NHỮNG VỤ ÁN
Đơn kháng cáo của HSP
HàSĩPhu
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN KHÁNG CÁO
Đà Lạt ngày 12 / 2 / 2001
Kính gửi : - Chủ tịch nước
CHXHCNVN Trần Đức Lương
- Chủ
tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh
- Ong
Viện trưởng Viện Kiểm sát ND tối cao
- Ong Bộ
trưởng Bộ Công an Lê Minh Hương
- Ong Bộ trưởng
Bộ Văn hóa Thông tin Nguyễn Khoa Điềm
- Ong Bí
thư Tỉnh Uy Lâm đồng Nguyễn Hoài Bảo
- Ong Chủ
tịch UBND tỉnh Lâm đồng Phan Thiên
- Ong Thủ
trưởng Cơ quan ANĐT Công an Lâm đồng
...........
Tôi là công dân
Nguyễn Xuân Tụ (tức người cầm bút Hà Sĩ Phu), 62 tuổi, Tiến sĩ Sinh học
hưu trí, ở 4E Bùi thị Xuân, P 2, Đà lạt, Lâm đồng.
Ngày 10/5/2000 tôi bị khởi
tố trong một vụ án gọi là “Phản bội Tổ quốc”. Tôi đã viết một Đơn khiếu
nại (19/5/2000) và một Thư yêu cầu (30/10/2000) để nêu ý kiến của tôi về
bản chất của vụ án và thái độ của tôi trước vụ án này, đồng thời cũng
tóm tắt tất cả những khổ ải và tổn thất nặng nề mà tôi phải gánh chịu
suốt 6 năm qua.
Sau 8 tháng điều
tra, ngày 5/1/2001 Cơ quan An ninh điều tra thuộc Công an Lâm đồng đã có
Quyết định đình chỉ vụ án , đình chỉ điều tra và trả tự do cho tôi. Nếu
như trong một xã hội với nhà nước pháp quyền thì vụ án của tôi hiển
nhiên đã xong và tôi đã có thể trở về đời sống công dân một cách đầy đủ
và thanh thản.
Nhưng không, khi bàn
tay pháp luật vừa buông tôi ra thì một vòng vây những sự hành hạ khác đã
siết chặt lấy tôi.Cụ thể là những việc như sau:
1/
Báo An ninh Thế giới mở ra một loạt bài, ngang nhiên bịa đặt nói xấu
chúng tôi , ngang nhiên quy kết chúng tôi về chính trị ở những mức độ mà
chính cuộc điều tra hình sự cũng không dám kết luận (vì nếu bản kết luận
điều tra mà cũng có những lời như : lao theo con đường phản dân hại
nước, hoạt động dưới sự chỉ đạo của tác tổ chức phản động bên ngoài,
chống ĐCSVN và nhà nước XHCNVN một cách quyết liệt nhất...thì làm sao vụ
án có thể đình chỉ mà không xét xử?). Tôi tố cáo việc làm vu khống
xâm hại danh dự công dân này, yêu cầu tác giả Nguyễn Như Phong và báo
ANTG công khai xin lỗi chúng tôi trên báo, đồng thời chấm dứt việc đăng
những ý kiến một chiều, mà phải đăng bài của người bị báo phê phán (theo
luật báo chí) và những ý kiến phản bác lại bài báo. Nếu không
thì kiểu đăng báo đó chẳng khác nào cuộc đấu tố CCRĐ năm
xưa hoặc cuộc “Cách mạng Văn hóa” Trung quốc.
2/
Ngày 9/2/2001 ông Nguyễn văn Độ , thủ trưởng cơ quan ANĐT Lâm đồng đã
ký quyết định tịch thu dàn vi tính 586 của tôi mà trước đây đã bị tạm
giữ để điều tra.Nhưng tôi là người có tài sản bị tịch thu thì lại không
được trao bản quyết định tịch thu đó, nên tôi không có trong tay chứng
cứ rằng mình đã bị tịch thu những thứ gì và chất lượng, giá trị ra sao
(Cũng vì thế mà tôi không có bản sao quyết định tịch thu ấy để gửi kèm
Đơn kháng cáo này). Cách tịch thu đó không minh bạch, và tôi không hiểu
tại sao Cơ quan Điều tra lại có quyền tự tiến hành sự trừng phạt này?
Không có xét xử của Tòa án , tại sao Cơ quan Điều tra có thể quy tôi là
PHẠM TỘI? Đã không có quyền xác định là PHẠM TỘI thì sao có quyền “Tịch
thu công cụ, phương tiện dùng vào việc PHẠM TỘI”?
Tháng 4 năm 1999 ông
Nguyễn Tri Diện chủ tịch UBND thành phố Đà lạt cũng đã tịch thu 1 dàn vi
tính 586 khác của tôi kèm một máy in Laser vì quy kết tôi vi phạm Luật
xuất bản, trong khi tôi chẳng liên quan gì đến việc xuất bản nào cả (Vụ
tịch thu này thì tôi có bản sao quyết định kèm theo đây). Cả hai
vụ tịch thu tài sản này của tôi đều không có cơ sở pháp lý, nay tôi
kháng cáo lên các cấp lãnh đạo cao hơn để yêu cầu trả các tài sản nói
trên cho gia đình chúng tôi.
3/
Nặng nề hơn cả, cũng ngày 9/2/2001 tôi đã nhận được Quyết định số 338/
QĐ-UB do ông Phan Thiên chủ tịch UBND tỉnh Lâm đồng ký, quyết định
Quản chế hành chính đối với tôi trong 2 năm, dựa trên Nghị
định 31/CP (do Chính phủ ban hành ngày 14/7/1997).
- Về Nghị định 31/CP là cơ
sở để tiến hành quản chế nhiều trí thức tiến bộ, nhiều người đã lên
tiếng phê phán tính chất vi hiến, phi dân chủ, vi phạm quyền công dân
của nó, và đã có nhiều kiến nghị yêu cầu hủy bỏ Nghị định này. Trong
những kiến nghị cá nhân và tập thể ấy đã có những phân tích xác đáng dựa
trên Hiến pháp, Luật pháp và Công pháp, mà tôi thấy không cần nhắc lại ở
đây. Điều 72 Hiến pháp quy định :” Không ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật” . Đó là cái ranh giới rành rọt giữa có tội và không
có tội, ranh giới giữa vùng khống chế của pháp luật với vùng tự do của
công dân mà nhà nước có trách nhiệm phải bảo vệ cho dân. Thế nhưng Nghị
định 31/CP đã choán nốt cái vùng tự do chính đáng ấy của người dân, bằng
cách thiết kế trong vùng tự do ấy một kiểu Tòa án khác , Tòa án đặc biệt
gồm toàn những cơ quan Công an , Hội đồng cố vấn, Chủ tịch UBND, một thứ
Tòa án rất bất lợi cho người bị xét xử , trong đó người bị xét xử không
có quyền biện hộ hay nhờ luật sư biện hộ trước khi phán quyết. Tội “đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự” thì Tòa án thông
thường xét xử, “chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự”
thì Tòa án đặc biệt nói trên xét xử, kết hợp “quản chế hành chính”
và “xử phạt hành chính” (như trường hợp của tôi) thì cuối cùng sẽ
phải chịu những hình phạt rất nặng như quản chế tới hai năm, tịch thu
tài sản vô giới hạn, tức là nặng hơn cả hình phạt của một số bản án
chính thức. Cụm từ “chưa đến mức” không có gì để định lượng nên
nó bao gồm toàn bộ vùng tự do còn lại, nghĩa là người dân nào ít nhiều
cũng có tội cả. Vậy Nghị định 31/ CP dùng làm cơ sở để quyết định
quản chế tôi là một văn bản dưới luật mà vi phạm Hiến pháp, vi phạm Dân
quyền, Nghị định này cần được hủy bỏ và việc quản chế tôi không có cơ sở
pháp lý chính đáng.
- Tội danh mà tôi bị khởi
tố là điều 72 (luật Hình sự cũ), trong đó phải có hành vi CẤU KẾT (với
nước ngoài) và GÂY NGUY HẠI ( cho Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ..v...v...). Không có chứng cứ xác đáng nào để kết tội tôi về những
hành vi này. Việc trao đổi nhận thức xã hội và tâm trạng cá nhân của tôi
với bạn bè hoàn toàn nằm trong khuôn khổ Hiến pháp về quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội...(điều 53), quyền tự do ngôn luận và tự do
thông tin...(điều 69) và quyền bảo vệ ý kiến cá nhân, quyền tự do tư
tưởng và tự do thông tin của Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (điều 19). Vì
không có những yếu tố cấu thành tội phạm, nên tôi vô tội chứ không
thể nói có tội nhưng chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự, mà do đó cần
quản chế theo Nghị định 31/CP (mặc dù chính Nghị định này cũng
cần được hủy bỏ như trên đã nói). Muốn nói đến điều PHẠM TỘI ở mức này
hay ở mức khác thì trước hết phải khẳng định là có PHẠM TỘI đã chứ, mà
việc khẳng định PHẠM TỘI hay không là quyền của Tòa án, luật pháp
không cho phép ai qua mặt Tòa án để quyết định một người phạm tội hay
không phạm tội !
Vì những căn cứ trên,
tôi làm đơn kháng cáo việc QUYẾT ĐỊNH QUẢN CHẾ 2 NĂM đối với tôi
là việc làm trái với Hiến pháp, trái với Công lý, trái với thực tế trong
vụ án của tôi. Tôi kiến nghị các Quý ông và Các Quý cơ quan phối hợp
can thiệp để HỦY BỎ QUYẾT ĐỊNH NÀY !.
Trong trường hợp không
may,nếu lời kháng cáo của tôi không được các Cơ quan lãnh đạo cấp trên
lưu ý giải quyết, vẫn đẩy tôi vào tình trạng bị lấy mất tự do và sống
căng thẳng như đã căng thẳng liên tục suốt 6 năm nay, thì tôi khẩn thiết
mong những cán bộ am hiểu pháp luật, những người hiểu biết và có tấm
lòng với sự công bằng và lương thiện, những người thiết tha muốn có một
nhà nước dân chủ pháp quyền tiến bộ, những ai hằng quý trọng cuộc đời
của mỗi con người, sẽ lên tiếng, sẽ tiếp tục kháng cáo với các cơ quan
quyền lực Nhà nước ta, giúp tôi trở lại cuộc đời tự do .
Tôi xin vô cùng
biết ơn.
Người viết đơn kháng cáo
Công dân: TS Nguyễn
Xuân Tụ (tức HÀ SĨ PHU)
4E
- Bùi Thị -Xuân/ P2 / Đàlạt/ Lâm đồng
Văn bản kèm theo:
- Q/đ đình chỉ điều tra
ngày 5/1/2001
- Q/đ về việc Quản chế
hành chính ngày 9/2/2001
- Q/đ xử phạt vi phạm h/chính ngày 12/4/1999
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |