NHỮNG VỤ ÁN
Hà Sĩ Phu, biểu tượng của trí tuệ và tự do tư tưởng
Hà Sĩ Phu, Sĩ Phu Bắc Hà,
Sĩ Phu nào? Ai là Sĩ Phu? Khi nói chuyện với Hà Sĩ Phu về ý nghĩa của
bút hiệu này, bạn bè thường nêu ra nhiều cách giải thích nhưng anh chỉ
cười, không xác nhận. Tuy nhiên, trong bút hiệu đó nhất định có lý tưởng
và hình ảnh của kẻ sĩ đích thực trong truyền thống văn hoá phương Đông.
Đó là người trí thức hoài bão mang trí tuệ và tài năng của mình ra phục
vụ cho đời, cho đất nước.
Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân
Tụ đến với tạp chí Langbian và Hội Văn nghệ Lâm đồng ở Đà lạt từ năm
1988 với các bài thơ ngắn ký bút hiệu Tú Xuân. Đó là những bài thơ trữ
tình hay châm biếm với giọng điệu hơi cổ của một nhà Nho.
Đây cũng là điều hơi
lạ làm bạn bè thích thú vì anh vốn là một nhà khoa học tự nhiên. Anh tốt
nghiệp phó tiến sĩ sinh học ở Tiệp khắc vá công tác ở phân viện Đà lạt
của Viện Khoa học Việt nam.
Thời gian này anh là
Viện phó của Phân viện này. Do đấu tranh với những việc làm không đúng
trong khoa học của những người lãnh đạo ở đây, anh bị vô hiệu hoá, cho
ngồi chơi xơi nước.
Anh không thể hoạt
động khoa học được, mặc dù trong lĩnh vực chuyên môn của mình, anh đã có
công trình được quốc tế thừa nhận và ứng dụng. Anh đã cố gắng tự làm
việc ở nhà nhưng làm thế nào nghiên cứu có hiệu quả được khi phải làm
phòng vô trùng trên trần nhà vệ sinh và để chai lọ thí nghiệm trên đầu
giường ngủ trong một căn nhà tối tăm chật chội.
Với đời sống khó
khăn, ứng dụng khoa học của anh chỉ còn là nuôi nấm và đi làm bia thuê
cho tư nhân. Anh còn phải phụ bán quán cho vợ. Thỉnh thoảng tôi đến
thăm, thật buồn cười và đau lòng thấy anh bán hàng, lóng ngóng thối tiền
lẻ cho mấy đứa bé mua bánh kẹo và ngẩn ngơ không biết một món hàng tạp
hóa giá bao nhiêu. Chưa kể có lúc anh còn cặm cụi đóng sách cho thuê
truyện và phụ bưng phở cho vợ bán.
Sự bế tắc trên lĩnh
vực nghiên cứu khoa học tự nhiên đã đưa anh chuyển hướng sang nghiên cứu
khoa học xã hội.
Tháng 9-1988 bạn bè
gần gũi đã chia sẻ với anh những suy nghĩ đầu tiên trong bài “Dắt tay
nhau. đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”. Bài viết sau đó
được hoàn chỉnh và phổ biến trong giới bạn bè. Với một bài viết ngắn gọn
chỉ có 10 trang, anh tập trung phân tích những nghịch lý trong chế độ Xã
hội chủ nghĩa, một chế độ tự nhận là ưu việt nhất nhưng lại làm những
điều tồi tệ nhất, hoàn toàn trái ngược với những điều rêu rao. Anh kết
luận bài viết bằng cách yêu cầu quay ngược các tấm biển chỉ đường của
chế độ, và kêu gọi hãy “dắt tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường
của Trí tuệ”.
Thật lạ lùng, trong
một xã hội độc quyền tư tưởng, độc quyền chân lý, độc quyền ngôn luận,
độc quyền thông tin báo chí, bài viết 10 trang của Hà Sĩ Phu không được
đăng ở đâu lại lan truyền đi khắp nơi trên đất nước, đến tận Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, gây nên một chấn động lớn.
Lập tức, nhà cầm quyền
tung ra một chiến dịch để phê phán, bôi nhọ bài viết và tác giả. Trong
vòng hơn 2 năm có hơn 30 bài đăng trên các loại báo chí của trung ương
và địa phương, và cả sách, mổ xẻ đả kích bài viết của anh. Người ta đã
huy động nhiều nhà nghiên cứu lý luận, phê bình của chế độ, kể cả giáo
sư triết học Trần đức Thảo để làm công việc trấn áp này. Người ta còn
nói trong các hội nghị cán bộ, thông báo trong các bản tin nội bộ, đưa
cả vào trong các văn bản chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 7. Anh như
một võ sĩ bị trói tay để cho một đám đông đối thủ tha hồ quần thảo. Tuy
nhiên, càng về sau, người ta nhắc đến tựa bài viết và tên của anh như
một bóng ma đe doạ chế độ, dù có người chưa hề được đọc bài viết và họ
cũng chưa biết gì về anh. Dù thế, Đại hội Đảng lần thứ 7 cũng phải lấy
khẩu hiệu “Trí tuệ, Dân chủ, Đổi mới, Đoàn kết” , đưa Trí tuệ lên hàng
đầu và chính thức thừa nhận liên minh công-nông-trí.
Mặt khác những người
tiến bộ và tâm huyết cũng nhanh chóng chuyền tay nhau bài viết này mặc
dù vào thời điểm đó sự thông tin, sao chụp tài liệu còn rất khó khăn.
Bài viết ngắn nhưng đầy sức nặng đã có tác dụng lớn, lay động nhận thức
và lương tri của nhiều đối tượng, nhất là trí thức, kể cả một số đảng
viên và những người bình thường.
Ma văn Kháng trong
tiểu thuyết “ Đám cưới không có giấy giá thú” đã đưa nội dung bài viết
này vào thành tư tưởng của một nhân vật trong tác phẩm. Trong cuốn tiểu
thuyết “Nửa đời nhìn lại” (viết từ 1988 đến 1992) tôi cũng đã đưa Hà Sĩ
Phu thành một trong 3 nhân vật có bút hiệu hay tên thật ngoài đời vào
tác phẩm của mình (hai nhân vật kia là nhà thơ Hữu Loan và giáo sư
Nguyễn Bạt Tuỵ). Tôi hy vọng nếu tác phẩm của tôi được xuất bản, trường
hợp của Hà Sĩ Phu và hai người kia sẽ được ghi nhận và lưu giữ lâu dài
trong lòng người đọc nếu họ vẫn còn bị vây bủa trong sự bưng bít của chế
độ.
Tháng 4-1991, vụ rắc
rối trực tiếp đầu tiên đến với anh là lúc anh ra Hà nội đến thăm Dương
Thu Hương đúng vào lúc Dương Thu Hương đang bị khám nhà và bắt giữ. Anh
cũng đã bị bắt và một viên chức cao cấp của Bộ nội vụ đã thẩm vấn anh
trong suốt 10 ngày liền nhưng rồi anh được thả. Sau đó anh về Đà lạt và
bị Công an Lâm đồng theo rõi giám sát chặt chẽ.
May mắn thay, trong
một dịp tình cờ, bài “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của
Trí tuệ” được đưa ra nước ngoài, và lần đầu tiên, tháng 5-1993, được
chính thức công bố trên tờ Thông luận ở Pháp và sau đó nhiều báo khác ở
hải ngoại đã đăng lại. Lập tức người đọc ở hải ngoại, nhất là trí thức,
kể cả du học sinh Việt nam ở các nước Đông Au, nhanh chóng hưởng ứng bài
viết của anh, và tên tuổi anh đã bắt đầu ra khỏi vòng rào kiềm toả của
nhà cầm quyền Việt nam, được thế giới biết đến.
Được đông đảo bạn bè
và người đọc khắp nơi cổ vũ, anh tiếp tục viết “ Đôi điều suy nghĩ của
một công dân” (Nhà xuất bản Tin, Paris, xuất bản mùa thu 1993, trong đó
có in lại bài “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của Trí
tuệ” và một số câu đối, thơ và mấy bài chính luận ngắn).
“Nội dung những bài
của Hà Sĩ Phu đều nhằm phê phán đường lối của Đảng cầm quyền và đề nghị
lối thoát cho Việt nam. Nhưng đặc điểm là tác giả dùng phương pháp khoa
học và lý luận để rà soát đến tận gốc của vấn đề. Anh gọi là tư duy
hệ thống. Nói cách khác, anh đặt vấn đề một cách căn bản và toàn
diện. Đi từ khoa học đến triết lý, đối chiếu Đông – Tây để suy nghĩ về
bản chất con người và xã hội, về quy luật tiến hoá của nhân loại, từ đó
đánh giá và vạch ra những sai lầm cơ bản của Chủ nghĩa Xã hội khoa học”
(Tựa của NXB Tin).
Mới đây, tháng
8-1995, anh lại cho công bố bài “ Chia tay Ý thức hệ” dưới dạng bản
thảo, đào sâu thêm suy nghĩ của mình về những vấn đề đã đặt ra từ hai
bài trước.
“ Theo điều tôi nhận
thức được thì…bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về xã hội là dòng tư
tưởng Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng sản nguyên thuỷ (hoặc
ảo tưởng nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền Văn minh công
nghiệp.
… Trào lưu Cộng sản đã
xuất hiện như một tất yếu lịch sử và vô cùng chính đáng, nhưng phải nhận
rằng đó chỉ là một nấc thang văn hoá thấp của tiến trình đấu tranh bất
tận cho Quyền Con người. Muốn tìm lối ra lại phải bắt đầu từ cái nhìn
Văn hoá, ở tầm văn hoá cao hơn.
… Nếu đủ tầm văn hoá,
chúng ta sẽ làm cho Ý thức hệ ấy một dấu son để lại. Bằng không, nếu
chúng ta không đủ tầm văn hoá, Ý thức hệ sẽ được chia tay trong uất hận,
hoặc ngược lại, cứ len lén rút lui khỏi lịch sử không một lời tuyên bố,
như một kẻ khôn vặt hay một tên đại bịp nào đó ra đi, không trống không
kèn, để lại trên non nước này một món nợ.
… Không biết một khi đã
nhận rõ xu thế của Thời đại và nguyện vọng của nhân dân, thì một Đảng
Cộng sản trưởng thành từ phong trào Dân tộc, giữa lúc đang nắm quyền
trong tay, liệu có thể vì Dân tộc mà vứt bỏ tấm bình phong, công khai từ
bỏ chế độ Phong kiến Đảng trị đầy đặc quyền đặc lợi, để chủ động chuyển
sang một thể chế thật sự tiêu biểu cho tính thống nhất Dân tộc và đa
nguyên Dân chủ hay không?
… “Đổi mới” là gì? Nếu
không phải là cả một Dân tộc thức tỉnh, tự vượt qua mình mà đi lên?
(Trích Lời mở đầu và
Thay lời kết của bài Chia tay Ý thức hệ).
Tôi có hân hạnh cùng
với bạn bè gần gũi nhất của Hà Sĩ Phu ở Đà lạt đọc và tham gia ý kiến
vào bản thảo các bài viết của Hà Sĩ Phu khi các dòng chữ anh mới viết
còn nóng hổi trên mặt giấy.
Hà Sĩ Phu có phong
cách hành văn rất đặc sắc : ngắn gọn, khúc triết nhưng thâm trầm,đôi khi
châm biếm cay độc kiểu sĩ phu Bắc Hà, có lúc hùng tráng hay bàng bạc
chất thơ trữ tình. Anh viết văn chính luận nhưng đọc rất lôi cuốn.
Điều quan trọng hơn
làtư tưởng độc lập, sáng tạo và triệt để trong các bài viết của anh. Anh
không lệ thuộc kinh điển, ít trích dẫn kiểu “tầm chương trích cú”. Anh
lý giải mọi vấn đề dưới ánh sáng của Trí tuệ và Lương tri của một người
trí thức chân chính đi tìm chân lý, gạt bỏ sang bên mọi định kiến, ràng
buộc bất cứ ở đâu tới.
Các bài viết của Hà Sĩ
Phu ngày càng được đông đảo bạn đọc hưởng ứng. Thư từ của nhiều người
không quen biết ở trong và ngoài nước gởi tới bày tỏ cảm tình và sự
ngưỡng mộ đối với anh tới tấp bay đến căn nhà bé nhỏ của anh ở số 4E Bùi
thị Xuân Đà lạt.
Đài, báo nước ngoài
thường xuyên phát thanh, đăng tải các bài viết và nhắc nhở đến tên anh
như một trí thức cấp tiến hàng đầu. Nhà cầm quyền hầu như không thể chịu
nổi. Tên anh thường được nêu ra trong các thông báo nội bộ của Đảng về
vấn đề diễn biến hoà bình và có lúc anh đã được nêu lên hàng đầu trong
danh sách của những người có tư tưởng phản động nguy hiểm.
Cuối tháng 11-1995 Hà
Sĩ Phu ra Bắc thăm quê và gia đình, Công an Hà nội theo rõi sát anh
trong những ngày này, và đến 5-12-1995 đã bắt giữ anh tại một địa điểm
đến nay chưa ai biết. 17g30 ngày 6-12-95 Công an Lâm đồng đã thực hiện
lệnh khám nhà của Công an Hà nội, lục soát nhà anh tại Đà lạt cho tới 4
giờ sáng ngày 7-12-95, lấy đi hơn 3000 trang tư liệu và một số đĩa vi
tính, băng vide1o, cát-xét.
Chị Thanh Biên, vợ
anh, đã làm đơn và đến sở Công an Lâm đồng phản kháng. Mấy ngày sau,
thông qua Công an Lâm đồng, Công an Hà nội mới chính thức thông báo cho
chị Thanh Biên biết việc bắt giữ Hà Sĩ Phu với tội danh “có hành vi
chiếm đoạt tài liệu bí mật của nhà nước”.
Thật là khôi hài! Hà
Sĩ Phu tức Nguyễn Xuân Tụ, một cán bộ khoa học 55 tuổi đã về hưu, sức
khoẻ ốm yếu, đủ thứ bệnh tật, lại có khả năng chiếm đoạt cái gì bí mật
của nhà nước Xã hội chủ nghĩa hùng mạnh đang cai trị trên đất nước Việt
nam! Rõ ràng là ngược lại, nhà nước đang chiếm đoạt tự do của công dân
Hà Sĩ Phu. Một điều nghịch lý của chế độ kiểu anh đã phân tích trong bài
“Dắt tay nhau…” nhưng cực kỳ nghiêm trọng và hài hước lại đang được
chứng minh cụ thể và vận vào chính bản thân anh. Nhà nước cũng muốn chơi
chữ và chơi khăm cây bút châm biếm Hà Sĩ Phu chăng?
Tội nghiệp chị Thanh
Biên, người bạn đời của Hà Sĩ Phu.Cả hai anh chị đều đã có một đời vợ,
đời chồng nhưng không có con riêng, và ly hôn. Đến nay, sau gần 10 năm
về chắp vá cho nhau, hai người vẫn không có con. Trong nỗi buồn đó, họ
chia sẻ và chăm sóc nhau tha thiết, tận tình. Anh đã từng vất vả lo cho
chị khi chị bị bệnh nặng phải về Sài gòn giải phẫu. Chị tảo tần với
chiếc quán tạp hoá bé nhỏ và chăm lo cho chồng từng miếng ăn thức uống,
tạo mọi điều kiện và ủng hộ chồng trong công việc nghiên cứu, viết lách,
dù chị biết đó là một công việc nguy hiểm. Nhiều lúc chị phải nhốt anh
trong nhà, khoá cửa bên ngoài để anh yên tĩnh viết, không bị quấy rầy.
Sau khi bị khám nhà,
thức suốt một đêm căng thẳng làm việc với hơn mười công an, qua điện
thoại chị báo tin cho tôi trong tiếng đầy nước mắt. Giờ đây chị đã đóng
cửa nhà ra Hà nội tìm cách thăm nuôi chồng, nhưng sau 3 tuần anh bị giữ,
công an Hà nội vẫn chưa cho chị gặp mặt chồng. Chị viết thư vào cho
biết, ở Hà nội chị cảm thấy rất đơn độc vì chung quanh ai cũng lo lao
vào làm ăn kinh tế. Chị định nếu phải ở lại Hà nội lâu dài, chị sẽ phải
đi làm thuê cái gì đó để có điều kiện thăm nuôi và đòi thả tự do cho
chồng.
Trước đây, khi nói
chuyện với bạn bè thân về vợ và gia đình, Hà Sĩ Phu thường lẩy Kiều đùa
rằng “Nghĩ mình công ít tội nhiều”. Đó cũng là tâm trạng thực của chúng
tôi, những kẻ bị coi là “bẻ nạng chống trời”, chỉ mang lại cho gia đình
nỗi lo âu phiền muộn hơn là niềm vui và những tiện nghi vật chất như bao
nhiêu người đàn ông khác.
Đối với tôi, và chắc
cũng như nhiều bạn bè thân thiết khác của Hà Sĩ Phu, và cả những người
ngưỡng mộ anh, lên tiếng về việc Hà Sĩ Phu bị bắt là tình cảm, lương tri
và trách nhiệm, dù ở trong nước việc lên tiếng đó có thể phải trả giá.
Làm thế nào có thể im
lặng khi Hà Sĩ Phu, một người trí thức chân chính, chỉ vì phát biểu tư
tưởng của mình về những vấn đề quan trọng của đất nước và thời đại một
cách ôn hoà, đầy tâm huyết lại phải chịu tù đầy?
Những người Cộng sản
tự cho là đã được lịch sử giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo
đất nước. Thực ra những người Cộng sản đã giành được quyền đó trong một
giai đoạn lịch sử và đã có những đóng góp nhất định cho đất nước (dù
cũng có những người không thừa nhận sự đóng góp này). Tuy nhiên, việc
nắm quyền lãnh đạo đó không phải một lần là mãi mãi. Những người lãnh
đạo phải ngang tầm với đất nước và được sự chấp nhận của đa số nhân dân.
Nếu không thế, sớm hay muộn, nhất định những người lãnh đạo không xứng
đáng sẽ bị loại bỏ. Lịch sử rất công bình và nghiêm khắc. Bao nhiêu
triều đại, chế độ đã hưng phế theo thời gian. Làm sao những người Cộng
sản có thể cứ tự mãi hô muôn năm?
Liên xô là cái nôi
của chế độ Cộng sản, là nước đứng đầu hùng mạnh của hệ thống Xã hội chủ
nghĩa toàn thế giới, sau 75 năm đã xụp đổ tan tành trên đất nước Xô viết
đa số nhân dân đã không còn chấp nhận chế độ Cộng sản, tại sao những
người Cộng sản Việt nam vẫn “bảo hoàng hơn vua”, vẫn còn cố nêu lên định
hướng Xã hội chủ nghĩa khi chưa rõ hình thù nó như thế nào? Tại sao, như
Hà Sĩ Phu nói, những người Cộng sản qua sông rồi vẫn cứ vác thuyền trên
vai mà đi, không chịu can đảm tuyên bố chia tay Ý thức hệ, một Ý thức hệ
ngoại lai tuy có một số đóng góp cho đất nước trong một giai đoạn, nhưng
cũng đã tàn phá đất nước đến tận cùng?
Những người Cộng sản
Việt nam muốn độc quyền chân lý, độc quyền yêu nước nhưng điều đó không
thể được. Bộ máy thông tin tuyên truyền báo chí hùng hậu của cả chế độ
không trấn áp nổi bài viết 100 trang của Hà Sĩ Phu nên phải dùng tới bạo
lực nhà tù . Trấn áp không phải lúc nào cũng chỉ đưa tới sợ hãi mà còn
tạo ra sự căm phẫn và phản kháng. Cai trị bằng sự sợ hãi không phải là
một phương cách lâu bền. Tất cả mọi chế độ độc tài trên thế giới này đều
đã thử nghiệm và cuối cùng đã thất bại. Những người Cộng sản, trong một
giai đoạn, từng đấu tranh cho độc lập dân tộc và công bằng xã hội tất
phải thấu hiểu hơn ai cả về điều này.
Tôi tin trong những
người Cộng sản đang cầm quyền hiện nay vẫn có những người có lương tri
và thực tâm yêu nước. Tôi tin trong những người trí thức của bộ máy cầm
quyền, những nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo của hệ thống văn học nghệ thuật,
thông tin báo chí nhà nước hiện nay vẫn có những người thật sự muốn có
tự do sáng tạo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và xuất
bản. Những người này sẽ lên tiếng và bày tỏ thái độ về trường hợp Hà Sĩ
Phu vì Hà Sĩ Phu đã trở thành một biểu tượng của Trí tuệ và Tự do tư
tưởng đang bị vùi dập.
Dù đất nước Việt nam
vẫn còn nghèo nàn lạc hậu, dù đang thời kinh tế thị trường, con người
nhất định không phải chỉ là con vật kinh tế. Dù Đông hay Tây, dù với đặc
thù nào, một quốc gia nói tôn trọng Nhân quyền mà không tôn trọng tự do
tư tưởng và các quyền dân chủ của nhân dân thì thực chất chỉ coi con
người như con vật, nói gì đến việc xây dựng chiến lược con người.
Hà Sĩ Phu tin vào quy
luật của lịch sử và không chấp nhận thái độ đứng bên lề hay ngồi chờ.
Anh tin vào con người và trí tuệ nên đã dồn hết tinh lực và tâm huyết
vào các bài viết của mình. Anh cho rằng việc nâng cao nhận thức của quần
chúng là vấn đề cơ bản để chuyển biến tình thế về lâu về dài. Anh dấn
thân nhưng không làm chính trị chuyên nghiệp. Anh chỉ là lý luận, bày tỏ
quan điểm, phân tích tình hình một cách sáng suốt, sắc bén và can đảm.
Anh đề nghị những giải pháp, lối thoát cho dân tộc và cho cả Đảng Cộng
sản đang cầm quyền chỉ vì thật sự đau lòng và ưu tư cho vận nước. Hà Sĩ
Phu là biểu tượng của Trí tuệ, tự do tư tưởng trong thời kỳ mới của đất
nước và thời đại.
Đàn áp Hà Sĩ Phu và
những người đấu tranh cho tự do dân chủ là biểu hiện của sự thoái hóa,
đi ngược dòng lịch sử, là dấu hiệu suy yếu của một chế độ đã không còn
chính nghĩa để tồn tại.
Đà lạt, cuối
tháng 12-1995
Tiêu
dao BẢO CỰ
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |