yêu nước). Khi nói:”Trên nói dưới không nghe” thì không nhất thiết
là tất cả “dưới” đều không nghe “trên”. Vì lẽ “dưới”của ai thì chỉ nghe
“trên” của mình thôi. Cũng như vậy, “không thể cách chức thuộc cấp”
không phải là không thể, chỉ không thể với thuộc cấp của ai đó. Cuối
cùng sẽ có một giải pháp “phải phép” cho các bên quyền lực để tạo lối ra
êm đẹp đôi ba đường. Tham nhũng, làm bậy không trị được là vì vậy.
Thực
chất là chính trị Á đông (có cả Nga ở trong đó) không có một học thuyết
về quyền lực nhà nước hoàn chỉnh và luôn cải tiến (do tranh luận) cho
phù hợp với sự tiến hóa của xã hội. Từ khi Khổng tử đưa ra học thuyết
“thánh nhân trị nước do mệnh trời” từ trước Công nguyên thì mọi ông vua,
mọi vị tổng bí thư đảng, các ông tổng thống đều là thánh nhân, thiên tử.
Nguyên nhân là vì các xã hội ấy chưa bao giờ có tự do tư tưởng, tự do
ngôn luận cả. Các vụ án chính trị (oan sai) về ngôn luận, học thuật từ
trước đến nay ở Trung quốc cũng như Việt nam đều xuất phát từ quan điểm
“dị chí”. Dị chí là không nghĩ như vua (thực chất là thế lực có thực
quyền, thực lợi đằng sau ông vua), không nói như đảng (có lẽ cũng vậy).
Không nói không nghĩ như vua như đảng tất là phản động, chống vua chống
đảng. Đó là truyền thống văn hóa Á đông, cái mà quyền lực hiện nay ở
Trung quốc và Việt nam (Nga cũng vậy, Bắc Triều tiên còn tệ hơn nữa)
viện ra để thực hiện đổi mới cà nhắc. Ngày trước vua phán “dị chí” thì
tru di tam tộc. Ngày nay đảng phán “diễn biến hòa bình”,”phản
động” thì vô tù. Một xã hội không có hoạt động học thuật
tự do thì văn minh tiến bộ thế nào được.
Học
thuyết về quyền lực cai trị ở phương Tây nếu không có tự do tư tưởng thì
cũng “đóng băng” như học thuyết quyền lực chính trị của Á đông. Có thứ
học thuyết nào tồn tại đến hơn 2000 năm không đổi mà vẫn còn đúng? Học
thuyết Mác Lênin thực chất là học thuyết về “tước đoạt”, phần nói về
quyền lực cai trị thì rất hàm hồ. Quyền lực do giai cấp nắm giữ, đội
tiên phong của giai cấp là đảng. Vậy quyền lực do đảng nắm giữ (tồng bí
thư). Nhưng lại nói quyền lực cao nhất thuộc ban chấp hàng trung ương,
tập thể lãnh đạo, đó là một thứ quốc hội của đảng. Bên cạnh lại có chính
quyền có thêm một quốc hội của dân nữa (nhưng tuy hai mà là một). Hai
quyền lực cai trị trong một quốc gia tất yếu sinh ra cục bộ, địa
phương, bè phái, dòng họ, làng xã. Mô hình đó có gì khác với mô hình
quyền lực làng xã? Có lý trưởng lại thêm hào mục (còn gọi là Kỳ mục, kỳ
hào: những người giàu có, lớn tuổi ở làng) và các thế lực ngầm đằng sau.
Xã hội sinh ra nhiều Chí Phèo là lẽ đương nhiên, rất tệ nếu Chí Phèo lại
nắm quyền lực.
Nếu xét
từ mối quan hệ ý thức – ngôn ngữ: “sự xuất hiện của ý thức gắn liền với
sự xuất hiện của ngôn ngữ” (nói, viết) thì có thể nói ý thức dân tộc chỉ
có thể sinh ra từ sau khi phong trào Duy tân-Đông kinh nghĩa thục ra đời
(chưa đầy trăm năm tính từ 1907) sử dụng chữ quốc
ngữ để dịch các sách về dân quyền, xã ước(Montesquieu,J.J.Rousseau…) từ
tân thư của phong trào duy tân Trung quốc hoặc từ sách chữ Pháp (Ý thức
dân tộc là từ Hán Việt). Vì xét thấy trong các sách sử, biện khảo quan
trọng của Việt nam trong thời quân chủ chưa thấy từ đó xuất hiện (Đại
Việt sử ký toàn thư, Đại nam nhất thống chí, Đại nam
thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều hiến chương
loại chí, Vân đài loại ngữ…không có từ đó hoặc từ tương đương, vì không
có ngôn ngữ viết ghi trong sách sử nên suy ra người
Việt trong chế độ quân chủ, chuyên chính chưa có
ý thức dân tộc). Ý thức dân tộc không phải là tình cảm dân tộc, tình
đồng bào, lòng tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc…Nhưng những thứ đó thêm
một số định chế khác lại là tiền đề hình thành ý
thức dân tộc thống nhất. Trong tiểu thuyết lịch sử Hoàng lê nhất thống
chí (Ngô gia văn phái - Nguyễn đức Vân, Kiều thu Hoạch dịch - NXB Văn
học - 1987), sáng tác trong khoảng từ cuối Lê đầu Nguyễn mô tả tình hình
đất nước cuối thế kỷ 18. Truyện có những đoạn đối đáp giữa vua tôi chúa
Trịnh với vua Lê, Vua Lê với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cho thấy giới thống
trị ngày đó không coi dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt nam là một,
mà là nước An Nam, nước Tây sơn, nước Bắc hà, nước Nam hà.v.v.
Cho đến nay cũng khó chứng minh được mọi công dân Việt nam đều có ý thức
dân tộc mạnh mẽ .
Nếu định
nghĩa ý thức là sản phẩm của tư duy trừu tượng, độc lập với hiện thực
khách quan (duy tâm,duy lý) như tư duy trong môn toán cao cấp mà trong
chế độ quân chủ, chuyên chính người dân đã có ý
thức dân tộc thì xảy ra hai tình huống: 1.có trong ý thức nhưng chưa bao
giờ nói ra công khai với người khác hoặc ghi lại bằng chữ nghĩa trong
một tài liệu. Như vậy ý thức đó là của một vài cá nhân chưa trở thành ý
thức phổ quát, thành ý thức xã hội, 2. Đã nói ra và có ghi lại thì nhất
định bị buộc tội khi quân phạm thượng, nhẹ thì lưu đày viễn xứ, nặng thì
có hàng trăm, có thể là hàng ngàn người ra pháp trường. Đó là tội tru di
tam tộc vì có dị chí, muốn tranh giành quyền làm chủ đất nước với ông
vua, dòng họ chịu thiên mệnh (tất yếu lịch sử?) cai trị đất nước.
Khi chủ
tịch Hồ chí Minh nói: ”Nước Việt nam là một, dân tộc Việt nam là một”
thì chứng tỏ Ông có ý thức dân tộc nhưng không nhất thiết người Việt nam
nào trong thời điểm đó cũng có ý thức dân tộc vì hiện thực xã hội chưa
đủ yếu tố để hình thành ý thức dân tộc trong mỗi người dân. Ý thức làng
(xã) và các loại ý thức dẫn xuất của nó vẫn là ý thức thống trị, phổ
biến trong xã hội Việt nam ngày nay, đặc biệt rất rõ ràng, sâu sắc trong
đảng Cộng sản Việt nam. Xét toàn bộ vấn đề, có một loại ý thức khác đang
lớn mạnh trong xã hội đó là ý thức vô chính phủ do quyền lực không có
nguyên thủ sinh ra, ngự trị trong đảng và ngoài xã hội. Càng chuyên
chính thì càng vô chính phủ. Tôi nghĩ đảng cũng đã thấy ra như vậy.
Nếu ngày nay có một cuộc
nổi dậy nào đó tranh giành quyền lực
cai trị
với đảng Cộng sản bằng bạo
lực và lật đổ thì đó vẫn là cuộc nổi dậy của nông dân mà tính chất của
cuộc nổi dậy ấy là giống với tính chất của các cuộc nổi dậy (phong trào
khởi nghĩa
nông dân) trong lịch sử dân
tộc Việt nam.
4/ Món nợ nông dân. Ở giai
đoạn đầu và cả quá trình của cuộc vận động cách
mạng, người Cộng sản nói gì với nông dân? Tổng bí thư đảng đầu tiên Trần
Phú đưa ra khẩu hiệu hành động khét tiếng: ”Trí phú địa hào đào tận gốc
trốc tận rễ” làm nhiều người kinh hoảng nhưng khẩu hiệu đó có thể hiểu
nôm na là: ”cướp của nhà giàu chia cho người nghèo”. Đó là khẩu hiệu mà
các phong trào khởi nghĩa nông dân trước đó thường dùng và thực hiện. Từ
loạn 12 sứ quân cho đến các cuộc nổi dậy về sau đều làm vậy cả. Sau nạn
đói kinh khủng làm chết 2 triệu người ở miền Bắc năm 1945 thì phá kho
thóc của Nhật, của nhà giàu, địa chủ chia cho người đói đã tập hợp được
đông đảo người tham gia cách mạng. Lời hứa của đảng với nông dân là:
”Cơm ăn, áo mặc,ruộng cày”.
Về cái
gọi là bi kịch trí thức đi theo cách mạng. Sau 1954, nhiều trí thức đi
theo cách mạng hoang mang vì chưa thấy đảng thực hiện dân chủ, tự do nên
đã lên tiếng đòi tự do dân chủ. Phan Khôi viết trên Nhân văn giai phẩm:
”Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với mình, thì rồi
đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết”
(theo: “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, NXB Mặt trận bảo vệ tự do văn hóa
- Sài gòn - 1959). Nhóm Nhân văn giai phẩm (Phan Khôi, Trần Dần, Phùng
quán, Hoàng Cầm…) bị trừng trị thẳng tay do tin lời của đảng về tự do
dân chủ. Sau 1975, nhiều trí thức Sài gòn ra khu
kháng chiến hoặc tham gia phong trào đô thị, kẻ phải ra nước ngoài,
người bị khai trừ khỏi đảng cũng vì phát biểu cùng giọng với Phan Khôi.
Những dẫn chứng đó đưa đến kết luận tất yếu là trí thức đi theo cách
mạng Mác xít thường phải gánh chịu bi kịch (Liên xô, Đông Âu,Trung quốc
đều như vậy cả). Có người mỉa mai những trí thức tham gia 2 cuộc kháng
chiến: Các anh(chị) lựa chọn hay quá. Bi kịch của trí thức hay bi kịch
của ai? Ghi chú: Đảng nói chỉ có trí thức tiểu tư sản, hữu khuynh, bị
lung lạc, không vững vàng thì mới bị “kỷ luật”,
trí thức xã hội chủ nghĩa kiên định lập trường, quan điểm vẫn được trọng
dụng. Như vậy những trí thức còn giữ các chức vụ trong đảng đều là trí
thức có giác ngộ giai cấp, kiên định quan điểm lập trường cách mạng.
Cho đến
tận thời điểm này, cuộc cách mạng của đảng đã giải quyết xong mục tiêu
nào? Công bằng mà nói có một mục tiêu về cơ bản đã giải quyết được: Đói,
áo mặc. Cái đói nghèo ngàn năm của người nông dân đã được thanh toán cơ
bản về lượng (thiếu ăn nhưng hết đói?). Chỉ có mục tiêu đó thôi. Ba mươi
năm đất nước thống nhất người nông dân mới hết đói về lượng cho thấy các
mục tiêu cách mạng đặt ra là chưa giải quyết được. Có lẽ đảng
cai trị còn muốn nhân dân hy sinh một thời gian nữa. Hy
sinh bao lâu và với cách làm hiện nay thì có đến được độc lập - tự do -
hạnh phúc không? Có thể giải thích là nhu cầu thời đại còn là miếng ăn
manh áo, người nông dân đòi tự do dân chủ để làm gì khi ăn chưa no
(lượng và chất), bệnh không có thuốc (một điều tra quốc tế mới đây cho
thấy công bằng trong chăm sóc sức khỏe, Việt nam nằm nhóm dưới cùng). Bi
kịch không phải là của trí thức, bi kịch lớn hơn là thuộc về nông dân,
lực lượng đông đảo nhất đã hy sinh cho cuộc kháng chiến. Bi kịch ở chỗ
nông dân còn nghèo mà nhiều đảng viên lại giàu lên kinh khủng (đỉnh và
đáy cách nhau đến 13 bậc, tính bình quân, phấn đấu không còn hộ nghèo
tức thu nhập bình quân đầu người đạt 3.000.000VND/năm, chưa bằng một
tiệc nhậu nho nhỏ của các quan chức). Bi kịch ở chỗ nông dân bịnh còn
thiếu thuốc, con cái bỏ học nửa chừng, vợ con phải bán thân nuôi miệng,
còn phải làm tá điền cho những ông chủ đất kiểu mới mà đảng cứ một mực
khẳng định cơ sở chính trị của đảng là liên minh công nông. Bi kịch của
trí thức chỉ là hạt cát. Bi kịch của trí thức,của nông dân thực chất là
bi kịch của cả dân tộc. Trong hoàn cảnh đó người nông dân Việt nam có ý
thức gì?
Trước
tình hình xã hội có sóng ngầm như vậy, tất yếu
quyền lực cai trị thi hành chính sách dân tuý, mị dân (chủ nghĩa dân
tuý: “Thể hệ tư tưởng tiểu tư sản duy tâm…Lênin đã định nghĩa chủ nghĩa
dân túy như sau:”Nó đại biểu quyền lợi của những người sản xuất về
phương diện họ là những người tiểu sản xuất,người tiểu tư sản”…Về cơ bản
họ là nông dân cách mạng, kịch liệt phản đối bọn tự do; họ đi vào “dân
chúng”(vì thế gọi là “dân tuý”)”.(Từ ‘dân túy’
(chủ nghĩa) trang 183,Từ điển triết học, NXB Sự thật-Hà nội-1957). Chính
trị dân túy, thoạt nhìn thì hình như là dân chủ
mà thực chất là độc tài chuyên chính. Chính sách công hữu về ruộng đất,
công khai là để nhà nước điều tiết ruộng đất,
không để cho cường hào ác bá và người có tiền cướp không ruộng đất-là
phương tiện chống đói nghèo của nông dân, rất hay, nhưng thực chất là
xác nhận quyền không được làm chủ ruộng đất của nông dân. Quyền tư hữu
tài sản (cốt lõi là tư liệu sản xuất) là cơ sở hình thành ý thức làm chủ
xã hội. Có làm ông chủ (tài sản, tư liệu sản xuất) thì mới có ý thức làm
chủ. Không có ý thức làm chủ thì người nông dân vẫn cứ là tá điền cho
các ông chủ. Những ông chủ thực đang bốc lột sức lao nông dân tá điền
hiện nay là ai?
Khẩu
hiệu tập hợp nông dân cho cuộc cách mạng là ”người cày có ruộng cày” vẫn
chưa thành hiện thực. Đó là món nợ ‘người cày có
ruộng’. Một chính sách ruộng đất dân chủ thì phải
khẳng định rõ: Người nông dân (người dân nói chung) có quyền tư hữu
ruộng đất. Đó cũng là chính sách gắn nông dân với
ruộng đất, là chính sách nông nghiệp phát triển bền vững,
cũng là chính sách bảo vệ môi trường tốt nhất. Khi người ta làm chủ có
cơ sở bảo đảm thì người ta mới làm chủ các vấn đề liên quan đến cơ sở
đó. Chính sách ruộng đất công hữu, không xác định rõ ông chủ cụ thể sẽ
hình thành ý thức làm ăn chụp giựt, kiểu ăn xổi ở thì. Cứ như vậy,
Việt nam không có được nền sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững. Suy
rộng ra là Việt Nam không thể phát triển bền vững nếu không xác định
quyền tư hữu tài sản rõ ràng, trước hết ruộng đất phải là tài sản tư của
nông dân. Công thức làm chủ: “đảng lãnh đạo,nhân dân làm chủ,nhà nước
quản lý” nói quyền làm chủ đất nước là thuộc về nhân dân nhưng thực chất
là trên đầu ông chủ này còn có ông chủ khác (đảng lãnh đạo), ông chủ này
trong thực tế là “đầy tớ” của ông chủ lớn hơn. Không thể có hai ông chủ
cùng lúc cho mọi đối tượng. Ông chủ có thực quyền loại ông chủ danh
nghĩa ra khỏi ghế ông chủ. Đảng viên, cán bộ loại nông dân ra khỏi ruộng
đất là lẽ tất yếu. Đấy chỉ là một dẫn chứng “dân tuý” nằm ở chỗ nào từ
vị trí người nông dân. Ở những vị trí khác mà nhìn thì màu sắc “dân tuý”
cũng cùng một kiểu.
Khái
quát là đảng Cộng sản Việt nam còn mắc nợ nhân dân (cả người sống lẫn
người chết) món nợ dân chủ. Khi người dân thấy trên đầu còn có ông chủ
khác thì nhất định không thể sinh ra ý thức dân chủ, ý thức dân tộc, độc
lập, thống nhất.
Các mô hình, khái niệm: kinh tế thị trường tự do, quyền
tư hữu tài sản, dân quyền, nhân quyền, ý thức dân tộc, dân chủ đại nghị,
quyền dân sự, phổ thông đầu phiếu, quyền tự do v.v…gộp chung lại ta có
cái gọi là văn minh phương Tây. Văn minh phương Tây có tên gọi khác là
văn minh Thiên Chúa giáo. Nền văn minh ấy làm cho phương Tây giàu lên,
xã hội công bằng, văn minh. Công cuộc đổi mới lần thứ hai (duy tân, Âu
hóa) như vậy không chỉ là trách nhiệm của đảng Cộng sản Việt nam mà
chính là trách nhiệm của tất cả các bên cấu thành nền văn minh làng
(xã) (Có những tên gọi
khác: truyền thống dân tộc, bản sắc dân tộc) và nhất định phải loại bỏ
những yếu tố bảo thủ, cố chấp, xích xiềng trong cái gọi là bản sắc dân
tộc (ý thức làng xã và các dẫn xuất của thứ ý thức ấy). Có người lo ngại
cải tiến văn minh làng (xã) thì lấy gì chống ngoại xâm. Đó là lo âu có
cơ sở, vậy ngày nay ngoại xâm từ đâu đến, làm gì để chống ngoại xâm? Chỉ
có một nền chính trị dân chủ thực sự mới huy động được sức mạng toàn xã
hội tham gia công cuộc Âu hóa (lần 2). Vì chỉ
trong một nền chính trị dân chủ thực sự thì ý thức dân tộc mới phát
sinh. Mỗi người dân Việt nam có ý thức dân tộc mạnh mẽ thì đất nước mới
thật sự thống nhất, mới có sức mạnh tổng hợp. Đoàn kết dân tộc trong một
đất nước còn nặng ý thức làng xã, vùng miền, họ tộc thì chỉ là khẩu hiệu
mị dân (dân túy). Đổi mới với ý thức dân tộc mạnh mẽ chính là cuộc cách
mạng mà nhân dân, đất nước Việt nam cần có.
-------
Tài liệu đọc thêm: bộ 3 cuốn: 1. Cú sốc tương lai, 2.Thăng trầm quyền
lực 3. Làn sóng thứ 3 của nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler. Hai
cuốn trên do nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà nội dịch,
ấn hành, cuốn sau là tài liệu lưu hành nội bộ.
Trần minh Thảo
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|